Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Ngục Thánh

Quyển 2 - Chương 62: Dòng họ bị lãng quên


Vô Phong không phải siêu nhân. Mấy ngày trầm mình liên tục trong chiến đấu, lại thêm tác dụng phụ của thuốc tăng lực, hắn nhanh chóng gục ngã. Mạc Điển bèn vác cả hắn lẫn Tiểu Hồ lên vai rồi tiến về ngôi làng của họ Mạc. Vì quá mệt mỏi, tên tóc đỏ chẳng rõ ngôi làng tròn méo ra sao. Hắn láng máng thấy những cây cầu đá phủ rêu và ánh lửa từ những cái hang nhỏ. Sau đó hắn nhắm mắt ngủ tít mít, không mơ mộng, không ác mộng, không công chúa, chỉ ngủ ngủ và ngủ.
Tầm chiều tối, Vô Phong tỉnh ngủ. Hắn gượng dậy, nửa thân người quấn đầy băng và đau ê ẩm. Hắn ngó quanh rồi nhận ra mình đang nằm trong một cái hang. Nếu chẳng phải có vài món đồ đạc cá nhân như tủ quần áo, chiếc giường cùng một bàn thờ nghi ngút hương, hắn đã nghĩ nơi đây là tổ ấm của mấy con đấu lạc điểu. Bỗng thấy khúc xương giao long chúa dựng góc hang, Vô Phong biết ngay cái hang này là “nhà” của Mạc Điển. Vừa nhắc tới Mạc Điển, ông ta đã xuất hiện ngay trước cửa hang, tay mang theo một cái vạc nhỏ. Lão khổng lồ hất hàm hỏi gã tóc đỏ:
-Khá hơn tí nào chưa? Ban nãy ngươi như con cá chết vậy!
Vô Phong ôm cánh tay, mặt nhăn nhó:
-Đau chết bà! Mà bạn tôi đâu?
Mạc Điển nghiêng đầu sang trái:
-“Nhà” kế bên. Con nhỏ đang ngủ, vết thương nhỏ thôi, không vấn đề. Còn chú mày thì có vấn đề, ngồi xuống!
Vô Phong ém miệng cười trước sự tốt bụng ẩn dưới lớp vỏ cộc cằn của Mạc Điển. Ông ta tháo bỏ lớp băng, thân thể thảm hại của Vô Phong dần hiện rõ: vai căng cơ phồng to, máu tụ thành đường dọc cột sống, chưa kể một bên mặt sưng vếu do lãnh trọn hai cú đá tạt của Diễm Tà, răng hàm bay mất hai cái. Mạc Điển thò tay vào chiếc vạc, vục lên một mớ dịch đặc sệt đoạn bôi lên cánh tay của Vô Phong, sau trét lại chất dịch dọc theo xương sống. Chất dịch bốc mùi khăn khẳn làm Vô Phong buồn nôn nhưng hắn cố kiềm chế. Làm thế khác nào sổ toẹt lòng tốt của lão khổng lồ? Hắn cũng không dám hỏi thành phần món thuốc vì sợ nghe xong sẽ nôn thật. Mạc Điển nắn lưng Vô Phong đoạn hỏi:
-Cảm giác thế nào?
-Hơi nhức!
-Chỉ nhức thôi á? – Mạc Điển ngạc nhiên – Rạn xương sống mà chỉ “nhức” thôi?
Tên tóc đỏ há mồm. Vì miễn cưỡng sử dụng Tử Thiết nhiều lần, hắn bị rạn xương cột sống. Người thường thì đã chết từ lâu, song hắn là Ngục Thánh, sức chịu đựng và sức tái tạo vượt trội. Vết thương kiểu này chưa thấm tháp vào đâu so với lần suýt chết ở Thiên Phạn. Mạc Điển lắc đầu:
-Ta chưa từng gặp ai quái dị như ngươi đâu, nhóc!
-Bình thường thôi. Một gã trong đội của tôi bị đấm lòi xương còn chưa chết nữa là…
Nói rồi hắn kể lại cuộc đụng độ trên Cây Cầu Vĩ Đại, tất nhiên đã lược bớt phần cô ả Diễm Tà khinh thường hắn ra sao. Nghe Vô Phong miêu tả ngoại hình Diễm Tà, lão khổng lồ nhăn trán nghĩ ngợi, sau nói:
-Theo những gì ngươi mô tả, rất có thể đó là Diễm Tà mà ta biết. Vào những năm cuối cùng của thời đại phi cơ giới, ta đã gặp con bé ấy. Nhưng tại sao nó sống lâu như thế? Nó đâu phải người Lạc Việt?
Những năm cuối thời đại phi cơ giới đã diễn ra cách đây cả nghìn năm, lẽ nào Diễm Tà là hồn ma bóng quế? – Vô Phong lạnh gáy. Nhưng sự tình bí ẩn xung quanh Diễm Tà lại khiến hắn tò mò hơn bao giờ hết. Vô Phong hỏi:
-Ông nói thật chứ?
Mạc Điển trầm ngâm:
-Lẽ nào ta nói dối? Ngươi có thể hỏi Lộc Tục hay tộc trưởng Lạc Long. Nó từng đến tộc của ta, còn học lỏm cả Đông A Quyền từ họ Trần. Hừm, cái dòng họ mọi rợ…
Lời lẽ của ông già đầy hằn học, rõ ràng có ý công kích họ Trần. Vô Phong hỏi:
-Đông A Quyền là cái gì?
-Một loại quyền thuật của họ Trần. Quân địch phương bắc năm xưa thà chết vì gươm đao chứ không muốn chết bởi thứ quyền thuật đáng sợ này. Nó thuần về ngạnh công, vận dụng tối đa sức mạnh cơ thể để tạo nên lực đánh lớn nhất. Đó là lý do con nhỏ Diễm Tà có thể đấm lật mặt Ác Lạc Điểu.
Vô Phong thộn mặt, vừa nghe vừa tưởng tượng hình ảnh một siêu nhân đấm vỡ núi đá vỡ biển. Hắn lắc lắc đầu:
-Cơ thể con người đâu thể sinh ra một lực lớn như thế? Ngay cả khi dùng nội lực, tôi nghĩ cái găng tay kim loại của cô ta mới là nguyên nhân!
Mạc Điển cười:
-Không đâu. Hoàn toàn nhờ nội lực đấy! Võ thuật hay kiếm thuật hiện nay chỉ giúp phát triển các khối cơ bắp lớn chứ không thể phát triển các bó cơ nhỏ, trong khi bó cơ nhỏ chiếm gần một nửa cơ thể người. Đông A Quyền sở hữu phép luyện thể giúp kẻ luyện nó hoàn thiện toàn bộ cơ bắp, dù là nhỏ nhất, vì vậy sức mạnh đòn đánh được phát huy gần như tối đa. Hừm, mặc dù rất ghét, nhưng ta buộc phải công nhận gã Khánh Dư họ Trần là kẻ dùng Đông A Quyền ghê gớm nhất.
Vô Phong chợt nhớ ngày đầu tiên tới làng Lạc Việt, hắn đã chứng kiến Khánh Dư một đấm hạ gục con giao long to lớn. Rõ ràng Khánh Dư chỉ sử dụng sức mạnh đơn thuần chứ không nhờ ngoại lực trợ giúp. Tuy nhiên, họ Trần giữ bí mật cách luyện thể, gần như không phổ biến cho người ngoài, ngoại trừ trường hợp Diễm Tà. Đông A Quyền được sáng tạo giữa thời kỳ chiến tranh nên rất tàn bạo. Nhưng thực tế là nó đã bảo vệ lãnh thổ Lạc Việt suốt thời đại phi cơ giới. Chim lạc thân thiết với mảnh đất Lạc Việt ra sao, bộ quyền thuật gắn bó với họ Trần y như vậy. Lão khổng lồ tiếp lời:
-Đông A Quyền bình thường sẽ làm địch thủ gãy xương. Nhưng một khi dùng sát chiêu, nó sẽ đoạt mạng đối thủ ngay tức khắc. Sau này gặp lại Diễm Tà, chớ để con nhỏ áp sát. Nếu để nó bắt trúng huyệt đạo, ngươi chắc chắn chết.
-Huyệt đạo là cái gì?
Lão khổng lồ chỉ vào giữa rốn Vô Phong:
-Đó là huyệt đạo, gọi là “thần khuyết”. Dồn lực đấm vào chỗ đó, nội tạng sẽ chấn động, khí lực tổn thương.
Ông ta rờ ngón tay to như dùi đục lên một chút, đoạn ấn nhẹ. Gã tóc đỏ cảm giác tim đập nhanh hơn, hơi thở dồn dập. Hắn tóm lấy tay Mạc Điển theo bản năng. Lão khổng lồ nói:
-Đó cũng là huyệt đạo, gọi là “cự khuyết”. Đánh vào sẽ làm vỡ gan, thủng thành dạ dày.
Theo lời Mạc Điển, cơ thể có một trăm linh tám huyệt đạo gồm bảy mươi hai yếu huyệt và ba mươi sáu tử huyệt. Chúng xuất hiện khắp nơi, từ vùng đầu, cổ cho đến ngực, lưng hay bàn tay, bàn chân. Các huyệt khá nhỏ nhưng nếu bị đánh trúng, thân thể lập tức chấn động, thậm chí tử vong ngay tức khắc. Mai Hoa đã bị đánh vào huyệt “Kỳ môn” – một huyệt nằm ở xương sườn số sáu (6), gã may mắn lắm mới thoát chết, hoặc cũng có thể Diễm Tà nương tay. Tuy nhiên Mạc Điển khẳng định Mai Hoa từ rày sẽ liệt nửa người, ông ta nói:
-Trong Đông A Quyền có mười ba thức chuyên đánh vào ba mươi sáu tử huyệt, gọi là Thập Tam Huyết Chiến. Hẳn con nhỏ Diễm Tà đã sử dụng một trong mười ba thức ấy.
-Chỉ là một cú đấm thường thôi mà? – Vô Phong nhún vai.
-Bề ngoài thôi! Thực chất nó là sự tích tụ nội lực và làm bùng nổ huyệt đạo. Mỗi chiêu của Thập Tam Huyết Chiến đều là nhất kích tất sát.
-Có cách nào để chống lại Đông A Quyền không?
-Luôn giữ khoảng cách. Nhưng tốt nhất nên dùng súng ống cho nhanh gọn! – Mạc Điển đáp tỉnh queo.
Vô Phong bật cười trước câu nói nửa đùa nửa thật rồi chống cằm ngẫm nghĩ, trong lòng lửng lơ một nỗi bâng khuâng mang tên Diễm Tà. Gương mặt, giọng nói và điệu cười của cô ta hoàn toàn trái ngược với cái cách mà cô ta chiến đấu. Chúng quá khác biệt, quá tương phản, tựa như sự đối lập hiển nhiên giữa ánh sáng và bóng tối. Cô ta thực sự là mẫu phụ nữ mà cánh đàn ông hằng mơ ước: nhẹ nhàng, cởi mở, thông minh. Một sắc đẹp chớm nụ đang đợi ngày hé nở. Tiếc thay, vẻ đẹp thuần khiết ấy với Đông A Quyền tàn bạo lại cùng tồn tại trong Diễm Tà. Ngẩn ngơ hồi lâu, Vô Phong hỏi Mạc Điển:
-Hồi ấy, Diễm Tà như thế nào?
-Ngây ngô như con gà gô, hỏi cái gì cũng lắc đầu không biết. – Mạc Điển đáp lời – Nó thậm chí còn chẳng hiểu đàn ông và đàn bà khác nhau chỗ nào! Nhưng con nhỏ có năng khiếu đặc biệt về đánh đấm. Nó chẳng ngán ai hết, kể cả ta. Vì muốn thắng ta, nó đã học lỏm Đông A Quyền.
-Đầu đuôi câu chuyện thế nào vậy?
Mạc Điển gãi đầu, ánh mắt tìm kiếm dấu mốc thời gian trong những năm tháng cuộc đời. Và ông ta bắt đầu kể những câu chuyện của tộc Lạc Việt, từ thời Huyết Thiên Thiết Giáp tung hoành ngang dọc và bắt con Ác Lạc Điểu làm thú nuôi, những cuộc chiến tránh liên miên với người phương bắc, thời Tam Bất Tử còn sống đến những năm tháng nội chiến dai dẳng. Đó cũng là lúc Diễm Tà xuất hiện. Nội chiến kết thúc, dòng họ Mạc vĩnh viễn tách khỏi tộc Lạc Việt, còn Diễm Tà tiếp tục cuộc hành trình riêng của cô ta. Từ đấy về sau, không người Lạc Việt nào thấy Diễm Tà nữa.
-Tại sao các ông lại tách khỏi Lạc Việt? – Vô Phong hỏi.
Gương mặt Mạc Điển bỗng bặm trợn. Lão cúi xuống, bộ râu chổi xể chạm mặt Vô Phong, từng sợi rung rung theo giọng điệu gầm gừ:
-Có những điều ngươi không cần biết, nhóc à! Nếu ta kể, ngươi sẽ kể cho đám đồng bạn về câu chuyện của dòng họ chúng ta, và tự hào rằng mình hiểu biết hơn người chăng?
Tên tóc đỏ co rúm người. Nhưng ngay sau đó, hắn hít một hơi thu hết can đảm rồi trả lời:
-Có phải vì người ta gọi Mạc Dung – ông nội của ông là kẻ phản bội?
Đôi mắt Mạc Điển long sòng sọc, hai cánh tay đấm xuống nền đất, hang đá rơi bụi rào rào. Vô Phong run lẩy bẩy, cảm giác như đang đối diện một con hổ. Nhưng rồi gương mặt lão khổng lồ dịu đi, ánh mắt hiện hữu những tia phân vân. Lời nói của tên tóc đỏ đã phần nào tác động tâm khảm sâu kín của Mạc Điển. Ông ta mấy lần mở miệng định thanh minh điều gì rồi lại thôi. Sau rốt, Mạc Điển bước tới gầm bàn thờ, lôi ra một chum nước, vải trắng cùng khăn khố. Ông ta vác đống thứ lỉnh kỉnh đó rồi rời khỏi “nhà”. Vô Phong lẽo đẽo bước theo rồi hỏi:
-Ông đi đâu vậy?
-Tới giờ tắm rửa cho ông nội ta. – Mạc Điển làu bàu.
“Mạc Điển to như gấu, Mạc Dung chắc to cỡ quả núi!” – Vô Phong đoán già đoán non. Hắn mường tượng ra một lão già lớn xác mà ốm yếu đến nỗi không thể tự mình tắm rửa. Dẫu sao xứ Xích Quỷ vốn dị thường, thêm vài ba chuyện lạ nữa cũng chẳng thành vấn đề. Vô Phong dợm hỏi:
-Tôi có thể gặp ông ấy chứ?
Lão khổng lồ chẳng nói lời nào , chỉ cặm cụi bước. Vô Phong coi thái độ ấy tương đương với “đồng ý”. Tuy nhiên, hắn không dám vo ve gần Mạc Điển vì sợ ông ta ngứa mắt rồi thay đổi quyết định. Vô Phong vừa đi vừa ngắm nghía cảnh quan. Hắn nhận ra “làng” của họ Mạc nằm trong một thạch động vô cùng rộng lớn, vách đá được đào sâu thành những cái hang cho người ở. Vô Phong bần thần nhìn ngôi làng, hắn bất giác hỏi:
-Các ông… đã xây dựng nên chỗ này?
-Không, tự nhiên đã vậy rồi. – Mạc Điển trả lời.
Hang động được chống đỡ bởi vô số cột đá vững chắc trong dáng hình mềm mại. Nước từ các kẽ nứt rớt xuống, âm thầm đẽo đá, ngân vang tí tách. Có dãy đá muôn hình vạn trạng dựa nhau tựa mây trời lạc lối chốn trần gian. Có dải đá lô nhô uốn lượn tựa bầy giao long đang vượt sóng. Lại có tảng đá co quắp như thú hoang say ngủ, cô độc một chốn. Đi trên đá mà tưởng bước trên thảm cỏ. Hơi đá lạnh mà tưởng đang thì thầm chuyện xưa. Vô cảm, vô tình, không biết yêu, không biết nhớ, là đá. Nhưng từng giọt nước trong vắt vẫn nhẫn nại thổi hồn vào những khối vô tri vô giác, gắn kết vạn hòn đá. Không gian bằng đá tự nhiên duyên dáng lạ kỳ như một thiếu nữ đang lứa xuân thì.
Đá là đá, nhưng đá có hồn.
Những cây cầu đá chen nhau trong hang động, dẫn tới những hang hốc nhỏ – “nhà” của thành viên họ Mạc. Họ cặm cụi làm việc. Không nói. Không cười. Vô Phong giơ tay chào vài người đi qua, họ chỉ gật đầu. Không cười. Không nói. Họ là người Lạc Việt; đàn ông có dấu xăm giao long, phụ nữ mặc những chiếc váy giản dị. Nhưng họ không có tính hiếu khách và lạc quan của người Lạc Việt. Họ bước đi và làm việc. Ngay cả bọn trẻ con cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn Vô Phong, đôi mắt chất chứa tâm sự, gương mặt thiếu một cái gì đó khiến chúng già trước tuổi. Vô cảm. Vô tình.
Người là người, nhưng người vô hồn.
Con đường mòn dẫn Mạc Điển và Vô Phong lên tầng thạch động khác. Mấy khối nhũ thạch ngày ngày nhỉ nước ướt mái tóc của Vô Phong. Qua khe núi hẹp, ánh mặt trời bị dát mỏng, thẩn thơ sắc vàng như tấm voan mỏng. Từ những khe đã, vài loài thực vật dây leo rủ xuống đùa cợt mái tóc người. Sắc xanh rêu, màu xanh chồi, ánh xanh lá nảy nở khắp nơi. Cảnh hiền hòa, đầy sức sống…
…người cằn cỗi, lủi thủi sống.
Qua năm tầng thạch động, hai người đã tới đỉnh núi. Trời xanh không mây, gió thổi căng ngực lồng lộng bốn bể. Đứng từ đây có thể trông thấy dãy núi đen hình cánh cung – nơi ở của họ Mạc – nằm giữa biển khơi. Trơ trọi. Cô đơn. Như một người đàn ông cô độc giữa muôn trùng sóng. Mạc Điển tiếp tục đi theo con đường đá đổ dốc trên đỉnh núi, được khoảng chục bước, ông ta bỗng dừng chân. Vô Phong thò đầu qua lưng Mạc Điển và phát hiện ra một khu vực kỳ lạ. Thật khó để gọi đó là “đền thờ”, “nhà” hoặc cái gì đại loại thế.
Phía trước họ chừng mười mét có một bãi đất trống cắm tám cọc thép tại tám hướng. Chúng là điểm tựa, điểm kết nối của vô số sợi xích sắt đan xen chằng chịt trong không trung. Dàn kim loại ấy treo vô vàn thanh kiếm đã hoen gỉ. Máu khô đen đặc loang lổ, bện chặt từng dây xích, từng thanh kiếm. Gió biển thổi đến, kiếm chạm nhau lách cách, hơi tanh phảng phất, oan hồn lảng vảng. Lòng Vô Phong run sợ, đôi chân tự nhiên chùn bước. Lão khổng lồ nhếch mép:
-Sợ à? xem tại .
-Không, không… hơi lạ thôi!
Tên tóc đỏ luống cuống. Lời nói dối vụng về của hắn chỉ khiến Mạc Điển tức cười. Hắn xán tới lão khổng lồ, lòng thấp thỏm lo âu bởi cái chết đang lửng lơ ngay trên đầu.

Một cột đồng dựng đứng tại khu vực trung tâm, vươn mình giữa dàn xích sắt. Dưới chân cột là một bộ hài cốt bị trói chặt. Đất bám trên từng thớ xương, cát bụi lấp đầy hai hốc mắt, bộ hài cốt hoen ố màu nâu xỉn. Nhìn vào có thể đoán ra người này khi sống đã bị hành quyết. Bên cạnh cột đồng có một thanh trường đao khổng lồ bằng sắt, cao gấp ba Mạc Điển. Lưỡi đao rỉ nhoèn, mục ruỗng gần hết, từng mảng tróc lở sần sùi dưới ánh mặt trời. Mạc Điển dừng bước. Ông ta khom người, tấm thân vĩ đại quỳ xuống trước bộ xương bé nhỏ, lầm rầm điều gì đấy tựa cầu nguyện. Cầu nguyện xong, lão khổng lồ gỡ dây trói rồi cẩn thận đặt bộ hài cốt lên tấm vải trắng tinh đoạn nói:
-Con đã về, thưa ông.
Vô Phong ngỡ ngàng, miệng há hốc:
-Đây là… là ông nội của ông? Mạc Dung?
-Phải.
Mạc Điển nhúng khăn ướt nhẹ nhàng lau rửa hài cốt. Dòng nước gột rửa đất cát, trả lại màu trắng lạnh cho bộ xương. Lắm chỗ đã bám bụi quá lâu, nước dội qua mấy lần mà bẩn vẫn hoàn bẩn. Tuy vậy, lão khổng lồ vẫn cặm cụi lau chùi từng ly từng tí. Dáng vẻ to lớn của Mạc Điển bỗng chốc cô đơn lạc lõng như dãy núi đen trơ trọi giữa biển. Nhìn cảnh ấy, Vô Phong sinh lòng bất nhẫn. Hắn nói:
-Đây là lý do ông căm ghét tộc Lạc Việt?
Lão khổng lồ đáp:
-Sao nói vậy?
-Tôi cảm giác thế!
Mạc Điển im lặng. Sự im lặng này có nghĩa rằng suy đoán của Vô Phong là đúng. Hắn tiếp lời:
-Kể cho tôi nghe! Hãy nói cho tôi chuyện gì đã xảy ra với ông nội của công?
Quá khứ là một cái gì đó mơ hồ với Mạc Điển. Không phải vì ông quên quá khứ, mà vì nhớ quá nhiều thành ra mơ hồ. Ông bắt đầu kể, vừa kể vừa tỉ mẩn lau rửa thi hài người ông quá cố.
Cách đây nhiều thế kỷ, khi Lộc Tục – Kinh Dương Vương còn tại vị, nước Xích Quỷ xảy ra nội chiến. Nhiều gia tộc tách khỏi đế chế, tự mình xưng đế lập quốc. Các dòng họ đánh nhau liên miên mấy chục năm liền. Họ Mạc lúc đó với ưu thế đánh trận càn lướt đã độc chiếm miền bắc đất nước. Họ Mạc từng là một trong những thế lực mạnh nhất thời nội chiến.
Chiến tranh loạn lạc, quốc gia suy tàn. Cực chẳng đã, Kinh Dương Vương phải dùng vũ lực nhằm vãn hồi trật tự. Các vị thần trong Tam Bất Tử xuất trận, chiến tranh ngày càng ác liệt. Nhân cơ hội nước Xích Quỷ rối ren, đế quốc Bắc Thần manh nha xâm phạm biên ải miền bắc. Kinh Dương Vương kêu gọi dẹp bỏ hiềm khích, đồng lòng chống ngoại địch. Đáng tiếc, chỉ có Mạc Dung – thủ lĩnh họ Mạc chịu nghe lời ông già hoàng đế. Các gia tộc khác hoặc ngoảnh mặt làm ngơ, hoặc mong Bắc Thần đế quốc nhanh chóng tấn công miền bắc, xử lý gọn họ Mạc.
Kinh Dương Vương rơi vào thế ngàn cân treo sợi tóc. Dựa vào thực lực của ông và họ Mạc, cộng thêm Tam Bất Tử là không đủ. Bởi quân đội Bắc Thần đông tới mức gần như… vô hạn. Chưa kể nếu chống cự quân Bắc Thần, họ sẽ bị kẻ địch đánh vào lưng. Kẻ địch ở đây chẳng phải ai khác mà chính là những dòng họ trong tộc Lạc Việt. Chuyện oái ăm, nhưng là sự thực. Kinh Dương Vương đã đề xuất hiệp ước hòa bình song chẳng thu được gì. Bắc Thần muốn xâm chiếm Xích Quỷ từ lâu, nay mồi dâng tận miệng, họ không thể bỏ qua. Kinh Dương Vương chẳng thể ngồi yên. Ông ta đề xuất một kế hoạch điên rồ: đánh thức Huyết Thiên Thiết Giáp. Mạc Dung hết lời can ngăn song vô ích. Muốn vị ác thần đó sống dậy là quá đơn giản. Có điều ru ngủ gã khó gấp vạn lần chuyện làm người chết tái sinh. Huyết Thiên Thiết Giáp sẽ tàn sát mọi thứ, từ quân Bắc Thần tới người Lạc Việt.
Do đã thần phục hoàng đế nên Mạc Dung buộc phải nghe lệnh. Ông ta cùng họ Mạc trấn thủ tại miền biên ải phương bắc. Riêng Kinh Dương Vương sắm sửa lễ bái, sẵn sàng đánh thức Phù Thiên Vương. Cùng thời gian ấy, các gia tộc khác triển khai lực lượng tới Hoành Sơn. Một mặt họ sẽ lật đổ ông già hoàng đế, mặt khác chờ thời cơ để diệt họ Mạc. Cảnh nồi da nấu thịt vẫn tiếp diễn mà họa mất nước ngày càng gần. Mạc Dung đã tự thảo một bản nghị hòa và kèm theo món quà ngoại giao: họ Mạc sẽ dâng đất cho Bắc Thần. Ban đầu, Bắc Thần chối bỏ bản nghị hòa vì Kinh Dương Vương không viết ra nó. Sau cùng họ đưa ra điều kiện làm tin: Mạc Dung phải tự tay cắm quốc kỳ Bắc Thần trên mảnh đất kia, đồng thời phải quay về hướng bắc, quỳ gối trước lá cờ, vái năm lần, khấu đầu ba lần.
-Mạc Dung có làm vậy không? – Vô Phong hỏi.
Mạc Điển nhắm nghiền mắt, nói một cách khó khăn:
-Ông nội ta đã làm thế.
Giọng của lão khổng lồ đầy sự tủi hổ. Ông ta bóp chiếc khăn trắng đến kiệt nước. Từng giọt rơi xuống hốc mắt của bộ hài cốt, chảy vào lòng đất sâu thẳm. Vô Phong thực tình không muốn hỏi thêm nhưng trí tò mò lại thôi thúc hắn:
-Sau đó thì sao?
Lão khổng lồ thở dài:
-Bắc Thần chấp nhận rút quân. Sự thật là trước đấy ông nội ta đã tổ chức phòng thủ, đề phòng trường hợp nghị hòa thất bại.
Thực lực họ Mạc khi đó có thể cầm cự quân địch ít nhất nửa năm. Tuy nhiên Mạc Dung đã lựa chọn giải pháp khác. Giải pháp ấy đi ngược lại truyền thống bấy lâu của bộ tộc.
Và bi kịch cũng từ đó mà ra.
Họa mất nước bị đẩy lùi. Nhiều năm sau, Kinh Dương Vương đã thống nhất lãnh thổ, dẹp nội chiến. Nhưng vấn đề nảy sinh khi các gia tộc khác nhất quyết đòi loại trừ họ Mạc. Họ cho rằng họ Mạc Dung vì tư lợi mà hạ nhục thể diện quốc gia. Ông già hoàng đế lại lâm cảnh khó xử. Nếu Kinh Dương Vương từ chối, các gia tộc sẽ bất phục. Song họ Mạc là gia tộc lâu đời, không thể nói bỏ là bỏ. Nguy cơ nội chiến nhen nhóm như đốm lửa âm ỉ dưới than nóng. Trước tình hình ấy, Mạc Dung đã gặp Kinh Dương Vương, cầu xin hoàng đế đừng đuổi họ Mạc khỏi đất nước. Đổi lại, Mạc Dung sẽ tự mình gánh tội và chịu án tử hình.
-Ông nội ta bị hành quyết tại đây. – Mạc Điển chỉ tay vào cột đồng – Các gia tộc khác mỗi người một kiếm, lần lượt đâm ông ấy cho tới chết.
Gió thổi, kiếm va nhau, thanh âm lạnh lùng. Vô Phong ngước lên, lẩm nhẩm đếm nhưng đếm không xuể.
Nhiều quá…
…không đếm được.
Mạc Điển chỉ tay về phía trước. Vô Phong nhìn theo, nhận ra một dãy núi mờ mờ nơi chân trời phía bắc. Lão khổng lồ nói:
-Đấy là mảnh đất mà họ Mạc từng sinh sống; ông nội ta phải dâng nó cho Bắc Thần. Đó cũng là nơi ông ấy phải quỳ xuống.
Sau khi Mạc Dung qua đời, gia tộc họ Mạc định cư tại dãy núi đen này, cách xa tộc Lạc Việt. Từ đó đến nay, tộc họ Mạc luôn bị người Lạc Việt nguyền rủa. Trong thời đại phi cơ giới, dâng đất cho ngoại bang đồng nghĩa với bán nước. Nhiều người trong họ quá ngán ngẩm nên bỏ đi. Số còn lại tiếp tục sống với sự nhục nhã đời đời kiếp kiếp. Thậm chí, chẳng còn ai nhớ tới họ Mạc nữa, hoặc có nhớ cũng chỉ buông lời nguyền rủa cay độc.
Nơi đây không có tiếng cười.
Những đứa trẻ họ Mạc không biết cười.
Lau rửa hài cốt xong, lão khổng lồ đặt hài cốt về vị trí cũ rồi dùng dây trói lại. Vô Phong ngạc nhiên:
-Sao không chôn cất?
-Luật không cho phép chúng ta chôn cất. Con cháu họ Mạc phải gìn giữ hài cốt của ông ấy. Cha ta đã mất, đến phiên ta làm. Sau này ta mất, con ta phải làm.
Lão khổng lồ phết một chất dịch nhớt trong vắt lên bộ xương. Chất dịch này có tác dụng làm chậm quá trình phân hủy. Nhưng để hài cốt giữa nắng mưa sương gió sớm muộn sẽ tan thành cát bụi.
-Vậy đó là lý do ông căm ghét tộc Lạc Việt? – Vô Phong hỏi.
-Phải. – Mạc Điển trả lời.
-Vậy sao các ông không đi tìm nơi khác mà sống?
Mạc Điển trả lời:
-Ông nội ta dặn rằng con cháu họ Mạc bị sỉ nhục thế nào đi nữa thì vẫn phải ở đây.
-Để làm gì?
-Bảo vệ đất nước này.
Lão khổng lồ nắm cây cột đồng, cánh tay run run một cách bất lực. Vô Phong không thấy nét mặt của Mạc Điển, song hắn thấy người đàn ông đó bỗng dưng nhỏ bé vô cùng. Hắn tự hỏi Mạc Dung làm thế vì cái gì?
Kẻ bị nguyền rủa đó làm thế vì điều gì?
Mạc Điển quỳ xuống vái lạy thêm lần nữa, sau rời đi. Vô Phong ngoảnh đầu nhìn lại. Thanh trường đao hoen ố hiu hắt với gió. Đao đứng đó, vẫn hiên ngang, nhưng đã không còn là đao nữa.
Vô Phong theo Mạc Điển trở về hang động. Đang đi, cả hai chợt thấy người họ Mạc tập trung trước cửa hang cùng tiếng hò hét chửi bới. Lão khổng lồ vội ra xem thì nhận ra hai vị khách bị chặn đường là Lộc Tục và Khánh Dư. Thấy Vô Phong, Khánh Dư cười rộ:
-A, tên tóc đỏ đây rồi! Chúng ta đi tìm ngươi mãi!
Ông già Lộc Tục đã sai bầy chim lạc truy tìm Vô Phong và Tiểu Hồ; họ Trần cũng tham gia giúp sức. Sau cùng Khánh Dư đề nghị Lộc Tục tới đây bởi chỉ có người họ Mạc hay qua lại vùng biển này. Rốt cục, gã họ Trần đã đúng. Mạc Điển bèn ra lệnh cho người trong tộc rời đi, cuối cùng chỉ còn lại bốn người đối mặt nhau. Khánh Dư nheo mắt nhìn lão khổng lồ, cười xách mé:
-Khỏe chứ?
-Khỏe. – Lão khổng lồ đáp cụt lủn.
Gã họ Trần trề môi gật gù, đoạn chắp tay sau lưng, chân khệnh khạng, tay vuốt cằm:
-Khỏe là cái chắc! Sống ở nơi đẹp thế này kia mà! Này, cho ta xin ít đá về trang trí nhà cửa, nhé?
Mạc Điển nhún vai:
-Đụng vào là có người đánh què tay đấy.
-Ô? Lạ nhỉ? Các người khi trước dâng cả dải núi cho ngoại bang kia mà! Giờ xin mấy hòn đá cũng không cho, kỳ ghê!
Lão khổng lồ nhếch mép cười:
-Ta không liên quan tới bọn mọi rợ kết hôn cùng huyết thống.
Khánh Dư cười mà gương mặt rúm ró. Gã ngửa cổ nhìn Mạc Điển, giọng thách thức:
-Mỏi mồm quá! Đánh nhau luôn đi!
-Có cần gọi người mang xác về không?
Mạc Điển và Khánh Dư đều cười gằn, bộ dạng ai nấy đáng sợ tựa ác quỷ đối đầu. Ông già Lộc Tục vờ ho hắng đánh tiếng cảnh báo cả hai. Khánh Dư biết ý liền rời đi, đoạn nháy mắt với Vô Phong:
-Con nhỏ công chúa cứ nhắc ngươi hoài!
Gã họ Trần đi rồi, Mạc Điển mới quay sang Lộc Tục, thái độ hòa nhã:
-Lâu mới thấy ngài qua. Ở lại uống chút rượu, được chứ?
Ông già ậm ừ đồng ý. Vô Phong đi theo, trong lòng nghĩ tới hài cốt của Mạc Dung. Ông ta đã chết với suy nghĩ cuộc nội chiến Xích Quỷ sẽ kết thúc.
Nhưng ông ta đâu biết ngọn lửa chiến tranh vẫn đang cháy trên mảnh đất này.
 
Quyển 2 - Chương 63: Trái tim dũng cảm


Nhận lời của Mạc Điển, Lộc Tục quyết định ở lại làng của họ Mạc. Đa số dân trong họ dành sự tôn trọng nhất định cho Lộc Tục, tuy nhiên, vài người vẫn nhìn ông già với ánh mắt căm thù sâu sắc. Họ tin rằng cái chết của Mạc Dung là do ông gây ra. Chưa biết ai sai ai đúng, chỉ biết sợi dây liên kết họ Mạc với Lạc Việt mong manh vô cùng. Lộc Tục chính là sợi dây đó. Một mai ông già không còn, dễ chừng họ Mạc sẽ biến mất trên bản đồ Xích Quỷ.
Mạc Điển đưa Lộc Tục và Vô Phong về nhà mình. Hai ông già trò chuyện được một lúc thì Mạc Điển dong thuyền ra khơi, nói là kiếm vài món nhậu. Tên tóc đỏ tranh thủ hỏi Lộc Tục về sự tình sau khi cuộc chiến trên đỉnh Hoành Sơn kết thúc. Ông già thở dài:
-Con bé Lục Châu cứ đòi đi tìm cậu, ta nói lên nói xuống mãi nó mới chịu ở lại.
Vô Phong ngớ mặt vì sướng. Có điều sự sung sướng ấy ập tới quá bất ngờ. Bản mặt tên tóc đỏ vui không ra vui, mếu không ra mếu; như bị búa đập vào đầu mà thành đần độn. Cứ nghĩ cảnh Lục Châu gọi tên mình, lòng hắn rộn ràng như lửa bén mông. Nàng khóc lóc quyến luyến, chàng đau đớn lìa xa, hệt một chuyện tình bi đát. Và Vô Phong cứ lâng lâng chín tầng mây nếu Lộc Tục không vỗ mặt kéo hắn xuống mặt đất:
-Đừng mơ mộng nữa, có nhiều việc đáng lo hơn kìa!
Và ông già kể chuyện xung quanh ngôi mộ của Bạch Dương đệ thập. Hiện chưa thể xác định linh hồn Quỷ Vương xuất phát từ chiếc quan tài hay Ác Lạc Điểu, nhưng một điều chắc chắn là ngài đệ thập đang gặp nguy hiểm. Quan tài đã nhiễm hắc khí, đệ thập cũng bị ảnh hưởng theo. Vô Phong thắc mắc:
-Vật là vật, người là người, hoàng đế ở cách đây hàng vạn cây số, sao có thể bị nhiễm chứ?
-Một khi đã xây mộ phần chuẩn bị hậu sự, người sống và ngôi mộ tương liên với nhau. Mộ bị hỏng hoặc không ai chăm sóc, người sống sẽ bị ảnh hưởng.
Câu chuyện mộ phần bắt đầu từ khi Bạch Dương đệ thập bốn mươi tuổi. Tuân theo truyền thống của dòng họ, ngài đệ thập đã tới đất Lạc Việt, xin phép Lạc Long một chỗ chôn cất trên đỉnh Hoành Sơn. Ban đầu Lạc Long không đồng ý bởi Hoành Sơn là chốn thiêng liêng, vốn không phải nơi để chôn cất. Bị từ chối, Bạch Dương đệ thập liền đưa ra một cuộc trao đổi: nếu Lạc Long chấp nhận lời thỉnh cầu, Phi Thiên quốc sẽ hỗ trợ kinh tế và quân sự cho Xích Quỷ. Ý của ngài đệ thập tưởng chừng tốt đẹp nhưng bị tộc trưởng nhìn thấu. Phụ thuộc vào Phi Thiên, Xích Quỷ sớm muộn sẽ bị lũng đoạn chính trị.
Tuy nhiên, tại thời điểm ấy, Xích Quỷ vừa thoát khỏi chiến tranh, kinh tế kiệt quệ, tài lực thiếu thốn. Vô số nước lân cận gây sức ép, điển hình như kẻ thù truyền kiếp Bắc Thần quốc. Tuy mang tiếng không còn liên hệ với Xích Quỷ nhưng Lạc Long vẫn không khỏi chạnh lòng khi thấy đất nước lâm cảnh đường cùng. Cuối cùng Lạc Long đặt lợi ích quốc gia lên trên sự linh thiêng, ông ta đồng ý lời thỉnh cầu của Bạch Dương đệ thập với một điều kiện: Phi Thiên chỉ hỗ trợ kinh tế cho Xích Quỷ trong vòng mười năm, không can thiệp quân sự. Sự hình thành đặc khu Cửu Long chính là xuất phát từ thỏa thuận này. Lộc Tục từng phản đối rất gay gắt nhưng khi đó ông không giữ chức tộc trưởng nên buộc phải làm theo ý Lạc Long. Để được chôn cất trên đỉnh Hoành Sơn, Bạch Dương đệ thập đã trải qua một nghi lễ. Nghi lễ này đem số mạng của ông ta kết nối với ngôi mộ. Tình trạng ngôi mộ ảnh hưởng tới ông ta và cả con cháu, cụ thể là Lục Thiên và Lục Châu. Hàng tháng, tộc trưởng Lạc Long vẫn cử người chăm sóc mộ phần của ngài đệ thập. Vì nếu mộ bị hoang phế, ngài đệ thập tất không an lành.
Lục Châu cố nhiên không bao giờ tin cha mình là Quỷ Vương. Ngay cả Lộc Tục cũng cho đấy là chuyện hoang đường, ông già nói:
-Linh hồn Quỷ Vương chỉ xâm nhập cá thể sống. Dù mộ phần tương thông với đệ thập nhưng cớ gì nó phải lưu trú trong một chiếc quan tài không có sinh khí? Ta nghĩ do Ác Lạc Điểu mà thôi! Ác Lạc Điểu luôn sinh sống tại đất Lạc Việt, giờ bỏ đi, chắc chắn vì bị Quỷ Vương thao túng.
-Nhưng con chim đó đã biến mất, kiểm chứng thế nào đây? – Vô Phong hỏi.
Ông già trả lời:
-Ta nghĩ nó bay về lục địa Kim Ngân.
Trong phép Đồng Tử lão có thuật bói quẻ, nhờ thuật này, Lộc Tục dự đoán Ác Lạc Điểu đang bay về Kim Ngân lục địa. Nhưng Vô Phong cảm giác cái thứ bói quẻ na ná món dự báo thời tiết năm ăn năm thua. Một lục địa rộng lớn vô cùng, biết đi đâu mà tìm Ác Lạc Điểu? Vả lại Kim Ngân vốn nổi tiếng giết chóc và bạo lực, tên tóc đỏ mới nghe mà mặt mày tái xanh tái đỏ.
Hai người bàn chuyện thêm lát nữa thì Mạc Điển quay về. Lão khổng lồ vác theo một đống hải sản cùng một khúc thịt giao long chảy ròng ròng máu. Tự thân Mạc Điển vào bếp chuẩn bị đồ ăn; tiếng chặt thịt, xào nấu vang dội khắp thạch động. Chừng nửa giờ sau, tiệc được dọn, từng món bày biện trên những chiếc đĩa to bằng bánh xe và dĩ nhiên, không thể thiếu rượu. Mạc Điển người to miệng rộng, thành thử những miếng thịt giao long vừa mồm ổng chẳng khác nào cả tảng thịt chẹn họng Vô Phong. Dù vậy, gã tóc đỏ đánh giá rất cao tài nghệ nấu nướng của Mạc Điển. Từ món cá hấp ngọt thịt, những miếng bạch tuộc nướng vàng rộm cho tới tảng thịt giao long thơm phức, tất cả đều xuất phát từ bàn tay làm bếp thượng hạng. Mạc Điển thậm chí còn dành thức ăn đem sang cho Tiểu Hồ thưởng thức. Ai mà nghĩ một lão khổng lồ thô ráp như Mạc Điển lại hành xử như một quý ông đúng nghĩa?
Nhưng suốt cả bữa ăn, chỉ Vô Phong đánh chén khỏe. Hai ông già ăn rất ít, chỉ uống và nói chuyện là nhiều. Cũng giống như đám đàn ông nhậu nhẹt ở Quận 4, hai người họ lại nhớ chuyện thuở xưa, kẻ cười người nói vui vẻ. Rượu càng nhiều, những chuyện quá khứ cũng nhiều thêm. Nhưng rồi cả hai dừng lại khi dòng chảy quá khứ đụng tới thời nội chiến Xích Quỷ. Một khoảng im lặng trôi qua rất lâu, không gian chẳng còn gì ngoài tiếng nhai nuốt giữ ý của Vô Phong. Lát sau, Lộc Tục rời đi, Mạc Điển ngồi thêm chút nữa cũng rời bữa tiệc, để lại gã thanh niên ngồi một mình. Vô Phong định buông đũa nhưng thấy thức ăn còn nhiều, hắn quyết tâm “đả” bằng sạch. Lãng phí thức ăn là không tốt! – Hắn khẳng định.Dù vậy, Vô Phong không sở hữu cái bụng vô đáy giống Thiên Hải. Ngốn hết chỗ thịt bạch tuộc nướng, hắn dựa lưng vào tường, bụng phưỡn ra thở ành ạch, mắt nhìn đĩa thịt giao long song lực bất tòng tâm.
Thấy dễ thở hơn chút, Vô Phong bèn rời khỏi hang. Thạch động chìm trong màn đêm, đó đây rực sáng những bó đuốc cháy lửa màu xanh tím soi tỏ dãy đá nhấp nhô. Hắn lần theo con đường hẹp xuyên qua dãy đá rồi bước ra ngoài cửa động. Gió hiu hắt đẩy sóng, tấu lên từng khúc rì rào ngắt quãng trên bờ đá gồ ghề. Hắn ngửa mặt ngẫm nghĩ về mảnh đất Lạc Việt. Đêm nay là đêm cuối cùng Vô Phong lưu lại đây, sẽ không còn bọn vô nhãn, xác sống hay Ác Lạc Điểu nữa, nhưng hắn cảm thấy tiếc nuối. Dù mảnh đất lắm người nhiều ma này đáng sợ, bất quá nó còn vô số khúc mắc chưa được giải đáp. Hắn cần câu trả lời.
Đang suy nghĩ, Vô Phong chợt thấy ông già Lộc Tục dong thuyền ra biển. Tên tóc đỏ gọi:
-Ông già đi đâu thế?
-Lòng vòng uống rượu thôi! Cậu đi chứ?
Vô Phong gật đầu đồng ý rồi bước xuống thuyền. Lộc Tục chèo thuyền vòng ra phía sau dãy núi đen rồi mặc thuyền trôi theo dòng. Biển đêm yên ả, mặt nước lặng tĩnh tựa mặt hồ. Ánh trăng mờ mờ buông thả trên con thuyền, phủ lên hai người một già một trẻ. Ông già đưa bầu rượu cho Vô Phong và bảo hắn uống. Tên tóc đỏ dốc bầu nhấp một ngụm nhỏ, thứ chất lỏng cay xè trôi qua cổ họng khiến hắn nhăn nhó mặt mũi. Nhưng hắn cảm thấy vòm miệng lắng đọng một dư vị ngòn ngọt, đầu óc bỗng chốc hơi biêng biêng. Hắn lên tiếng:
-Tôi hỏi vài chuyện được không, ông già? Hy vọng ông không phiền.
-Cứ hỏi đi! – Lộc Tục cười – Ta gọi cậu cốt là muốn nghe cậu hỏi gì.
Tên tóc đỏ nhấp ngụm rượu nữa, sau mở lời:
-Tại sao các ông lại rời bỏ Xích Quỷ? Tộc trưởng từng trả lời tôi rằng trong trái tim người Lạc Việt có một con thú dữ, vậy là sao? (*)
Lộc Tục cười chua chát. Ông già nốc rượu, bàn tay gầy guộc khua khoắng mặt nước như đang tìm kiếm vật nào đấy dưới đáy biển. Sóng lợn cợn từng đợt đẩy thuyền ra xa khỏi dãy núi đen, mũi thuyền rẽ làn nước nhuộm màu trăng bạc và trôi về hướng tây. Lộc Tục chưa vội trả lời, Vô Phong cũng để yên cho ông già tâm tình với rượu. Bởi lẽ người đàn ông chỉ nói khi có men rượu và đối diện người đàn ông khác.
Thuyền trôi mãi, trôi mãi, cho tới khi Vô Phong chợt thấy phía trước lù lù một quả núi cao ngất. Núi màu xám, không phải sắc xám của đất mà do vô số bia mộ tạo nên. Bao nhiêu tấm bia, bấy nhiêu người đã chết. Bia chen chúc khắp nơi, cỏ cây không mọc nổi, họa chăng có vài cây khô với hình thù hung dữ mọc lên từ bãi đá lởm chởm dưới chân núi. Dòng hải lưu xung quanh ngọn núi bỗng chốc tối tăm hơn cả màn đêm. Gió phảng phất mùi tử khí, lẩn quất những âm thanh không rõ nguồn gốc. Vô Phong rợn tóc gáy, bia mộ quá nhiều, hắn không thể đếm nổi. Mộ có tên thì ít, mộ vô danh thì nhiều. Tên nóc đỏ nuốt nước miếng đoạn thì thào:
-Chốn nào đây?
-Nơi chôn cất những anh hùng chiến trận của Xích Quỷ. Đi tiếp theo dòng chảy này, cậu sẽ thấy vài chục quả núi nữa giống như vậy.
-“Anh hùng”… nhiều thế sao?
Lộc Tục lắc đầu cười đắng:
-Phải. Một dân tộc nhiều anh hùng là một dân tộc bất hạnh. Nước Xích Quỷ của ta, tộc Lạc Việt của ta, thực sự quá bất hạnh.
Vô Phong chống cằm chăm chú lắng nghe. Rượu nồng, người lâng lâng cũng là lúc ông già trút bầu tâm sự:
-Hơn ba ngàn năm sống trên đời, chưa bao giờ ta thấy ngọn lửa chiến tranh ngừng cháy trên mảnh đất này. Những cuộc chống ngoại xâm, những cuộc chinh phạt về phương nam, chưa lúc nào máu ngừng đổ. Ta cũng không hiểu tại sao mảnh đất này nhiều chiến tranh đến thế? Nhưng một điều kỳ lạ hơn, sau mỗi cuộc chiến tranh, Xích Quỷ vẫn tồn tại dù đôi lúc chúng ta gặp những đối thủ mạnh hơn mình nhiều lần. Dường như… nó là số phận. Ta đã từ bỏ ngôi vị, rời khỏi Xích Quỷ và đi tìm câu trả lời.
Ông già ngừng lại để uống thêm ngụm rượu, sau tiếp tục:
-Ta đi khắp nơi, tới nhiều vùng đất khác nhau và chứng kiến vô số cuộc chiến tranh. Ta nhận ra những quốc gia thuộc thời đại phi cơ giới hầu hết đã lụi tàn. Cậu biết Nghĩa Địa Băng ở lục địa Băng Thổ chứ (**)? Một đế chế hùng mạnh như vậy đã tồn tại, đã thống trị một nửa thế giới nhưng rồi cũng lụi tàn. Ấy thế mà tộc Lạc Việt vẫn tồn tại.
-Được sống, được tồn tại là tốt chứ sao?
Lộc Tục cười khổ:
-Không, hoàn toàn không. Nếu quả thực có thứ quyền năng thay đổi thời gian, ta sẽ về quá khứ, để mặc tộc Lạc Việt tan biến cùng cát bụi.

-Tại sao ông nghĩ như thế? – Tên tóc đỏ ngạc nhiên.
Ông già vỗ vỗ lồng ngực:
-Trong trái tim người Lạc Việt có thú dữ. Chiến tranh quá lâu đã khiến chúng ta bị ảnh hưởng. Trái tim chúng ta hun đúc bằng hận thù chồng chất, da thịt chúng ta bao bọc trong đao kiếm, tính cách chúng ta lớn lên giữa bể máu của những người đã ngã xuống – con thú dữ ẩn sâu trong mỗi người Lạc Việt lớn dần theo cách đó. Người Lạc Việt… như một bầy thú dữ, đôi lúc sẵn sàng đoàn kết đánh đuổi kẻ xâm phạm lãnh thổ song có thể giết nhau vì một miếng mồi. Và thế hệ sau cứ sống như cái cách thế hệ trước đã sống, thành thử loài thú dữ ấy lại sinh sôi nảy nở. Mạc Dung lẽ ra đã không phải chết tức tưởi như thế!
Lộc Tục chìa bầu rượu cho Vô Phong. Tên tóc đỏ nhấp thêm ngụm nữa, ông già cười lớn như thể vừa tìm thấy bạn tri ngộ rồi kể tiếp:
-Ta không muốn con thú dữ ấy lan tràn tới thế hệ hậu sinh. Tộc Lạc Việt cần thay đổi, và ta đã thuyết phục các dòng họ cùng chung sống trên mảnh đất này. Một ngôi làng thanh bình, một cuộc sống nguyên thủy với những giá trị cộng đồng. Dường như ta đã thành công. Nhưng… họ Mạc thì không. Bóng ma quá khứ, bóng ma thú dữ vẫn ám ảnh họ Mạc và những dòng họ khác. Ngay ở đây, chiến tranh vẫn tồn tại.
Tên tóc đỏ ngẫm lại cuộc đối thoại suýt trở thành màn đánh lộn giữa Mạc Điển và Khánh Dư. Hắn cười:
-Vì các ông có cái tôi quá lớn!
Lộc Tục lắc đầu buồn bã:
-Thế hệ trước cố chấp bởi cái tôi quá lớn, còn thế hệ sau tự ti bởi những gì thế hệ trước để lại. Đáng buồn thay, con cháu người Lạc Việt vẫn phải trải qua chiến tranh như tổ tiên họ, và thú dữ vẫn cứ lớn lên.
Vô Phong bèn kể lại câu chuyện ở quận 4, về những con người sống trong bốn bức tường không lối thoát, về một Thanh Nhi luôn muốn thoát khỏi Xích Quỷ, về những gã hộ vệ thánh sứ thực tập tại Thiên Kỷ thành cười cợt người cha của Thanh Nhi. Lộc Tục thở dài:
- Thế hệ ấy sinh ra giữa lúc nước Xích Quỷ vừa đứng dậy sau thời kỳ chiến tranh đại lục. Một thế hệ bất hạnh. Chúng nhìn ra thế giới bên ngoài và tự ti khi thấy người Lạc Việt thấp kém so với người khác, như Phi Thiên Quốc các cậu chẳng hạn.
-Tự ti điều gì?
-Không lớn bằng. Không mạnh bằng. Không riêng bọn trẻ con đó mà ngay cả những kẻ già cũng tự ti.
Lộc Tục ngẩng mặt nhìn bầu trời trĩu mây, giọng nói lạc điệu:
-Sự tự ti ấy làm con cháu ta vô phương hướng. Chúng chán ghét xã hội này, chán ghét mảnh đất này, chán ghét cả thời tiết xứ này. Và chúng căm thù dòng máu mang trong người, rất nhiều kẻ hận vì sao chúng mang dòng máu Lạc Việt thấp kém mà không phải sinh ra ở một đất nước lớn mạnh? Chúng là những con thú đang điên cuồng tìm lối thoát cho chính mình. Cũng dễ hiểu thôi, khi chúng phải sống dưới bàn chân của bọn thú dữ lớn hơn – những con thú đang từng ngày từng giờ hút cạn dinh dưỡng của Xích Quỷ. Chiến tranh vẫn diễn ra, chỉ không thể hiện ra ngoài mà thôi.
-Chẳng lẽ những người như Thanh Nhi không làm gì sao? Họ ra đi và bỏ mặc mọi thứ? Lẽ nào công sức của hoàng đế Lê Khải trở thành công cốc?
-Cậu cũng biết Lê Khải? Chà, y là cháu chắt mười mấy đời của ta. Y có tài, tiếc thay lại không nhìn thấy kết cục tương lai và loài thú dữ trong trái tim người Xích Quỷ. Hoặc giả như y nhìn thấy mà chẳng thể thay đổi được gì. Giờ đâ trở thành tấm bình phong cho những con thú dữ tham ăn. Cậu đã bao giờ nghe “Nhân danh hoàng đế Lê Khải” hay cái gì đại loại thế chưa?
Vô Phong bật cười khi nhớ tới bài diễn văn dài loằng ngoằng của gã phó đô đốc Đỗ Thọ tại Cửu Long thành (***). Chút vui vẻ qua đi, hắn bắt đầu ngẫm nghĩ lời của Thanh Nhi.
Giấc mơ không thỏa mãn người khác chỉ là trò lố bịch.
Hắn đã cho rằng Thanh Nhi suy nghĩ tiêu cực. Nhưng ngay lúc này đây, câu nói ấy trở nên đúng đắn hơn bao giờ hết. Hắn không phải Thanh Nhi, không phải chịu cuộc chiến tranh ngầm trong lòng Xích Quỷ.
Lộc Tục chèo thuyền quay về ngôi làng của họ Mạc. Suốt dọc đường, Vô Phong không nói thêm câu nào mà trầm ngâm trong tâm sự. Hắn nghĩ gần nghĩ xa, cuối cùng nghĩ về chính mình. Kể từ ngày tìm được quá khứ, Vô Phong không còn mơ mộng như trước, cuộc sống trong mắt hắn cũng bớt thú vị. Hắn đã nghĩ chẳng ai có thể theo đuổi giấc mơ mãi mãi…
…cho tới khi hắn gặp Mạc Dung – chính xác là bộ xương của ông ta. Liệu đó có phải là kết cục mà Mạc Dung mong đợi? Tại sao ông ta vẫn dặn dò Mạc Điển phải bảo vệ đất nước này – đất nước đã giết chết ông ta? Một người đàn ông vốn dĩ phải đứng thẳng, còn người quỳ gối như Mạc Dung thì gọi là gì? Hắn không biết. Nhưng hắn dám chắc rằng Mạc Dung chết đi mà lòng không oán hận. Ông ta chết đi với giấc mơ còn dang dở, một chút nào đó giống thằng bé Oa Lạc.
Có thật là người ta không thể theo đuổi giấc mơ mãi mãi?
Vô Phong chợt mỉm cười, hắn hỏi:
-Này ông già, quỳ trước mặt người khác có ý nghĩa gì?
Lộc Tục hơi bất ngờ, sau đáp:
-Có thể là sự hèn hạ, nhưng đôi khi là sự kính trọng. Nhưng tại sao cậu hỏi thế?
Tên tóc đỏ nhăn răng cười song không đáp. Đợi thuyền cập bến, Vô Phong không về “nhà” Mạc Điển mà đi thẳng lên đỉnh núi. Thấy lạ, Lộc Tục cũng bước theo hắn. Vô Phong đi thẳng đến nơi Mạc Dung bị hành quyết. Gió lao xao, xích sắt rung, kiếm lạo xạo. Bộ hài cốt phơi mình giữa sương đêm buốt giá. Lộc Tục hỏi:
-Này, say rồi à? Đêm hôm tới đây làm gì chứ?
Vô Phong cười:
-Ngày trước, tôi từng thấy một thằng bé đứng thẳng vì giấc mơ của mình. Nhưng giờ, tôi lại thấy một người đàn ông quỳ gối cũng vì giấc mơ. Cách sống thật khác nhau! Nhưng họ có trái tim dũng cảm, tôi cũng muốn trở nên mạnh mẽ như họ.
-Mạnh mẽ hơn? Bằng cách nào? Chiến đấu nhiều hơn?
Gió thổi ào ạt cuộn mái tóc đỏ, Vô Phong trả lời:
-Không! Tôi không nghĩ đánh lộn sẽ làm mình mạnh mẽ hơn. Tôi muốn đi thật nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người và nghe thật nhiều câu chuyện.
Hắn quỳ xuống trước bộ hài cốt đoạn khấu đầu lạy ba lần rồi nói:
-Mạc Dung… ông ấy là người đàn ông vĩ đại, phải chứ?
Lộc Tục ngây người trước hành động của hắn. Bao năm nay, nghĩ chuyện Mạc Dung quỳ gối trước người phương bắc, trong lòng ông già vẫn lấn cấn khôn nguôi. Nhưng bây giờ, Vô Phong đã cho ông câu trả lời xác đáng. Có lẽ Lộc Tục sẽ không bao giờ ao ước một thứ phép thuật thay đổi thời gian nữa, bởi lẽ giấc mơ năm xưa của Mạc Dung vẫn còn.
Giấc mơ không tồn tại mãi mãi, nhưng nó sẽ chỉ kết thúc khi được hoàn thành tâm nguyện.
Có những người đàn ông đứng thẳng và hy sinh.
Có một người đàn ông quỳ gối để mảnh đất sống trong yên bình, chết đi với giấc mơ dang dở.
Gió xô cát bụi cuốn về phương xa, nơi chân trời đêm bỗng đỏ quạch màu máu. Lộc Tục nhìn theo, lòng dự cảm chuyện chẳng lành. Ông đã phá vỡ quy tắc tháng cô hồn. Nhớ chuyện thuở xưa, chỉ vì bất tuân quy tắc, mảnh đất Lạc Việt phải hứng chịu chiến tranh. Vậy lần này là gì đây? – Lộc Tục tự hỏi.
Chiến tranh sẽ tới. Lạc Việt sẽ lại đổ máu.
Sớm thôi…
 
Quyển 2 - Chương 64: Dòng chảy bất tận


Sáng hôm sau, Lộc Tục đưa Vô Phong và Tiểu Hồ trở về bằng hai con đấu lạc điểu. Trước khi đi, Vô Phong được Mạc Điển tặng một khúc xương giao long chúa. Lão khổng lồ không nói vì sao hay giải thích, chỉ dúi khúc xương vào tay tên tóc đỏ bằng được mới thôi. Biết tính lão dị thường, Vô Phong không dám hỏi thêm, cứ im lặng mà nhận. Món quà này vô tình khơi dậy thói láu cá trong hắn. Về tới làng Lạc Việt, hắn cố tình nhè lúc Khánh Dư ở gần đó thì khoe khoang khúc xương trước mặt mọi người và tâng bốc Mạc Điển như thần như thánh:
-Mạc Điển cứu tôi và Tiểu Hồ! Một người hào phóng! Ông ấy cho tôi khúc xương này nè! Ông ta thế nào á? Một người to như núi vậy! Tôi cá ông ấy là người mạnh nhất tộc Lạc Việt! Chắc chỉ có ông già Lộc Tục với tộc trưởng ngang sức với ông ấy thôi!
Khánh Dư ngoài mặt bàng quan mà bên trong hậm hực đòi hơn thua với họ Mạc. Phần vì ông ta rất sĩ diện, phần khác do tên tóc đỏ quá lẻo mép. Cuối cùng, gã họ Trần dúi vào tay Vô Phong đôi răng nanh và tấm vảy của con giao long mà ông ta hạ gục mấy ngày trước. Vô Phong vớ bở, mồm mép nhăn nhở hết cỡ. Còn mặt mũi Khánh Dư chảy thườn thượt như con buôn cả ngày không bán được hàng. Nhưng cũng giống Mạc Điển, Khánh Dư không tiết lộ bất cứ điều gì về công dụng của những món quà ấy. Không riêng gã họ Trần, gia đình Lộc Tục cũng tặng đám người Phi Thiên một lô một lốc những món đồ mà họ gọi là “quà lưu niệm”. Đây là tập quán riêng của người Lạc Việt, bọn công chúa từ chối mãi chẳng được nên đành nhận lấy.
Rời khỏi tộc Lạc Việt, nhóm công chúa phải trở lại Thiên Kỷ thành trình diện hoàng đế Lê Chiêu. Vị hoàng đế và ngài đại thánh sứ Nguyễn Lữ chẳng hào phóng như tổ tiên của mình. Thay vào đó, họ liên tục nhắc nhở công chúa về sự đóng góp của Xích Quỷ quốc cho nền hòa bình thế giới nói chung, nền hòa bình của Phi Thiên quốc nói riêng. Cốt lõi vấn đề vẫn là muốn “tăng cường quan hệ” giữa hai nước. Lục Châu thừa hiểu thâm ý của hai người bọn họ song vẫn tươi cười hứa rằng sẽ đáp tạ vào “một ngày không xa”. Với nàng, nụ cười ngoại giao chỉ khiến mọi thứ tốt đẹp hơn.
Rất nhanh sau đó, nhóm công chúa quay về Thần Sấm. Ngay lập tức, công chúa vạch ra lịch trình mới cho Thần Sấm: từ lục địa Đông Thổ, phi thuyền sẽ bay theo hướng đông nam, hướng thẳng đến Kim Ngân lục địa. Lục Châu có niềm tin sắt đá rằng linh hồn Quỷ Vương đang trú ngụ bên trong Ác Lạc Điểu, những ai có ý kiến khác đều bị nàng gạt đi. Tuy nhiên, nàng cũng liên lạc về Phi Thiên để chắc chắn rằng hoàng đế vẫn ổn và khỏe mạnh. Mà giả dụ hoàng đế mắc bệnh thật, Lục Châu sẽ nghĩ cha mình đã cao tuổi, cảm nhiễm bệnh tật là điều hiển nhiên. Nói tóm lại, dù xảy ra chuyện gì chăng nữa, công chúa không bao giờ tin cha mình là Quỷ Vương.
Một ngày sau, nhóm ngài Tây Minh về đến nơi. Chuyến đi của họ cùng gã hoàng tử Vi Hàn không thu được nhiều kết quả như mong đợi. Trong vòng một tuần, họ đã đi qua hơn mười quốc gia lùng theo dấu vết của Liệt Giả. Nhưng mỗi khi có manh mối, họ luôn chậm chân hơn hoặc để gã trốn thoát trong gang tấc. Vả lại ngoài Tây Minh, chẳng ai đủ sức tay đôi với gã thủ lĩnh Xích Tuyết. Dù vậy, từ nhiều biến cố, họ đã tìm ra thông tin quan trọng liên quan tới tổ chức vận chuyển Mũi tên vèo vèo. Đó là Tư Ngang – tay đại diện của tổ chức tại Cửu Long – đang lẩn trốn ở Bình Di quốc, một tiểu quốc thuộc lục địa Băng Thổ. Đội Thổ Hành đương ráo riết truy bắt gã. Hiện phiên tòa tại Đại Hội Đồng vẫn chưa ngã ngũ do thiếu bằng chứng lẫn nhân chứng, nếu tóm được Tư Ngang, cơ hội Bất Vọng ra tù sẽ sáng sủa hơn bao giờ hết. Song một điều chắc chắn là trong chuyến đi tới Kim Ngân sắp tới, Bất Vọng không thể tham gia. Lục Thiên hết lời khuyên nhủ em gái mình hãy từ bỏ nhiệm vụ này. Nhưng công chúa muốn tự thân kiểm chứng Ác Lạc Điểu, tuyệt không chịu giao trách nhiệm cho đội Thổ Hành hay ai khác.
Vô Phong được chỉ định tham gia truy tìm Ác Lạc Điểu. Lo sợ mảnh đất Kim Ngân, hắn dành hết thời gian vào luyện tập, một ngày đều đặn từ sáng đến xẩm tối. Mặc dù trình độ kiếm thuật của hắn có tiến bộ, song cơ thể bắt đầu ngấp nghé giới hạn. Băng gạc, thuốc trị thương trở nên thân thiết với gã tóc đỏ như đôi tình nhân mới yêu. Càng thương thế nhiều, tên tóc đỏ càng khoái, bởi sau mỗi buổi tập, công chúa lại chăm sóc vết thương giùm hắn. Vô Phong sướng rơn, lòng chỉ mong dính chấn thương thật nhiều, gãy vài bộ phận cũng không thành vấn đề. Phiền nỗi công chúa gần gũi hắn bao nhiêu, Tiểu Hồ hung dữ bấy nhiêu. Cô nàng thường chen vào giữa hắn và Lục Châu, bô lô ba la cái gì với công chúa mà hắn chẳng hiểu. Vô Phong kể chuyện cho Hỏa Nghi, gã này nhún vai:
-Thú dữ có tính sở hữu cao, nó không thích kẻ lạ xâm phạm lãnh thổ hoặc cướp của cải của nó. Tốt nhất là cậu bớt lớ xớ công chúa đi!
Tên tóc đỏ ngẩn tò te. Từ bao giờ công chúa là tài sản của con nhỏ tóc vàng thế? – Hắn tự hỏi.
Khoảng vài ngày sau, Hỏa Nghi gọi Vô Phong về phòng thí nghiệm. Tên tóc đỏ buộc phải bỏ dở buổi luyện tập. Vừa đến nơi, Vô Phong trông thấy Hỏa Nghi bày ra một mớ tài liệu dưới máy chiếu ba chiều. Như thường lệ, tên tóc đỏ không hiểu tài liệu nói gì còn Hỏa Nghi giải thích:
-Cậu chém Diễm Tà một cú đẹp đấy! Tôi đã thu thập mẫu máu của ả và phát hiện ra điều hay ho.
Nói đoạn hắn khoát tay, phóng to một bức hình mô phỏng một tế bào bảy mạch sắp xếp theo trình tự riêng. Vô Phong chợt nhớ mẫu máu của mình cũng có thứ tế bào này, mặc dù các mạch sắp xếp hoàn toàn khác. Hắn buột miệng:
-Ngục Thánh?!
Hỏa Nghi gật đầu xác nhận:
-Phải. Ả là một Ngục Thánh. Mẫu máu của cô ta tương đồng mẫu máu của cậu, tôi kiểm tra rất kỹ rồi! Và tôi nhận ra cách thức sắp xếp bảy mạch sẽ ảnh hưởng tới năng lực của một Ngục Thánh. Diễm Tà không có khả năng tái tạo như cậu, nhưng năng lực của ả khá mạnh. Nhìn này!
Hỏa Nghi lôi ra một hộp kính, bên trong đựng một con chuột lang béo ú đang chạy trong bánh xe. Ngoài việc nung núc thịt, con chuột chẳng có vẻ gì dị biệt. Hỏa Nghi hất hàm:
-Nó chạy hơn hai mươi tư tiếng rồi đấy!
-Hả? – Vô Phong ngạc nhiên.
-Tôi đã thử cấy tế bào Ngục Thánh của Diễm Tà vào con chuột. Nó trở nên vô cùng hoạt bát, hoạt động không ngừng nghỉ. Biết tôi tìm được gì không? Nhìn xem, các cơ bắp của nó không hề tiết độc tố!
Vô Phong nhún vai không hiểu gì. Hỏa Nghi giải thích:
-Khi vận động, cơ thể sẽ tiết ra một loại độc tố khiến con người mỏi mệt. Luyện tập cơ bắp hay tăng cường thể lực chính là giảm bớt sự tiết ra chất này. Nhưng Diễm Tà hoàn toàn khác, cơ thể cô ta không hề sản sinh độc tố. Nói cách khác, ả là một cỗ máy sở hữu nhiên liệu vô tận.
Tên tóc đỏ lắp bắp:
-Không… cái gì cơ? Không mệt mỏi? Đùa tôi à?
-Tôi hỏi công chúa rồi. Ả đã cõng công chúa đi khắp đất chết suốt một ngày, vậy mà lên đỉnh Hoành Sơn, ả vẫn khỏe như vâm! Rõ ràng đó không phải con người, chỉ Ngục Thánh mới sở hữu năng lực đó.
Diễm Tà không có bí kỹ hay phép thuật, tất cả chỉ nhờ sức mạnh thể lực cùng tinh thần vượt trội. Cô ta là một cỗ máy chiến đấu, một hình ảnh chân thực nhất về chiến binh tộc Ngục Thánh. “Chẳng trách năm đế chế cổ đại khi xưa khiếp sợ bộ tộc ấy đến thế!”. – Vô Phong nghĩ thầm. Tuy nhiên, Hỏa Nghi không tìm được bằng chứng nào cho thấy Diễm Tà có thể sống lâu dài như người Lạc Việt. Thân thế cô ả vẫn là điều bí ẩn.
Hỏa Nghi tiếp lời:
-Nhưng không riêng Diễm Tà đâu, còn một Ngục Thánh khác tồn tại ngay trước mũi chúng ta.
Nói đoạn hắn mở tập tài liệu cùng hình ảnh mới. Vẫn là tế bào bảy mạch phân khúc song cách sắp xếp khá phức tạp, không cùng một dạng với Vô Phong hay Diễm Tà. Tên tóc đỏ phóng to tài liệu rồi đọc:
-“Chữa lành vết thương, phục hồi thể trạng”… đặc điểm của tế bào này hả? Khoan… hình như…
-Đúng người cậu đang nghĩ đấy! Tàn Thi, hắn là một Ngục Thánh. Cấu tạo tế bào giúp hắn chữa lành mọi thương tổn trên cơ thể. Thương thế nặng cỡ nào hắn cũng chữa khỏi. Điểm hạn chế là hắn chỉ có thể cứu người khác, không thể tự cứu mình.
Mỗi lần cứu người, Tàn Thi mất đi một lượng tế bào để bù đắp vết thương. Ví như cứu Tiểu Hồ, hắn đã mất máu cùng nội tạng nên phải gánh chịu vết thương của nàng. Ngược lại, do nhận được tế bào bổ sung, Tiểu Hồ nhanh chóng hồi phục. Xét khía cạnh nào đó, hắn giống anh em họ Lôi ở khả năng sao chép. Khác biệt ở chỗ anh em họ Lôi sao chép bí thuật, còn hắn chuyên sao chép bệnh tật. Vì sở hữu khả năng đặc biệt, gã được kết nạp vào Thổ Hành. Tuy nhiên, Tàn Thi rất hạn chế sử dụng năng lực chữa trị vì vết thương của người khác càng nặng, gã càng đau đớn, thậm chí vong mạng. Thân thể chằng chịt vết mổ vết khâu của gã là minh chứng. Để chống chọi những cơn đau, Tàn Thi đã dùng rất nhiều thuốc gây tê. Hỏa Nghi nói:
-Dùng nhiều thuốc gây tê chẳng hay ho chút nào, nó tổn hại cơ thể kinh khủng! Tôi đoán thằng cha đó giỏi lắm sống thêm chục năm nữa thôi!
Việc cấy ghép chỉ mang tính thử nghiệm. Theo lời Hỏa Nghi, từ giờ đến mai, con chuột mang tế bào của Diễm Tà sẽ chết. Tế bào Ngục Thánh rất khó dung hợp, nó giải thích tại sao trong cuộc thí nghiệm hai mươi năm trước, chỉ có mười người sống sót. Hiện đã xác định được bốn người: Vô Phong, Liệt Trúc, Diễm Tà và Tàn Thi; sáu người còn lại đang quanh quẩn đâu đó trên thế giới hay đã chết, không ai biết.
Hỏa Nghi tắt máy chiếu ba chiều rồi lôi ra một ống trụ dài đựng chiếc đĩa vàng. Chiếc đĩa vẫn an toàn và không ai biết sự tồn tại của nó, ngoài Vô Phong và Hỏa Nghi. Tên tóc đỏ vỗ trán thốt lên:
-Vạn Thế ơi! Tôi đã định hỏi ông già Lộc Tục về cái thứ chết tiệt này mà quên béng mất!
Hỏa Nghi nhếch mép giễu cợt:
-Tôi hỏi trước rồi! Tôi biết không thể trông chờ cái đầu chỉ có “tông túa” với “thú dữ” mà!
Tên tóc đỏ gãi gãi tai đoạn hỏi:
-Có được kết quả gì không?
Hỏa Nghi gật đầu. Vào ngày cuối cùng ở ngôi làng Lạc Việt, hắn đã gặp riêng Lộc Tục để hỏi về chiếc đĩa vàng. Kết quả nằm ngoài mong đợi song nảy sinh vô số vấn đề; thành thực mà nói, Hỏa Nghi bắt đầu lo sợ nhiều hơn là tò mò.
*
* *
-Tôi sẽ tập trung vấn đề ngay, thưa ngài! Ngài có thể không trả lời nếu không thích hoặc không biết, và hãy coi như chưa từng có cuộc nói chuyện này. Rất hệ trọng và nguy hiểm, mong ngài hiểu!
Lộc Tục bật cười trước lời lẽ đậm chất rào trước đón sau của gã trai trẻ. Nhưng khi Hỏa Nghi chìa ra bức ảnh chụp chiếc đĩa vàng, gương mặt ông già quau lại như một khối thép nung ngâm vào nước lạnh. Lộc Tục thì thào:
-Cậu lấy đâu ra thứ này?
-Vậy là ngài biết nó. – Hỏa Nghi cười – Tôi đã từng hỏi Hrdaya, tộc trưởng Đà Ma về nó. Ông ấy bảo rằng hãy tìm Kinh Dương Vương, người “anh cả” trong ba vị thủ lĩnh. Hrdaya nói ông không thuộc về tôn giáo nào cả nên có thể giải đáp tường tận (*).
Hỏa Nghi kể sơ qua cuộc đối thoại giữa hắn và Hrdaya, không quên gửi lời hỏi thăm của vị tộc trưởng Đà Ma tới Lộc Tục. Hắn cũng thuật lại chuyện Vô Phong tìm thấy cái đĩa ra sao (tất nhiên không đả động gì về thân phận thật của Vô Phong lúc đó). Nghe xong, Lộc Tục chống cằm ngẫm nghĩ, sau buột miệng cảm thán:
-Bánh xe số phận đang xoay chuyển.
-Hrdaya cũng nói như vậy. Nhưng làm ơn, hãy nói một cách cụ thể, dễ hiểu, dễ nuốt! Những ông già như các ngài luôn khiến người khác xoay mòng mòng!

Lộc Tục cười nhạt. Ông già gõ gõ ngón tay gầy guộc lên đầu gối rồi thở dài:
-Ta biết chiếc đĩa, dù chưa hiểu tường tận. Ta có thể trả lời. Nhưng hãy nhớ, số mạng cậu và gã tóc đỏ đã gắn với chiếc đĩa vàng, không cách nào thoát ra được.
-Vậy chiếc đĩa đem lại nguy hiểm gì cho ông?
-Vài lần, và hiện giờ nó vẫn đeo bám ta. Chiếc đĩa xuất hiện trước mắt ta trực tiếp hoặc gián tiếp, bức ảnh này là ví dụ. Nếu sau này đánh mất chiếc đĩa hoặc để nó vào tay kẻ khác, cậu vẫn sẽ gặp lại nó.
-Nói vậy… tôi sẽ phải trả giá hay cái gì đại loại thế?
-Không hẳn, nhưng hãy cẩn thận.
Ông già lôi ra một ống điếu, châm lửa vào ngọn bấc trên thân ống rồi ghé miệng hút một hơi xòng xọc. Khói thuốc nghi ngút lởn vởn như mây, ông già mở lời:
-Hrdaya từng nói cho cậu nghe về cái gọi là Quy Tắc, đúng không (**)? Phải, chúng ta đang sống trong một quy tắc: có sinh, có diệt. Con người sinh ra tất phải chết đi, một triều đại cũng thế, một thế giới cũng vậy. Thế giới con người phải đi tới sự kết thúc.
-Hrdaya nói chiếc đĩa là vật thay thế “điểm khởi đầu” và “điểm kết thúc” trong Quy Tắc. Tôi không hiểu!
Lộc Tục trầm ngâm:
-Cậu có hiểu thuật ngữ “nền văn minh bị lãng quên” không?
Câu hỏi của ông già làm Hỏa Nghi hơi tự ái. Học thuyết ấy tuy phức tạp nhưng đại đa số người có thể hiểu một cách căn bản. Những “nền văn minh bị lãng quên” thường để lại vài di chỉ trên đại lục song không rõ nguồn gốc; các tài liệu về thế giới đó rất ít hoặc chưa đủ cơ sở chứng minh nó có thật. Năm đế chế cổ đại thuộc dạng như vậy, mặc dù còn nhiều di chỉ hay tài liệu ở Sơ Khởi thành song người đời mới chỉ nắm được bề ngoài chứ chưa hiểu tường tận thời đại đó. Nghe hắn kiến giải, Lộc Tục gật gù:
-Đúng rồi đấy, anh bạn trẻ. Cậu vẫn nghe Thánh Vực nói rằng vì năm đế chế gây quá nhiều chiến tranh, Vạn Thế đã trừng phạt bọn họ, phải không? Nhưng thực ra, đó chỉ là sự vận động của Quy Tắc. Con người được sinh ra, đó là “khởi đầu”, con người tạo ra nền văn minh năm đế chế cổ và phát triển tới cực hạn, đó là “kết thúc”. Sự hủy diệt của Vạn Thế chẳng qua là một cách ẩn dụ quy trình này, hoặc ai đó cố tình tạo ra truyền thuyết nhằm nâng tầm ảnh hưởng của Vạn Thế. Kỳ thực, cái cây khổng lồ ấy chẳng hủy diệt ai và chẳng tạo ra ai hết.
-Thần Thiên Phạn cũng vậy?
-Phải. Vạn Thế có thật, Thiên Phạn có thật, những thực thể ấy đều sở hữu sức mạnh lớn. Nhưng chúng không phải “khởi đầu” hay “kết thúc” gì hết, chỉ là con người cố tình nhân cách hóa thôi.
-Vậy cái đĩa liên quan gì tới “khởi đầu”, “kết thúc” và “nền văn minh bị lãng quên”?
-Quy Tắc như một cỗ máy, nó hoạt động theo lịch trình và chúng ta không thể biết sự “kết thúc” diễn ra khi nào. Để bảo vệ giống nòi, con người đã đi trước một bước. Họ tạo ra một thứ "kết thúc" hoàn toàn khác, nói nôm na là “kết thúc nhân tạo” hay "kết thúc" giả. Bằng cách đó, Quy Tắc thay đổi lịch trình hoạt động, sự “kết thúc” thật bị đẩy ra xa hơn so với dự kiến, các nền văn minh mới được tạo ra mà con người vẫn giữ gìn được nòi giống.
Hỏa Nghi nhăn trán ngẫm nghĩ đoạn lấy một tờ giấy, vẽ một đường thẳng rồi khoanh tròn hai đầu, gọi là A và B. Hắn nói:
-Tôi gọi sự “khởi đầu” là A, “kết thúc” là B, đường thẳng là nơi con người cùng nền văn minh tồn tại. Nếu có một “kết thúc nhân tạo” xuất hiện trên đường thẳng, điểm B sẽ bị đẩy lùi ra xa, đúng không? Các nền văn minh vì thế có thể tồn tại liên tục?
Lộc Tục gãi gãi chòm râu, gật gù:
-Nghe đồn dòng họ Hỏa ở Phi Thiên toàn quái vật, quả không sai! Nhưng đây là bề nổi của Quy Tắc, bởi lẽ chúng ta sống trong một thế giới đa chiều chứ không phải một đường thẳng.
-Vậy cái thứ có thể tạo ra “kết thúc”… là chiếc đĩa vàng?
-Phải. Nó – chính xác là thứ do con người tạo ra. Chiếc đĩa sẽ hủy diệt nền văn minh; hàng tỷ người sẽ chết, chỉ một số được giữ lại để tiếp tục duy trì nòi giống.
Hỏa Nghi ngẩn người. Hàng tỷ người bị hiến tế cho sự tồn tại của một nhóm người? Nghe giống một câu chuyện viễn tưởng kinh dị. Hắn nhún vai cười:
-Thực sự… tôi không tin lắm… ông có gì chứng minh không?
-Như Hrdaya từng nói, ba thủ lĩnh chúng ta từng chiến đấu ở những nơi không thuộc thế giới thực (***). Nói nôm na là chúng tồn tại ở không gian khác, giống như mảnh đất của Vạn Thế. Có khá nhiều chiều không gian như vậy đang tồn tại song song với thế giới của chúng ta.
Ông già ngừng nói đoạn vớ ống điếu hút một hơi xòng xọc rồi tiếp lời:
-Các không gian tồn tại trong một vùng tổng thể, chính là Quy Tắc. Nó như một dòng sông đưa đẩy không gian qua lại. Không thứ gì có thể tồn tại trong Quy Tắc, ngoại trừ một con quái vật. Ta không biết nó sinh ra như thế nào hay đến từ đâu, chỉ biết nó sở hữu sức mạnh khủng khiếp. Không, không từ gì mô tả nổi! Một ngàn năm trước, vài kẻ có dã tâm đã sử dụng chiếc đĩa vàng triệu hồi con thú ấy từ Quy Tắc đến thế giới này. Nhờ may mắn, chúng ta đã đẩy lùi được nó. Con quái vật không có danh xưng, vì vậy chúng ta đặt tên nó là Khổng Thú.
Hỏa Nghi chớp chớp mắt, sau nói khẽ:
-Nói với tôi ông đang đùa đi ?!
-Sự thật đấy, anh bạn trẻ! Con Khổng Thú chỉ cần nhấc tay là bứng Vạn Thế bật gốc. Bằng cách dùng chiếc đĩa triệu hồi Khổng Thú, con người mượn sức con quái vật để tạo ra những sự “kết thúc” giả nhằm đẩy xa sự “kết thúc” thật. Ta đoán năm đế chế cổ đại bị diệt vong theo cách này.
Hỏa Nghi cấm khẩu chẳng thốt nổi lời nào. Đến giờ, hắn mới hiểu tại sao Hrdaya lại khuyên mình nên tìm Lộc Tục. Câu chuyện của ông già đi ngược lại hoàn toàn sự hiểu biết của hắn về thế giới này. Ngẫm lại, sau cuộc chiến chống Quỷ Vương một nghìn năm trước, người đời chỉ biết Bát Đại Hộ Vệ chứ không hay ba vị thủ lĩnh. Bởi lẽ những người như K’jun, Hrdaya hay Lộc Tục đã biết bản chất của thế giới. Có chăng, Hrdaya và K’jun mắc phải vấn đề niềm tin nên không bao giờ trả lời thẳng thắn như ông già Lộc Tục.
-Đôi khi, sự thật nên được che giấu. – Lộc Tục mỉm cười – Vũ trụ có Quy Tắc, con người có luật lệ. Chừng nào con người còn tin Vạn Thế hay thần hủy diệt, thế giới vẫn bình yên.
-Nhưng rồi một lúc nào đấy, sẽ có người triệu hồi Khổng Thú và đem đến sự “kết thúc”? – Hỏa Nghi hỏi.
-Có lẽ thế. Hoặc… ờm, tương lai là một thứ thật mơ hồ, nhưng ta nghĩ mọi chuyện có thể sẽ khác. Dự cảm thôi, đừng tin!
-Vậy có cách nào để vô hiệu hóa chiếc đĩa vàng?
-Chính là công việc các cậu đang làm: tiêu diệt Quỷ Vương. Chúng là nguồn sức mạnh kích hoạt chiếc đĩa.
*
* *
Nghe chuyện, mặt Vô Phong dài ra như cái bơm. Hắn không nghĩ trên đời tồn tại Khổng Thú hay con người tự kết thúc thời đại bằng cách tự hủy diệt mình. Sự nhận thức của hắn về thế giới thực tại bắt đầu thay đổi.
-Thế giới chẳng thay đổi gì hết. – Hỏa Nghi nhún vai – Nhiều người phải chết cho giấc mơ của một số ít người. Chúng ta phải chấp nhận thôi, bạn của tôi!
-Vậy chúng ta làm gì với cái đĩa? – Vô Phong hỏi.
Hỏa Nghi lục lọi đồ đạc, lôi ra một ống điếu màu bạc – món quà của ông già Lộc Tục, người Lạc Việt gọi nó là “điếu cày”. Thấy vật này phát ra âm thanh vui tai, lại nghe Lộc Tục nói rằng hút điếu cày làm “mát gan bổ phổi” nên Hỏa Nghi xin về. Hắn nhét một mớ bùi nhùi màu rơm lên ngọn bấc rồi châm lửa đốt, cái điếu lọc xọc tiếng bọt nước vỡ. Hắn nói:
-Trước mắt cứ giữ nó lại, biết đâu có lúc hữu dụng. Nhưng đừng nói cho Tiểu Hồ nhé! Phụ nữ biết nhiều chuyện không tốt chút nào!
Hỏa Nghi thở khói đục ngầu mang theo mùi vừa hắc vừa nồng. Tên tóc đỏ ngửi thấy liền ho sặc sụa. Khói tan, bản mặt Hỏa Nghi dần ngây ngốc hệt kẻ thiểu năng trí tuệ. Vô Phong vỗ vai hắn:
-Sao thế? À mà tôi quên chưa hỏi, quan hệ giữa cậu và Quạ Đen là thế nào vậy? Cậu biết ả, đúng không?
-À, à… – Hỏa Nghi nói đứt quãng – …thực ra… ngày xưa ấy… he he he, thực ra là…
Nói chưa hết câu, Hỏa Nghi đổ oạch xuống, mắt nhìn trần, mồm vẫn ngoác ra cười. Hắn vừa rơi vào trạng thái “say thuốc” – cảnh thưởng gặp ở những người lần đầu hút “điếu cày”. Vô Phong lầm tưởng Hỏa Nghi lên cơn đột quỵ, liền gào toáng lên:
-Này, này! Sao thế hả? Bác sĩ, bớ bác sĩ, có người chết!
 
Quyển 2 - Chương 65: Bầu trời mới


Hỏa Nghi mất nguyên một ngày mới tỉnh lại sau cơn say thuốc. Chưa bao giờ hắn cảm giác cái chết ở gần mình đến vậy, tưởng như linh hồn sắp có chỗ ở Tụ Hồn Hải. Thứ cảm giác say này quá đáng sợ, say rượu hay say sóng chẳng thể sánh bằng. Chiếc điếu cày ngay lập tức được chuyển sang chức năng trang trí phòng ốc; cho cả núi tiền, Hỏa Nghi cũng không dám thử cái thứ “mát gan bổ phổi” này lần hai.
Đợi Hỏa Nghi thực sự tỉnh táo, Vô Phong khơi lại câu hỏi hôm trước về Quạ Đen. Ậm ừ chán chê, hắn mới lòi ra Quạ Đen từng là người của dòng họ Chiến Tử. Hồi bé, Hỏa Nghi thường qua lại khuôn viên gia tộc Chiến Tử và tình cờ gặp một cô gái hơn tuổi tên Chiến Ca – người mà hắn gọi là “chị” suốt thời gian dài. Quan hệ giữa hai người khá tốt đẹp cho tới khi dòng họ Chiến Tử tiến hành đảo chính, Chiến Ca cũng tham gia. Cuộc đảo chính thất bại, dòng họ tan tác, kẻ bị xử tử người bị bỏ tù. Chiến Ca mất tích trong trận chiến còn Hỏa Nghi nghĩ cô ta đã chết. Hắn chẳng ngờ người chị năm nào vẫn sống và ẩn thân dưới cái tên Quạ Đen.
-“Chị” à? Hồ hồ hồ, nghe hay đấy! – Vô Phong gãi cằm nhăn răng cười đểu – Ngày xưa cậu không có thằng bạn đực rựa nào nên mới bám váy bà chị đáng sợ đó, đúng chứ hả?
Hỏa Nghi nhún vai:
-Trước đây, Chiến Ca rất khác. Cô ta như người chị ruột sẵn sàng nghe đứa em ngô nghê như tôi phàn nàn về mọi thứ. Nhưng thời gian thay đổi con người nhiều quá!
Với Hỏa Nghi, Quạ Đen – Chiến Ca chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng hắn. Nhưng đặc biệt ra sao, Vô Phong không truy vấn thêm. Vấn đề này nằm trong phạm trù kiến thức cao siêu mà tên tóc đỏ không thể hiểu.
Những ngày sau đó, Vô Phong tìm cách để gặp gỡ Tàn Thi, hắn muốn làm rõ vấn đề Ngục Thánh. Sang ngày thứ ba, Vô Phong tìm được gã này đang một mình lụi hụi trong phòng y tế. Không bỏ qua cơ hội, hắn liền hỏi chuyện ngay. Ban đầu gã bác sĩ Thổ Hành né tránh không trả lời, nhưng khi tên tóc đỏ chìa ra tấm ảnh phân tích mẫu máu, gã im lặng. Vô Phong còn trích máu tại chỗ rồi đem ra máy phân tích nhằm chứng minh rằng hắn và Tàn Thi đều thuộc một dạng “quái thai không thể giải thích”. Như được giải tỏa, Tàn Thi bèn nói ra những bí mật mà gã dự định sẽ chôn chặt dưới nấm mồ.
Hơn hai mươi năm trước, Tàn Thi là dược sĩ quân y của Lãng Sa – một đất nước thuộc lục địa Kim Ngân. Phục vụ quân ngũ vài năm, gã được phép giải ngũ vì sức khỏe kém. Trở về cuộc sống bình thường, gã tiếp tục công việc y tế cùng khoản thu nhập còm cõi. Thời ấy, Lãng Sa khủng hoảng kinh tế, người dân luôn kháo nhau về miền đất hứa Phi Thiên quốc, do vậy nạn di cư bất hợp pháp thường xuyên xảy ra. Tàn Thi lên chuyến tàu vượt biển với mong ước tìm thấy một cuộc sống đủ đầy. Gã vượt biên thành công nhưng sớm nhận ra viễn cảnh đen tối tại miền đất hứa. Không giấy tờ tùy thân, Tàn Thi đành làm việc chui lủi cùng tiền công rẻ mạt. Đáng tiếc, tiền chưa thấy đâu, gã đã bị bắt vì tội nhập cư trái phép. Sau hôm đó, gã có hai bữa ăn mỗi ngày, có quần áo để mặc – một cuộc sống đủ đầy sau song sắt nhà tù.
Cùng thời điểm ấy, Hội đồng pháp quan khởi động kế hoạch Ngục Thánh. Hàng ngàn tù nhân vô lai lịch bao gồm Tàn Thi bị đẩy vào cuộc thí nghiệm. Gã may mắn sống sót, trở thành một trong mười bản thể Ngục Thánh. Tàn Thi nói rằng gã dường như đã ngủ một giấc rất dài, mười năm sau mới tỉnh. Khi tỉnh, gã nhận ra mọi chuyện đã thay đổi quá nhiều. Vô Phong đoán rằng cơ thể Tàn Thi đã “đóng băng” giống hắn và cô bé Liệt Trúc. Hiện thời gã gần ba mươi tuổi, nhưng nếu tính cả thời gian “đóng băng”, Tàn Thi là một gã trung niên ngấp nghé ngũ tuần. Hội đồng pháp quan trực tiếp đào tạo y thuật cho Tàn Thi. Đáng lẽ, gã đã gia nhập trung đội Thổ Hành của Mãnh Hổ, nhưng vì thời gian học tập y thuật rất dài nên gã gia nhập Thổ Hành đời sau, tức là trung đội hiện tại của Hắc Hùng. Tàn Thi chẳng hề biết bản thân là Ngục Thánh, dù gã luôn cảm giác mình khác người.
Nghe chuyện của Tàn Thi, tên tóc đỏ chợt nhớ cuộc đối thoại với Lục Thiên ở Đại Hội Đồng. Lục Thiên từng nói Hội đồng pháp quan chỉ giữ được hai Ngục Thánh sau cuộc đột kích của Liệt Giả, một là Ngục Thánh 117 – tức Vô Phong, người còn lại là Ngục Thánh 357 (*). Vô Phong khẳng định người này chính là Tàn Thi. Nếu chẳng phải thời gian học tập y thuật quá lâu, rất có thể Tàn Thi và hắn đã cùng một đội. Nhưng Tàn Thi lại chẳng biết gì về trung đội tiền nhiệm bởi khi đó, hắn chẳng mấy dịp tiếp xúc thế giới bên ngoài.
Quá khứ của Vô Phong chung quy vẫn khá mịt mờ. Tên tóc đỏ ngửa mặt thở dài. Con người thường tự hỏi sau này mình sẽ ra sao, riêng hắn tự hỏi trước đây mình như thế nào? Đám đông vồn vã chạy tới tương lai, riêng hắn vướng bận với quá khứ. Hiểu được cảm giác của hắn, Tàn Thi nói:
-Chúng ta… cậu gọi là gì nhỉ? À, Ngục Thánh! Những kẻ như chúng ta đều lạc lõng giữa thế giới này. Nhưng cậu biết đấy, thời gian cứ chạy thôi, quá khứ thì vẫn mãi là quá khứ, nó chẳng hiện ra giữa hiện tại hay tương lai được.
-Ông bạn chắc vẫn còn người thân hay gia đình chứ? Chẳng lẽ cậu không nhớ chút gì về họ? Lẽ nào cậu chưa từng nghĩ cách quay về gặp họ?
Tàn Thi cười:
-Đôi lúc! Nhưng tôi may mắn hơn những người khác trong đội, tôi chỉ có một mình. Tôi là con út trong một gia đình mười anh chị em, cha mẹ đưa tôi vào quân đội để bớt miệng ăn, thế nên tôi ra đi, chắc họ cũng không buồn phiền nhiều. Tôi đã từng có một vị hôn thê, nhưng cô ấy ngập ngừng trả lời nước đôi khi tôi ngỏ lời cầu hôn. Giờ vị hôn thê của tôi có thể đã là một quý bà giàu sang với những đứa con xinh đẹp đúng theo mong muốn của cô ấy. Rồi sao chứ? Tôi quay về Lãng Sa quốc chỉ để gặp họ thôi ư? Không, tôi ngày nay đã không còn là tôi của ngày xưa nữa, quá khứ đã chết, giấc mơ ngày xưa cũng chết lâu rồi! Nhìn vào hiện tại, rồi cậu sẽ tìm ra giấc mơ mới.
-Vậy cậu đang theo đuổi cái gì? – Vô Phong hỏi.
-Chắc cậu biết thể trạng của tôi chỉ sống được thêm vài năm nữa. Từ giờ đến ngày chết, tôi muốn mỗi ngày mình là kẻ có ích. Tôi sẽ cứu được ai đó, cứu được giấc mơ còn dang dở. Tôi đã cứu công chúa, Tiểu Hồ, cứu cả cậu, như vậy không hay sao? Hẳn cậu cũng có giấc mơ chứ?
Tàn Thi cười tươi. Khó mà nghĩ một kẻ sở hữu cơ thể chằng chịt vết thương chưa liền miệng, vết mổ mới khâu có thể cười thoải mái như vậy. Trong mắt gã hoàn toàn không có dấu hiệu tuyệt vọng, hoặc gã đã tuyệt vọng rất nhiều nhưng lại đứng lên từ vũng lầy. Gã vỗ vai tên tóc đỏ:
-Dù sao, tôi cũng cảm ơn.
-Cảm ơn cái gì?
-Tôi đã có bạn, có người đồng cảnh ngộ.
Vô Phong cười rần. Tàn Thi không còn là gã nhỏ thó miệng hến như mọi khi nữa.
Khoảng ba ngày sau, Thần Sấm đã tới lãnh hải của lục địa Kim Ngân. Phi thuyền hạ cánh trên mặt biển thay vì cập bến Âm Giới quốc như lịch trình. Thuyền trưởng Nhất Long nói rằng công chúa nên đợi một thành viên Thổ Hành trở về. Ngài bàn chải khẳng định nếu người này đi cùng, công chúa sẽ an toàn tuyệt đối trên đất Kim Ngân.
Bằng thuật bói toán, Lộc Tục dự đoán Ác Lạc Điểu đã tới lục địa Kim Ngân. Nhưng cụ thể là ở đâu thì ông già không biết. Tuy nhiên, Lục Châu tin rằng con quái thú chắc chắn phải bay qua đất nước Âm Giới. Lục địa Kim Ngân nằm phía dưới Đông Thổ và được ngăn cách bởi một đại dương rộng lớn. Ở trận chiến trên đỉnh Hoành Sơn, Ác Lạc Điểu bị thương nặng nên khó lòng bay xa. Âm Giới nằm ở ven biển, lại gần Đông Thổ nhất nên nhiều khả năng con quái thú đang ẩn náu đâu đó ở đây. Nhưng chỉ dựa vào vài người thì khó lòng tìm ra Ác Lạc Điểu, công chúa buộc lòng phải nhờ cậy Hội đồng pháp quan. Nàng chưa bao giờ muốn liên hệ đám người bí ẩn đó dù mang thân phận con gái hoàng đế. Đáp lại công chúa, Hội đồng đã triển khai mạng lưới tình báo lẫn đội bảo vệ ngầm tới Kim Ngân lục địa. Hội đồng pháp quan không hề thông báo bất cứ tin tức gì cho chính phủ Âm Giới, tránh trường hợp quan chức Xích Quỷ để rò rỉ tin tức như lần trước.
Lục Châu vẫn chưa quyết định những người đi cùng mình, nhưng một điều chắc chắn là Mai Hoa không tham gia. Gã này chưa liệt nửa người vì cú đấm của Diễm Tà nhưng trong một tháng tới, gã chẳng thể làm gì ngoài việc bẹp dí trên giường. Hôm qua, Vô Phong đi thăm gã, hỏi han vài câu vu vơ và chúc gã mau khỏe. Kỳ thực hắn chỉ mong thằng bốn mắt đồng bóng này liệt hẳn cho rảnh nợ. Bị một con cú vọ truy hỏi và lẵng nhẵng bám theo cả ngày, thực tình ai cũng muốn vặt lông con cú.
-Bộ anh không nghĩ được cái gì hay ho hơn à? Rủa người khác bại liệt, coi chừng mình lết chân không nổi đó!
Tiểu Hồ vừa nói vừa vỗ đầu tên tóc đỏ chan chát. Vô Phong nghiến răng:
-Đau! Sao đánh tôi? Mà cô đang ngồi trên lưng tôi đấy nhé, muốn tôi hất xuống không hả?
Hắn gồng sức chống đẩy, hai cánh tay nổi chằng chịt cơ gân. Tập luyện lâu ngày, cơ thể hắn bắt đầu ra dáng một gã trai lực lưỡng thay vì thằng ma cô gầy rúm gầy rít như cái bị rách thuở nào. Tiểu Hồ nhìn mái tóc đỏ, sau chống cằm hỏi:
-Tại sao anh không nói?
-Nói cái gì?
-Chuyện của anh. Cuộc thí nghiệm hai mươi năm trước, Ngục Thánh, mọi thứ… Hỏa Nghi kể cho tôi nghe cả rồi.
“Thằng khốn Hỏa Nghi! Thế mà nó dám bảo không nên bép xép trước mặt đàn bà!” – Vô Phong lẩm bẩm chửi rủa. Hắn im lặng thực hiện nốt bài tập chống đẩy, thái dương ướt đẫm mồ hôi. Thứ mồ hôi này không phải vì mỏi mệt mà xuất phát từ sự mặc cảm thân phận. Tiểu Hồ vỗ đầu tên tóc đỏ lần hai:
-Sao cà tẩm thế? Cái miệng hay xỉa xói người khác của anh đâu rồi? Sao không nói với tôi? Làm mặt rầu rĩ mà không mở miệng, khác nào đánh đố người ta chứ?
Vô Phong cười nhạt:
-Nói thì hay lắm! Nếu cô là tôi, cô muốn kể cho người khác nghe không?
Tiểu Hồ cong môi, cái đầu hơi đung đưa theo những dòng suy nghĩ, lọn tóc dài quết qua quết lại trên mái đầu đỏ của Vô Phong. Cô gái đáp lời:
-Tại sao không chứ? Tôi có công chúa, tôi có Hỏa Nghi, nếu cần thiết, tôi có thể kể cho cả cha nuôi (**)! Họ là một phần cuộc đời tôi, họ là những người mà tôi tin tưởng. Anh giữ khư khư nỗi buồn ấy làm gì? Bộ anh không có người để tâm sự? Bộ anh không tin tưởng ai cả? Đối với anh, tôi là thế nào chứ? Xác chết thì làm sao? Bây giờ anh đang hoạt động, lắm mồm và háu ăn, xác chết đâu ra?
Vô Phong không trả lời nhưng trong lòng khấp khởi. Rõ ràng Tiểu Hồ chẳng quan trọng quái gì chuyện hắn là xác chết hay không. Và Vô Phong thầm cảm ơn nàng vì điều đó. Nếu có một ngày, cả thế giới này nhạo báng thân phận thực sự của hắn, hắn cũng không quan tâm. Chỉ cần Tiểu Hồ vẫn nhìn hắn như một gã tóc đỏ “cà tẩm”, nó có nghĩa là thế giới vẫn chưa sụp đổ, nó có nghĩa rằng hắn không hề cô độc.
Người ta có thể sống với cô đơn, nhưng không thể chịu được cô độc.
Tiểu Hồ cúi người xuống tựa cằm lên đỉnh đầu gã tóc đỏ. Nàng hỏi:
-Nói coi, đối với anh, tôi là thế nào?
Vô Phong vẫn im lặng. Tiểu Hồ bèn trườn người lên rồi thò đầu xuống nhìn hắn, mái tóc vàng xõa ra như tấm màn mỏng che ánh hoàng hôn, nắng lọt qua khe tóc chiếu từng sợi nắng lên gương mặt gã tóc đỏ. Cô gái nâng cằm hắn sao cho ánh mắt hắn chạm ánh mắt của mình, đoạn nói:
-Nhìn thẳng tôi rồi trả lời xem nào!
-Tôi gãy cổ mất! Nặng quá! Xuống! – Vô Phong gắt.
-Không! – Tiểu Hồ lắc đầu nguầy nguậy – Trả lời trước đã!
Đối với hắn, Tiểu Hồ là gì?
Đã bao lâu rồi hắn với Tiểu Hồ chưa từng nói chuyện thân mật thế này? Có lẽ nó phải dài hàng thế kỷ. Những cảm giác dưới cơn mưa ở Sơ Khởi thành ùa về, những bước nhảy chộn rộn khắp cõi lòng hắn. Có lẽ đó là phút giây vui nhất cuộc đời hắn.
-Một người bạn. – Vô Phong đáp – Có một người bạn “thú dữ” như cô, tôi rất cảm ơn!
Tiểu Hồ mím môi, lông mày võng hình cánh cung như đang chờ đợi Vô Phong đính chính lại lời nói. Nhưng dường như đó là câu trả lời cuối cùng, nàng nhắm tịt mắt, mái tóc rũ xuống một cách bất lực. Cô gái vỗ đầu hắn:
-Bao giờ anh mới hết “cà tẩm” đây, Phong?
Nói rồi Tiểu Hồ rời khỏi lưng Vô Phong, miệng thở phù phù, đôi tay rối rít như muốn đập tên tóc đỏ một trận cho bõ tức. Quả thực trong mắt Vô Phong, nàng chẳng khác gì một thằng con trai hiếu động. Vả lại với vấn đề tâm lý phụ nữ, tên tóc đỏ là con gà tồ thuần chủng, tuyệt đối không lai tạp bất cứ loài gà nào khác. Dù vậy, Tiểu Hồ vẫn phần cho hắn một chiếc bánh ngọt mà nàng tự tay làm hồi trưa. Riêng khoản này, hắn thấy Tiểu Hồ thật dễ thương và nữ tính. Nói chung ai làm hắn no bụng, hắn đều thấy người đó dễ thương và nữ tính hết, kể cả lão Lập ở Phi Thiên thành.
Đang mải ăn, Vô Phong chợt thấy ánh mặt trời đỏ rực nơi chân trời. Hoàng hôn là một cái gì đó thật kỳ lạ, nó khiến người ta buộc phải ngắm nhìn ít nhất một lần trong đời. Hắn bèn theo thang máy lên mái phi thuyền. Nhưng khi đến nơi, hắn nhận ra một người khác đã ở đây từ trước. Trời mênh mông vời vợi những suy nghĩ, biển thăm thẳm ăm ắp những tâm sự; người nọ ngồi thu mình trước hoàng hôn, nhỏ bé chơi vơi ở khoảng không giữa trời và biển, vết bóng lẻ loi đổ dài dưới nắng tàn. Vô Phong liền bước tới rồi nhăn răng cười:
-Hiếm khi thấy cô rảnh rỗi như vậy đấy, công chúa!
Lục Châu quay sang mỉm cười với hắn. Nàng trông về đằng xa, những váng nắng vàng vọt khẽ rung trong đôi mắt. Công chúa cười:
-Đẹp quá, phải không?
Vô Phong ngồi xuống tận hưởng cảnh đẹp, tâm hồn thả theo gió. Hắn vui, nhưng công chúa thì không. Bầu trời của hắn mang hương vị tự do, bầu trời của công chúa trĩu nặng trách nhiệm. Hai thế giới quá khác biệt.

Tên tóc đỏ chợt lên tiếng:
-Tôi ngồi gần công chúa được không?
Lục Châu không hiểu ý hắn. Vô Phong bèn nhích mông lại gần rồi hỏi:
-Gần hơn nữa, được không?
Lục Châu mỉm cười. Tên tóc đỏ xê xích mông thêm một quãng, lúc này hắn và công chúa chỉ còn cách nhau một cái tựa đầu lên vai. Vô Phong hỏi tiếp:
-Gần hơn nữa nhé?
-Gần cỡ nào nữa?
-Khi Chiến Tử nóng mắt và luộc chín tôi ngay lập tức.
Công chúa cười ngất. Mỗi lần gặp Vô Phong, nàng luôn tìm thấy niềm vui. Bất quá nét tươi tắn trên gương mặt nàng chẳng kéo dài được lâu, nó nhanh chóng nhường chỗ cho sự lo lắng. Tâm trí nàng đang rối ren giữa Quỷ Vương và Bạch Dương đệ thập. Trước mặt mọi người, nàng luôn khẳng định Ác Lạc Điểu là Quỷ Vương, nhưng kỳ thực, công chúa nghi ngờ quyết định của mình hơn ai hết. Là người cẩn thận, Lục Châu đã tính tới khả năng cha mình là Quỷ Vương, song nếu viễn cảnh ấy xảy ra, nàng chỉ biết bó tay phó mặc số phận đưa đẩy.
Hoàng hôn dần tắt, mái phi thuyền Thần Sấm đẫm sắc nắng tàn vàng đỏ. Hai con người vẫn hành xử như cái cách họ vẫn làm khi đối mặt nhau: im lặng, như chính khoảng cách xa xôi giữa họ. Nhưng Lục Châu không thể im lặng mãi. Nỗi bứt rứt khó chịu khiến nàng mở lời:
-Anh có tin Ác Lạc Điểu là Quỷ Vương không?
Vô Phong gãi đầu, lòng thầm than công chúa hỏi khó. Hắn gật gù trả lời nước đôi:
-Nói chung thì… phải đi mới biết, công chúa à! Ngồi đây đoán mò đâu được ích gì?
Lục Châu phiền lòng. Vốn nàng muốn tìm lời an ủi, nhưng có lẽ Vô Phong không phải liều thuốc. Cô gái nấp mặt phía sau đầu gối, đôi mắt âu lo hơn bao giờ hết. Vô Phong ôm gáy thở dài:
-Cô có vướng bận với quá khứ không, công chúa? Ý tôi là quá khứ của chính cô!
Công chúa lắc đầu:
-Không… có lẽ là không. Nhưng tại sao anh hỏi vậy?
-Tôi thì có! – Vô Phong cười – Quá khứ khiến tôi phải bận tâm, nhưng tôi không sợ tương lai. Công chúa thì ngược lại, cô không sợ quá khứ, nhưng cô sợ những viễn cảnh có thể xảy ra.
Lục Châu ngước nhìn bầu trời xao xác gió. Ở tuổi này, ai mà chẳng sợ tương lai? Trừ phi là kẻ tự tin thái quá hoặc người không có mục đích sống. Công chúa nói:
-Anh chưa lo lắng sau này mình sẽ ra sao ư?
Tên tóc đỏ nhăn răng cười:
-Tôi biết mình cần làm gì, sẽ làm gì và sau này mình sẽ ra sao. Thật đấy!
Lục Châu đảo mắt rồi hỏi:
-Tôi đoán anh muốn trở thành kiếm sĩ mạnh nhất thế giới, giống như ngài Bất Vọng!
Vô Phong lắc đầu:
-Tôi không muốn trở thành một ông già cục cằn đâu! Có lẽ khi nhiệm vụ kết thúc, tôi sẽ nghỉ việc hộ vệ thánh sứ rồi đi tìm thật nhiều bầu trời mới!
-Bầu trời mới? Ý anh là sao?
Vô Phong ngả người nằm xuống, ánh mắt treo trên những dải mây mỏng mảnh đượm ánh hoàng hôn. Hắn mỉm cười:
-Khi ở đất Lạc Việt, tôi từng nói với ông già Lộc Tục rằng tôi muốn đi thật nhiều nơi, gặp gỡ thật nhiều con người và lắng nghe thật nhiều câu chuyện. Thế giới Tâm Mộng rộng lớn khôn cùng, còn nhiều nơi tôi chưa biết, như lục địa Kim Ngân chẳng hạn! Tôi muốn xem bầu trời nơi ấy khác bầu trời ở Phi Thiên thành thế nào!
Lục Châu chợt nhớ cái đêm đối mặt Hội đồng pháp quan. Bầu trời hôm ấy như một gánh nặng khôn cùng đè nặng lên vai nàng. Công chúa chưa bao giờ muốn biết những nơi mình từng đi qua, không hề để tâm đến những Quỷ Vương như Oa Lạc hay Rahtri mà chỉ muốn mau chóng hoàn thành nhiệm vụ. Giờ nghĩ lại, Lục Châu nuối tiếc vô cùng. Và nàng dần hiểu tại sao gã tóc đỏ có thể sống “thật với chính mình” – điều nàng hằng ao ước.
Nhìn gương mặt vô tư của Vô Phong, Lục Châu muốn giãi bày tâm sự. Nàng muốn nói mình đã lo lắng thế nào khi hắn mất tích, đã mất ngủ ra sao khi thấy những vết thương trên người hắn lúc trở về từ ngôi làng họ Mạc. Phiền nỗi lý trí phức tạp của Lục Châu cứ ngăn cản nàng, nàng nghĩ nó rất… thiếu đứng đắn. Không biết làm gì cho phải, công chúa bèn vuốt vòng tay ra sau đầu Vô Phong cột lại mái tóc rối giùm hắn. Nàng nói khẽ, như thể sợ ai nghe thấy:
-Tôi cảm ơn.
-Hả? Cảm ơn chuyện gì?
-Chuyến đi tới Hoành Sơn. Nhờ có anh…
-Ôi dào! Đấy là trách nhiệm! Cô cứ…
-“Kệ mẹ nó đi!”, anh định nói thế phải không? – Lục Châu cười.
Vô Phong ngẩn mặt. Công chúa bỗng im bặt, mặt đỏ bừng. Tên tóc đỏ ngoác miệng cười rần:
-À há! Công chúa nói tục nhé!
-Không! Không có! – Lục Châu chối – Tôi chỉ nhắc lại lời anh thôi!
-Thì đằng nào cũng là nói tục, nhận đi, có gì xấu đâu?
Công chúa vừa lắc đầu vừa cười:
-Không! Tôi không có ý đó! Thật mà!
Hai người họ cười đùa dưới bóng chiều tà. Rốt cục, công chúa cũng tìm được sự vui vẻ hiếm hoi trước khi tiến vào cuộc hành trình đầy hiểm nguy. Và nàng vừa tìm thấy chỗ dựa mới để đặt niềm tin. Khi nào Vô Phong còn sống, còn có thể “kệ mẹ nó”, khi ấy thế giới trong mắt nàng chưa sụp đổ.
Một chút rung động khiến nàng nghĩ về giấc mơ vẫn xuất hiện trong thâm tâm mình bấy lâu. Dạo gần đây, nó thường len lỏi vào giấc ngủ để rồi mỗi sáng, nàng lại tự hỏi đoạn kết của nó ra sao? Nàng chưa bao giờ kể cho ai về giấc mơ ấy, kể cả Tiểu Hồ. Và chắc chắn một điều là nàng sẽ không bao giờ kể cho Vô Phong nghe.
Bởi đó là một giấc mơ mênh mông với tiếng chuông gió năm nào…
Nắng tắt hẳn, màn đêm trải thảm khắp bầu trời. Vô Phong đứng dậy vươn vai ngáp dài:
-Buồn ngủ quá! À, công chúa có biết thành viên Thổ Hành nào đi cùng chúng ta không?
-Hình như là… “Thú”. Hình như anh ta bận nhiệm vụ truy bắt ai đó, thuyền trưởng Nhất Long nói anh ta sắp trở về.
Cái mặt Vô Phong đần ra như bị ai tát. Lục Châu ngạc nhiên:
-Sao vậy? Anh biết anh ta hả? Thú là người thế nào?
Tên tóc đỏ cười giả lả:
-À không, không! Đội trưởng Hắc Hùng nói với tôi Thú là người rất lịch thiệp và điển trai! Công chúa chớ lo lắng! Có điều…
-Có điều gì? Sao trông anh… sợ hãi vậy?
Vô Phong giật thót, đoạn lắc đầu:
-Không! Không hề! Chỉ là... anh ta chuyên nghiệp hơi thái quá!


QC:Huyền Thoại Tam Quốc| Naruto VN|

(*) chú giải: xem lại Quyển 2 – Chương 42
(**) chú giải: ý chỉ Tây Minh
 
Quyển 2 - Chương 66: Nơi người sống phải chết


Rừng tuyết Bình Di quốc không phải nơi thích hợp cho con người. Tuyết dày che đường mòn, tán cây rậm rạp cản lối đi, chỉ một bước sảy chân là rơi xuống hố tuyết sâu hun hút hoặc làm mồi cho những loài sinh vật kỳ lạ. Ngay cả những nhà thám hiểm trứ danh nhất thế giới Tâm Mộng cũng chưa bao giờ tiến vào khu rừng quá mười cây số và chỉ đi khi trời còn sáng.
Nhưng ngay lúc này, có một đám người đang chạy bán sống bán chết trong khu rừng tuyết giữa đêm tối. Họ thở hổn hển, mặt mũi ai nấy tái mét, những bước chân rệu rã như bánh xe đứt xích. Một gã lên tiếng, giọng đứt quãng:
-Anh Tư, chúng ta làm… làm gì đây?
Gã tên “anh Tư” hét:
-Chạy! Nhanh chân lên!
Sau lưng đoàn người bỗng vọng tới tiếng tru. Cả đám kinh hãi bèn guồng chân chạy nhanh hơn. Nhưng chưa được mươi bước, hốt nhiên một cái bóng to lù lù xuất hiện. Anh Tư khiếp đảm khôn cùng, gã gào lớn:
-Giết nó, mau giết nó!
Lũ lâu la dưới trướng anh Tư vội vã giương súng bắn. Cái bóng luồn lách né đạn rồi nhảy xổ ra, nhóm người ngay lập tức quăng dây xích tóm chặt nó. Con dã thú gầm lớn, thân thể giãy giụa giằng đứt xích rồi chạy rầm rập trên mặt tuyết. Nó vọt qua màn đêm, đôi tay dài như ngọn roi hết bẻ cổ rồi xé nát chân tay con mồi. Đám người kinh hoàng, vừa chạy trốn vừa bắn trả. Nhưng đêm đen mờ mịt khiến họ mất phương hướng. Con ác thú luồn lách, đôi tay tử thần vươn đến mọi ngóc ngách, bẻ tan từng khúc xương đẫm máu. Nó chạy vòng né tránh đường đạn, sau xuất hiện từ một góc khuất, nhảy bổ tới một tên bịt mặt. Kẻ đó hét:
-Cứu… cứu! Cứu tôi với!
Chẳng ai cứu nổi y. Cổ họng của y bị hàm răng sắc nhọn của dã thú cắn nát. Con quái vật rứt từng miếng thịt đỏ và nóng hôi hổi, đoạn dùng răng kéo đứt đầu tên phiến quân. Nó quay lại, miệng đẫm máu tươi chảy ròng ròng tưới đẫm mặt tuyết. Đoàn người chỉ còn anh Tư và một gã cận vệ, cả hai chen nhau chạy trốn. Con dã thú bèn đuổi theo. Nó lăn người, đôi tay tóm chặt chân địch thủ quật vào thân cây như đang chặt rìu. Thịt nát, xương tan, nội tạng bắn tung tóe. Từng thanh âm khô khốc vang lên giữa đêm đen tĩnh lặng tựa những nốt nhạc trong khúc tấu ca tử thần.
Anh Tư đờ đẫn. Gã chưa từng chứng kiến việc gì kinh khiếp hơn thế. Bản năng mách bảo gã nên chạy. Nhưng tử thần đã đến trước khi gã kịp trốn thoát. Đó là một con người – hoặc một thứ sinh vật có hình dạng giống người: thân hình cao lêu nghêu khoác bộ quân phục xám ngắn cũn cỡn, chân tay lều khều như vượn, bộ mặt sứt sẹo nhăn nhúm như tấm giẻ nhàu, đôi mắt ẩn khuất sau sau cặp kính râm. Con dã thú cúi xuống rồi nở nụ cười, hàm răng bết máu phả hơi tanh lòm rồi chợt cất giọng nói:
-Mày đi đâu thế, Tư Ngang? Chúng ta tâm sự chưa xong mà! Bỏ chạy khi người khác đang nói là bất lịch sự, mày hiểu không?
Anh Tư run như cầy sấy. Gã nín hơi thu hết can đảm, sau cười:
-Mày nghĩ tao có giá trị gì chứ? Bắt được tao, thế giới này vẫn chẳng thay đổi!
Ác thú cười ầm ĩ như chẳng quan tâm:

-Ồ vậy sao?
Con thú thọc hai tay vào mồm Tư Ngang, một tay banh hàm trên, một tay bẻ hàm dưới. Từng lớp da, lớp cơ bị kéo căng tới cực điểm. Bài ca chết chóc trong khu rừng tuyết sắp sửa kết thúc theo cách khủng khiếp nhất. Bất chợt chiếc bộ đàm trên vai con quái vật vang lên giọng nói:
-Thú, dừng lại! Không được giết nghi phạm, tôi cấm cậu!
Thú cười sặc:
-Ồ, mày nghĩ mày là ai chứ, Độc Trùng? Mày nghĩ mày là ai mà ra lệnh cho tao?
-Đừng quên tôi là người giám sát cậu! – Độc Trùng trả lời – Nếu giết nghi phạm, tôi sẽ báo cáo cho đội trưởng!
Thú vội nới lỏng tay đoạn thở phì phì:
-Mẹ kiếp, luôn đem đội trưởng ra dọa! Này, Độc Trùng, tao muốn cưới vợ, mày hiểu không hả? Nếu không giết nó, tao không thể cưới vợ!
-Đó là chuyện của cậu! Hãy chấp hành mệnh lệnh! Mang Tư Ngang về đây!
Thú thở dài ngao ngán, gã buông tay để Tư Ngang nằm bẹp một đống trên tuyết. Con ác quỷ ghé đầu nhìn kẻ sống sót duy nhất trong đống nạn nhân của mình rồi cười:
-Này, để tao nói mày nghe nhé: dẫu thế giới thay đổi thế nào thì nghĩa địa vẫn tồn tại! Mày hiểu chứ?
Gã cười sằng sặc còn Tư Ngang cấm khẩu không nói nổi lời nào. Tay đại diện Mũi tên vèo vèo bắt đầu tin vào những câu chuyện cổ tích dành cho lũ trẻ con. Anh hùng có thật, thánh thần có thật…
…và ác quỷ cũng có thật.

QC:Huyền Thoại Tam Quốc| Naruto VN|


Hết quyển 2
 
Quyển 3 - Chương 1: Đi tìm mặt trời


Đó là một nơi mà bóng đêm ngự trị; mịt mùng và tăm tối, bằng mắt thường chẳng thể nhìn thấy bất cứ điều gì.
Trong bóng đêm vô tận ấy bất chợt vang lên tiếng bước chân. “Cộp, cộp… cộp” – những thanh âm nối tiếp nhau nhưng không đều đặn mà ngắt quãng, khi thì vội vã, khi lại rề rà chậm chạp. Có vẻ cõi lòng của kẻ đang bước rối như tơ vò.
Được một lát, bỗng chốc có tiếng xoay gót. Dường như kẻ sở hữu đôi chân đương muốn quay đầu rời khỏi chốn này và tìm về nơi tràn ngập ánh sáng mặt trời.
Nhưng biết tìm đâu lối thoát trong màn đêm vô tận? Bởi bóng tối đã bịt chặt đôi mắt, che khuất lý trí, phủ sắc đen kịt lên trái tim.
Sau một khoảng im lặng dài lê thê, bất chợt có tiếng xoay gót thứ hai. Kẻ nọ xem chừng vẫn theo đường cũ. Như đã vững tâm, y bước đi đều đặn hơn, nhịp chân dội những âm thanh khô khốc vào bóng tối sâu thẳm.
Kẻ nọ đi, đi mãi, cho tới khi gặp một ngọn đèn lơ lửng phía xa tỏa ánh sáng nhợt nhạt, y liền hộc tốc chạy tới. Y cần ánh sáng để biết mình vẫn còn hình người, để biết mình chưa bị bóng tối phân hủy. Nhưng chưa tới nơi, y bỗng nghe thấy một giọng nói nhừa nhựa ập tới tựa ma hiện hồn:
-Hề! Cục cưng tới rồi hả? Ta lại cứ tưởng cưng không đến cơ!
Lời nói vừa dứt, không gian đột nhiên câm bặt rồi lại run rẩy những tiếng nấc đứt quãng, tưởng chừng sắp òa khóc. Nghe thấy thế, chủ nhân giọng nói nhừa nhựa liền cười. Điệu cười khe khẽ mà khanh khách như khoái trá, vuốt thành những mảnh sắc vô hình hòa lẫn bóng tối rồi đâm vào da, róc từng thớ thịt, cạo từng khúc xương. Trong không gian đó, tiếng cười đó, nỗi sợ hãi dâng lên cực điểm như thể muốn người ta phát điên.
Tiếng cười nhỏ dần rồi dừng hẳn. Ngay sau đó, một người bước ra từ màn đêm và từ từ lộ diện dưới ánh đèn leo lét. Kẻ ấy vóc dáng dong dỏng cao trong y phục kẻ ca rô lòe loẹt màu sắc, gương mặt ẩn khuất sau chiếc mặt nạ tô vẽ hoa văn diêm dúa. Gã vừa đi vừa nhún nhảy, chân không bước theo đường thẳng mà lượn vòng một cách quỷ dị như đang trình diễn một điệu múa. Tung tăng chán, gã bỗng cúi người, sau cất giọng:
-Mà nếu không đến, ta sẽ chặt chân cưng và mang đi! Hề, đùa thôi! Đừng sợ! Cô để ý điệu múa vừa nãy của ta chứ? “Sa ngã thần” đó! Ồ, một công dân Tuyệt Tưởng Thành như cô lẽ nào lại quên? Ô, nhưng ai biết đấy? Cô sống trong danh tiếng và giàu sang quá lâu, có khi quên hết rồi cũng nên! He he he!
Trông qua ngỡ tưởng gã đeo mặt nạ đang nói chuyện một mình. Nhưng gã vốn không bao giờ lãng phí lời châm chọc cho những thứ – không – phải – con – người. Gã dịch sang trái, để luồng ánh sáng nhợt nhạt soi tới người đang bị gã châm chọc. Đó là một phụ nữ, mái tóc dài tả tơi như vừa dầm dãi trong bão tố, gương mặt tiều tụy tới mức không thể đoán được tuổi. Người ấy khoác trên mình thứ y phục xỉn màu, bết bùn đất và rách rưới, hoàn toàn chẳng có vẻ danh tiếng hay giàu sang như lời gã đeo mặt nạ. Nhìn người phụ nữ chỉ thấy hai chữ “tàn tạ” và “thê thảm”, chỉ duy đôi mắt lại sáng ngời lạ thường, dù rằng kẻ đeo mặt nạ đang khiến nó khiếp đảm vô cùng.
Người phụ nữ ôm ngực, cố ngăn nỗi sợ hãi xâm lấn lý trí. Như đã bình tĩnh hơn, người phụ nữ lên tiếng:
-Có thật là… ta sẽ sống? Ngươi đã nói thế, đúng không? Đúng không, Tiếu?
Phải, kẻ đeo mặt nạ chẳng ai khác ngoài Tiếu. Mà Tiếu thì không bao giờ thẳng thắn, đùa giỡn nạn nhân trong ngôn từ mới là phong cách của gã. Lần này cũng thế, gã lại nhún nhảy quanh người phụ nữ, đoạn bá vai bá cổ làm vẻ thân thiết:
-Sao thế? Mấy ngày trước, cô còn bảo ta nói láo, còn hùng hổ đòi giết ta cơ mà? Giờ ngoan ngoãn dữ ha? Hề! Mà để lôi cô về đây, ta công nhận rằng có chút vất vả, chắc chỉ thiếu mỗi nước chặt chân cô! Hề! Nhưng không sao, bỏ qua bất hòa tiến tới hợp tác mới là tác phong văn minh! Thế này nhé, ngoại trừ mặt trời thì trên đời chẳng có gì chắc chắn hết! Nhưng nếu không thử, sao ta biết được kết quả? Cũng như vô số người đã hiến tế chính mình để tìm ra những phép thuật mới, một pháp sư như cô phải rõ điều này hơn ai hết chứ nhỉ? Ô, không, ta xin lỗi, một cô gái sống trong tiền tài và danh tiếng quá lâu như cô, sao có thể hiểu được nhỉ? Ta thật ngây thơ quá đi! Hí hí hí!
Cách nói kệch cỡm, điệu cười phô trương, tác phong ái nam ái nữ, tất tần tật mọi thứ về Tiếu khiến người phụ nữ run lên vì giận, bàn tay bốc lên ngọn lửa nóng hừng hực. Tiếu lập tức búng tay, từ màn đêm bỗng lao xuống một cây lưỡi hái, mảnh kim loại phản chiếu ánh lửa, lóe lên những tia lạnh lẽo tựa lời cảnh cáo. Tiếu ghé tai người phụ nữ, đoạn chép chép miệng:
-Mà cục cưng đâu còn lựa chọn, nhỉ? Ngoan, đừng sợ, ta sẽ không làm đau cưng như lần trước đâu, nhưng nếu cưng dám chuồn khỏi đây, ta sẽ chặt chân thật đấy! Hề, đùa thôi, đùa thôi! Đi nào!
Người phụ nữ cắn răng chịu nhịn, ngọn lửa trên tay dần tiêu thất. Lưỡi hái của Tiếu cũng từ từ kéo lên rồi rút vào bóng tối, tựa cỗ máy chém luôn trong tư thế sẵn sàng. Gã đeo mặt nạ cười khùng khục:
-Đi nữa nào, sắp tới nơi rồi! Cục cưng có cần ta đỡ không? Ta rất lịch thiệp với các quý cô khi họ nghe lời! Ô, không cần hả? Đừng hung dữ vậy chứ? Hí hí!
Người phụ nữ nọ tiếp tục cất bước, còn Tiếu cứ nhún nhảy xung quanh, cái mồm liên tục bô lô ba la những chuyện giời ơi đất hỡi. Cả hai di chuyển trên con đường thăm thẳm màn đêm, chốc chốc lại xuất hiện những bóng đèn lơ lửng tỏa ánh sáng yếu ớt. Họ đi, đi mãi, cho tới khi bắt gặp một cánh cửa sắt im lìm dưới ánh đèn nhợt nhạt. Người phụ nữ dừng bước, đôi mắt mở to. Tiếu liền ghé đầu lên vai cô ta, miệng thì thầm:
-Cơ may sống đó! Vào đi!
-Nếu ta không muốn vào? Đừng quên là nếu giết ta, linh hồn Quỷ Vương sẽ tiêu tán ngay lập tức! Ngươi có chắc sẽ lại tìm thấy kẻ kế thừa linh hồn chứ?
Tiếu cười rộ, người lắc lư theo điệu múa “sa ngã thần”. Gã nói:
-Đừng thách thức ta, bởi ta rất ưa thách thức! Nhưng cô nói đúng, tìm ra kẻ thừa kế linh hồn tiếp theo thực không dễ. Tuy nhiên, cô nhớ lời ta vừa nói không? “Ngoài mặt trời, chẳng có điều gì chắc chắn”, hề! Không lẽ cô không muốn nhìn thấy mặt trời lần nữa? Hề, cuộc đời cô là một sự phù phiếm, một niềm tin phù phiếm của đám dân chúng Tuyệt Tưởng Thành. Cô chắc nhận ra điều ấy lâu rồi, nhỉ? Vậy… cô muốn chết như cái cách cô sống? Ngay cả chân lý cuối cùng là mặt trời, cô cũng không muốn thấy?
Người phụ nữ mở miệng toan nói nhưng lại im lặng. Cô ta ngửa mặt nhìn chiếc bóng đèn lơ lửng. Nó sáng, tuy nhạt nhòa, nhưng vẫn là sáng. Nó đủ sáng để cô thấy chính mình.Nhưng cô nhận ra chỉ nhìn thấy một nửa bản thân, nửa còn lại vẫn chìm trong bóng tối. Ánh sáng nhân tạo – suy cho cùng vẫn chỉ là một thứ mô phỏng mặt trời, mô phỏng chân lý. Kẻ sống trong sự mô phỏng, đến cuối đời vẫn chỉ là một thứ mô phỏng không hơn không kém.
“Nếu tất cả là phù phiếm, vậy hãy để ta nhìn thấy mặt trời lần cuối!”.
Người phụ nữ thở hắt một hơi, ánh mắt đăm đăm nhìn cánh cửa sắt. Trông vẻ mặt của cô, Tiếu cười rung vai rồi mở cánh cửa sắt. Cửa vừa mở, một luồng ánh sáng bạc phết hắt ra. Gã đeo mặt nạ cúi lưng đưa tay mời vào, tác phong như một quý ông lịch thiệp phong nhã. Người phụ nữ tiến bước, trong lòng hầu như không còn chút hối hận khi đi theo con đường này.
Trong mắt người phụ nữ, ánh sáng bạc nhạt dần. Cô ta nhận ra xung quanh mình là một căn phòng rộng, tường trắng phau như lau như li, không khí trong vắt không hề lắng cặn chút bụi bẩn. Nơi này sạch sẽ tới mức phi lý và toát ra cái mùi “bệnh viện” rất rõ ràng. Chính giữa phòng, một loạt hình vẽ trải rộng trên mặt đất, chúng gồm một ngôi sao năm cánh nằm trong hình tròn, mỗi cánh sao dày đặc những ký tự kỳ dị, tất cả đều có màu đen quánh. Trông thấy những hình họa kể trên, người phụ nữ biết ngay chúng là trận pháp. Tuy nhiên, cô ta không thể nào đoán được chất liệu vẽ nên trận pháp. Chẳng phải máu, càng không phải mực, là thứ gì vậy? – Người phụ nữ không ngừng phỏng đoán.
Quá ấn tượng và tò mò trước trận pháp, mãi lúc sau, người phụ nữ mới để ý ở góc phòng đã có kẻ đợi sẵn. Một người đàn ông, vóc dáng gầy gò, khuôn mặt xương xương hằn rõ những dấu vết khắc sâu da thịt, có dấu vết thương tích thời quá khứ, có dấu vết thời gian của tuổi trung niên, chiếc cằm chẻ lún phún những sợi râu đen xen lẫn bạc. Gã sở hữu mái tóc đỏ rực, như thể đã tắm trong hàng trăm cơn mưa máu. Nhưng đáng sợ hơn cả là đôi mắt của gã. Nó không có vẻ anh minh tinh tường hay thâm sâu khó dò, nó là một thứ gì đó hơn thế, tới mức không ai dám nhìn thẳng mắt gã, dù chỉ nửa giây. Người phụ nữ kia cũng thế, vừa chạm mặt gã, cô ta vội vã cúi đầu xuống ngay lập tức.
Gã trung niên tóc đỏ chậm rãi bước tới trước người phụ nữ. Trước đó, gã không quên ném tia nhìn cho Tiếu ngầm cảnh báo tên đeo mặt nạ không được can dự vào. Khi chắc chắn Tiếu đã chịu yên, gã tóc đỏ bèn lên tiếng:
-Ngẩng đầu lên, nhìn thẳng mặt ta. Nói chuyện mà không nhìn nhau, không cảm thấy bất lịch sự à?
Người phụ nữ ngẩng đầu, thần tình vô cùng khiếp đảm khi thấy ánh mắt của người đối diện. Cô ta từng tự hào rằng mình đã chạm tới những loại phép thuật nguy hiểm nhất, tận mắt thấy những vị thần quyền năng nhất. Cô ta chưa từng nghĩ rằng sẽ có ngày mình phải khiếp nhược trước con người – một thứ sinh vật nhỏ bé trong thế giới Tâm Mộng. Người phụ nữ nói gấp, giọng hơi đứt đoạn:
-Ông… ông là… Liệt Giả?

Gã tóc đỏ gật đầu xác nhận rồi nói:
-Ta có nghe nói nhiều về cô. “Ứng cử viên của Ngũ Pháp Sư”, “Lá chắn Tuyệt Tưởng Thành”, người ta gọi thế, phải không? Tuổi trẻ đáng ngưỡng mộ đấy chứ! Nhưng dẹp đi, hôm nay cô ở đây là để “chữa trị”.
Người phụ nữ ngó xuống sàn nhà, tay chỉ vào đống hình họa sao năm cánh màu đen:
-“Chữa trị” bằng thứ đó?!
-Phải. – Liệt Giả đáp.
-Đã có ai thử chưa?
-Cô là người đầu tiên.
-Tại sao lại là tôi? Vậy ba người trước kia đâu?
-Quỷ Vương thứ nhất là một đứa bé ở Vinh Môn quốc, ta đã đưa ra lời đề nghị nhưng thằng bé cuối cùng không chấp nhận. Nó đã chết ở Thánh Vực. Quỷ Vương thứ hai là một phụ nữ Đà Ma, một câu chuyện dài và ta thực không muốn kể. Dù sao thì người Đà Ma chẳng bao giờ tin người ngoại tộc cả. Còn Quỷ Vương thứ ba? Là ta!
-Cái gì? Là ông?
Liệt Giả gật đầu. Gã bước quanh hình họa sao năm cánh đoạn tiếp lời:
-Nó được “viết” bằng Oán Hồn Dạ Hỏa – một thứ ma thuật của người Lạc Việt, chắc cô chưa bao giờ nghe bộ tộc này nhỉ?
-Tôi không biết Lạc Việt, nhưng tôi từng nghe ma thuật Oán Hồn Dạ Hỏa. Đó là loại lửa gì?
-Thế giới có tám mươi mốt loại lửa, Oán Hồn Dạ Hỏa không nằm trong số đó, nó là ngọn lửa thứ tám mươi hai. – Liệt Giả trả lời – Nó tích tụ từ oán thù hàng nghìn năm của người Lạc Việt. Nhờ nó, ta vẫn còn sống, vẫn nhìn thấy mặt trời. Ta sẽ sử dụng y học cùng phép thuật để tách bỏ linh hồn Quỷ Vương ra khỏi người cô. Rất khó khăn và mệt nhọc, cố mà chịu đựng!
-Nói vậy… tôi… sẽ sống? – Người phụ nữ vồn vã hỏi.
-Ta không hứa hẹn điều gì cả. – Liệt Giả lắc đầu – Và cô cũng không có lựa chọn. Nếu cô không đồng ý, ta sẽ rút linh hồn Quỷ Vương ra khỏi người cô một cách thô lỗ nhất, đồng thời là cái chết nhanh nhất. Người phụ nữ Đà Ma, Quỷ Vương thứ hai, đã chết như vậy đấy.
-Nếu tôi còn sống… ông sẽ thả tôi chứ?
Liệt Giả chắp tay sau lưng, đôi mắt xoáy tâm can người phụ nữ:
-Cô có thể đi đâu tùy thích, linh hồn Quỷ Vương mới là thứ ta cần. Cô có thể quay về Tuyệt Tưởng Thành, trở về địa vị cũ mà cô đang sống.
Nét khiếp sợ trên gương mặt người phụ nữ biến mất. Như không thể chịu đựng việc mình bị bỏ đi sau khi hết giá trị lợi dụng, cô ta nói:
-Lẽ nào các người bắt tôi về chỉ vì Quỷ Vương? Lẽ nào tôi không có chút giá trị?
Liệt Giả nhìn người phụ nữ hồi lâu, nét mặt vẫn trơ trơ, hoàn toàn không biến đổi. Im lặng một lúc, gã chợt nói:
-Giá trị hay không còn phải xem xét! Hãy tiến hành “chữa trị” trước đã!
Theo sự chỉ dẫn của Liệt Giả, người phụ nữ nằm trên đất, thân hình ngay ở trung tâm hình họa sao năm cánh. Gã tóc đỏ đặt máy móc thiết bị xung quanh cô gái, đoạn chuẩn bị thuốc gây mê. Trong một thoáng, bỏ qua nỗi khiếp sợ, người phụ nữ bỗng nắm lấy cổ tay Liệt Giả:
-Mặt trời có phải là thứ cuối cùng chúng ta muốn thấy không?
-Có thể đúng, có thể sai. Quan trọng là phải sống tiếp. – Liệt Giả đáp.
Gã tóc đỏ bơm thuốc gây mê vào người cô gái. Cô ta giật người một chút rồi từ từ lịm đi, hai mắt vẫn mở lớn nhìn trần nhà. Đợi khi người phụ nữ mất hẳn ý thức, Liệt Giả bắt đầu niệm chú. Những ký tự màu đen chợt bong khỏi mặt đất, hóa thành ngọn lửa, xếp chồng lên nhau thành một cái giường nâng đỡ cô gái. Liệt Giả chưa vội làm việc ngay, gã từ từ quay lưng, đoạn hất hàm về phía Tiếu:
-Ra khỏi đây đi.
Tên đeo mặt nạ cũng chẳng vội ra ngay. Gã điệu đà bước quanh Liệt Giả, chiếc mặt nạ diêm dúa ngó người phụ nữ, tưởng chừng muốn ăn tươi nuốt sống cô ta:
-Nếu cô ta sống được qua lần này, xem chừng tổ chức Xích Tuyết của ngài Liệt Giả đây lại có thêm chó săn, à nhầm, một trợ thủ đắc lực nữa!
Liệt Giả không để tâm cách ăn nói cợt nhả của Tiếu. Gã nói:
-Điều gì khiến ngươi chắc chắn cô ta sẽ đi theo Xích Tuyết?
-Hề! Suy cho cùng thì ai cũng muốn thấy mặt trời lần cuối mà! Hi hi hi! Thôi nhé, ta không làm phiền ngài Liệt Giả tôn kính nữa, cứ tập trung cứu người đi! Hề!
Tên đeo mặt nạ tung tăng rời phòng. Liệt Giả nhìn theo, tới khi cánh cửa sắt đóng sầm lại, gã mới an tâm tiến hành công việc. Con dao mổ trong tay gã dần thấm máu, chiếc giường Oán Hồn Dạ Hỏa thi thoảng lại nhá lên những ngọn lửa đen chất chứa hận thù. Trong không gian trong vắt ấy, trong căn phòng sạch sẽ ấy, những mùi tanh nồng lợn cợn lên như những đợt thủy triều xâm chiếm trí óc Liệt Giả. Và khi chỉ còn một mình, gã tóc đỏ ấy mới nở một nụ cười hiếm hoi, nhưng cười vì ai hay vì cái gì thì chẳng ai biết:
-Thế giới này vốn đâu có mặt trời?
 
Quyển 3 - Chương 2: Ác quỷ trở về


“Theo tin tức chúng tôi mới nhận được, hai tháng nay, pháp sư Tịnh Sa Hoạt Thổ, hay được biết đến với cái tên Tịnh Hoạt đã không hề xuất hiện tại Tuyệt Tưởng Thành. Mặc dù các nhà chức trách đã thông báo rằng Tịnh Hoạt đang trên đường truy tìm kiến thức và phép thuật mới, song điều này không làm dân chúng trong thành bớt lo lắng. Suốt hai mươi năm qua, đây là lần đầu tiên pháp sư Tịnh Hoạt rời khỏi thành lâu như vậy. Một số ý kiến cho rằng Tuyệt Tưởng Thành đang gặp nguy hiểm. Mặc dù Tuyệt Tưởng Thành nằm ở khu vực bình yên nhất của lục địa Kim Ngân, nhưng dư luận đều quan ngại sâu sắc trước sự vắng mặt quá lâu của Tịnh Hoạt. Những thông tin mới nhất về pháp sư Tịnh Hoạt sẽ liên tục được cập nhật.”.
Ưu Nhiên, thông tin trực tiếp từ Tuyệt Tưởng Thành.”.
“Xin cảm ơn phóng viên Ưu Nhiên. Vâng, thưa quý vị, có lẽ cái tên Tịnh Hoạt không còn quá xa lạ với chúng ta. Bằng tài năng thiên bẩm, cô được coi là lá chắn phòng thủ vững chắc nhất của Tuyệt Tưởng Thành. Cô cũng là ứng cử viên cho vị trí trong Ngũ pháp sư vốn đã bị bỏ trống quá lâu. Theo quan điểm của nhiều vị pháp sư có tiếng, nghiệp pháp sư vốn dĩ phải đi nhiều nơi để thu thập kiến thức phép thuật, Tịnh Hoạt cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, đối với Tuyệt Tưởng Thành, rõ ràng sự vắng mặt của cô khiến người dân rất lo lắng. Như chúng ta đã biết, Tuyệt Tưởng Thành nổi tiếng bất khả xâm phạm với cỗ máy Bách Phương Lam Thuẫn mà chỉ riêng Tịnh Hoạt mới có thể điều khiển. Sự vắng mặt của Tịnh Hoạt đang dấy lên mối quan ngại cho an ninh khu vực, dù rằng Tuyệt Tưởng Thành nằm tại rẻo Mạn Đà – nơi yên bình nhất của lục địa Kim Ngân. Mọi thông tin về pháp sư Tịnh Hoạt, chúng tôi sẽ cập nhật liên tục trong các bản tin tiếp theo, hoặc quý vị có thể truy nhập địa chỉ phía dưới, xin cảm ơn! Và nếu quý vị là chiến binh, xin đừng rời mắt khỏi màn hình vì tiếp theo sẽ là chuyên mục Chiến giới giới Tâm Mộng.”.
“Xin chào quý vị, chúng ta lại gặp nhau trong chương trình Chiến giới Tâm Mộng. Tôi, biên tập viên Thương Phần, sẽ chuyển tới cho quý vị những tin tức nóng hổi nhất của thế giới chiến binh. Trong tuần vừa rồi, tin tức nóng hổi nhất không phải là lễ công bố những thanh kiếm mới vừa gia nhập cuốn bách khoa Thiên kiếm tịch, các pháp sư đang tranh luận về sự tồn tại của ngọn lửa thứ tám mươi hai hay Thánh Vực tổ chức kỳ thi tuyển ứng viên dự bị thánh sứ, mà là một tin đồn đang lan truyền khắp thế giới kiếm sĩ: đó là bức tường mười ba mét một giây (13m/s) đã bị xô đổ. Như chúng ta đều biết, mười ba mét một giây là tốc độ đánh kiếm cực hạn, chỉ cao thủ kiếm thuật mới có thể làm. Nhưng tin đồn giới hạn trên bị xô đổ đang gây ra rất nhiều phản ứng trái chiều. Một số ý kiến cho rằng lịch sử kiếm thuật sắp rẽ sang trang mới, số khác lại cho đây là lời đồn vô căn cứ. Hôm nay, chúng tôi đã mời ngài Tòa Mỗ - kiếm sĩ Cực Hàn quốc, một trong Thập kiếm sĩ nhằm giải đáp thông tin trên. Xin chào ngài Tòa Mỗ, ngài có bình luận gì trước tin đồn tốc độ giới hạn đã bị xô đổ?
-Ai tin thì tin chứ cá nhân tôi nghĩ đây là chỉ là chuyện tiếu lâm! Kiếm thuật là vô hạn, nhưng có những giới hạn mà con người không thể vượt qua, như mười ba mét một giây là ví dụ! Cô biết đấy, con người tiềm năng vô hạn, nhưng đó là bộ óc, không hẳn là thể chất. Chúng ta có người khỏe nhất, nhưng chẳng thể tay không đánh lại những dã thú miền cực bắc thế giới. Chúng ta có người bơi nhanh nhất, nhưng đâu thể bơi nhanh bằng loài “đột thiên ngư” ở biển tây lục địa Đông Thổ? Thế giới ngầm từng đưa ra những loại biệt dược tăng sức mạnh, phản xạ của cơ bắp nhưng chưa từng kẻ nào dám quảng cáo rằng có thể vượt qua giới hạn mười ba mét một giây. Thế cho nên lời đồn trên hoàn toàn vô căn cứ, thật sự không đáng tin!
-Thưa ngài, qua nhiều nguồn khác nhau, chúng tôi được biết tin đồn trên bắt nguồn từ một người là Vạn Thù – tội phạm bị truy nã khắp thế giới, đồng thời cũng là nhân vật trong Thập kiếm sĩ. Ngài nghĩ sao về điều này?
-Mọi người từ trước tới nay đều tin vào bản danh sách Thập kiếm sĩ nhỉ? Ha ha, đó chỉ là danh sách của thế giới ngầm, hoàn toàn không đáng tin cậy! Người có tri thức sẽ không bao giờ xếp một gã tội phạm như Vạn Thù ngang hàng với tôi! Một tên tội phạm thì lời nói nào của gã mới la thật? Tiện đây, tôi khuyên quý vị nên tìm danh sách Thập kiếm sĩ do Viện kiếm thuật trực thuộc Đại Hội Đồng công bố hồi đầu năm. Tất nhiên tên tôi cũng ở trong đó! Danh sách này còn xếp hạng dựa theo thành tích…
-Vâng, vâng, xin cảm ơn ngài! Thưa quý vị, ngài Tòa Mỗ đã cho chúng ta thấy phần nào những luồng dư luận trái chiều xung quanh tin đồn kể trên. Với tư cách là thành viên Thập kiếm sĩ, à vâng… ý tôi là danh sách do Đại Hội Đồng công bố, quan điểm của ngài Tòa Mỗ rất đáng để tham khảo. Chắc chắn trong thời gian tới sẽ còn rất nhiều những tranh cãi xung quanh vấn đề này. Trở lại với chương trình, trong lễ công bố cuốn bách khoa Thiên kiếm tịch mới, rất nhiều thanh kiếm mới đã gây sự chú ý…”.
Những hình ảnh ba chiều cùng giọng nói của nữ biên tập viên tắt phụt sau cái vẫy tay của một người. Người này mới ngủ dậy, mắt đỡ đẫn, tay thi thoảng đưa lên gãi gãi mái đầu rối bù, miệng vừa nó vừa ngáp ngắn ngáp dài:
-Nổi… nổi tiếng rồi đấy, Phong à… tổ bà lão già… Tòa Mỗ! Đầu óc bé tí… oáp, chả hiểu cái khỉ gì hết!
Nói dứt câu, gã vươn vai làm vài động tác thể dục thư giãn gân cốt. Cùng lúc ấy, một người khác lên tiếng trả lời gã:
-Có lẽ lần đấy là may mắn thôi! Mấy hôm nay tôi có thử lại nhưng bó tay, lưỡi Bộc phá không tàng hình được!
-Nhưng vẫn là vượt qua giới hạn, đúng không? He he, rồi cậu sẽ đứng trong hàng ngũ Thập kiếm sĩ, rồi người ta sẽ biết người chế tạo thanh Bộc phá là tôi!
-Ngủ lâu quá nên hoang tưởng rồi hả? – Người kia cười lớn.
Người tên “Phong” chẳng phải ai khác ngoài Vô Phong, còn gã ngái ngủ – kẻ chế tạo thành Bộc phá – đương nhiên là Hỏa Nghi. Hai gã khởi đầu ngày mới bằng việc xem bản tin – như cái cách mà họ thường làm trong mấy ngày gần đây.
-Tôi nghe cái lão bụng phệ Tòa… Tòa gì nhỉ? Tòa Mỗ! Sao lão ta cứ lằng nhằng về cái danh sách Thập kiếm sĩ thế?
Hỏa Nghi nhún vai:
-À, cậu nên làm quen với một số kẻ có máu mặt đi là vừa. Danh hiệu Thập kiếm sĩ do thế giới ngầm đặt ra. Nó bao gồm mười kiếm sĩ mạnh nhất bao gồm kiếm sĩ chính thống và kiếm sĩ ngoài vòng pháp luật. Mọi kiếm sĩ đều công nhận bản danh sách ấy vì nó khách quan. Nhưng mấy lão già ở viện kiếm thuật Đại Hội Đồng lại ghét tội phạm. Dạo này, họ đưa ra danh sách mới chỉ toàn kiếm sĩ chính thống. He he, dĩ nhiên là chẳng ai quan tâm cả!
Sau khi trở về từ Xích Quỷ, hai gã ngày nào cũng hóng bản tin hòng tóm được chút manh mối về quái thú Ác Lạc Điểu. Một công việc thừa thãi, bởi nếu bản tin có xuất hiện con chim đó thật thì mạng lưới tình báo Phi Thiên quốc đã tỏ tường từ lâu. Nhưng Hỏa Nghi tin rằng khứu giác của đám phóng viên nhanh nhạy chẳng kém đám tình báo. Ít nhất, hắn cũng đúng phần nào khi một thông tin rất nhỏ trong trận chiến đỉnh Hoành Sơn đã lọt ra ngoài.
Việc để lọt quái thú Ác Lạc Điểu đang gây ra cơn chấn động lớn chưa từng có. Những bức điện từ Đại Hội Đồng cùng những cuộc chất vấn từ Thánh Vực liên tục ập về Thần Sấm. Dĩ nhiên, người hứng chịu ngần ấy thứ là Lục Châu. Nhớ ngày bắt được Quỷ Vương đầu tiên, công chúa đứng trên đỉnh danh vọng cao bao nhiêu thì giờ đây, nàng nằm dưới vực thẳm tội lỗi sâu bấy nhiêu. Mọi trách nhiệm đều được quy kết cho công chúa, mà trách nhiệm thường đi đôi với xử phạt. Chẳng ai dám xử phạt công chúa Phi Thiên quốc, nhưng cũng chẳng có gì chắc chắn rằng sự nghiệp của nàng tại Thánh Vực sẽ rộng mở như trước. Hơn ai hết, Lục Châu nóng ruột muốn truy lùng Ác Lạc Điểu ngay lập tức song vạn sự không chiều theo ý nàng. Nhiều quốc gia ở Kim Ngân hoài nghi về chuyến đi của công chúa. Không phải họ nghi ngờ Quỷ Vương, mà vì họ nghĩ Phi Thiên muốn lợi dụng việc này để thực hiện công tác gián điệp. Một tuần trôi qua, nhưng Phi Thiên vẫn chưa thương lượng được với những nước trên.
-Sự nghiệp của công chúa ở Thánh Vực có ý nghĩa gì? Tôi không hiểu lắm?! Tôi tưởng công chúa chỉ phấn đấu trở thành đại thánh sứ và tiếp thu càng nhiều phép thuật càng tốt chứ? – Vô Phong nói.
-Đại khái là bộ mặt… – Hỏa Nghi trả lời – …đồng thời mang ý nghĩa biểu trưng sức mạnh quốc gia. Công chúa hiện là người đứng đầu nhóm thánh sứ Phi Thiên ở Thánh Vực, nếu hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng hoặc đơn giản là trở thành đại thánh sứ, cô ta có thể được đề bạt chức Tổng Lãnh thánh sứ. Nhưng cứ tình hình này thì e là không được rồi.
Hỏa Nghi lắc đầu chán ngán. Vô Phong nheo mắt ngạc nhiên:
-Chức vụ thì ảnh hưởng gì chứ?
-Một dạng quyền lực. Các nhóm thánh sứ liên minh với nhau dựa theo liên minh quốc gia, và tất cả thánh sứ sẽ phấn đấu vì chức vụ Tổng Lãnh. Thánh sứ nước nào có được ngôi Tổng Lãnh, quốc gia đó được nâng cao vị thế, đồng thời được phép mượn thánh sứ của nước láng giềng cho những trường hợp cấp bách. Phi Thiên chúng ta đứng đầu liên minh, nhưng sẽ không lạ nếu Tổng Lãnh là người của nước yếu hơn. Khi ấy, nếu Tổng Lãnh yêu cầu, chúng ta buộc phải cử thánh sứ đi.
-Tôi tưởng thánh sứ là tài sản quốc gia, không ai được đụng vào chứ? – Vô Phong hỏi.
-Riêng Tổng Lãnh thì có thể, đó là luật do Thánh Vực đặt ra. Một khi Tổng Lãnh yêu cầu, nước liên minh phải cử đi ít nhất một hoặc hai thánh sứ. Thế nên cuộc bầu chọn Tổng Lãnh thánh sứ hàng năm luôn thu hút được sự chú ý. Bây giờ là tháng mấy? Tháng 9 à? Vậy thì năm tháng nữa, tức là tháng 2 năm sau sẽ là cuộc bầu chọn Tổng Lãnh. Có chuyện vui để xem đây!
Phi Thiên là đế quốc mạnh nhất thế giới, có tiếng nói lớn nhất ở Đại Hội Đồng, thừa khả năng can thiệp vào mọi quốc gia, nhưng Thánh Vực lại là một câu chuyện khác. Trong chuyện của Lục Châu, Phi Thiên chẳng thể giúp nàng, dù chỉ một chút. Mỗi ngày, chức vụ Tổng Lãnh thánh sứ càng thêm rời xa công chúa. Song Bạch Dương đệ thập không thể ngồi yên. Vô Phong nghe loáng thoáng ngài đệ thập đã đích thân tới Đại Hội Đồng, chỉ trích kịch liệt những quốc gia không gửi thánh sứ hỗ trợ Lục Châu. Tính từ đầu đến giờ, chỉ mỗi Lưu Vân quốc cử hoàng tử Vi Hàn tham gia truy tìm Quỷ Vương, thành thử ngài đệ thập coi như đã vỗ mặt toàn bộ Đại Hội Đồng.
Tuy vậy, cục diện đã chuyển biến tích cực hơn. Các thành viên trong khối liên minh Phi Thiên bắt đầu gửi thánh sứ trợ giúp, những nước ngoài khối liên minh không gửi thánh sứ nhưng sẵn sàng chia sẻ thông tin tình báo hoặc công tác hậu cần. Hiểm họa Quỷ Vương đang lớn hơn bao giờ hết, thậm chí lớn hơn cả lợi ích quốc gia. Năm Quỷ Vương mới thu thập được một, riêng Liệt Giả đã có hai, hai Quỷ Vương còn lại mất hút và không loại trừ khả năng Liệt Giả đã sở hữu linh hồn thứ ba. Chẳng ai biết Liệt Giả thu thập Quỷ Vương làm gì, nhưng nếu điều khiển được thứ sức mạnh đó, gã thừa sức hủy diệt một đất nước. Như một hệ quả, tên của gã cùng tổ chức Xích Tuyết bị truy nã vô thời hạn và được treo thưởng ba trăm thùng kim cương. Ba trăm thùng kim cương đủ sống giàu sang an nhàn ba đời, vấn đề là ai sẽ đối đầu với gã? Từ khi thông báo treo giải phát ra, chưa ai dám lên tiếng thách thức Liệt Giả.
Nhưng Liệt Giả không phải người duy nhất “lên giá”. Trong danh sách tội phạm của Đại Hội Đồng, có một kẻ mới vài tháng trước còn ở mức “cần chú ý”, nay nhảy vọt lên “đặc biệt nguy hiểm, truy nã vô thời hạn” bởi thành tích giết hại trưởng lão Hạ Đông đồng thời cướp lời tiên tri. Mặt mũi tên này ra sao thì chẳng ai rõ, chỉ biết gã đeo mặt nạ và luôn mồm tự xưng là Tiếu. Gã như từ dưới đất chui lên, quậy phá lung tung khiến mọi thứ nháo nhào rồi lại trốn xuống đất, chờ cơ hội chui lên phá tiếp. Gã đang thách thức cả thế giới, từ Đại Hội Đồng, Thánh Vực, Phi Thiên quốc cho đến thế giới ngầm. Không – một – ai – biết – gã. Chừng nào chưa biết chân diện của Tiếu, chừng ấy thế cục còn bị hắn đùa giỡn dài dài.
-Thánh Vực vẫn giữ bí mật cái chết của Hạ Đông. – Hỏa Nghi nói – Nếu người ta biết ông già khốn khổ đó tiêu đời thì nhiều kịch hay để xem lắm!
Vô Phong nheo mắt:
-Ổng nổi tiếng vậy sao? Tôi đâu thấy ông ta có gì đặc biệt lắm?
-Hạ Đông là đại sứ Thánh Vực. Trong mắt đám sùng đạo, ông ta chẳng khác gì hoàng đế của họ cả! – Hỏa Nghi nhún vai – Kể ra cũng là nhân vật có danh tiếng. Nhưng Thánh Vực chẳng giấu mãi được đâu! Tôi đoán hai tháng nữa thì họ phải công khai sự việc thôi. Tất nhiên Thánh Vực không thể nói ông ta chết dưới tay thằng khốn đeo mặt nạ được!
-Vậy là chúng ta hoàn toàn mất dấu Quỷ Vương thứ tư?
Hỏa Nghi thở dài:
-Giờ này tình báo còn chưa có tin thì chắc chắn là mất hẳn. Tôi nghĩ thằng Tiếu đã tìm thấy Quỷ Vương thứ tư rồi. Chúng ta phải tìm cho ra con Ác Lạc Điểu, không thì thua trắng thằng lòe loẹt lẫn bọn Xích Tuyết mất!
Vô Phong nhướn mắt suy nghĩ hồi lâu, sau nói:
-Phải chăng bọn chúng đang nhắm tới chiếc đĩa vàng? Ông già Lộc Tục từng nói chiếc đĩa vàng sẽ được kích hoạt nếu tập hợp sức mạnh của Quỷ Vương, đúng không?
-Có thể đúng, hoặc cũng có thể sai. Nhưng ít nhất chiếc đĩa vẫn nằm trong tay chúng ta.
Ngày cuối cùng trên đất Lạc Việt, Lộc Tục – ông tổ bộ tộc Lạc Việt – đã cho Hỏa Nghi biết về bản chất thế giới, cái gọi là “Quy Tắc” và một con quái vật khủng khiếp tồn tại trong Quy Tắc có tên Khổng Thú. Dùng sức mạnh Quỷ Vương kích hoạt chiếc đĩa, Khổng Thú sẽ được triệu hồi tại thế giới Tâm Mộng. Liệt Giả vốn mang nặng thù hằn với tôn giáo Vạn Thế, gã có thể mượn tay con quái vật nọ để phá hủy Thánh Vực, thậm chí cả cây mẹ Vạn Thế. Giả thuyết trên tuy thiếu chứng cứ, nhưng bọn Vô Phong lại tin nó là thật. Chẳng đương dưng mà chiếc đĩa vàng xuất hiện trên thế gian, và một ông già ba nghìn tuổi như Lộc Tục cũng không thừa hơi bịa chuyện.
-Nên nói chuyện này cho công chúa không? – Vô Phong hỏi – Chúng ta có thể đối phó Liệt Giả dễ dàng hơn.
Hỏa Nghi lắc đầu:
-Lúc ấy người chết đầu tiên là cậu chứ chưa tới lượt Liệt Giả. Họ sẽ hỏi nguồn gốc chiếc đĩa, rồi bắt đầu tra hỏi lý lịch của cậu. Cậu chết, tôi cũng tiêu đời vì tội bao che. Đừng quên chiếc đĩa vốn từ Trần Độ mà ra, lão già đó đang chơi trò im lặng. Nếu cậu im lặng, lão sẽ giữ cậu sống. Còn nếu cậu lên tiếng về cái đĩa, lão sẽ tống cậu vào tù, luôn và ngay!
-Nhưng chắc gì lão để tôi giữ chiếc đĩa vì mục đích tốt? Và đâu chắc lão sẽ buông tha cho tôi? Lão giết tôi dễ như giết con ruồi vậy!
-Ít nhất, cậu vẫn đang thở. Khi còn thở được thì phải vận động. Con ruồi bay nhặng xị lên thì cũng khó đập chết nó lắm.

Vô Phong gật gù tự nhủ Hỏa Nghi nói đúng. Cuộc chiến truy tìm Quỷ Vương chưa kết thúc, chừng ấy hắn vẫn còn hữu dụng và Trần Độ sẽ để hắn tự do. Trước mắt, Vô Phong cần vận động, bay tứ lung tung như con ruồi để không chết lãng nhách ở vùng đất Kim Ngân. Như thường lệ, sau bữa sáng, tên tóc đỏ lại đến phòng tập kiếm. Ở đấy, đội trưởng Thổ Hành – Hắc Hùng đang chờ hắn.
Nhiều ngày nay, Vô Phong cố gắng luyện tập một thế kiếm trong bộ kiếm thuật Thiết: Cuồng Thiết. Còn nhớ cuộc chiến trên đỉnh Hoành Sơn, lão già Vạn Thù đã sử dụng Cuồng Thiết dồn hắn một trận sống dở chết dở. Lối đánh cường mãnh và sự di chuyển dồn dập của thế kiếm này làm Vô Phong ấn tượng vô cùng. Nếu học được nó, hắn có thể sống sót trong những trận hỗn chiến, hoặc giữ thế cân bằng khi phải đánh tay đôi với những kẻ mạnh hơn, ví dụ như Thiên Hải. Tên tóc đỏ tin rằng nếu học Cuồng Thiết sớm hơn, hắn đã không bị Thiên Hải áp đảo.
Vô Phong lý luận không sai. Về cơ bản, Cuồng Thiết nằm trong phả hệ bộ Thiết, xuất phát từ Trọng Thiết và có vài điểm tương đồng với Tử Thiết lẫn Ám Thiết. Tính chất của Cuồng Thiết là phá vỡ thế trận của đối phương và giành quyền chủ động về mình, đồng thời là thế kiếm phù hợp cho những trận chiến kéo dài. Nhìn lại quãng đường chiến đấu của bản thân, Vô Phong thấy mình không có thế kiếm đánh tay đôi đúng nghĩa. Tử Thiết hao tổn thể lực và nội lực quá nhiều, chỉ dùng khi nguy hiểm hoặc dứt điểm trận đấu. Ám Thiết tuy sở hữu tốc độ lớn song chỉ có tác dụng đột kích. Thế kiếm Trọng Thiết mà hắn mới học gần đây lại là kỹ thuật điều khiển nội lực gia tăng trọng lượng vũ khí, không phải kỹ thuật chiến đấu. Do vậy với Vô Phong, luyện tập Cuồng Thiết là đúng đắn.
Nhưng nói thì dễ, làm mới khó. Mất mấy ngày nghiên cứu, nhờ Hắc Hùng chỉ dẫn rồi thực hành, tất cả những gì Vô Phong tạo ra là những bước chạy gấp gáp cùng những đường kiếm chệch choạc, chẳng đủ tư cách so sánh với Cuồng Thiết của Vạn Thù. Tên tóc đỏ nhớ rõ cách thức lão già sử dụng hai thanh kiếm “tàu tốc hành” ra sao, bước di chuyển thế nào. Nhưng hắn không thể bắt chước nổi, dù chỉ một động tác. Thấy Vô Phong luyện tập vô ích, Hắc Hùng khuyên hắn nên dừng lại. Gã đội trưởng Thổ Hành nói:
-Thiết là loại kiếm thuật mang hai yếu tố: mô phỏng và phát triển. Tôi mong chờ cậu có thể phát huy sự mô phỏng, nhưng có vẻ tôi đã nhầm.
Vô Phong nằm ngửa trên sàn, toàn thân đẫm mồ hôi, miệng thở phì phò:
-Ý đội trưởng là tôi ngu quá, không học được?
-Cậu thì ngu có tiếng, nhưng trong trường hợp này lại không phải tại ngu. Vì muốn học được Cuồng Thiết phải biết “tiết tấu kiếm”.
Vô Phong nhổm người dậy, hỏi:
-Tiết tấu kiếm là gì?
-Giống như âm nhạc cần tiết tấu, kiếm thuật cũng vậy. Nó bao hàm nhiều thứ, như nhịp độ giữa các đòn đánh, cách thức di chuyển, cách khống chế cục diện trận đấu, kỹ thuật chiến đấu tay đôi, kỹ thuật hỗn chiến, vân vân. Ngày xưa, khi kiếm vẫn đơn thuần là kim loại, kiếm sĩ phải rèn luyện từ nhỏ để học tiết tấu kiếm. Rồi thằng thợ rèn quỷ quái nào đấy kết hợp kiếm với máy móc, kiếm sĩ mọc lên như nấm, khỏi cần học tiết tấu nữa!
-Ông cũng không học “tiết tấu kiếm” sao?
-Phải. Máy móc và bí kỹ đã thay đổi tất cả, tạo ra nhiều trường phái kiếm thuật mới, ví dụ như Thiết. Tuy nhiên, Cuồng Thiết lại khác. Nó được phát triển bởi những kiếm sĩ nắm vững tiết tấu, có kiến thức căn bản và kiến thức sâu rộng về kiếm thuật thời xưa. Cậu có năng khiếu kiếm thuật, nhưng lại không hiểu tiết tấu. Đó là vấn đề! Xui cho cậu, ta cũng chỉ biết sơ sơ vậy thôi, không dạy được.
-Vậy tại sao ông không học nó?
-Ta rèn luyện theo giáo trình của quân đội. Quân đội cần những kiếm sĩ chất lượng trong thời gian ngắn nhất, tiết kiệm chi phí nhất. Học tiết tấu kiếm mất rất nhiều thời gian, không phù hợp với chiến tranh hiện đại nữa.
Vô Phong nhíu mày, lòng bối rối. Tình hình hiện tại khá gấp gáp, công chúa có thể khởi hành bất cứ lúc nào trong khi hắn chưa hoàn thiện kỹ năng chiến đấu nào. Với thực lực hiện tại mà tiến vào Kim Ngân, Vô Phong tự bảo vệ mình còn khó, chưa nói bảo vệ công chúa. Suy tính mãi, hắn chợt nảy ra ý tưởng và trình bày ngay:
-Hay tôi thử tập Tân Thiết? Nghe nói thế kiếm đó đơn giản, dễ học, lại có thể quần chiến lâu dài.
Ngày trước, tại chiến trường nhà máy thủy điện, Thiên Hải từng dùng Tân Thiết đánh cho Vô Phong không ngóc đầu nổi. Thế kiếm này khá đơn giản, không mất nhiều thời gian luyện tập. Song Tân Thiết chỉ phát huy hiệu quả khi kiếm sĩ biết phối hợp kỹ năng cận chiến tay không cùng kiếm thuật. Vô Phong cũng luyện tập đối kháng tay không hằng ngày, do đó Tân Thiết là một lựa chọn không tồi. Tuy nhiên, Hắc Hùng khá hoài nghi trước ý tưởng này. Gã đội trưởng Thổ Hành im lặng, cái đầu trọc đen bóng lắc lư với những suy nghĩ. Lát sau, gã nói:
-Không tệ, nhưng lãng phí quá nhiều thứ! Thanh “bộc phá” của cậu không phù hợp cho quần chiến. Bản chất thanh “bộc phá”, những kỹ năng cậu học được và cả đôi chân của cậu nữa, chúng sinh ra để tốc chiến tốc sát.
Vô Phong trố mắt:
-Vậy ông định huấn luyện tôi thành sát thủ? Giống như Tất Tử à?
-Phải. Ta đã dự định như thế. – Hắc Hùng gật gù.
Nguyên nhân của việc này bắt nguồn từ cơ cấu đội Thổ Hành. Nói về nhiệm vụ ám sát, có hai người trong đội đảm nhận là Hắc Thử – một xạ thủ và Tất Tử – một sát thủ. Xạ thủ tất nhiên rất tốt, nhưng lại vô dụng với những mục tiêu được bảo vệ kỹ càng và ẩn nấp trong công trình kiên cố. Lúc đó chỉ sát thủ mới làm được việc. Nhưng chẳng ai trong đội đủ sức thay thế Tất Tử, không phải vì họ yếu kém hơn gã, mà vì họ không sở hữu nhiều kỹ năng sát thủ bằng gã. Hắc Hùng từ lâu muốn đào tạo một sát thủ mới, ngặt nỗi không ai vừa ý gã. Gã biết rằng cần nhiều tố chất đặc biệt để trở thành sát thủ. Vô Phong chính là một dạng đặc biệt như vậy.
-Nhớ ngày đầu chứ? Khi ta kiểm tra cậu, Độc Trùng đã đứng ngoài nhận xét. Biết hắn ghi gì về cậu không? “Vô dụng, ngoại trừ cặp giò đáng giá”. Ta vì dòng chữ “cặp giò đáng giá” nên giữ cậu lại. Có bao giờ cậu thắc mắc tại sao chế độ ăn của ta và cậu khác nhau không? Là bởi ta muốn cung cấp nhiều dưỡng chất cho thứ kia… – Hắc Hùng chỉ tay vào chân Vô Phong – …cậu có thể chết đói, nhưng cặp giò của cậu phải no.
Vô Phong phì cười rồi nói:
-Thế tôi phải làm sao? Khi đánh tay đôi, tôi rất tệ! Tôi đâu thể chỉ chạy và chờ cơ hội sử dụng Tử Thiết mãi được?
-Vậy tại sao cậu không nghĩ mình sẽ trở thành sát thủ thực thụ? Thay vì đối đầu trực diện, cậu sẽ tìm sơ hở của đối phương và đánh lén…
Tên tóc đỏ nhăn mặt, trong lòng kêu khó. Những kiếm sĩ thượng đẳng như Thiên Hải hay Vạn Thù gần như không lộ ra sơ hở. Mà nếu đối phương tìm ra, họ sẽ phản ứng ngay lập tức, cùng lắm chỉ chịu vết thương nhẹ và hầu như không đáng kể. Như lần giáp mặt Vạn Thù, Vô Phong cố gắng lắm chỉ làm lão ta trầy xước chút da ngực cộng thêm mấy cọng râu (riêng trường hợp này, phải tính thêm râu vì Vạn Thù đã nổi khùng khi tên tóc đỏ chém đứt bộ râu vĩ đại của lão). Bởi thành tích nghèo nàn trên, tên tóc đỏ mới sốt sắng học thêm thế kiếm mới, hy vọng nếu có ngày gặp lại Vạn Thù sẽ chém được nhiều bộ phận trên người lão thay vì mỗi bộ râu.
-…khi đánh tay đôi, những vết thương nhỏ đôi khi là mấu chốt cuộc chiến. – Hắc Hùng tiếp lời – Hãy tưởng tượng một vết thương trên cánh tay lại đúng ngay động mạch chủ? Máu sẽ chảy không ngừng! À, tất nhiên là mọi kiếm sĩ đều biết điều này và chẳng thằng nào giơ tay ra cho cậu chém hết. Từ từ, hãy im lặng lắng nghe, để ta nói hết đã! Tại sao ta lại bàn chuyện vết thương nhỏ? Bởi lẽ nếu vết thương nhỏ đủ sâu, cục diện trận đấu sẽ thay đổi. Vì vậy, những gã sát thủ đã phát triển một thế kiếm mới trong bộ phả hệ Thiết, gọi là Suy Thiết. “Bé xé ra to” chính là đặc điểm của Suy Thiết.
-Vậy tại sao ông không dạy tôi sớm hơn?
-Vì Suy Thiết bắt nguồn từ Trọng Thiết. Nắm bắt được cái gốc sẽ hiểu được phần ngọn. Nhưng cậu vẫn chưa thành thục Trọng Thiết, đúng không? Vì vậy, chúng ta cần kiểm tra. Thật khổ cho cái thân thể già nua của tôi, nhưng vì cậu, tôi sẽ cố gắng. Và kiểm tra chưa xong thì sẽ chẳng có bữa trưa, thậm chí là bữa tối.
Gã đội trưởng Thổ Hành cười toe, đoạn vứt cho Vô Phong một thanh kiếm gỗ. Trông hàm răng trắng ởn cùng thân thể “già nua” của gã, Vô Phong cười mếu. Hoặc hắn học được Suy Thiết, hoặc ôm bụng nhịn đói. Hắc Hùng thích đùa, nhưng gã không bao giờ đùa cợt với việc luyện tập.
Suốt ngày hôm đó, cánh cửa của căn phòng luyện tập trên Thần Sấm im lìm, tựa cái miệng đóng chặt không chịu hé môi. Mãi đến khi những đường hành lang ở mạn phải phi thuyền thấm đẫm ánh trăng bạc nhợt nhạt, cánh cửa nọ mới động đậy. Nó mở ra, hà vào không gian những làn hơi đầy mùi mồ hôi, mùi máu cùng tiếng bước chân chậm rãi của Hắc Hùng. Gã toàn thân nhễ nhại như vừa bước ra từ phòng xông hơi, thần sắc uể oải thấy rõ. Hết tập luyện rồi đánh lộn với thằng tóc đỏ trong mười hai tiếng, quái vật còn há miệng ngáp ngáp nữa là người. Nhưng thực tình, Hắc Hùng đang mệt mỏi về tinh thần chứ không phải thể xác, bởi gã thấy mười hai tiếng vừa rồi tẻ nhạt và chán ngắt. Gã bất giác đưa tay rờ bả vai toác máu. Vết thương này đích xác do Vô Phong gây nên, song gã thất vọng vô cùng. Gã thấy nó chỉ như vết cào cấu từ một mụ đàn bà, không hơn. Mười hai tiếng mà làm được mỗi vậy thôi ư? – Hắc Hùng nghĩ thầm, đoạn cho rằng mình đã quá dễ dãi với tên tóc đỏ. Phải nghiêm khắc hơn nữa! – Gã tự nhủ.
Đương chán chường về gã học trò, bỗng dưng Hắc Hùng nở nụ cười tươi rói. Gã chạy đi, mồm lẩm bẩm về một cuộc gọi điện thoại, bỏ lại sau lưng căn phòng luyện tập cùng tên tóc đỏ bẹp dí trên sàn như con gián chết. Vô Phong nằm đó, áo quần nham nhở những máu những mồ hôi, toe toét như xác một chiếc phi thuyền vừa bị trúng tên lửa. Với hắn, mười hai tiếng vừa rồi là màn tra tấn dã man nhất mọi thời đại. Không bữa trưa bữa tối, chỉ một miếng bánh tăng lực cộng thêm nước lọc cầm hơi, hắn phải làm bao cát còn Hắc Hùng cầm kiếm gỗ nện vào bao cát thật lực. Trước tinh thần dạy dỗ nhiệt tình của ông thầy, Vô Phong rất biết ơn và thề sẽ cố gắng hơn nữa. Hắn hy vọng một ngày nào đó có thể đổi vị trí bao cát và người nện bao cát cho Hắc Hùng. Cứ đợi đấy, ông già, cứ đợi đấy! – Hắn lẩm bẩm.
Vô Phong ngắc ngứ mãi mới ngồi dậy được. Dù bụng lép kẹp nhưng hắn không muốn ăn, người rã rời nhưng hắn không muốn ngủ. Hắn cần những miếng vải làm từ tóc phụ nữ Vinh Môn quốc để băng bó vết bầm tím trên sườn, vết cắt trên bả vai và những lốt đỏ rực trên lưng do kiếm gỗ đánh vào. Hắn cần bông băng và thuốc để trát lên khuôn mặt sưng vếu vì bị ăn đấm. Và nếu có thể, Vô Phong muốn đôi bàn tay của công chúa làm tất cả những việc trên. Nhưng hắn chỉ mong ước vậy chứ thừa biết công chúa chẳng rảnh rỗi làm vậy. Rên rỉ một chặp, than vãn một hồi, chửi rủa Hắc Hùng một lúc, Vô Phong bèn đứng dậy rồi đi tới phòng y tế.
Vừa ra khỏi cửa, Vô Phong bỗng thấy một cô gái tóc vàng chạy tới, dáng điệu hớt ha hớt hải. Trông thấy cô ta, tên tóc đỏ cười thầm, sau gọi:
-Tiểu Hồ hả? Giúp tôi với!
Sau vài ngày dưỡng thương, Tiểu Hồ đã trở lại. Nàng vẫn vậy: mái tóc vàng một phần buộc thành nhiều lọn vắt bên vai, một phần phủ lên bờ trán của gương mặt bướng bỉnh; nàng không bao giờ kéo khóa áo đồng phục Hộ vệ thánh sứ và luôn ưa thích những chiếc váy ngắn có gam màu đỏ. Theo lẽ thường, nàng sẽ cười và trêu chọc bộ dạng thảm hại của Vô Phong, sau đó giúp hắn băng bó chữa thương. Trong lúc băng bó chữa thương, nàng sẽ trêu chọc tiếp khiến hắn phải nổi khùng. Nhưng ngay lúc này thì Tiểu Hồ không rảnh, nàng có việc khác quan trọng hơn nhiều.
-Đến phòng điều hành, nhanh lên! – Tiểu Hồ nói gấp.
-Chuyện gì thế? Tôi đang sắp chết đây, giúp tôi đã…
-Để sau! Công chúa bảo chúng ta tới! Có tin mới, Tư Ngang bị bắt rồi!
Vừa nói, nàng vừa kéo tay Vô Phong lôi đi xềnh xệch. Tên tóc đỏ đang bị thương nên la oai oái:
-Đau quá! Mà từ từ, cô nói gì cơ? Tư Ngang là thằng nào?
-Sao mau quên thế? Nhớ lần trước tới Quận 4 ở Cửu Long không? Chúng ta đã gặp tay đại diện của Mũi tên vèo vèo, tên là Tư Ngang!
Nói đến Quận 4, Vô Phong mới nhớ ra gã Tư Ngang ăn mặc chải chuốt sở hữu giọng nói đường mật. Gã là đầu dây mối nhợ khiến phiên tòa xét xử Bất Vọng mãi vẫn chưa có hồi kết. Nếu bắt được gã, nghĩa là Bất Vọng có cơ hội tự do. Nhưng điều này khiến hắn rùng mình, bởi lẽ kẻ đi bắt Tư Ngang đã trở về. Một kẻ mà hắn chỉ biết qua những lời kể hết sức gượng gạo của các thành viên đội Thổ Hành. Trong chuyến đi sắp tới, Vô Phong sẽ phải đồng hành cùng kẻ nọ. Tên tóc đỏ không biết lục địa Kim Ngân so với tên đó, cái nào đáng sợ hơn.
Con quỷ của Thổ Hành đã trở về.
 
Quyển 3 - Chương 3: Trao đổi


Khi Thần Sấm đắm mình trong màn đêm của lục địa Kim Ngân thì cách đó hàng vạn cây số về hướng tây bắc, ở lục địa Hoa Thổ, Phi Thiên thành – thủ đô Phi Thiên quốc đang náo nhiệt giữa nắng chiều mùa thu.
Thực tế thì chẳng cần dịp lễ hay thời tiết đẹp đẽ, thành phố này đã náo nhiệt sẵn và cung cấp hàng tá lựa chọn cho khách du lịch. Nếu muốn tận hưởng cuộc sống hiện đại, người ta có thể lên những chiếc tàu điện đã đợi sẵn ở bến cảng, đi theo tuyến đường ray hình vòng cung dẫn về hướng đông bắc. Khi tuyến đường ray tách thành nhiều nhánh và hướng lên cao, nghĩa là những chiếc tàu điện đã tới quận Mắt Trắng, nơi những tòa tháp cao vút ngự trị. Ở các tòa tháp hình xoắn ốc, du khách sẽ dễ dàng tìm thấy hàng chục tầng phục vụ nhu cầu mua sắm, hay khu giải trí rộng mênh mông đủ khiến tâm trí quên đi ngày tháng. Dĩ nhiên, để vui chơi thỏa thích, người ta cần năng lượng. Nối liền các tòa tháp xoắn ốc là hệ thống cầu đường đan xen nhau vắt ngang không trung, nếu men theo những đường thang bộ hướng lên một góc ba mươi độ, người ta sẽ tìm thấy những tòa tháp cao hơn – khu ẩm thực. Món ăn truyền thống, món ăn từ mọi miền trên thế giới và nhất là những cửa hàng bánh ngọt trứ danh làm nên tên tuổi nền ẩm thực Phi Thiên; tất cả đều tập trung ở đây. Ai tinh ý còn có thể tìm ra một tiệm ăn nhỏ xíu có tấm biển đề chữ “Lập” nằm trong một góc khuất, chuyên phục vụ món mì trộn cùng ông chủ tiệm khó tính thường xuyên càu nhàu về một gã tóc đỏ thường xuyên ăn chịu. Nếu đã thấm mệt, du khách nên tìm đến những ngọn tháp cao chót vót màu xanh dương, nghỉ ngơi trên những chiếc ghế đệm không khí, thỏa sức ngắm nhìn mặt biển lấp lánh ánh bạc qua ô cửa kính hướng về phía nam thành phố. Và khi màn đêm buông xuống, quận Mắt Trắng mới phô trương hết vẻ đẹp của nó. Nhưng đó là câu chuyện về đêm.
Hoặc như đã quá chán chường đời sống đô thị, khách du lịch có thể lên những chuyến tàu điện dẫn theo hướng tây bắc. Ánh mắt họ sẽ tan vào làn gió khi tuyến đường ray đi qua “sông” Vành Đai Xanh – con đường biển chia đôi thủ đô. Phía cuối đường ray, ngay cạnh bờ sông, tàu điện sẽ thả du khách tại quảng trường thành phố. Bước trên con đường lát cẩm thạch chạy dọc quảng trường, vòng qua một đài cao đặt hai tấm bia đá màu xám khổng lồ, rồi lại tiếp tục theo con đường cẩm thạch và đi thêm khoảng năm trăm mét nữa, du khách sẽ tới quận Trăng Khuyết. Ở đó, đang chờ đón họ là những tòa kiến trúc hình mái vòm, phía trên mái có những tòa nhà hình cầu hoặc vài ngọn tháp nhỏ. Dưới nắng thu, chúng đổ bóng trên đại lộ, quyến rũ khách bộ hành bằng vẻ ngoài kỳ lạ và dẫn họ vào không gian của những bức tượng, những ký tự đậm đặc hương vị cổ xưa. Rồi sau đó, các tòa kiến trúc đưa du khách ra đại lộ thênh thang và phó thác cho sự tò mò của chính họ dẫn đường chỉ lối. Từ đây, du khách có rất nhiều lựa chọn như tham quan những tòa nhà hình vòm khác, tham quan ngôi trường đào tạo thánh sứ nổi tiếng, hay thư giãn trong không gian rợp bóng cổ thụ và hương hoa ở khu công viên nằm cạnh sông Vành Đai Xanh. Nhưng hầu hết mọi người chẳng muốn bỏ lỡ những chiếc xe chở khách chạy dọc trục đại lộ chính, bởi phía cuối đại lộ là hoàng cung – trái tim thủ đô, đầu não của Phi Thiên quốc.
Nếu tham quan hoàng cung Phi Thiên, các du khách đều cố sống cố chết đến tòa tháp trung tâm để chiêm ngưỡng ngai vàng. Vậy ở đó có gì đặc biệt? Là tòa đại điện rộng lớn? Là từng hàng cột trụ chạm trổ tinh xảo in bóng trên nền đá xám màu tro lạnh? Là bốn bức tường treo những bức tranh kể lại lịch sử Phi Thiên, xen lẫn bởi những ô cửa hình kim cương? Hay là một chiếc ghế bạc nằm chính giữa đại điện, hai tay vịn xòe rộng đôi cánh thủy tinh lấp lóe bảy màu khi ánh nắng chiếu qua? Nơi ấy đẹp, nhưng chưa phải đẹp nhất. Người ta lại nói hoàng cung ở Bắc Thần quốc mênh mông hơn thế, hoàng cung của Diệp quốc lộng lẫy hơn thế. Nếu so với chiếc ngai đúc từ khối băng vĩnh cửu tại miền cực bắc, được đặt trên đài cao và phải bước qua hai mươi bậc cầu thang trong suốt mà diễm lệ ở Băng Hóa quốc, chiếc ngai vàng Phi Thiên có đôi phần lép vế. Song đấy là chuyện dư thời gian cho những kẻ ưa nghệ thuật hoặc những người thù ghét Phi Thiên. Trong mắt người đời, ngai vàng Phi Thiên là đẹp nhất, bởi lẽ Phi Thiên là đế quốc mạnh nhất thế giới. Tâm Mộng đang sống trong kỷ nguyên văn minh, đã qua lâu rồi thời đại dã man hay thời kỳ “phi cơ giới” đầy khói lửa. Nhưng dù ở thời nào, kẻ mạnh vẫn sở hữu những đặc quyền mà kẻ yếu hơn không thể có, huống hồ là kẻ mạnh nhất.
Phi Thiên đã chiếm lĩnh vị trí mạnh nhất suốt ba thế kỷ. Chừng nào vị trí ấy chưa sang tay chủ mới, tuy rằng chế độ quân chủ chuyên chế chỉ còn là một từ cổ, song chủ nhân chiếc ngai vàng có đôi cánh thủy tinh vẫn được xưng tụng là người quyền lực nhất thế giới, là “vua của các vị vua”. Dòng họ Bạch Dương đã làm chủ chiếc ngai qua mười thế hệ và không ai nghi ngờ vị thế của họ lẫn Phi Thiên quốc.
Đã có thời, chiếc ngai với đôi cánh thủy tinh được coi là tất cả. Dù chế độ quân chủ chuyên chế bị bãi bỏ và hoàng cung trở thành nơi tham quan, các vị hoàng đế không muốn nền đá màu tro của đại điện ngập dấu chân qua lại, không gian trang nghiêm dày đặc những lời bình phẩm nọ kia. Kết quả là tòa đại điện cấm cửa khách du lịch. Nhưng kể từ thời Bạch Dương đệ thất, các vị hoàng đế chỉ coi nơi đó như vật trang trí.
Tính từ bức tường thành bao bọc hoàng cung, có cả thảy bảy con đường hướng về tòa tháp trung tâm. Một đường chính đi qua cánh cổng vòm được trấn giữ bởi hai bức tượng chiến binh khổng lồ, sáu đường phụ chia đôi: một nửa đi qua các cổng thành ở hướng đông nam, nửa còn lại bên tây nam. Mỗi con đường lại có nhiều nhánh rẽ nhỏ hơn dẫn tới từng khu vực riêng biệt, mỗi khu là một tổ hợp những kiến trúc hình vòm san sát nhau. Nhìn từ trên cao, nếu coi tòa tháp trung tâm là gốc và con đường chính diện qua cánh cổng vòm làm thân, hoàng cung tựa như một đại thụ xum xuê lá, còn khách du lịch là bầy kiến đang leo trèo khắp các cành cây. Tuy nhiên, trên cây đại thụ có một địa điểm mà bầy kiến không thể đặt chân tới: khu hành chính. Nơi này thoạt nhìn cũng giống cảnh quan xung quanh khi sở hữu những tòa nhà thân vòm cùng vài ngọn tháp nhỏ trên mái. Nhưng sâu bên trong nó có một căn phòng đặc biệt, một căn phòng mà hết thảy tài lực, vật lực và nhân lực của Phi Thiên ra sức bảo vệ. Không ngoa khi nói rằng mọi tài sản của hoàng cung gộp vào cũng chưa bằng một góc của căn phòng đó. Nó được gọi là phòng Bạch Quang.
Không mấy ai có cơ hội chiêm ngưỡng phòng Bạch Quang. Còn trong mắt những người thường xuyên qua lại, ví dụ như nhân viên vệ sinh, họ thấy nó khá bình thường. Không phải bình thường theo kiểu gần nhiều hóa chán, mà tự thân nó vốn vậy. Căn phòng hình hộp, bốn bức tường phủ sơn trắng và một ô cửa sổ trông ra quận Trăng Khuyết. Ở tường bên phải có giá sách cùng một ghế đệm, thích hợp cho thú vui đọc sách. Phía tường bên trái treo hai bức ảnh; một bức chụp gia đình ngài đệ thập, ngày ấy tóc của hoàng đế chưa bạc nhiều, Lục Châu vẫn bé xíu, Lục Thiên để kiểu tóc lòe loẹt của bọn choai choai mới lớn dù bị nhắc nhở nhiều lần. Và ngày ấy, gia đình đệ thập còn bóng dáng một người phụ nữ. Chân dung của bà xuất hiện trong bức ảnh thứ hai. Thi thoảng các nhân viên thấy ngài đệ thập đọc sách, có lúc lại thấy ông đang ngắm nghía bức chân dung. Sơ sài, đơn điệu, phòng Bạch Quang tựu chung là vậy. Căn phòng thậm chí không đủ điều kiện để ở, chứ chưa nói nhu cầu làm việc. Nó giống một nơi trị liệu tâm thần cho người bị tổn thương tinh thần nặng nề thì đúng hơn.
Nhưng phòng Bạch Quang có sự đặc biệt mà chỉ riêng Bạch Dương đệ thập mới biết. Hàng ngày, lúc chín giờ sáng, ngài đệ thập sẽ vào phòng và đọc mật khẩu. Khi mật khẩu khớp lệnh, mặt sàn của căn phòng sẽ tách ra, sau đó trồi lên một chiếc ghế kim loại màu xám với dáng vẻ khẳng khiu, không có lấy một đường nét mềm mại và thách thức mọi cái lưng đã qua tuổi ngũ tuần, mà ngài đệ thập đã gần sáu mươi. Hoàng đế nhớ rằng trong lần đầu tới đây, ông lầm tưởng chiếc ghế là một dụng cụ tử hình cổ xưa. Nhưng chính nó mới là ngai vàng của Phi Thiên quốc. Bốn vị hoàng đế Bạch Dương đã lèo lái Phi Thiên qua những giai đoạn khó khăn nhất, đưa đất nước tới những thời khắc huy hoàng thông qua thứ “dụng cụ tử hình cổ xưa” này. Bạch Dương đệ thất đặt cho nó cái tên “Ngai Thép”.
Hiện thời, nắng thu đang mơn man trên cửa sổ phòng Bạch Quang, vẫy những ngón tay óng ả sắc vàng khơi gợi thú đọc sách của ngài đệ thập. Nhưng vị hoàng đế chẳng còn thời gian mà để tâm thú vui riêng tư nữa. Ông đang ngồi trên Ngai Thép, ánh mắt đối diện khoảng không tràn ngập màu xanh dương của máy chiếu ba chiều. Bên tay phải của hoàng đế là những văn bản lửng lơ giữa không trung, còn trước mặt ông là tám người ngồi so le nhau. Những người này khoác áo dài và đều hướng gương mặt ẩn khuất sau mũ trùm về phía hoàng đế, mỗi khi họ cử động, thân hình của lại chớp lóe những tia sáng. Bọn họ không có mặt ở đây mà đó chỉ là ảnh ảo tạo nên từ máy chiếu. Họ đang chờ đợi ý kiến của ngài đệ thập. Họ là những người hiếm hoi biết được ngai vàng thực sự của dòng họ Bạch Dương. Người đời biết họ, sợ họ song chưa từng thấy mặt họ. Tám người này là thành viên Hội đồng pháp quan Phi Thiên quốc.
-Phái Miền Đông đang yêu cầu ngài ra nghị quyết dẹp bỏ “chợ rác”. – Một pháp quan nói – Họ muốn trong mười năm tới, “chợ rác” phải biến mất. Bọn họ nói nếu ngài không quyết định sớm, họ sẽ làm bản thỉnh nguyện thu thập ý kiến của người dân.
Ngài đệ thập chống cằm đọc văn bản, chốc chốc khoát tay đọc trang mới hoặc tìm trang cũ. Đôi mắt của hoàng đế đã già như tuổi của ông, những chữ cái trên văn bản phải phóng to hơn và sáng hơn để ông có thể đọc được. Là bình thường nếu ai đó nghĩ rằng sẽ chẳng có một quyết định sáng suốt nào sinh ra từ cặp mắt có bờ mí sụp ấy. Nhưng các pháp quan đều biết trong đôi mắt của đệ thập là vô số luồng suy nghĩ đang xoắn quện, bện chặt với nhau thành những cây kim bén nhọn ẩn tàng dưới làn mục quang lờ đờ. Bao năm qua, họ nể sợ ông cũng vì điều đó.
Đang đọc văn bản, ngài đệ thập chợt nói:
-Các ông nghĩ sao? Bỏ hay không bỏ “chợ rác”?
Một người lên tiếng với giọng nam cao và chói, tựa tiếng rít của gió rét trên miền cực bắc thế giới Tâm Mộng, ông ta nói nhanh và phải căng tai ra mới nghe rõ từng lời:
-Tôi nghĩ là không, thưa ngài. Chúng ta còn nhiều cơ sở nghiên cứu ở “chợ rác”. Một nửa đề án nghiên cứu vũ khí hóa sinh đang nằm ở đó và chúng vẫn chưa hoàn thiện. Chỉ có Uất Hận Thành, ý tôi là “chợ rác” mới cung cấp đủ nguyên liệu thí nghiệm. Hơn nữa, khoảng một phần năm vũ khí của chúng ta chở tới Kim Ngân lục địa do họ nắm giữ, nếu bỏ mối làm ăn này, chúng ta phải chuyển các đơn hàng qua Mũi tên vèo vèo, chi phí sẽ độn lên rất nhiều.
-Vậy ông muốn để nó ở lại Phi Thiên thành mãi? – Đệ thập hỏi.
-Tôi không có ý đó, nhưng trước mắt thì không thể dẹp bỏ “chợ rác”, ít nhất là hai mươi năm nữa.
Một người khác trong hội đồng lên tiếng bằng giọng nữ nồng ấm, ngữ điệu nhẹ nhàng; bà ta ngồi ngay cạnh người đàn ông có giọng nói trầm đục, chẳng khác nào mặt trời đang chiếu xuống hoang mạc băng giá:
-Chúng ta nên tiến hành từ bây giờ, thưa ngài. Đầu tháng sau là kỳ họp quốc hội, ngài nên có một câu trả lời chính thức.
-Vậy theo bà phải bắt đầu từ đâu? – Hoàng đế hỏi.
-Việc làm. – Người phụ nữ đáp – Hiện “chợ rác” có khoảng ba triệu nhân khẩu, đó là nguồn nhân lực dồi dào mà chúng ta chưa khai thác được chút nào. Các ngành chế tạo đang thiếu người, chúng ta sẽ đưa họ về những nơi đó, một số có thể đưa vào quân đội dự bị. Đặc biệt là thợ rèn, nếu có thể dụng thợ rèn của “chợ rác”, tôi tin rằng trong mười năm tới chúng ta không phải bỏ một đồng nào để đào tạo thợ rèn mới. Cư dân Uất Hận Thành là những kẻ thích ứng với mọi điều kiện sống, tôi tin sẽ không quá mất thời gian với họ. Sau đó chúng ta có thể di dân, đưa họ về các thành phố khác sinh sống.
Người đàn ông sở hữu giọng nói trầm đục liền quay sang nói:
-Kế hoạch của bà rất hay, nhưng cư dân Uất Hận Thành không dễ sai bảo như bà tưởng đâu. Bọn chúng sinh ra để chiến đấu và tranh giành, như bầy thú hoang đánh nhau vì lãnh thổ vậy. Nơi đó tệ nạn khủng khiếp! Cứ mười phụ nữ thì có hai gái điếm, cứ mười gã đàn ông thì một nửa thuộc về đám băng đảng và hầu như đứa trẻ con nào cũng biết ngón nghề ăn cắp. Chúng như một ổ bệnh dịch và kế hoạch của bà sẽ khiến Phi Thiên đột tử lúc nào không hay.
Lời lẽ của ông ta lạnh ngắt và gay gắt như cơn gió buốt quất vào da thịt. Còn người phụ nữ bình thản trả lời:
-Vấn đề “chợ rác” đã tồn tại quá lâu, số lượng bản yêu sách đề nghị dẹp bỏ nó ngày càng tăng. Năm ngoái là hai mươi bản, năm nay mới giữa tháng 9 đã là sáu mươi bản. Phái Miền Đông có tiếng nói trong dân chúng, nếu hoàng đế không có câu trả lời cụ thể, uy tín của chính phủ sẽ đi xuống. Dân số “chợ rác” đang tăng nhanh, và chẳng bao lâu nữa họ sẽ phá vỡ hàng rào giới nghiêm. Lúc ấy kết quả sẽ tồi tệ hơn nhiều và ông sẽ chịu trách nhiệm chứ?
Người đàn ông toan nói thêm song phải dừng lại trước cái giơ tay ra hiệu của đệ thập. Tám vị pháp quan liền im lặng và hướng cái nhìn chăm chú về Ngai Thép. Trong những ánh mắt đó có vài tia nhìn mang theo áp lực vô hình, nhưng phần đông là thành thực chờ đợi quyết định cuối cùng của hoàng đế. Ngài đệ thập nhắm mắt, toàn thân hầu như không cử động, trừ lồng ngực phập phồng một cách chậm rãi. Căn phòng Bạch Quang tưởng chừng đang nở ra xẹp vào theo từng hơi thở của ngài đệ thập.
Không gian lặng tĩnh chợt có tiếng sột soạt nhỏ, là ngài đệ thập cựa mình. Ông rờ đến tay vịn bên trái của Ngai Thép rồi ấn một cái nút nhỏ, từ tay vịn lóe lên gương mặt nhân viên phục vụ:
-Ngài cần gì, thưa hoàng đế?
-Trà nóng, thật đặc, bỏ thêm chút lá “thiết mộc” vào.
-“Thiết mộc” không tốt cho sức khỏe, thưa hoàng đế.
-Không sao, chỉ một chút thôi. Phiền anh làm giùm ta, cảm ơn.
Khi đã ổn định chuyện trà nóng thật đặc và sức khỏe, ngài đệ thập mới quay ra các vị pháp quan:
-Được rồi! Ta đã có quyết định. Thứ nhất, chúng ta chưa thể loại bỏ “chợ rác” vì họ đang giữ nhiều mối trung chuyển vũ khí, vả lại chúng ta cần họ thêm một thời gian dài nữa. Thứ hai, chúng ta cần loại bỏ vì dân số ở đó ngày càng đông và chúng ta không thể kiểm soát được. Hơn nữa nó đã tồn tại quá lâu và quá nhiều hệ lụy. Các băng đảng đang lớn mạnh và “chợ rác” sẽ không đủ chỗ chứa cho chúng. Vậy nên chúng ta phải bắt đầu kế hoạch ngay từ bây giờ. Di dân là việc trước tiên, hãy khoanh vùng, lựa chọn một số đối tượng để thí điểm trước, sau đó mới bắt đầu tiến hành tổng thể. Phụ nữ và trẻ em là đối tượng được ưu tiên trước, sau đó là người có tay nghề, cuối cùng mới là thành viên băng đảng.
Một vị pháp quan giơ tay xin bày tỏ ý kiến. Giọng người này khàn khàn với thanh quản hằn sâu dấu ấn thời gian, từng lời từng chữ mang dư âm của những sự việc mà ông ta từng trải nghiệm:
-Tôi tán thành ý kiến của ngài, nhưng thực sự là có quá nhiều vấn đề. Đầu tiên là trẻ em. Những đứa trẻ của “chợ rác” chắc chắn không thể phù hợp với môi trường bên ngoài, nhất là trẻ vị thành niên. Suy nghĩ của chúng khác hoàn toàn đám trẻ Phi Thiên. Theo số liệu, “chợ rác” có gần tám vạn người đang ở độ tuổi thanh thiếu niên, đem tám vạn người đó vào xã hội và trường học, chúng sẽ trở nên tốt đẹp hay xa lánh tất cả? Tới lúc đó chúng sẽ bị cô lập và quay lại con đường cũ. Rồi còn đám băng đảng, chúng không phải loại tội phạm thông thường. Chiến đấu và giết chóc là bản năng của chúng, có thể hữu dụng cho quân đội, nhưng thế giới bây giờ đâu phải lúc nào cũng nảy sinh chiến tranh? Và tôi tin rằng nếu đưa chúng vào cộng đồng, trật tự xã hội sẽ bị phá vỡ.
Ngai Thép bỗng phát ra một tiếng “bíp” nhỏ, đệ thập liền bấm nút ở tay vịn bên phải. Cửa phòng Bạch Quang mở và người phục vụ mang vào tách trà đặc màu xanh dương, bề mặt nước trà nổi vài ngọn lá “thiết mộc” hình lưỡi mác sắc đỏ tía. Sau khi thưởng thức thứ trà, ngài đệ thập mới nói tiếp với khuôn mặt hơi nhăn nhó vì vị đắng của “thiết mộc” đang bấu víu cuống họng:
-Thế này, chúng ta không di dân ồ ạt mà chia thành từng giai đoạn tùy theo tình hình. Như ta đã nói, phụ nữ và trẻ em sẽ được ưu tiên trước. Tạo việc làm cho phụ nữ, đưa trẻ em đến môi trường sống tốt hơn, cho chúng quen thuộc xã hội một thời gian rồi hẵng gửi chúng tới trường. Phải phân bổ đồng đều, một quận không được phép có một trăm đứa trẻ “chợ rác”, theo như số quận ở các thành kể cả thủ đô, việc phân bổ không khó lắm.
Người đàn ông có giọng khàn khàn già nua liền nói:
-Nếu vậy, chúng ta cần người giám sát chúng. Trong chính phủ, ủy ban dân số là đám người rỗi việc nhất, giờ có việc cho họ làm rồi đấy! Tuy nhiên ngân sách sẽ phải bỏ ra một khoản khá lớn để xây dựng thêm trường học mới.
-Cũng được, chúng ta sẽ bàn bạc kỹ hơn. – Hoàng đế gật đầu – Về đám người có tay nghề, ta đồng ý là phải trưng dụng họ bằng mọi giá. Ta từng tiếp xúc với họ, trong mắt họ chẳng có hoàng đế hay chính phủ, họ chỉ quan tâm một nơi để làm ăn và sinh sống. Đám người này dễ thuyết phục nhất và tốn ít công sức nhất. Còn về băng đảng… căn nguyên của mọi sự tranh cãi giữa tôi và các vị là vì băng đảng. Hiện tại tôi có vài giải pháp. Thứ nhất, chúng ta vẫn cố gắng thuyết phục những người muốn hoàn lương. Những thành phần ngoan cố có thể đưa sang phương án thứ hai: các mỏ quang tố đang thiếu nhân lực và thiếu nguồn, chúng ta có thể đưa họ tới lục địa Kim Ngân. Vừa tiện đường khai thác, vừa tiện đường tống khứ chúng. Nếu cả hai phương án trên không xong, chúng ta buộc phải đưa chúng vào nhà tù.
Một vị pháp quan ở hàng ghế thứ hai bên trái giơ tay phát biểu ý kiến. Đó là một người đàn ông với âm vực trầm đục, lời nói của ông ta ríu lại như thể chữ nghĩa ngoắc chặt vào nhau:
-Nhà tù đang quá tải, thưa ngài. Chúng ta không chỉ giữ tội phạm trong nước mà cả tội phạm ngoại bang. Thật đáng tiếc khi quá nửa số đó không phải tử tù, nếu vậy thì chúng ta có đủ chỗ chứa cho bọn “chợ rác”. Và tôi không tin hai phương án đầu tiên của ngài sẽ có hiệu quả.
Ngài đệ thập nhấp ngụm trà rồi nhún vai:
-Ông có cách gì?
-Chiến tranh cục bộ, thưa ngài. Hiện tại chúng ta đang tranh chấp với Lưu Vân quốc tại eo Tích La. Chỉ cần ngài phát lệnh tổng động viên, chúng ta sẽ đưa đám băng đảng ra ngoài mặt trận. Lúc ấy Lưu Vân quốc sẽ lo nốt phần việc còn lại .
Người phụ nữ ban nãy liền kêu lên:
-Thật điên rồ! Chiến tranh hai mươi năm trước còn chưa đủ sao? Lẽ nào ngài muốn đặt thêm bia đá thứ ba ở quảng trường?
-Chiến tranh vẫn đang xảy ra, thưa quý bà. – Người đàn ông với giọng trầm đục đáp lại – Sau ngày dựng bia đá thứ hai, chiến tranh vẫn ngấm ngầm xảy ra và càng lúc càng lớn. Lưu Vân quốc sẽ tiếp tục gây chiến vì eo Tích La và chúng ta không còn lựa chọn nào khác.
Người phụ nữ liền đứng phắt dậy, mũ trùm suýt chút nữa rơi khỏi đầu:
-Đó là kế hoạch bẩn thỉu!
Người đàn ông nọ cũng không chịu kém cạnh. Ông ta đứng lên, âm vực vốn trầm đục nay hạ xuống thật thấp, tựa một xoáy nước đen ngòm chực nuốt chửng tất cả:
-Còn kế hoạch di dân của bà sẽ làm vấy bẩn Phi Thiên, không chóng thì muộn! Bao công sức gây dựng Phi Thiên từ thời đệ thất sẽ bị đám “chợ rác” nhổ toẹt vào!
Và thế là tất cả pháp quan đứng dậy tham gia vào cuộc đấu khẩu. Có người ủng hộ kế hoạch di dân, có người đồng thuận phương án chiến tranh, có người cố gắng hòa giải, có người ngoài mặt hòa giải nhưng lời lẽ đầy kích động hòng gây thêm bất hòa. Dù đó chỉ là ảnh chiếu của họ, nhưng không khí phòng Bạch Quang bỗng chốc căng thẳng hơn bao giờ hết. Nhưng ngài đệ thập không hề can ngăn họ mà chỉ bóp trán suy nghĩ. Khi đã thông suốt, ông mới giơ tay ra hiệu im lặng. Đám pháp quan lập tức ngừng cãi vã, ai nấy về chỗ ngồi dù hơi thở của họ dưới tấm mũ trùm vẫn đầy hằn học.

-Tranh chấp ở eo Tích La là chuyện “vốn dĩ nó phải thế”. Tuy nhiên gây chiến ngay bây giờ là thiếu khôn ngoan. Dân chúng sẽ không đồng ý và chúng ta cũng không đủ lý do phát động chiến tranh. Hãy thực hiện kế hoạch di dân “chợ rác”, ta muốn một tuần sau các vị phải có báo cáo số liệu đầy đủ và chi tiết nhất có thể.
Một vị pháp quan nói:
-Thưa ngài, chúng ta có nên đợi Trần Độ quay về rồi tiếp tục bàn thảo “chợ rác”? Ông ấy là người hiểu rõ “chợ rác” nhất.
-Ta sẽ bàn bạc thêm với ông ta. Nhưng kế hoạch di dân sẽ không thay đổi. Cứ như vậy đi.
Các pháp quan liền cúi đầu, những ảnh chiếu của họ nhòa dần rồi biến mất. Không gian màu xanh dương tiêu thất, trả lại không khí tĩnh lặng vốn có của phòng Bạch Quang. Chiến tranh, chiến tranh… - ngài đệ thập bóp trán suy nghĩ. Nếu có thể loại bỏ hoàn toàn Uất Hận Thành, phát động chiến tranh không phải là cái giá quá đắt. Ngài đệ thập trước nay luôn cứng rắn trong vấn đề lãnh thổ, dư luận chẳng lấy làm lạ nếu ông đơn phương gây chiến. Nhưng ai biết cái giá sẽ đẩy lên tận đâu? Đây không phải kinh doanh, càng không phải món hàng để thương lượng. Bài học về cuộc chiến hai mươi năm trước với Lưu Vân quốc còn sờ sờ ra đó và đệ thập không muốn trải nghiệm thêm lần nào nữa.
“Chợ rác” luôn khiến hoàng đế mất ăn mất ngủ, nay lại thêm chuyện chiến tranh vô tình bị khơi ra, đệ thập càng thêm trăn trở. Tuy nhiên ông không hề né tránh mà cố gắng đối mặt với vấn đề. Ông tìm đến tách trà, hy vọng vị đắng của lá “thiết mộc” sẽ khơi thông dòng suy nghĩ đang ùn ứ trong bộ não. Nhưng mới nhấp được nửa ngụm, ông chợt nghe thấy giọng nói từ Ngai Thép vang lên:
-Thưa ngài, ông Trần Độ xin gặp.
Nghe tên Trần Độ, thần tình ngài đệ thập phấn chấn hơn nhiều. Cuối cùng thì sau một tuần mất tăm mất tích, thủ lĩnh pháp quan đã có tin tức. Bất quá tin tức kiểu gì thì đệ thập không biết, bởi Trần Độ không phải loại người dễ đoán.
Một lát sau, căn phòng Bạch Quang lại chìm trong sắc xanh dương, ảnh chiếu của Trần Độ dần hiện lên. Đó là một lão già với cái đầu hói lơ thơ tóc bạc, khuôn mặt bị thời gian đục đẽo rất nhiều, nhất là đôi mắt, nó trũng sâu và thăm thẳm như đáy vực. Lão cúi đầu trước đệ thập, bàn tay khô đét đặt lên ngực một cách trang trọng:
-Hoàng đế.
-Ông đang ở đâu vậy? – Đệ thập hỏi.
-Bình Di quốc, chúng ta có tin tốt. Đội Thổ Hành vừa bắt được Tư Ngang, gã đại diện của Mũi tên vèo vèo.
-Tốt, vậy là Bất Vọng sẽ được thả. Hãy đưa gã đó về Đại Hội Đồng càng nhanh càng tốt, ta cần Bất Vọng ở bên cạnh Lục Châu càng sớm càng tốt.
Trần Độ chắp tay sau lưng và im lặng, nhưng tia nhìn sắc lẻm của lão đã nói lên tất cả. Đệ thập đã quá quen cảnh này, ông nói:
-Lẽ nào ông có kế hoạch khác?
-Phải, thưa ngài. – Trần Độ đáp lời – Theo tôi, chuyến đi của công chúa chỉ cần Chiến Tử, Vô Phong và Thú là đủ, không nhất thiết phải cần Bất Vọng. Nhiệm vụ của Bất Vọng là phải đăng ký tạm trú ở nhà tù không trung của Đại Hội Đồng thêm một thời gian nữa.
-Tại sao? Tư Ngang có giá trị gì?
-Không phải Tư Ngang giá trị, mà chúng ta có thể đem hắn trao đổi với Đông Hoàng.
-Ông muốn thâm nhập sâu hơn vào đặc khu kinh tế Cửu Long?
Trước đây, vì truyền thống chôn cất của dòng họ, ngài đệ thập đã tìm đến bộ tộc Lạc Việt – tổ tiên người Xích Quỷ và xin xây mộ phần trên ngọn núi Hoành Sơn, đổi lại Phi Thiên sẽ giúp Xích Quỷ thoát khỏi chiến tranh. Tuy nhiên, đằng sau sự giúp đỡ là kế hoạch thao túng của Phi Thiên mà đặc khu kinh tế Cửu Long là kết quả. Trong những dòng vốn rót vào Cửu Long, riêng Phi Thiên chiếm khoảng một phần tư và kẻ nào nắm càng nhiều vốn, sức ảnh hưởng càng lớn. Nói cách khác, Cửu Long là một ngón tay trong bàn tay của Phi Thiên.
-Tôi đã nghĩ thế, thưa ngài. Nhưng tình hình bây giờ không thích hợp. – Trần Độ trả lời – Ở Cửu Long, chúng ta có lợi thế kinh tế nhưng chính trị thì không. Xích Quỷ đã can thiệp quân sự từ lâu và nếu cố gắng, chúng ta chỉ thiệt. Đó là kế hoạch lâu dài, còn hiện tại, tôi đang nhắm tới một thứ có giá trị ngay trước mắt và thật may, lợi ích của nó còn lâu hơn cả Cửu Long.
-Là gì?
-Theo tin tình báo, hiện Đông Hoàng đang làm chủ một công ty khai thác quang tố đặt tại miền tây Kim Ngân lục địa, tên là Vĩnh Hằng. Đây là một trong số ít công ty tư nhân được quyền khai thác quang tố. Chúng ta sẽ lờ đi vụ hắn chuyển hàng cho Xích Tuyết, đổi lại, hắn phải nhượng toàn bộ cổ phần cho Phi Thiên.
Trần Độ vừa nói vừa thao tác trên máy tính ảo chuyển dữ liệu về Phi Thiên. Chừng hai phút sau, từ tay vịn của Ngai Thép hiện lên bản báo cáo mô tả công ty nọ. Ngài đệ thập chăm chú đọc, ánh mắt lộ vẻ hoài nghi:
-Chủ tịch công ty này là một người tên Vĩnh Chi Niên, đâu phải Đông Hoàng?
-Là người thế mạng, thưa ngài. Vĩnh Chi Niên chỉ là một nhân vật ất ơ được Đông Hoàng đưa lên để che giấu thân phận. Cách đây mười năm, hắn mua cổ phần của công ty này, từng bước thao túng các cổ đông và trở thành chủ tịch. Công ty này sở hữu hai mỏ quang tố loại trung tầng, ước chừng khoảng ba mươi năm nữa mới cạn. Hắn bán quang tố cho mọi khách hàng, miễn là trả giá cao, nó giải thích tại sao Đông Hoàng lại giàu có như vậy.
Đệ thập nhìn vào danh sách khách hàng của công ty Vĩnh Hằng. Trong số đó có tổ chức lớn như Thánh Vực, các đế quốc như Băng Hóa hay Diệp quốc, hoặc tập đoàn chế tạo đao kiếm. Tuy nhiên, ông phát ra một điều lạ và thắc mắc ngay:
-Tại sao hắn không chuyển đổi chủ sở hữu công ty sang Xích Quỷ theo luật chuyển đổi? Như vậy Xích Quỷ sẽ nghiễm nhiên có mỏ quang tố.
Trần Độ cười nhạt:
-Đông Hoàng là một kẻ giàu có điển hình của Xích Quỷ: không bao giờ cho, chỉ có bán, mà bán phải được giá. Trong đầu óc của bọn chúng không có chỗ cho quốc gia, nơi nào có lợi, chúng sẽ đến, như Phi Thiên chúng ta là ví dụ. Tuy nhiên, nói đi cũng phải nói lại, nếu công ty đó lọt vào tay chính phủ Xích Quỷ thì nó sẽ tan tành sớm vì tham nhũng và những kẻ có đầu óc giống Đông Hoàng.
Quang tố là thứ kim loại đắt đỏ nhất, quý hiếm nhất và đương nhiên, có giá trị lớn nhất thế giới Tâm Mộng. Kim cương hay vàng bạc đứng trước nó chỉ là cỏ rác bởi quang tố có khả năng tế luyện phép thuật cho thánh sứ. Vì nó, các đế quốc trên thế giới liên tục tranh giành lẫn nhau và cũng bởi nó, Kim Ngân lục địa không bao giờ ngừng đổ máu. Một mỏ quang tố hạ tầng là tài sản cấp quốc gia, huống hồ những hai mỏ trung tầng? Nhưng có đáng khi đánh đổi chúng với sinh mạng của Lục Châu? Kim Ngân là địa ngục trần gian, nơi có thể bẻ cong ý chí của người đàn ông mạnh mẽ nhất. Trước bài toán khó, hoàng đế thêm một phen cân nhắc nặng nhẹ.
Trần Độ hiểu rõ hoàng đế đang nghĩ gì, lão tiếp tục:
-Thực sự là chúng ta đang gặp khó, thưa ngài. Phi Thiên sở hữu hai mươi mỏ quang tố ở Kim Ngân nhưng chỉ bốn mỏ thuộc loại thượng tầng, năm mỏ trung tầng, còn lại là hạ tầng. Các mỏ hạ tầng đang cạn kiệt và khoảng bảy tám năm nữa sẽ hết giá trị. Nếu chúng ta không nhanh tay, Băng Hóa quốc sẽ trở thành nước dẫn đầu về số lượng mỏ quang tố, đồng thời kho dự trữ sẽ hao hụt nhanh chóng.
-Vậy còn Bất Vọng, ông tính để hắn đăng ký tạm trú ở nhà tù không trung thật hả?
Trần Độ vừa cười vừa lắc đầu:
-Tạm trú ngắn hạn thôi, thưa ngài. Lời khai của Tư Ngang sẽ không kết tội Đông Hoàng nhưng cũng chẳng tổn hại tới Bất Vọng. Không có chứng cớ luận tội, tôi nghĩ một tháng nữa, Bất Vọng sẽ được thả.
-Nếu Đông Hoàng không đồng ý? – Đệ thập hỏi.
Lão già xương khô cười mỉm, khóe miệng vẽ thành đường nham hiểm trên bộ mặt gầy đét:
-Tôi sẽ tự mình thuyết phục và hắn – phải – đồng – ý, xin ngài yên tâm. Hắn là con buôn và nói chuyện với lũ con buôn bao giờ cũng dễ.
Quang tố, con gái. Lợi ích, gia đình. Tất cả đang tranh đấu quyết liệt trong tiềm thức của ngài đệ thập. Trong một thoáng, đôi mắt hoàng đế chợt liếc về tấm ảnh gia đình, khi ấy gia đình của ông vẫn còn đủ bốn người. Một thứ tình cảm nhỏ nhoi trỗi lên từ đáy lòng ông, nhưng rất nhanh sau đó, nó chìm xuống trước sức ép khủng khiếp từ uy quyền của lí trí – thứ lí trí sinh ra từ người mang danh “hoàng đế”. Ngài đệ thập lên tiếng:
-Vậy cứ theo ý ông.
-Cảm ơn ngài, tôi sẽ gửi tin ngay khi có kết quả.
Ảnh chiếu của Trần Độ biến mất. Căn phòng Bạch Quang rũ bỏ tấm áo khoác xanh dương, phơi bày sự sơ sài của nó dưới nắng thu vàng óng. Ngài đệ thập rời Ngai Thép và tới bên cửa sổ, đôi mắt hướng về khu công viên nằm cạnh sông Vành Đai Xanh. Bóng cây dày che khuất tầm nhìn của ông, nhưng ông có thể cảm nhận dưới những tán lá xanh mát, từng gia đình đang vui cười và tận hưởng nắng thu đẹp đẽ. Bạch Dương đệ nhất đã mong mỏi nhìn thấy một Phi Thiên như thế, còn đệ thập sẽ để niềm mong ước của đệ nhất kéo dài tới chừng nào ông còn tại vị. Nếu phải đánh đổi sự an toàn của con gái với cảnh tượng thanh bình kia, đệ thập sẽ đánh đổi.
Nhưng cứng rắn bao nhiêu, đệ thập lại buồn bấy nhiêu. Căn phòng Bạch Quang trống rỗng thế nào, cõi lòng ông vô định như vậy. Khi ngồi trên Ngai Thép, ông là hoàng đế. Khi rơi Ngai Thép, ông chỉ là một ông già gần sáu mươi tuổi.
Sáu mươi tuổi cô đơn và lạc lõng. Một thứ cảm xúc kinh khủng mà những kẻ trẻ tuổi không bao giờ thấu hiểu.
-Thưa ngài, bữa trưa đã sẵn sàng.
Tiếng gọi từ Ngai Thép kéo hoàng đế về thực tại. Ngài đệ thập định rời đi nhưng một chút suy nghĩ khiến ông dừng chân. Ông bấm một nút nhỏ trên tay vịn Ngai Thép rồi nói:
-Hỏi giùm ta Lục Thiên bận bịu gì không? Ta muốn ăn trưa với cậu ta.
-Vâng, thưa ngài.
Ngài đệ thập kiên nhẫn chờ đợi. Một phút rồi bốn phút, thời gian với hoàng đế dài đằng đẵng tựa bốn năm. Sau bốn phút, cuối cùng ông cũng có câu trả lời:
-Thưa ngài, thống lĩnh Lục Thiên đang bận. Tuy nhiên, thống lĩnh có thể gác công việc…
-Thôi, không cần, cứ nói với thống lĩnh giải quyết công việc trước.
Ăn trưa à? – Ngài đệ thập tự hỏi.
Phải, đã tới giờ ăn trưa. – Ngài tự trả lời.
Và rồi vị hoàng đế Phi Thiên rời khỏi phòng Bạch Quang để ăn trưa. Một bữa ăn chỉ có mình ông, không có ai khác. Ông bắt đầu nhớ tới ngày xưa, khi mà gia đình còn đầy đủ…
 
Quyển 3 - Chương 4: Đề phòng


Với Vô Phong, sự xuất hiện của công chúa là một liều thuốc kích thích, nguồn năng lượng mà nó mang lại còn nhiều hơn cả chiếc bánh tăng lực màu đen. Vì công chúa, hắn sẽ dũng cảm hơn hoặc ngu dần đi, tùy hoàn cảnh. Tuy nhiên, ngay lúc này, khi mà Lục Châu ở rất gần và chỉ cách nàng một hơi thở, tinh thần gã tóc đỏ chẳng phấn chấn hơn chút nào. Bởi cách đấy vài chục bước chân, Chiến Tử đang âm thầm theo dõi cả hai. Gã như một cục băng hình người tỏa ra những cái nhìn lạnh lẽo. Công chúa coi đó là sự tận tụy, còn Vô Phong cho rằng gã tồn tại để đánh tụt cảm xúc của người khác. “Khi tao còn ở đây, mày đừng nghĩ chuyện động vào công chúa, dù chỉ một sợi tóc!” – Tên tóc đỏ có thể đọc điều ấy trong đôi mắt gườm gườm của Chiến Tử.
Nhiều ngày nay, công chúa và Chiến Tử thường xuyên ghé qua phòng luyện tập – điều mà trước đây họ hiếm khi làm. Lục Châu nhận ra kiến thức sách vở sẽ chẳng giúp được gì tại một nơi đầy bạo lực như Kim Ngân, sức mạnh và mạnh hơn thế mới là điều nàng cần. Ngoài ra, nàng muốn toàn đội vận hành như cỗ máy được lập trình sẵn. Không hỏng hóc, không trục trặc, cỗ máy vận hành trơn tru bao nhiêu, cơ hội sống sót của họ tăng cao bấy nhiêu. Cỗ máy chỉ thiếu duy nhất một mảnh ghép mang tên Thú, gã Thổ Hành không tập cùng họ vì còn bận xử lý nhiệm vụ của Thổ Hành. Nhưng nó không phải vấn đề lớn vì chiến binh Thổ Hành có khả năng thích ứng mọi hoàn cảnh, mà Thú lại là kẻ thích ứng hoàn cảnh giỏi nhất trung đội.
-Khi đánh đội hình, tôi cần anh đứng chếch về góc mười giờ… – Lục Châu nói với Vô Phong – …lần trước, trên đỉnh Hoành Sơn, anh hay di chuyển vào hướng mười một, mười hai giờ và cản tầm nhìn của tôi.
-Hiểu rồi, tôi sẽ chú ý. – Tên tóc đỏ đáp.
-Nếu tôi triệu hồi thần hộ mệnh, tôi cần anh bảo vệ từ góc chín giờ trở xuống. – Lục Châu tiếp lời – Đừng vượt qua góc chín giờ khi không cần thiết. Tầm đánh của A Sát Ca rất rộng, tôi có thể làm anh bị thương. Hãy tập lại, lần này tôi sẽ di chuyển A Sát Ca liên tục, hãy nhớ: các sóng năng lượng của thần hộ mệnh sẽ phát ra theo bốn chiều vuông góc, cảm nhận chúng và anh sẽ tính được cách thức di chuyển.
-Sao tôi có thể cảm nhận được?
Lục Châu chỉ lên tay, cười:
-Dấu xăm hộ vệ thánh sứ, nhớ chứ? Nó sẽ nhói lên khi anh đứng trong tầm ảnh hưởng của sóng năng lượng.
Sau đó, công chúa và Vô Phong bắt đầu bài tập di chuyển đội hình. Lục Châu niệm chú triệu hồi thần hộ mệnh, đó là lần thứ mười trong ngày nàng làm như vậy. Gương mặt nàng ướt đẫm, mồ hôi vương trên mí mắt, trên tóc, trên cánh mũi, như thể một trận mưa rào vừa tạt qua. Bàn tay nàng đỏ tấy vì vận nội lực quá nhiều và vì sức nóng từ những tia lửa điện của phép Lôi niệm. Song chừng ấy chẳng thể ngăn cản Lục Châu tiếp tục luyện tập. Trong mọi việc, công chúa luôn cố gắng gấp nhiều lần so với người khác. Nhưng còn một lý do nữa khiến nàng hăng hái gấp bội: chuyến đi sắp tới chắc chắn không có Bất Vọng.
Bạch Dương đệ thập rốt cục đã đặt lợi ích quốc gia lên trên sự an toàn của con gái mình. Vì những mỏ quang tố trung tầng, ông đành phải nhìn Lục Châu tiến vào Kim Ngân mà không có Bất Vọng bảo vệ. Về phần Đông Hoàng, lão biết Tư Ngang bị tóm và để thoát khỏi tội trạng, lão chấp nhận đề nghị của Phi Thiên, không kì kèo bớt một thêm hai dù chỉ một lời. Mất công ty khai thác quang tố, Đông Hoàng có tiếc? Dĩ nhiên lão tiếc đứt ruột, vừa tiếc vừa đau, tựa như tim gan phèo phổi bị móc ra mà không được tiêm thuốc gây mê. Với lão, đây rõ ràng là thương vụ lỗ vốn, nhưng sẽ chẳng bao giờ có chuyện lão đánh đổi sự tự do với tiền bạc. Thử thách độ dẻo dai của thân xác có tuổi đời trên bảy mươi với nhà tù không trung ở Đại Hội Đồng? – Đông Hoàng không điên. Điều quan trọng là lão có tự do. Còn tự do, lão còn làm được nhiều điều.
Mất sự phục vụ của Bất Vọng, ngài đệ thập tính việc sử dụng đội Thổ Hành để bảo vệ Lục Châu. Nhưng nguyên tắc tác chiến không cho phép dồn toàn bộ lực lượng đặc biệt vào một nhiệm vụ duy nhất, trừ phi đó là nhiệm vụ cấp quốc gia. Mà sứ mệnh của Lục Châu lại chưa đạt tới tầm hệ trọng như vậy. Ngài đệ thập có thể sử dụng “quyền tuyệt đối” – một quyền cho phép ông ra quyết định mà không cần ý kiến của quốc hội hay Hội đồng pháp quan. Nhưng hoàng đế không muốn vậy. Hơn ai hết, ngài hiểu rõ “quyền tuyệt đối” sẽ gây nên hậu quả nhiều hơn hiệu quả.
Mọi gánh nặng vì thế dồn xuống Lục Châu. Giờ đây, công chúa cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Nàng đang bước trên một con đường đầy sương mà chỉ giắt theo bên mình lời tiên tri mơ hồ của tộc trưởng tộc Lạc Việt. Tình báo Phi Thiên ở Kim Ngân đông như kiến cỏ song chẳng có nổi một tin tức về Ác Lạc Điểu. Rồi còn đống thư từ khiển trách đến từ Đại Hội Đồng lẫn Thánh Vực như muốn nhấn chìm Lục Châu. Nhưng càng khó khăn, công chúa càng cứng rắn, đến mức nàng khắc nghiệt với chính bản thân. Thấy công chúa tự ép mình thái quá, Vô Phong định lên tiếng song nghĩ sao lại thôi. Ngay cả Chiến Tử - cận vệ gần gũi nhất với công chúa còn im lặng, cớ gì hắn phải lên tiếng? Vả lại, giữa thời điểm khó khăn này, tên tóc đỏ hiểu rằng muốn làm công chúa an lòng, hắn phải trở thành người mà nàng có thể tin tưởng. Vô Phong sẽ làm thế, với điều kiện Chiến Tử phải biến khỏi đây, càng xa càng tốt.
Tiếng chạy, tiếng thở rồi tiếng vỗ cánh của thần hộ mệnh cứ thế nối tiếp nhau trong phòng luyện tập, chừng nửa tiếng sau mới dứt. Vô Phong mệt đứt hơi, nằm duỗi thẳng cẳng trên sàn và muốn đánh một giấc đến chiều. Nhưng công chúa thì chẳng ngáp dài như hắn, nàng vẫn dư sức vẽ sơ đồ chiến thuật lên giấy trắng, sau đưa cho tên tóc đỏ, đoạn giảng giải:
-Ban nãy anh có một bước lỗi. Khi tôi chuyển sang cánh trái, anh đi lên góc mười giờ, lọt vào tầm đánh của A Sát Ca. Nhìn này, các sóng năng lượng của thần hộ mệnh luôn phát ra theo bốn chiều vuông góc với nhau, khi thần hộ mệnh thay đổi góc tấn công, sóng năng lượng sẽ dịch chuyển theo, hãy để ý điều đó…
Vô Phong đã mệt, công chúa nói gì, hắn chỉ gật gật ra vẻ hiểu biết chứ đầu chẳng hấp thụ được mấy chữ. Trong lúc mải gật với gù, hắn bất giác trông thấy dung diện của Lục Châu. Cô gái tuy mạnh mẽ nhưng hai gò má đã tái xanh, tinh thần kiên trì vẫn còn đó song đôi mắt xáo động như mặt hồ giữa ngày gió bão. Tên tóc đỏ tự nhủ nếu ở vị trí của công chúa, mỗi sáng hắn sẽ dùng la bàn xác định vị trí của Thánh Vực và Đại Hội Đồng, sau đó chĩa ngón tay thối về hai nơi ấy, mỗi lần khoảng năm phút. Hắn tin rằng nếu công chúa làm vậy, tinh thần nàng sẽ thoải mái hơn nhiều. Và hắn cũng biết công chúa sẽ không bao giờ làm như thế.
-Anh nhớ hết rồi chứ? Nhớ lời tôi chứ – Lục Châu hỏi.
Vô Phong gật đầu ra vẻ đã tường năm rõ mười. Hắn cười:
-Tôi nhớ. Nhưng mà công chúa à, cái bụng của tôi đang nhớ bữa trưa hơn. Gần một giờ chiều rồi đấy, cô cũng nên thương bụng dạ mình chứ hả?
Trước lời đùa cợt của hắn, Lục Châu nhoẻn miệng cười. Biểu hiện của nàng lập tức lọt vào mắt Chiến Tử. Gã hết nhìn công chúa lại quay ra nhìn Vô Phong, như thể đây là sự việc lạ lùng với gã vậy. Chỉ là trò chuyện bình thường, cần thiết phải nhìn ngó ghê vậy không? – Vô Phong tự nhủ rồi tiếp lời với Lục Châu:
-Tôi nghe nói mỗi ngày cô phải trả lời thư của Đại Hội Đồng và Thánh Vực? Sao không để việc đó cho người khác làm?
Công chúa lấy khăn lau mồ hôi trên gương mặt, vừa sắp xếp đồ đạc vừa lắc đầu:
-Thánh Vực rất coi trọng biểu hiện của Thánh Sứ, kể cả nhỏ nhất. Chúng sẽ ảnh hưởng tới cuộc thi Tổng Lãnh năm sau. Tôi không thể lơi là được.
-Thi thố thì thi thố, chẳng phải người thắng cuộc sẽ trở thành Tổng Lãnh hay sao?
-Không đơn giản vậy đâu. – Lục Châu cười – Rồi anh sẽ hiểu thôi. Ăn trưa cùng tôi không?
-Hả? Cô nói gì?
-Tôi hỏi là anh muốn ăn trưa cùng tôi không?
Dĩ nhiên là Vô Phong đồng ý. Không có nhiều dịp để hắn gần gũi công chúa, nay cơ hội đến, lẽ nào hắn lại chối từ?
Bất quá, bữa trưa không thực sự thoải mái như Vô Phong tưởng. Trước mặt hắn là Lục Châu, còn gã Chiến Tử ngồi một góc riêng, đôi mắt bám sát công chúa như hình với bóng, thi thoảng lại đảo qua mái đầu đỏ. Tình cảnh này khiến Vô Phong khó chịu, như thể đang thưởng lãm bức tranh đẹp dưới sự giám sát của một con ác thú. Thật may, bức tranh đẹp Lục Châu vẫn đủ sức cuốn hút hắn, dù những điều nàng nói trong bữa ăn không phải chủ đề mà hắn ưa thích:
-Khoảng sáu mươi nước trong liên minh sẽ cử một đại diện thánh sứ và thi đấu với nhau. Người thắng dĩ nhiên có nhiều khả năng làm Tổng Lãnh, nhưng nó còn tùy thuộc ý muốn của hội đồng. Đôi khi, họ không muốn một nước vốn rất mạnh trong liên minh có thêm đặc quyền Tổng Lãnh. Đại khái thế…
Vô Phong ngoảnh đầu ngó Chiến Tử, sau quay ra đáp lời:
-Vậy sao? Ờm… Phi Thiên là nước mạnh nhất, trong trường hợp cô thắng thì hội đồng sẽ không bao giờ cho cô làm Tổng Lãnh đâu!
Lục Châu cười:
-Thế nên tôi muốn tạo ấn tượng tốt với họ.
-Nhưng rõ ràng là trong mắt họ bây giờ, cô chỉ gây ấn tượng xấu. Quỷ Vương thứ hai, thứ ba, thứ năm, họ đổ lỗi cho cô; và Quỷ Vương thứ tư, nghe chừng họ cũng muốn đổ lỗi cho cô nốt.
Khuôn mặt Lục Châu vừa vui vẻ được chút ít nay lại chùng xuống, tựa cánh chim đương hiên ngang bay lượn bỗng gặp cơn mưa rào. Nói về an ủi động viên thì Vô Phong mù tịt, nhưng luận chuyện lôi người khác xuống bùn, hắn lại có năng khiếu. Trong những thời điểm này, đáng ra hắn phải buông lời khích lệ công chúa mới phải. Nhưng hay lỡ mồm là đặc tính khó sửa của Vô Phong. Không biết là thật hay tưởng tượng mà hắn cảm giác nồng độ nguy hiểm trong ánh mắt Chiến Tử đang tăng dần. Tên tóc đỏ vừa tưởng tượng cảnh con chó dữ Chiến Tử tợp mình ra sao, vừa lựa lời xốc lại tinh thần công chúa. Riêng khoản lấp liếm che đậy tội lỗi, hắn thuộc hàng thiên tài.
-Cô đừng hiểu nhầm, tôi nói vậy là vì muốn cô tập trung luyện tập thay vì tốn thời gian cho việc trả lời thư từ. – Vô Phong khoa chân múa tay – Cô sẽ đến phòng tập nhiều hơn, tôi có thể gặp cô nhiều hơn … ý tôi là chúng ta có nhiều thời gian tập tác chiến hơn! Hãy để chuyện thư từ cho người khác, Tiểu Hồ chẳng hạn. Con nhỏ đó đang rỗi phỏng? Cô ta không đi Kim Ngân chứ gì? Giao cho cổ, và cô sẽ dễ thở hơn, tin tôi đi!
Lục Châu chống cằm nghe gã tóc đỏ kiến giải. Nàng gật gù, sau lại lắc đầu, vừa cười vừa xua tay. Vô Phong không nghĩ ý kiến của mình chứa nhiều tính chất khôi hài đến vậy, hắn hỏi:
-Tôi nói sai à?
-Không, không sai! Nhưng mà… – Công chúa bụm miệng cười – …dăm hôm trước, tôi nhờ Tiểu Hồ trả lời thư cho Đại Hội Đồng. Trong số các thư phúc đáp có một bức với lời lẽ không tốt đẹp cho lắm, Tiểu Hồ nói là gửi nhầm, nhưng tôi không nghĩ thế…
-Cô ta viết cái gì?
Lục Châu ngẫm nghĩ rồi mở miệng toan nói song lại thôi. Dường như lời lẽ trong bức thư phúc đáp nọ không phù hợp để một người có địa vị như nàng nói ra. Sau cùng, công chúa bèn tháo vòng đeo tay; chiếc vòng này không phải đồ trang sức, nó gồm những hạt kim loại tròn dính với nhau. Khi công chúa trải nó trên mặt bàn, các hạt kim loại tự động tách rời và xếp thành khối hình trụ rỗng ruột. Từ bên trong khối trụ bắn ra một chùm sáng màu xanh dương vào khoảng không ở giữa Vô Phong và công chúa, đồng thời hiển thị những văn bản số hóa. Đây là máy chiếu ba chiều cá nhân của Lục Châu, nàng luôn mang nó bên mình để tiện xử lý công việc. Cô gái gạt tay, đống văn bản theo tay nàng trượt dài trên chùm sáng màu xanh rồi biến mất vào không khí.
-Người của Đại Hội Đồng đã hỏi tôi về bức thư đó. Thực sự là rắc rối! Vậy nên tôi không dám để Tiểu Hồ trả lời thư nữa… À, đây rồi!
Công chúa đã tìm thấy bức thư phúc đáp nọ, nàng liền đẩy nó về phía Vô Phong. Tên tóc đỏ phóng to văn bản rồi lẩm nhẩm đọc. Càng đọc, cái miệng của hắn càng thêm toe toét.
“Tôi sẽ không nói gì thêm nữa vì các người là một lũ phiền nhiễu. Biết không? Các người như một đám ruồi nhặng vo ve quanh tôi, bốc mùi, kinh tởm và khiến tôi không thể tập trung làm việc. Vì vậy, để tốt cho cả đôi bên, tôi đề nghị các người im miệng và tập trung vào chuyên môn của mình. Bởi vì để ý người khác quá nhiều, soi mói quá nhiều nên các người chưa bao giờ làm được chuyện gì ra hồn. Liệu đường mà cư xử! Nếu còn gửi thư tới với nội dung cằn nhằn hay lảm nhảm, tôi sẽ tống tất cả vào sọt rác mà khỏi cần nghĩ ngợi nhiều. Thế nhé!”.
Vô Phong chống cằm cười khanh khách. Tiểu Hồ nổi tiếng đanh đá, viết được mấy lời lẽ kiểu này cũng chẳng lạ. Tên tóc đỏ nói:
-Tôi cá mấy vị quan chức Đại Hội Đồng tức lộn ruột vì cái này!
Công chúa cười mếu:
-Ừ, họ tức tốc gửi thư yêu cầu tôi giải thích. Tiểu Hồ viết thư phúc đáp là có đám quý tộc ở Phi Thiên thành gửi thư cho tôi, trả lời vội quá nên gửi nhầm.
Vô Phong lặp lại:
-Gửi nhầm á? Con nhỏ đó mà cũng biết nhầm nhọt hả?
Lục Châu nhún vai cười gượng, sau nói:
-Do vậy tôi không dám để Tiểu Hồ trả lời thư nữa.
-Vậy thì để tôi! – Vô Phong nói.
-Không, anh lại càng không! – Lục Châu cười lớn – Nói thật, Tiểu Hồ và anh khá giống nhau, hai người mà trả lời thư, tôi sẽ rắc rối gấp đôi mất!
-Giống nhau? Công chúa bảo tôi giống con thú dữ… à nhầm, Tiểu Hồ á?
Lục Châu mỉm cười, như thể đã biết trước thái độ của Vô Phong. Nàng bắt đầu sinh cảm giác thú vị ở cái tật hay lỡ mồm của hắn. Mới cách đây mấy tháng, nàng chỉ coi cái gã tóc đỏ lắm mồm này là hộ vệ. Dần dà, thời gian trôi đi, giá trị tồn tại của hắn trong lòng nàng cứ âm thầm tăng lên. Để lúc này, với Lục Châu, Vô Phong không hẳn là hộ vệ, cũng chưa phải là người nào đấy có thể gán chữ “quan trọng”, nhưng nếu hắn cần giúp đỡ, nàng sẽ giúp, nếu hắn gặp vấn đề, nàng sẽ quan tâm hơn thường lệ. Nghĩ tới đây, Lục Châu chợt nhớ trong chuyến đi tới Hoành Sơn vừa rồi, nàng đã nghĩ về hắn rất nhiều. Nàng đã trải qua những giờ phút lo lắng, sợ hãi rồi lại vui mừng khi thấy hắn trở về. Tất nhiên trong chuỗi cảm xúc ấy của Lục Châu, Tiểu Hồ xuất hiện nhiều hơn. Nói gì thì nói, Tiểu Hồ là người thân của nàng và nàng quan tâm Tiểu Hồ hơn.
Nhưng Lục Châu không phủ nhận rằng nàng đã để ý gã tóc đỏ nhiều hơn trước.
Đôi lúc, nghĩ về một ai đó khiến con người ta cảm thấy khác lạ.
Mải mê với tâm sự, Lục Châu không nhận ra trên màn hình màu xanh dương xuất hiện thư báo. Đến khi Vô Phong nhắc nhở, nàng mới nhận ra đó là thư của Thánh Vực. Công chúa bèn nói:
-Anh nghỉ ngơi chút đi, tới chiều chúng ta tập tiếp, tầm ba giờ nhé!
Nói rồi nàng khẽ búng vào chiếc máy chiếu hình trụ, từng hạt kim loại tròn rơi lạch tạch xuống bàn rồi sắp xếp thành vòng tay như cũ. Công chúa mang nó rời đi, gã Chiến Tử cũng đứng dậy. Vô Phong nhìn theo cô gái, đoạn nói:
-Lại viết thư phúc đáp sao?
-Việc phải làm mà. – Lục Châu nói.
Tên tóc đỏ thở dài:
-Cô nên nghỉ ngơi và giao việc đó cho người khác. Cô là công chúa, phải ra dáng công chúa chứ? Cô có thể ra lệnh, đúng không?
Hắn vừa nói vừa nháy mắt. Lục Châu mỉm cười:
-Vậy phiền anh dọn dẹp bữa trưa giùm tôi.
Vô Phong vui vẻ cúi đầu “tuân lệnh”. Hắn vui không phải vì được sai bảo, hắn vui vì Lục Châu đang thay đổi. Vẫn là nàng công chúa “chim trong lồng”, vẫn là người cầu toàn thích ôm đồm công việc và không muốn làm phiền người khác, nhưng Vô Phong có thể cảm nhận được nàng đang thay đổi. Tuy rằng sự thay đổi ấy diễn ra chậm chạp, nhưng Lục Châu giờ giống một bông hoa đẹp khi được chăm tưới đầy đủ và sẽ úa tàn khi đứng dưới mưa rào hay ánh nắng quá lâu, không còn là thứ hoa giấy với thứ vẻ đẹp nhân tạo nữa. Dù vậy, công chúa là công chúa, hắn không mong nàng sẽ biến thành Tiểu Hồ thứ hai. Một con thú dữ là quá đủ rồi! – Hắn lẩm bẩm.
Nói mới nhớ, mấy ngày gần đây, hắn chưa gặp Tiểu Hồ. Cô gái vẫn đang dưỡng thương, nhất thời chưa thể đi lại nhiều.
Vô Phong nghĩ mình nên quan tâm Tiểu Hồ một chút.
Đúng ba giờ chiều, công chúa và Vô Phong lại cùng nhau luyện tập. Đến khi mặt trời ngáy khò khò trong tấm chăn bóng đêm và hầu hết mọi người trên Thần Sấm dùng xong bữa tối, hai người họ vẫn chưa nghỉ. Sau hàng tiếng đồng hồ, Vô Phong đã quen với sự cảm ứng sóng năng lượng từ thần hộ mệnh. Giờ đây, hắn có thể tiến lên góc mười giờ hoặc lui xuống góc chín giờ nhịp nhàng theo sự di chuyển của A Sát Ca, thay vì lỡ nhịp liên tục như hồi sáng. Về cơ bản, hắn vừa hoàn thành phần luyện tập đội hình.
Nhưng với phần tập luyện cá nhân, Vô Phong chẳng hề hài lòng. Thế kiếm mới tên gọi Suy Thiết khó hơn hắn tưởng. Nó là một thế kiếm có cách vận sức giống Tử Thiết, lại hãm nội lực trên lưỡi kiếm như Trọng Thiết. Nguyên tắc là vậy nhưng thực hiện khó khăn vô cùng; mỗi lần Vô Phong vận sức, nội lực lại bung ra và hắn không thể kiểm soát chúng. Gã hình nhân gỗ – đối tượng tập dượt của Vô Phong – đã xơ xác và tan hoang vì bị đâm, bị chém, song nó lại chẳng như thứ mà hắn từng nhìn thấy từ Hắc Hùng. Gã đội trưởng Thổ Hành chỉ đâm một nhát kiếm rất nông vào hình nhân gỗ, rồi từ vết đâm ấy, toàn bộ phần bên trong của hình nhân mủn rục như thể có đàn mối háu đói tràn qua, trong khi bên ngoài vẫn y nguyên. Thấy hắn gặp khó, công chúa bèn hỏi han, hắn liền kể sự tình. Nghe xong, Lục Châu đáp lời:
-Tôi không hiểu kiếm thuật lắm… Nhưng tôi cảm giác Suy Thiết có phần nào giống bí kỹ của tạo băng của Chiến Tử. Thử hỏi Chiến Tử xem, anh ấy sẽ chỉ cho anh!
Vô Phong cảm ơn Lục Châu quan tâm, hứa sẽ làm theo lời nàng và… hứa rồi để đấy. Đến gặp Chiến Tử rồi nói “Ê, anh bạn, tôi cóc hiểu Suy Thiết là cái gì, chỉ dạy hộ tôi nhé?”, sau đó Chiến Tử đáp “Tôi không ưa cậu, nhưng vì công chúa nhờ vả nên tôi sẽ giúp!” – Vô Phong đã mường tượng cảnh đối thoại trên và hắn không thể hiểu tại sao mình có thể nghĩ ra một kịch bản ngu học như thế. Trò chuyện với thằng tóc đen mặt lạnh cả ngày không cười không nói đó? Điên! – Tên tóc đỏ nghĩ thầm. Dù sao thanh Bộc phá hiện thời của Vô Phong chỉ là đồ sơ cua, hắn cho rằng bộ thu và phát nội lực bên trong kiếm có vấn đề nên không thể dùng nội lực đúng cách. Hỏa Nghi đang chế tạo thanh Bộc phá mới, Vô Phong nghĩ nó sẽ giải quyết được vấn đề Suy Thiết.
Nhưng thực tế thì Hỏa Nghi không bao giờ tạo ra một sản phẩm lỗi, kể cả đó là đồ sơ cua. Thanh kiếm mà Vô Phong đang dùng vẫn tốt, chẳng khác mấy so với những thanh Bộc phá phiên bản cũ. Còn thanh kiếm mới – thứ Hỏa Nghi quảng cáo là uy lực hơn, mạnh mẽ hơn vẫn chưa ra lò. Trở về từ tộc Lạc Việt, ngày nào Hỏa Nghi cũng nghiên cứu và rèn kiếm, nhưng mỗi lần Vô Phong qua hỏi thanh kiếm mới, hắn đều lắc đầu. Tên tóc đỏ nghi ngờ gã này đương mải “rèn” Thanh Nhi, con gái Bất Vọng, thay vì rèn kiếm. Chuyện nam nữ, Vô Phong không rành. Bất quá hắn tin rằng phải là loại người đầu óc thiếu bình thường lắm mới làm con rể Bất Vọng. Hài hước thay, ông bạn Hỏa Nghi của hắn vốn sở hữu bộ não không giống người thường.
Sau buổi tập, Vô Phong tới phòng nghiên cứu của Hỏa Nghi. Như thường lệ, hắn lại bắt gặp cảnh Hỏa Nghi đang buông lời trêu chọc Thanh Nhi, còn cô gái cặm cụi rèn kiếm, hầu như chẳng để tâm lời bông đùa. Trông thấy Vô Phong, nàng ta khẽ cúi đầu chào sau rời đi, song không quên ngoảnh lại nói với Hỏa Nghi:
-Tôi nói rồi, không thể rèn máy đâu, phải rèn tay thôi. Có lẽ chúng ta nên đến Tuyệt Tưởng Thành một chuyến.
-Nghe rồi, cưng à. Nghỉ đi, đừng thức khuya, cẩn thận tổn hại nhan sắc! – Hỏa Nghi cười toe.
Nói rồi tên này tru mỏ hôn chụt chụt, còn Thanh Nhi chỉ biết lắc đầu trước điệu bộ tởm đời của gã. Vô Phong miễn ý kiến. Người thường khi yêu sẽ điên điên một chút, còn Hỏa Nghi điên… ở đẳng cấp khác. Tên tóc đỏ bèn hỏi:

-Cái gì mà Tuyệt Tưởng Thành vậy?
-Tuyệt Tưởng Thành là cái nôi của nghề rèn kiếm. Nơi đó còn rất nhiều thợ rèn theo phái “truyền thống”. Tôi và Thanh Nhi muốn đến Tuyệt Tưởng Thành một chuyến.
Vô Phong chặc lưỡi:
-Đã tính chuyện trăng mật rồi cơ à? Nhưng mà rèn cho tôi thanh Bộc phá mới đã, rồi hai người tha hồ hú hí với nhau!
-Không phải trăng mật, mà vì Bộc phá của cậu. Mấy ngày nay, tôi và Thanh Nhi đang tìm cách chế tạo Bộc phá kiểu mới. Chúng tôi thấy rèn kiếm theo kiểu “tân kỳ” sẽ chẳng đâu vào đâu hết! Có những phương thức mà chỉ rèn kiếm theo kiểu “truyền thống” mới được.
Dứt lời, Hỏa Nghi tiến về chiếc bàn làm việc bừa bộn những mảnh sắt thép cùng bộ vi mạch điện tử. Từ trong đống bừa bộn ấy, hắn lôi ra một khay kim loại, trên khay có thanh Bộc phá cùng hai dị vật: một khúc xương động vật trắng muốt và một đôi nanh cong vút bén nhọn. Chúng có xuất xứ từ loài giao long, con quái vật đặc trưng ở mảnh đất Lạc Việt, riêng khúc xương là xương của giao long chúa. Khi rời khỏi Lạc Việt, Mạc Dung và Khánh Dư đã tặng Vô Phong hai vật này. Tên tóc đỏ nghĩ chúng chỉ là đồ lưu niệm, mang ra chợ đen khéo chừng vớt được cả trăm thùng vàng. Nhưng Hỏa Nghi không nghĩ thế, gã có đầu óc bất thường và thấy điều mà Vô Phong không thấy:
-Tôi đã kiểm tra thành phần cấu tạo của xương và nanh. Chúng có một số hợp chất tương tự kim loại, nhưng tốt hơn nhiều! Cái này… – Hỏa Nghi vung vẩy khúc xương – …rất nhạy cảm với nội lực. Nó làm dòng chảy nội lực xuyên suốt và dễ điều khiển hơn. Còn răng nanh lại có vài hợp chất khiến lưỡi kiếm sắc bén và bền gấp nhiều lần, đồng thời có cả độ dẻo nữa. Nếu có thể kết hợp chúng vào Bộc phá, tôi tin đó sẽ là thanh kiếm tuyệt vời nhất do tôi… không, phải nói là do loài người chế tạo ra.
Vô Phong xem xét hai thứ trên, thấy khúc xương dường như ngắn hơn trước, một chiếc nanh cũng kém sắc đi nhiều. Hỏa Nghi lắc đầu:
-Tôi đã tách được hợp chất, nhưng khi rèn thì lưỡi kiếm không trộn được với hợp chất. Chúng cứ đẩy nhau ra, như hai cục nam châm đồng cực vậy! Vậy là phí phạm cả đống nguyên liệu! May mà Thanh Nhi phát hiện khúc xương với chiếc nanh có đặc tính phép thuật.
-Đặc tính phép thuật ảnh hưởng gì?
-Thì không thể rèn theo kiểu “tân kỳ” được. Chỉ những người thợ rèn “truyền thống” mới biết cách kết hợp sức mạnh phép thuật vào lưỡi kiếm. Đáng tiếc, tôi và Thanh Nhi chẳng hiểu chút gì về nghề rèn “truyền thống”, vì vậy chúng tôi muốn đến Tuyệt Tưởng Thành. Hy vọng là tìm được thông tin hữu ích.
Vô Phong gãi đầu:
-Thế nghĩa là tôi không có kiếm mới và phải xài đồ sơ cua à?
-Anh bạn, tôi chưa bao giờ để cậu dùng đồ cũ hết!
Hỏa Nghi đưa thanh Bộc phá trên khay kim loại cho Vô Phong. Một cách tổng thể, thanh kiếm này không có nhiều khác biệt so với phiên bản trước: siêu nhẹ, lưỡi kiếm có thể tách làm ba mảnh và kéo dài khoảng cách, sử dụng thuốc nổ dạng lỏng, dĩ nhiên không thể thiếu cơ chế lưỡi kiếm tàng hình (chỉ hoạt động trong trường hợp Vô Phong phá vỡ giới hạn tốc độ). Tuy vậy, phần thuốc nổ có chút cải tiến. Hỏa Nghi đã thay đổi thành phần nguyên liệu, khiến uy lực nổ giữ nguyên còn thời gian khói mù tồn tại tăng lên, khá phù hợp với lối chiến đấu hiện tại của tên tóc đỏ.
Nhưng thanh Bộc phá phiên bản mới chưa phải là tất cả. Hỏa Nghi đi về góc phòng, nơi đặt một cỗ máy hình tam giác. Hắn đọc mật khẩu, tức thì cỗ máy tách đôi. Khi các khớp kim loại rời nhau, những cuộn khói mỏng manh tràn ra ngoài mang theo mùi nồng của chất hóa học và làn hơi lạnh ngắt. Sau màn khói, Vô Phong nhìn thấy một bộ áo giáp bạc lơ lửng, phần ngực và hai bên sườn có màu xanh xám. Hỏa Nghi đeo găng tay đoạn nắm lấy chiếc áo. Kỳ lạ thay, chiếc áo mềm nhũn trên tay Hỏa Nghi tựa dải lụa, hoàn toàn không có dáng vẻ thô ráp của cái gọi là “áo giáp”.
-Nó đã cứu tôi lúc đánh nhau với Quạ Đen ở Quận 4. – Hỏa Nghi vừa nói vừa vỗ vỗ tấm áo – Tôi cải tiến nó với vài miếng vảy giao long. Cần nhiều cú đâm chính xác vào một điểm có thể phá hủy nó, trừ phi cậu đánh đấm tệ đến mức để đối phương đánh vào một chỗ liên tục.
Vô Phong nheo mắt nhìn chiếc áo, mãi một lúc mới nhận ra những phần màu xanh xám của áo chính là vảy giao long. Trong số những món quà từ mảnh đất Lạc Việt, hắn gần như quên khuấy thứ này. Không mất công nghiên cứu hay tách hợp chất như món xương và răng nanh, tất cả những gì Hỏa Nghi làm với bộ vảy là ghép chúng với áo giáp bằng vài thủ thuật rèn thông thường.
-Cái áo đắt lắm, đem ra chợ đen bán phải được năm trăm thùng vàng! – Hỏa Nghi tiếc hùi hụi – Nhưng vì tình bạn cao cả giữa hai ta, tôi sẽ tặng nó cho cậu. Đổi lại là kiếm được món gì hay hay thì hãy đưa cho tôi. À quên, sau này phải làm phù rể cho tôi nữa. Nhớ đấy!
Với tên tóc đỏ, đây rõ ràng là một món quà tuyệt vời. Nhưng chiếc áo giáp là vật phòng thân của Hỏa Nghi, không có nó, tên bắng nhắng này chẳng khác nào tấm bia thịt di động. Vả lại, nguyên liệu chế tạo chiếc áo vừa hiếm vừa đắt, trao nó cho người khác, Hỏa Nghi hẳn tiếc đứt ruột. “Tình bạn cao cả” chắc chắn không phải lý do chính để giải thích hành động của hắn.
-Có nhất thiết phải xài cái áo không? – Vô Phong hỏi.
-Nên, bạn của tôi à, nên lắm! Hãy cười thoải mái, rồi đến Kim Ngân, cậu sẽ chẳng cười được nữa đâu.
Lần đầu tiên trong đời, Vô Phong thấy ông bạn mình nghiêm túc đến vậy. Không hề có một điểm khôi hài nào trên gương mặt Hỏa Nghi, và điều đó làm Vô Phong thêm bồn chồn.
Rốt cục thì lục địa Kim Ngân là nơi như thế nào?

Cuộc sống bên trong Thần Sấm vẫn diễn ra bình thường. Có người miệt mài luyện tập, có người mải nghĩ cách rèn kiếm, có người thấp thỏm mong chờ tin tức Quỷ Vương. Sau ba ngày, một tin tức ập đến khiến mọi người bừng tỉnh: nhóm công chúa được phép tiến nhập Kim Ngân. Cuộc đàm phán giữa Phi Thiên và các nước tại Kim Ngân đã kết thúc, dù đáng lẽ nó phải kết thúc sớm hơn thế. Vừa nhận tin, bốn người Lục Châu, Chiến Tử, Vô Phong và Thú lập tức lên đường. Riêng Vô Phong bận rộn hơn mọi người vì hắn còn phải gặp Tây Minh. Dù chưa biết tại sao ngài đại thánh sứ yêu cầu gặp riêng, nhưng Vô Phong phỏng đoán câu chuyện có liên quan tới Lục Châu, không ít thì nhiều.
Chiều hôm ấy, trước lúc khởi hành khoảng hai tiếng, sau khi chuẩn bị xong vũ khí tư trang, Vô Phong đến phòng của Tây Minh. Lần đầu gặp gỡ ngài đại thánh sứ khiến hắn hồi hộp và đôi chút lo lắng. Trong mắt hắn, ngài Tây Minh có phần giống như những linh hồn của Bát Đại Hộ Vệ bảo vệ Vạn Thế, đầy uy nghiêm cùng sức mạnh vượt xa trí tưởng tượng của con người. Một đại thánh sứ với những phẩm chất vượt xa đại đa số người khác sẽ nói chuyện gì, nói như thế nào?
Đương bận rộn với những suy nghi, Vô Phong chợt thấy một cánh cửa ở ngay trước mặt. Hắn vội vuốt phẳng những nếp nhăn trên áo khoác đồng phục thánh sứ và cài khuy cẩn thận, hắng giọng cho thanh quản thông suốt rồi gõ cửa:
-Thưa ngài, tôi là Vô Phong.
Nói vừa dứt, một giọng già nua từ trong phòng đáp lại tên tóc đỏ:
-A, đến rồi hả? Vào đi!
Vô Phong liền đẩy cửa bước vào. Ấn tượng đầu tiên của hắn về phòng riêng của ngài đại thánh sứ là nó… không có ấn tượng gì. Một chút cũng không. Ấn tượng sao được khi căn phòng chỉ có một giường ngủ và một bàn làm việc, ngoài ra là không khí cùng bụi bặm lơ thơ dưới nắng chiều? Vô Phong để ý căn phòng chẳng có lấy một mảnh giấy, hoàn toàn tương phản với nơi mà bước tới đâu cũng thấy sách của Lục Châu. Vô Phong là kẻ lười đọc mà phòng riêng đã chứa vài quyển sách, không đến nỗi trống hơ trống hoác như chốn này. Và nếu so sánh nơi đây với căn phòng đầy rẫy huân chương lóa mắt của thuyền trưởng Nhất Long, hẳn ngài thuyền trưởng sẽ cảm thấy mình bị sỉ nhục.
Vô Phong ngồi đối diện ngài Tây Minh qua bàn làm việc. Hắn nhác thấy ngài đại thánh sứ đang vân vê một chiếc hoa tai đính lông vũ màu đỏ rực, trông rất giống chiếc hoa tai của Lục Châu. Nhận ra cái nhìn chăm chú của hắn, Tây Minh liền giấu nó phía sau mu bàn tay già nua, cất vào túi áo một cách kín đáo và lịch sự. Ông lên tiếng:
-Chuẩn bị xong cả rồi chứ?
-Vâng, thưa ngài. Xong hết rồi, chỉ còn chờ khởi hành thôi.
Ngài đại thánh sứ gật gù:
-Đừng quá căng thẳng, nhưng đừng bao giờ mất cảnh giác, nhất là ở Kim Ngân.
-Tôi đã hiểu, thưa ngài.
-Có lẽ đây là câu hỏi thừa, đặc biệt là với thành viên Thổ Hành, đừng cười nhé! Cậu đã giết người chưa?
Một thoáng ngạc nhiên hiện hình trong ánh mắt Vô Phong. Hắn không hiểu tại sao Tây Minh lại hỏi thế. Dù vậy, hắn vẫn trả lời:
-Thưa, rồi.
-Lâu chưa?
-Mới đây thôi, ở Quận 4. Tôi bị băng đảng bao vây, bất đắc dĩ phải giết người.
-Cảm giác thế nào?
-Rất khó chịu.
-Tốt. Như vậy cậu sẽ bớt bỡ ngỡ hơn khi tới Kim Ngân.
Đại thánh sứ không cười, song lời nói của ông lại hàm chứa chút khôi hài. Và nó càng khiến Vô Phong thêm tò mò lẫn thấp thỏm về miền đất Kim Ngân “tiếng lành đồn xa” nọ. Ngài Tây Minh hỏi tiếp:
-Cậu luyện tập kiếm thuật tới đâu rồi? Đủ sức bảo vệ Lục Châu chứ?
“Vậy ra đây là lý do ổng gọi mình tới!” – Vô Phong cười thầm. Tưởng chuyện gì to tát chứ riêng việc bảo vệ công chúa, tên tóc đỏ có thừa tự tin. Hắn trả lời chắc như đinh đóng cột:
-Tôi nghĩ là đủ và còn hơn thế nữa, thưa ngài.
-“Hơn thế nữa” cơ à? – Tây Minh cười – Vậy có thể đánh tay đôi với Chiến Tử không?
Một vết rạn lớn xuất hiện trên bộ mặt đầy tự tin của Vô Phong, vết rạn lớn dần và kéo khuôn mặt từ vui vẻ chuyển sang ngượng ngùng. Hắn lúng túng:
-Tôi không chắc, thưa ngài…
-Chỉ cần trả lời: có hay không?
Vô Phong thở hắt ra:
-Không, thưa ngài.
Ngài đại thánh sứ gật gù. Ông nhìn mặt bàn, thần tình tựa hồ đang hướng về một nơi cách xa căn phòng này hàng ngàn dặm, dòng suy nghĩ trĩu nặng kéo dài những nếp nhăn trên gương mặt ông, khiến nó đã già lại càng thêm già. Vô Phong bèn nói:
-Tôi có thể giúp ngài điều gì? Tôi không hứa sẽ hoàn thành, nhưng tôi hứa sẽ làm tốt.
-Làm tốt chưa đủ, ta muốn cậu “hoàn thành”.
-Vậy cụ thể là việc gì, thưa ngài?
-Giám sát Chiến Tử, cậu làm được không?
Vô Phong nhăn trán:
-Tại sao phải giám sát hắn? Hắn là hộ vệ của công chúa mà?
Ngài Tây Minh chống cằm, hơi thở của ông ngắt quãng từng đợt vì thanh quản đang dồn ứ từ ngữ. Ông sở hữu nhiều phẩm chất vượt xa người thường, nhưng ông cũng có chuyện khó nói. Như bao kẻ tầm thường khác khi gặp chuyện khó nói, ông gặp vấn đề trong cách biểu đạt ý tứ:
-Nói sao nhỉ? Hừm… ta không tin… không hẳn thế, ý ta là “một chút nghi ngờ”. Cậu biết đấy, “một chút nghi ngờ” khác hẳn không tin. Phải, ta có “một chút nghi ngờ” với Chiến Tử. Hẳn cậu đã nghe chuyện về dòng họ Chiến Tử?
Vô Phong gật đầu. Trước đây, qua lời kể của Lục Thiên, hắn biết được dòng họ Chiến Tử từng tham gia vụ chính biến nhằm lật đổ Bạch Dương đệ thập. Cuộc chính biến thất bại, rất nhiều người thuộc dòng họ bị tử hình hoặc lĩnh án tù chung thân. Chiến Tử khi ấy còn nhỏ tuổi nên nằm ngoài cuộc chiến, hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Sau này, trong nỗ lực xoa dịu hiềm khích giữa dòng họ và Phi Thiên quốc, ngài đệ thập đã mời hắn làm ngự lâm quân và làm hộ vệ cho công chúa. Một số người không ủng hộ cách làm của đệ thập, tiêu biểu như đại thánh sứ Tây Minh. Ông tham gia hành trình cùng công chúa chỉ là phụ, giám sát Chiến Tử mới là chính. Ông không bao giờ để Lục Châu đi quá xa khỏi tầm kiểm soát của mình. Nếu việc ấy xảy ra, ông sẽ tách Chiến Tử khỏi công chúa mà chuyến đi tới Lạc Việt là ví dụ điển hình.
Nhưng tình thế hiện tại đã đổi khác, lục địa Kim Ngân quá nguy hiểm, Chiến Tử bắt buộc phải có mặt trong đội hộ vệ công chúa. Ngài Tây Minh lại không thể đi cùng do vướng nhiệm vụ khác. Vì vậy, ông muốn Vô Phong thay mình giám sát Chiến Tử. Phiền nỗi, trong các hộ vệ thánh sứ, Chiến Tử là kẻ mạnh nhất, đồng thời là kiếm sĩ mạnh nhất Phi Thiên quốc. Một gã Vô Phong to mồm hoàn toàn không phải là đối thủ của gã.
-Tại sao ngài không nhờ Thú? – Vô Phong hỏi.
-Thú là kẻ không đáng tin nhất trong số những thành viên Thổ Hành. Cậu đáng tin hơn hắn, nên ta muốn nhờ cậu. Nhưng có lẽ không được rồi, phải nhờ người khác thôi!
Tây Minh định đứng dậy song Vô Phong nói:
-Thưa ngài… xin hãy giao cho tôi. Tôi không chắc có thể đánh được Chiến Tử, nhưng tôi chắc chắn có thể bảo vệ công chúa.
Ngài đại thánh sứ tần ngần hồi lâu. Ông có thể nhờ một người khác đáng tin cậy hơn, nhưng trong giây phút cuối cùng, ông chọn gã tóc đỏ. Tây Minh cười, đoạn đưa cho Vô Phong một mảnh giấy nhỏ:
-Vậy thì ta yên tâm. Tờ giấy có ghi số máy bộ đàm của ta, hàng ngày hãy thông báo biểu hiện của Chiến Tử cho ta. Và hãy gọi khi có chuyện khẩn cấp. Xong rồi, cậu có thể đi!
Vô Phong hơi bất ngờ trước lời tiễn khách có phần vội vã của Tây Minh. Hắn vớ lấy mảnh giấy, cúi đầu rồi rời khỏi phòng. Trên đường đi, tâm trí hắn suy nghĩ khá nhiều về gã mặt lạnh Chiến Tử. Hắn không ưa Chiến Tử, nhưng chưa bao giờ nghĩ con người này sẽ gây hại cho công chúa như cái cách mà ngài Tây Minh lo lắng.
Rốt cục, vị đại thánh sứ vẫn có những phẩm chất đầy tính con người.
Vô Phong nhận ra cuộc sống là một vòng lặp. Cách đây năm năm, hắn là hộ vệ trong bóng tối của công chúa, kiêm luôn việc giám sát Chiến Tử. Năm năm sau, như một định mệnh, hắn lại quay về với công việc cũ.
Và hắn nhận ra những bánh xe trong vòng lặp ấy đang bắt đầu di chuyển.
 
Quyển 3 - Chương 5: Kẻ phá bĩnh


Sau nhiều ngày trì hoãn, cuối cùng nhóm công chúa cũng được phép tiến vào lục địa Kim Ngân. Họ sẽ đến Âm Giới quốc – một nước ven biển ở miền bắc lục địa. Còn nhớ trước ngày rời khỏi tộc Lạc Việt, Lộc Tục dùng thuật bói quẻ xác định Ác Lạc Điểu bỏ trốn về Kim Ngân. Lục địa này và Đông Thổ ngăn cách nhau bởi một đại dương rộng lớn, con quái thú lại bị thương nặng nên nhiều khả năng sẽ hạ cánh tại Âm Giới. Một điểm đáng chú ý nữa là trong mọi trường hợp, kể cả tính mạng gặp nguy hiểm, Ác Lạc Điểu luôn chọn đỉnh núi làm nơi trú ngụ. Từng là vật nuôi của Huyết Thiên Thiết Giáp – vị ác thần của người Lạc Việt, con quái thú thừa hưởng toàn bộ tính cách khốc liệt và kiêu hãnh từ vị chủ nhân. Phiền nỗi địa hình Âm Giới lắm đồi núi, tìm ra nó không phải chuyện dễ. Mạng lưới tình báo Phi Thiên đang lùng sục khắp nơi nhưng tin tức về Ác Lạc Điểu vẫn bặt vô âm tín.
Vô Phong cảm thấy khá lạ khi Phi Thiên vừa bí mật triển khai hệ thống tình báo ở Âm Giới, mặt khác lại công khai chuyện công chúa tới đây cho chính phủ nước này. Thấy lạ, hắn bèn thắc mắc với công chúa thì nàng trả lời:
-Chúng ta sẽ đáp xuống Vùng An Toàn số 28 của Âm Giới, đi qua Lằn Ranh Vàng rồi mới tiến sâu vào lãnh thổ của họ. Không ai được phép đi qua Lằn Ranh Vàng, trừ phi có lệnh từ Đại Hội Đồng.
Nghe mấy danh từ mới, Vô Phong bèn lúi húi nhét tấm thẻ dữ liệu “Tâm Mộng thế giới – kiến thức căn bản” vào máy chiếu đeo tay để tra cứu – một cuốn sách dạng số hóa. Hắn mua chiếc thẻ này với giá sáu đồng vàng ở Sơ Khởi thành từ chính tác giả của nó – Diễm Tà (*). Mặc dù không ưa cô ta (Vô Phong vẫn nhớ từng cú đấm, cú đá lộng óc mà Diễm Tà tặng mình), nhưng hắn phải công nhận cô ả thiết kế dữ liệu rất hay. Khi khởi động cuốn sách, tấm bản đồ thế giới Tâm Mộng sẽ hiện lên, chỉ vào nơi đâu, thông tin cùng hình ảnh đặc trưng của nơi đó sẽ lần lượt hiện hữu. Ngoài ra còn có mục riêng mà độc giả có thể chú thích thêm, vừa làm cuốn sách thêm phong phú, vừa biến nó thành cuốn nhật ký hành trình.
Theo cuốn sách, hơn năm mươi năm trước, Âm Giới xảy ra nội chiến – vấn đề chung ở Kim Ngân. Bất lực trước phiến quân, chính phủ nước này phải xin Đại Hội Đồng viện trợ. Liên quân tới, đánh bại các lực lượng phiến loạn. Tuy nhiên, đám phiến quân đã thành lập liên minh chống đối Đại Hội Đồng, đồng thời chiếm cứ một nửa lãnh thổ Âm Giới. Suốt từ đó đến nay, hai bên luôn giằng co nhau khiến Âm Giới bị chia hai nửa.
Tuy nhiên, tại lãnh thổ do liên quân và chính phủ quản lý, tình hình không hề tốt hơn. Phiến quân thường xuyên đưa người đến quấy phá cướp bóc, thậm chí đánh du kích, trật tự an ninh bị lung lay tận gốc rễ. Nhằm giải quyết tình hình, Đại Hội Đồng cùng chính phủ Âm Giới thiết lập nhiều khu vực đặc biệt, gọi là Vùng An Toàn. Bảo vệ chúng là các tuyến phòng thủ kiên cố, hay còn được biết đến với cái tên Lằn Ranh Vàng. Ở Kim Ngân, Âm Giới không phải nước duy nhất mà rất nhiều quốc gia khác cũng gặp vấn đề nội chiến. Do vậy, Vùng An Toàn xuất hiện ngày càng nhiều, số lượng ước tính đã lên tới cả trăm.
Nhóm công chúa không thể đáp xuống đâu khác ngoài Vùng An Toàn số 28, bởi vùng đất phía sau Lằn Ranh Vàng đầy rẫy khủng bố, phiến loạn cùng trộm cướp. Để nhóm công chúa có thể vượt qua Lằn Ranh Vàng, Phi Thiên buộc phải thông báo trước cho chính phủ Âm Giới. Nhưng điều đó khiến Vô Phong lo lắng. Còn nhớ lần trước, chính phủ Xích Quỷ đã vô tình để lộ chuyện Lục Châu tới nước này, bọn Xích Tuyết theo đó mà lần được tung tích của nhóm công chúa. Sẽ chẳng bất ngờ nếu chính phủ Âm Giới lại là một Xích Quỷ khác. Nhưng công chúa tỏ ra khá an tâm:
-Thuyền trưởng Nhất Long nói Trần Độ đã thu xếp mọi việc rồi, anh đừng lo quá. Không có chuyện giống như ở Xích Quỷ đâu!
-Cô tin ông già đó? – Vô Phong nhíu mày.
Lục Châu gật đầu:
-Phải. Ngày trước, cha tôi thường nói rằng ông chưa từng phải phàn nàn về cách làm việc của Trần Độ. Ông ta luôn thận trọng và kín đáo, dù nhiều lúc gây khó hiểu cho người khác.
“Thận trọng và kín đáo đến nỗi mò được cả chiếc đĩa vàng.” – Vô Phong tự nhủ, trong lòng lo âu. Hắn tin Trần Độ đang mưu tính chuyện gì đó với chiếc đĩa vàng, trong khi Bạch Dương đệ thập chẳng hề hay biết. Lẽ nào lão già muốn dùng chiếc đĩa triệu hồi quái vật Khổng Thú tới thế giới Tâm Mộng, phá nát Phi Thiên và trở thành tân hoàng đế? – Tên tóc đỏ đoán già đoán non. Giả thuyết nghe chừng hoang đường, nhưng Vô Phong nghĩ nó hoàn toàn có cơ sở. Trần Độ có thể đánh đổi sinh mạng Lục Châu lấy vài mỏ quang tố thì lão cũng có thể đánh đổi sinh mạng ngài đệ thập để chiếm hữu ngai vàng, thậm chí hơn thế. Hồi ở Phi Thiên thành, Vô Phong vô tình biết được một người đã chết vì chiếc đĩa vàng (**), vậy ai sẽ là người tiếp theo? Chính hắn chăng?
Bất quá, như Hỏa Nghi từng nói, Vô Phong sẽ an toàn chừng nào hắn còn hữu dụng trong mắt Trần Độ. Chiếc đĩa vẫn nằm trong tay Hỏa Nghi, lão già pháp quan cũng chẳng đả động chiếc đĩa dù biết Vô Phong chôm nó. Im lặng là quy tắc, sinh tử là luật chơi, sống được tới ngày biết rõ bí mật chiếc đĩa vàng hay không tùy thuộc vào tên tóc đỏ. Nếu muốn ngày ấy tới, trước tiên hắn phải vượt qua thử thách của Kim Ngân lục địa. Ngay lúc này, hắn đang trên đường dấn thân vào mảnh đất đáng sợ đó.
Chiếc phi thuyền chở nhóm công chúa đã rời khỏi Thần Sấm gần một tiếng. Nó lướt nhanh trên biển mây rải rác những váng nắng còn sót lại của hoàng hôn. Qua ô cửa sổ phi thuyền, Vô Phong chống cằm nhìn về phía xa, mãi tít sau biển mây vô tận. Mặt trời giờ tựa một khối lòng đỏ trứng gà khổng lồ đang bị đánh tan, khiến quầng sáng vàng cam tách ra khỏi nó, trộn vào không gian, nhuộm màu đỏ úa khắp vòm trời. Từ vầng thái dương, những tia sáng mỏng mảnh như mũi kim le lói trên tấm vải đỏ úa khổng lồ, dệt nên tấm vá hoài niệm về một ngày sắp trôi qua. Vô Phong cảm giác hoàng hôn ở Kim Ngân có chút lạ kỳ, không giống như những nơi hắn từng đi qua. Rực rỡ nhưng không huy hoàng. – Hắn thấy vậy.
Ngoại trừ tiếng động cơ chạy ù ù, không khí bên trong phi thuyền khá im ắng. Nhóm công chúa mỗi người một chỗ, ai nấy đều có việc riêng. Chiến Tử thì ngủ, Lục Châu đang đọc sách, còn Vô Phong cựa quậy liên hồi. Bản tính vốn ưa vận động, ngồi im một chỗ là cực hình với tên tóc đỏ. Cuộc đối thoại với công chúa vừa nãy chỉ là cách hắn bắt cơ hàm làm việc nhiều hơn thay vì ngáp và thở dài. Hắn nóng lòng muốn tận mắt chứng kiến mảnh đất Kim Ngân, muốn coi nơi ấy có gì khiến mọi người lo sợ. Tất nhiên vẫn có sự lo lắng nhất định, nhưng có lẽ hắn giống đứa trẻ háo hức khám phá điều kỳ thú hơn là một hộ vệ đang thực thi nhiệm vụ.
Cũng giống Vô Phong, công chúa muốn đặt chân lên Kim Ngân ngay lập tức. Song trái với tâm trạng vô lo của hắn, nàng lại bồn chồn lo lắng. Cuốn sách trên tay nàng chưa sang trang mới dù đã gần một tiếng trôi qua, nàng cũng chẳng nhớ trang sách này viết cái gì. Suy nghĩ về Quỷ Vương choán hết chỗ trong tâm trí Lục Châu, không cho cô gái một giây phút ngơi nghỉ. Dù đã cố nhưng công chúa không thể gạt ý nghĩ đó ra khỏi đầu bởi tính cách của nàng vốn vậy, tình cảnh của nàng vốn vậy, không thể như ai đó thốt lên “kệ mẹ nó!” được. Tuy nhiên Lục Châu hiểu rằng nếu cứ bận rộn với những tâm tư thì không ổn. Nói chuyện là giải pháp tốt, nó sẽ giúp nàng quên đi mớ rắc rối này.
Như một thói quen, nàng liền quay đầu về phía Chiến Tử. Gã không thể giải quyết mọi vấn đề hộ công chúa, nhưng luôn sẵn sàng nghe nàng tâm sự. Có điều gã đang ngủ. Lục Châu không định làm phiền dù biết gã chỉ nhắm mắt vậy thôi. Công chúa lại quay về với lo âu, nghĩ ngợi. Vài ý tưởng mới nảy ra trong đầu Lục Châu, sau đó, một cách dè dặt và thận trọng, nàng hơi ngoái về phía sau nhìn Vô Phong. Tên tóc đỏ đang ngáp ngắn ngáp dài, chốc chốc lại xoay người ngả ngốn trên ghế, chừng như đôi chân đang hết sức ngứa ngáy. Cùng làm nhiệm vụ, cùng đến Kim Ngân nhưng Lục Châu không tìm thấy chút tương đồng tâm trạng nào giữa mình với gã hộ vệ này. Không đồng điệu, liệu có thể chia sẻ cùng nhau? – Công chúa ngẫm ngợi.
Lạ thay, chính sự bất tương đồng ấy lại thôi thúc công chúa mở lời với Vô Phong. Nàng suy nghĩ một hồi rồi xoay ghế lại, mặt đối mặt tên tóc đỏ. Đương ngả ngốn bỗng thấy công chúa đang nhìn mình, Vô Phong vội chỉnh đốn tư thế rồi toét miệng cười:
-Cô cần gì, thưa công chúa?
Lục Châu có quá nhiều điều để nói. Nàng không đợi Vô Phong cảm thông mà chỉ mong hắn có thể lắng nghe như Chiến Tử. Tuy vậy, thay vì mở lời tâm sự, Lục Châu lại bắt đầu bằng một câu hỏi:
-Cái dây buộc tóc của anh… hình như là của Tiểu Hồ?
Vô Phong nhíu mày, bàn tay bất giác lần ra sau gáy. Mái tóc của hắn được thắt gọn gàng bởi một sợi dây kim loại màu đen ánh đỏ, đích xác là món quà từ Tiểu Hồ. Vô Phong tặc lưỡi:
-Hừm… có vẻ như cô đang nghĩ tôi ẻo lả thiếu nam tính?
-Không phải thế! – Lục Châu phì cười – Chỉ thấy lạ thôi! Tiểu Hồ rất thích cái dây đó, ngày nào cũng dùng. Tôi không nghĩ cô ấy sẽ tặng nó cho người khác. Có vấn đề gì giữa hai người mà tôi không biết chăng? Nếu riêng tư thì tôi sẽ không hỏi nữa!
Tên tóc đỏ méo mặt vì lời nói nửa đùa nửa thật của công chúa. Hắn xua tay chối đây đẩy:
-Không có gì đâu, đừng hiểu nhầm! Mà cô nói Tiểu Hồ hay xài thứ này hả? – Vô Phong chỉ vào dây buộc tóc – Thế thì phải cởi ra thôi, tôi sẽ bị thú dữ ám mất!
Hắn định gỡ nó ra thì Lục Châu bèn ngăn lại. Nàng tóm lấy khuỷu tay của Vô Phong, đoạn nói:
-Đừng làm vậy! Tiểu Hồ chỉ tặng quà cho người quan trọng với cô ấy, anh phải hiểu chứ!
Vô Phong cười gượng. Hắn không có ý như thế, chỉ là dạo gần đây, hắn luôn bối rối mỗi khi ai đấy đề cập về Tiểu Hồ. Để che giấu nỗi niềm khó xử, hắn thường gọi cô gái là “thú dữ”. Hắn nghĩ rằng một biệt danh đáng sợ sẽ khiến mình bớt nghĩ tốt về Tiểu Hồ. Nói cách khác, hắn đang trốn chạy những cảm xúc mới lạ. Tuy thuộc tuýp người ghét quy tắc chán luật lệ, nhưng trước những điều mới mẻ, Vô Phong lại giống bao con người cổ hủ khác khi nghi ngờ và không chấp nhận sự tồn tại của chúng.
Quả thực, quan hệ giữa hắn và Tiểu Hồ đang rẽ vào một lối đi khó hiểu…
*
* *
Trước lúc khởi hành, Vô Phong dành ít thời gian gặp gỡ Tiểu Hồ. Chân của cô gái chưa bình phục, tên tóc đỏ cũng chẳng dè vết thương lại nặng đến vậy. Một ý nghĩ kỳ quặc xuất hiện trong đầu Vô Phong: hắn tự trách mình luyện tập quá nhiều mà không thăm hỏi nàng nhiều hơn. Kỳ quặc, bất quá không phải lần đầu tiên. Cách đây hơn một tuần, hắn đã tự chửi mình vì để lạc mất Tiểu Hồ, băng qua biển, suýt táng mạng trong miệng giao long chỉ vì tìm nàng. Hắn tự nhủ đây chỉ là thứ tình cảm bình thường giữa người huấn luyện thú và thú dữ, lòng đinh ninh rằng kể từ lần sau sẽ trông nom cô nàng cẩn thận hơn.
Nhưng đến phòng Tiểu Hồ, Vô Phong không biết ở đây ai mới là người cần được trông chừng. Hắn hỏi Tiểu Hồ một, nàng hỏi lại hắn mười một. Cô gái hỏi việc luyện tập đến đâu, thế kiếm mới Suy Thiết thế nào, bài tập đồng đội với công chúa thế nào (nàng căn vặn quá trời chuyện công chúa) rồi kiểm tra những món quân trang mà gã tóc đỏ mang tới Kim Ngân. “Điều tra” xong, Tiểu Hồ lại dặn tới dặn lui những điều nên làm hoặc nên tránh ở Kim Ngân, đến nỗi Vô Phong phải ngắt lời nàng:
-Này, này! Cô là mẹ tôi hay sao mà nói hoài vậy?!
-Người như anh chẳng để được cái gì trong đầu! – Tiểu Hồ gắt – Tôi sẽ nói tới khi anh thủng đầu mới thôi! Nghe đây, đừng đụng tới bọn trộm cắp trừ phi thật cần thiết, nếu không chúng sẽ quấy nhiễu anh suốt dọc đường. Tuyệt đối tránh xa lũ phiến quân, anh sẽ không muốn thấy một tiểu đoàn truy sát mình đâu! Nhớ, chớ tùy tiện cho ai cái gì chỉ vì họ đói khổ, hàng trăm người sẽ xâu xé anh như bầy quạ rỉa xác…
Vô Phong nhăn mặt trước lời thuyết giáo quá nhiều của Tiểu Hồ. Hắn gật gật lấy lệ:
-Biết “dzồi”, biết “dzồi! Khổ lắm! Nói mãi!
Tiểu Hồ nhíu mày lườm hắn. Nàng lôi từ túi áo ra một chiếc dây kim loại màu đen ánh đỏ, bảo Vô Phong quay người lại rồi buộc tóc giùm hắn. Nàng luồn tay vào mái đầu đỏ, từng ngón kéo xuống gỡ những sợi tóc rối, đoạn dặn dò tiếp:
-Tôi đã ếm Hỏa niệm lên cái dây, chỉ cần anh đọc mật khẩu, nó sẽ hoạt động. Hãy sử dụng nó nếu gặp nguy hiểm, nhưng chỉ dùng được ba lần thôi, đừng phung phí.
Tên tóc đỏ nhướn mắt vẻ ngạc nhiên. Chuyện ếm phép thuật lên đồ vật vô tri vô giác, hắn không lạ, lạ ở đây là Tiểu Hồ bỏ công bỏ sức ra để bảo vệ hắn. Đưa phép thuật vào đồ vật cần nhiều nội lực, thời gian lẫn tâm trí của pháp sư (hoặc kiếm thuật sư). Nghĩ lại, Vô Phong chợt hiểu mấy ngày vừa rồi không thấy mặt Tiểu Hồ đâu, hẳn là vì chiếc dây này. Có nhất thiết phải làm như vậy không, Tiểu Hồ? – Vô Phong tự hỏi. Đó là một câu hỏi đầy tính quan tâm, nhưng khi thoát ra đằng miệng Vô Phong, nó lại dở tệ thế này:
-Sao cô làm thế? Bộ thừa thời gian à?
Tiểu Hồ nghiến răng giật tóc Vô Phong xuống. Tên tóc đỏ la oai oái rồi vội vàng sửa chữa:
-Ý tôi là cô nên dành thời gian nghỉ ngơi! Làm thế này… – Hắn chỉ chỉ vào dây buộc tóc – …sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe. Cô đang dưỡng bệnh cơ mà!
Những ngón tay của Tiểu Hồ buông lơi, sau lại chải mái tóc đỏ một cách nhẹ nhàng. Một nét cười mỉm vụt qua trên miệng cô gái. Nàng nói:
-Chuyện tìm Quỷ Vương quan trọng hơn. Anh mà ngủm, lấy ai bảo vệ công chúa? Đừng nói với tôi rằng Chiến Tử hay Thú có thể thế chỗ của anh. Cho dù gọi cả đội Thổ Hành cũng không đủ với lục địa Kim Ngân!
Mấy ngày nay, khắp ngõ ngách trên Thần Sấm luôn có tiếng bàn tán về Kim Ngân, Vô Phong nghe nhiều đến phát chán. Ai nấy đều vẽ ra một mảnh đất với vô số tai ương hiểm họa, Tiểu Hồ cũng chẳng ngoại lệ. Vô Phong không phản bác lời nàng, chỉ gật gù lấy lệ, thi thoảng đưa tay che cái ngáp vặt. Tuy vậy, Tiểu Hồ có nói một câu khiến hắn phải bận tâm:
-Làm cho xong việc rồi khi nào về Phi Thiên thành, chúng ta sẽ đi ăn. Được chứ?
“Ăn” là chủ đề mà gã tóc đỏ ưa thích nhất. Nhưng điều bất bình thường là Tiểu Hồ mời hắn. Nhớ ngày trước, Tiểu Hồ tìm mọi cách lật mặt nạ của Vô Phong, một mực đòi tống hắn vào tù, giờ mời hắn đi ăn. Vạn Thế hỡi, thế giới đảo điên hết rồi à? – Hắn nghĩ thầm, mặt nhăn như khỉ ăn ớt:
-Tự dưng mời đi ăn… là sao?
Tiểu Hồ nhíu mày, môi khẽ cong lên:
-Tôi mời mà từ chối hả? Được thôi! Cho anh biết, tôi có một tiệm bánh nhỏ ở khu đông quận Mắt Trắng. Không ăn thì… phí hoài cuộc đời đấy!
Vô Phong không quên hương vị của những chiếc bánh do Tiểu Hồ làm ra. Nhắc tới đây hắn lại thòm thèm, cổ họng lén nuốt nước miếng ừng ực. Song đồ ăn ngon không phải vấn đề, vấn đề là thái độ của Tiểu Hồ. Hắn vẫn quen cảnh một cô gái tóc vàng ưa quát tháo, khoái đâm chọt mỉa mai hắn mỗi khi có cơ hội và không bao giờ để hắn có một ngày thảnh thơi. Bây giờ Tiểu Hồ vẫn thế, nhưng trong lời lẽ của nàng chẳng còn ác ý, như thể chúng chỉ là lời đùa cợt hơi quá trớn. Điều ấy làm tên tóc đỏ thoải mái hơn và… lạ hơn. Bởi sự lạ lùng ấy, những cảm xúc mới lạ hơn cũng nhanh chóng xuất hiện như nấm mọc sau mưa. Hắn vội vàng co cụm chúng ở một nơi kín đáo trong đầu, quyết không để lọt ra ngoài. Nhằm tăng phần chắc chắn, hắn lại bao bọc tâm trí bằng lời cảnh cáo bản thân như “cô ta là thú dữ, một sinh vật nguy hiểm, không nên dây vào”. Trước lời mời của cô gái, Vô Phong chối đây đẩy:
-Tôi không từ chối. Nhưng ai biết được cô có bỏ cái gì vào đồ ăn hay không? Định đầu độc tôi phỏng?
Sẽ là giật tóc, sẽ là quát tháo bằng cái giọng chua loét. – Hắn mường tượng hành động kế tiếp của Tiểu Hồ. Nhưng cô gái chẳng làm thế. Nàng chỉ cười, sau tựa cằm lên đầu Vô Phong. Những lọn tóc vàng của nàng trượt trên mái tóc đỏ, chút đụng chạm hờ hững nhưng đủ sức bóc tách lớp phòng thủ trong tâm trí Vô Phong. Không còn thú dữ hay sinh vật nguy hiểm nào nữa, Vô Phong chỉ cảm thấy sự nữ tính từ cô gái đang từ từ ngấm vào da thịt và chảy khắp cơ thể mình. Thứ nữ tính ấy, mái tóc vàng ấy, chúng xoắn quyện với nhau, xô vào cõi lòng hắn từng đợt tựa sóng triều vỗ bờ, thôi thúc hắn mở miệng, giục giã hắn làm điều gì đó. Làm sao đây? – Hắn bối rối.
Trong lúc Vô Phong còn đương phân vân, Tiểu Hồ thở dài:
-Bao giờ anh mới hết cà tẩm đây hả Phong?
Nàng nói không sai. Tên tóc đỏ đích thực cà tẩm bởi ngay cả câu nói này, hắn cũng chẳng hiểu tâm ý của nàng. Không thể tin nổi một kẻ xuất thân từ “chợ rác” như Vô Phong lại chậm hiểu đến thế. Nhưng Tiểu Hồ không giận và cũng chẳng vội. Cứ để thời gian trôi, không chừng nàng sẽ phát hiện được nhiều điều thú vị khác về tên tóc đỏ.
-Cảm ơn cô nhiều. – Vô Phong nói.
Căn phòng vốn tĩnh lặng và Tiểu Hồ nghe rất rõ lời của Vô Phong. Cô gái nở nụ cười tinh quái đoạn hỏi lại:
-Anh nói gì cơ?
Vô Phong lí nhí trả lời:
-Cảm ơn…
Tiểu Hồ bật cười, nàng chưa từng thấy một Vô Phong ngượng ngùng như thế. Cô gái nhìn mái đầu đỏ thật lâu rồi từ sâu thẳng cõi lòng, nàng nói khẽ:
-May mắn nhé! Vạn Thế che chở cho anh. Đừng quên, còn một đống bánh ngọt ở Phi Thiên thành đang đợi anh. Còn có…
Chữ “tôi” dừng lại trên vòm họng của Tiểu Hồ. Nó ngập ngừng, nửa muốn bước ra khỏi miệng nàng, nửa muốn quay về trái tim. Ngập ngừng mãi, nó liền chọn phương án thứ hai. Tiểu Hồ thở dài, lòng hơi tiêng tiếc. Nàng tựa cằm lên đầu Vô Phong thật lâu, cho tới khi mọi vật trong mắt trở nên mơ hồ. Thương tích chưa khỏi, lại luyện món ếm phép thuật nhiều ngày, Tiểu Hồ nhanh chóng thấm mệt. Nàng tựa má lên đầu Vô Phong, cái nhìn chìm trong mái tóc dày màu đỏ, hai tay buông thõng trước ngực hắn. Vô Phong chẳng để ý, mãi khi nghe thấy tiếng thở đều đều mới nhận ra cô gái đã thiếp đi từ lúc nào.
“Dễ ngáy kinh!” – Hắn cười thầm rồi nhẹ nhàng đặt lưng Tiểu Hồ xuống giường ngủ. Hắn không vội đi ngay mà nán lại thêm một lát để ngắm nhìn Tiểu Hồ. Càng nhìn nàng, hắn càng mong quay về Phi Thiên thành, ghé qua tiệm bánh của Tiểu Hồ và…
Và…
Hắn không biết nghĩ ra điều chi nữa, dù đã mường tượng ra rất nhiều. Trong khoảnh khắc ấy, hắn chỉ mong nhiệm vụ ở Kim Ngân sớm kết thúc.
*
* *
Quả thực, Vô Phong bây giờ không thể mô tả quan hệ giữa hắn và Tiểu Hồ. Nó đang rẽ sang một hướng – mà theo hắn – rất kỳ cục. Hắn không nghĩ sẽ có ngày mình giãy nảy lên vì ai đấy nhắc đến Tiểu Hồ.
-Chỉ là đùa thôi, công chúa. – Vô Phong nhăn nhó – Đừng kể cho Tiểu Hồ, cổ sẽ cắt tiết tôi mất!
Lục Châu nhún vai tỏ vẻ không dám chắc sẽ thực hiện theo lời gã. Tên tóc đỏ nhăn mặt:
-Công chúa biết đùa từ bao giờ thế? Liên quan tới sinh mạng con người đấy, không đùa được đâu!
-Còn phải xem anh thế nào đã… – Lục Châu nháy mắt – Nhưng anh đâu cần phản ứng về Tiểu Hồ thái quá như vậy?
Vô Phong cười gượng. Khám phá mọi ngõ ngách thế giới Tâm Mộng là ước nguyện của hắn. Hắn rời khỏi “chợ rác” cũng vì lý do này. Nhưng mỗi lần ở bên Tiểu Hồ, máu phiêu lưu của hắn hơi chùng xuống. Đôi khi, những khoảnh khắc đẹp khiến con người ta muốn sống mãi với nó. Màn khiêu vũ ở Sơ Khởi thành, cây cầu nước dẫn tới Hắc Thành họ Mạc ở Lạc Việt, hắn nhớ như in. Bởi lẽ, Tiểu Hồ đã cho hắn thấy những nơi ấy đẹp thế nào. Song đằng sau vẻ đẹp còn có những cảm xúc mà hắn chưa từng biết, chưa từng trải qua; một thứ cảm xúc kỳ lạ mà hắn tin chắc không bao giờ xuất hiện ở chợ rác Uất Hận Thành.
Tên tóc đỏ chắc chắn sẽ ghé qua tiệm bánh của Tiểu Hồ, nhưng đấy là câu chuyện khác. Giờ trước mắt hắn chỉ còn Kim Ngân. Vừa lúc ấy, chiếc phi thuyền lặn vào biển mây, sau hạ xuống một vùng không gian khác. Để kết thúc chủ đề Tiểu Hồ, hắn ngó qua ô cửa phi thuyền rồi nói:
-Hình như đây là Âm Giới phải không, công chúa?
Lục Châu nghển cổ nhìn theo hắn, nét vui tươi trên khuôn mặt dần phai nhạt. Nàng biết rằng ngay lúc này, những lời bông đùa sẽ hoàn toàn lạc điệu với cảnh vật bên dưới phi thuyền. Công chúa đáp lời:
-Phải, là Âm Giới. Chúng ta vào Kim Ngân rồi.
Hoàng hôn chưa tắt hẳn, ánh nắng vẫn đủ sáng để soi rọi vùng đất liền phía sau từng lớp sóng biển đương vỗ rì rào. Đó là một miền đất không bằng phẳng mà nhấp nhô những dải đèo nằm rải rác, vài quả núi nhỏ lác đác cách xa nhau tựa đám lữ khách đã mệt mỏi sau một hành trình dài đằng đẵng. Sắc cam sậm bao trùm khắp miền đất. Không phải màu hoàng hôn mà là màu của sự hoang vu. Dù cách xa cả ngàn mét, Vô Phong vẫn cảm nhận rõ ràng vùng đất đang phả lên những hơi thở khô cằn, rút cạn mọi niềm vui từ đôi mắt hắn. Tên tóc đỏ mong đợi một cánh chim chao liệng, một con thú chạy loăng quăng tìm mồi giữa những rẻo đất nghèo nàn dinh dưỡng. Nhưng trái với mong đợi, chẳng hề có một thứ gì chuyển động. Miền đất Kim Ngân im lìm tựa bức tranh tĩnh vật khổng lồ - một sự im lặng không tự nhiên như giấc ngủ mà gần gũi cái chết hơn. Vô Phong nghĩ phi thuyền đang bay hơi cao nên chẳng thể nhìn thấy mọi vật bên dưới. Nếu bay thấp chút nữa, có thể hắn sẽ tìm ra nhiều điều thú vị. Hắn mong vậy.
Như đáp ứng nguyện vọng của hắn, chiếc phi thuyền liền hạ dần độ cao và Vô Phong lại thêm một phen thất vọng. Màu cam sậm hoang hóa đã xâm lấn khắp nơi đây, tuyệt không cho một màu xanh tốt nào đấy trồi lên. Thậm chí còn không có một cây khô, một bụi cỏ dại nào mọc nổi bởi dưới lòng đất không hề có mạch nước ngầm. Không nước, không cây, không chim muông, không cả côn trùng. Giả như có sinh vật lạc bước vào chốn này, nó sẽ bỏ đi ngay hoặc chết trước khi tìm thấy đường ra. Nếu sinh vật đó có đủ thức ăn nước uống, nó cũng sẽ chết trước không gian ảm đạm được tạo ra từ những dải đồi, những ngọn núi mờ bóng xa xa. Nhìn chúng, Vô Phong bỗng thèm thuồng mảnh đất Lạc Việt, nơi mà mỗi bước chân được nâng niu bởi triền đồi thoai thoải xanh mướt cỏ, nơi mà con người được mãn nhãn với hai dãy núi ôm lấy làng Lạc Việt và xả ra những dòng thác trắng phau. Còn nơi đây, mảnh đất Kim Ngân… nếu bắt Vô Phong miêu tả nó, hắn sẽ cứng họng. Khô khốc, cằn cỗi… từng rẻo đồi cằn cỗi, khô khốc… chúng sứt sẹo và tróc lở, như thể là sản phẩm lỗi của lưỡi bào thời gian. Từng rìa đồi, triền đồi lẫn đỉnh đồi lởm chởm đá tảng như lưỡi dao cùn sẵn sàng cứa nát bàn chân người bộ hành một cách lặng lẽ nhất và đau đớn nhất. Nếu phải đi qua miền đất, không ai muốn trèo lên những dải đồi này. Nực cười thay, chúng nằm rải rác mà tạo thành những cung đường ngoằn ngoèo. Hoặc băng qua chúng, hoặc là theo những đường ngoằn ngoèo đó với độ dài gấp ba bốn lần đường thẳng.
Phi thuyền tiếp tục tiến sâu vào đất liền. Cứ khoảng ba bốn chục cây số, Vô Phong lại thấy một quả núi nhỏ, khi nằm xen kẽ giữa các dải đồi, khi đứng trơ trọi giữa vùng đồng bằng. Gọi là “núi” vì chúng cao hơn và lớn hơn đồi một chút chứ không hề giống núi. Chúng không trải rộng như dải núi Hoành Sơn hùng vĩ ở tộc Lạc Việt, không kiêu hãnh như đỉnh núi tuyết sắc bén xẻ rách trời cao ở Băng Thổ. Chúng co cụm một cách cau có, từ chân núi đến sườn núi không hề có đường lên mà chỉ toàn lối mòn lổn nhổn đá vụn, đỉnh núi bè bè quạu quọ như một kẻ gục đầu chán nản dưới ánh hoàng hôn rực rỡ nhưng không huy hoàng. Chúng là điểm nhấn của một bức tranh chỉ toàn màu cam hoang vu cạn kiệt nhựa sống. Thứ sắc màu đó không giống sự mủn rục của cây khô sắp gãy, không giống sự tàn tạ của ngôi nhà mà chỉ cần đụng vào là đổ. Thứ sắc màu đó ngấm sâu, luồn lách đến từng ngõ ngách trên vùng đất, tạo thành một đế chế hoang tàn nhưng trường tồn và không gì có thể đánh đổ. Kim Ngân là thế. Nó đã như vậy từ lâu lắm, trước cả khi con người biết đến nó.
Vô Phong biết sẽ không có chuyện dễ dàng ở Kim Ngân, nhưng cách mào đầu câu chuyện của lục địa này thực quá dữ dằn. Khởi đầu đã thế, vậy chuyện gì đang xảy ra bên trong nó? Những cư dân Kim Ngân sống thế nào trong màu cam hoang tàn đáng sợ này? Một cảm giác tò mò lẫn rờn rợn chạy dọc sống lưng gã tóc đỏ.

Cảnh vật đơn điệu chầm chậm lướt qua ô cửa phi thuyền, mang đến cơn buồn ngủ mãnh liệt cho Vô Phong. Nếu chẳng vì niềm khao khát khám phá, hắn đã gục đầu ngáy một trận đã đời. Hắn cứ mơ màng như thế cho tới khi Lục Châu nhẹ nhàng nhắc nhở:
-Chúng ta đến nơi rồi!
Ngay lập tức, Vô Phong nhổm người nghến cổ ngó xuống. Dù mặt trời đã lặn song hắn vẫn có thể nhìn ra một thành phố lớn xuất phát từ sau rặng núi phía đông, trải dài sang hướng tây đến hút tầm mắt. Đằng xa, tít tận mạn bắc thành phố, những ngọn đèn màu vàng nhỏ xíu xếp thành hàng ngang dài, cứ vài giây lại nhấp nháy một lần. Đó chính là Lằn Ranh Vàng, còn thành phố này là một trong những nơi yên bình của lục địa hỗn loạn – Vùng An Toàn. Từ lâu, các thành phố của Âm Giới nói riêng và của Kim Ngân nói chung chẳng còn tên riêng mà được đánh dấu bằng số hiệu, ngoại trừ thủ đô Tịch Cô nằm ở miền tây Âm Giới. “Vùng 28” – đó là cách người ta gọi nơi này.
Ở Vùng 28, Vô Phong bắt gặp những dải ánh sáng màu trắng bạc xuất hiện khắp thành phố mà hắn không hiểu đến từ đâu. Chúng không thể soi rọi khoảng không mà chỉ đủ sáng để khiến người ta chú ý, tựa như đom đóm vậy. Bất quá, chúng cũng chẳng phải đom đóm. Chúng bám vào mọi ngôi nhà với đủ hình thù khác nhau, một số hình xoắn ốc, một số hình hoa lá cách điệu, một số khác chỉ là những vệt thẳng tưng chạy theo chiều dọc hoặc chiều ngang ngôi nhà. Tên tóc đỏ chưa từng thấy thứ gì lạ lùng như vậy, hắn bèn hỏi Lục Châu thì nàng trả lời:
-À! Đó là “sa kết tuyến”, một loại vật liệu xây dựng cơ bản của người Kim Ngân. Chỉ cần có nó, anh có thể dựng lên mọi ngôi nhà từ cát. Mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm áp, đó là năng lực của sa kết tuyến.
Tên tóc đỏ nhíu mày, đoạn ngắm nhìn Vùng 28. Giống mọi nơi khác, các công trình kiến trúc ở đây hầu hết đều có dạng khối hộp. Tuy nhiên, chúng không hề vuông thành sắc cạnh mà có chút lồi lõm và hơi thiếu bằng phẳng, tựa hồ những người thợ đã quên hoặc bỏ qua khâu hoàn thiện. Tuy vậy những tòa nhà đều chắc chắn và rất bền bỉ. Vô Phong gãi gãi cằm:
-Sa kết tuyến là thứ gì vậy, công chúa?
-Một chất bán hợp kim có thành tố phép thuật. Nó giống thanh sắt, dài từng này… – Lục Châu giơ hai lòng bàn tay cách nhau khoảng một mét – …nó làm cát dính chặt vào nhau, biến thành vật liệu bền vững. Chỉ cần một khối lượng sa kết tuyến, một lượng cát vừa đủ, bất kỳ ai cũng có thể xây nhà. Cho nên ở Kim Ngân không có nghề thợ xây.
Vô Phong ngạc nhiên:
-Ai cũng có thể tự xây nhà ư?
-Ừ. Nhưng không phải ai cũng biết cách làm nhà đẹp. Ở đây có một nghề là “dựng nhà”. Những người làm nghề này biết cách làm chủ thành tố phép thuật trong sa kết tuyến, điều khiển dòng cát, tạo nhà theo ý muốn. Họ cũng là pháp sư, nhưng theo chiều hướng phục vụ xã hội, không phải chiến đấu.
Tên tóc đỏ nói:
-Vậy sao mấy cha dựng nhà không biến cái Vùng 28 này đẹp hơn tí? Trông nó nham nhở quá!
-Tiền thuê người dựng nhà không rẻ. Gần nửa dân số Âm Giới sống dưới mức nghèo khổ, mỗi năm phải nhận lương thực viện trợ từ Đại Hội Đồng, sao đủ tiền thuê người dựng nhà?
-Họ nghèo lắm sao?
Lục Châu gật đầu và không nói thêm lời nào nữa. Đôi mắt nàng thoáng buồn, lại có những tia tội lỗi, như thể chính nàng là nguyên nhân gây nên nghèo đói ở Âm Giới. Công chúa cả nghĩ rồi! – Vô Phong thở dài.
Chiếc phi thuyền tiến nhập không phận Vùng 28, sau đó khoảng mươi phút, nó đáp xuống phi trường nằm tại rìa tây thành phố. Công chúa, Vô Phong và Chiến Tử thay phiên nhau bước xuống. Khí hậu Âm Giới về đêm rất lạnh, cả ba người đều thu mình trong áo khoác sẫm màu. Dưới cửa phi thuyền, một người lính đã chờ sẵn, phía sau anh ta là hai chiếc xe thiết giáp. Quân phục của người lính nọ có màu rằn ri xanh dương, trước ngực đeo phù hiệu hình chữ thập; trên thân hai chiếc thiết giáp cũng sơn hình chữ thập. Đó là biểu tượng của lính liên quân. Trông thấy nhóm Lục Châu, anh ta liền giơ tay chào kiểu nhà binh, sau lên tiếng:
-Mấy người đến sửa chữa hệ thống máy tính?
Máy tính nào ở đây? – Vô Phong nhíu mày. Nhưng công chúa lại trả lời rất trơn tru, như thể nàng là nữ nhân viên sửa chữa thực thụ:
-Vâng! Chúng tôi sửa lỗi hệ thống truyền tin.
-Vậy xin mời các vị!
Anh ta dẫn nhóm công chúa lên xe. Lát sau, hai chiếc thiết giáp rời phi trường rồi từ từ tiến nhập nội đô Vùng 28. Cuộc đối thoại giữa công chúa và người dẫn đường thực chất là mật khẩu. Rút kinh nghiệm từ chuyến đi Xích Quỷ, Đại Hội Đồng cùng Phi Thiên bảo đảm bí mật tuyệt đối cho chuyến hành trình của công chúa, chỉ những người liên quan mới biết nàng đang ở đây, ví dụ như người dẫn đường này. Anh ta nói:
-Chúng ta sẽ tới quân doanh số 28, phó thống lĩnh Đổ Yên đang chờ các vị. Ông ấy có vài điều muốn dặn dò mọi người. Xin lỗi về sự bất tiện vì hiện tại không thể đưa các vị tới thẳng quân doanh bằng phi thuyền. Hôm qua, chúng tôi phát hiện một số kẻ cố gắng chuyển vũ khí vào thành phố. Chúng tôi chưa biết mục đích của chúng và liệu có bỏ sót đám nào như thế không, tuy nhiên để đảm bảo an toàn cho các vị, ngài Đổ Yên đã ra lệnh cấm bay ở nội đô.
Lần đầu tiên trong ngày, Chiến Tử mở miệng. Giọng gã trầm trầm, đều đều và lạnh lẽo:
-Có gì chắc chắn rằng di chuyển kiểu này sẽ an toàn hơn?
Ánh nhìn của Chiến Tử xoáy thẳng vào đôi mắt người dẫn đường. Anh chàng nọ hơi quay đi, thần thái có chút khiếp nhược:
-Chúng tôi đã bố trí lực lượng trên đường đi. Họ sẽ tiếp ứng ngay lập tức nếu xảy ra chuyện. Xin cứ yên tâm!
Hai chiếc thiết giáp lầm lũi chạy trên những con đường không rộng song không quá hẹp, cảnh vật của Vùng 28 dần hiện lên một cách lặng lẽ và chậm chạp. Ngoài trừ sa kết tuyến, thành phố này không có nhiều ánh sáng. Ở đây, người ta vẫn dùng hệ thống đèn đường cũ kỹ thay vì sử dụng vật liệu tự phát sáng như các thành phố văn minh khác. Dưới ánh đèn đường vàng vọt mờ mờ, Vô Phong trông thấy những ngôi nhà cao thấp lố nhố có phần xiêu vẹo. Chúng im lìm, tự phòng thủ trước màn đêm lặng lẽ bằng những cánh cửa khép chặt, hoặc nếu có nhìn thì cũng không mở toang mà chỉ nhích cánh cửa sổ ra tí chút tựa con mắt khép hờ và đầy ngờ vực. Sự lặng lẽ bao trùm Vùng 28 từ tây sang đông, từ trục đường chính tới những con hẻm. Họa hoằn lắm mới có bóng người qua lại, nhưng đó lại là lính liên quân đang tuần tra. Vô Phong muốn thấy người Âm Giới, muốn tận mắt coi gương mặt và trang phục của họ, song có vẻ người bản xứ đã rời khỏi đây từ lâu. Và bởi không có bóng người bản địa, Vô Phong không thể biết đâu là khu buôn bán, chỗ nào là giải trí hay đơn giản là một quảng trường cho người dân tụ tập vui chơi ngày cuối tuần. Dưới hàng đèn đường vàng vọt, Vùng 28 tồn tại một cách vật vờ như thế.
-Ban ngày ở đây nhộn nhịp hơn nhiều! – Người dẫn đường lên tiếng – Buổi tối thì vắng, dân chúng không dám ra đường vì sợ trộm cắp.
-Tôi tưởng Vùng An Toàn luôn đảm bảo an ninh? – Vô Phong hỏi.
-Mang tiếng vậy thôi. – Người dẫn đường cười – Cứ cuối tháng, chúng tôi lại tổ chức truy quét trộm cướp. Nhưng vãn vãn được một thời gian, chúng lại xuất hiện. Lũ phiến quân thường gửi người trà trộn vào đây nhằm gây nhiễu loạn tình hình. Chúng không thiếu người và tôi không nghi ngờ rằng chúng sẽ làm việc đó thêm cả trăm năm nữa.
Vẻ chán nản hiển hiện trên gương mặt người dẫn đường. Ánh mắt mệt mỏi, bờ mí thâm quầng thiếu ngủ, làn da cháy sạm vương mùi nắng cùng mùi thuốc súng, mặc dù anh ta chưa đến ba mươi tuổi nhưng trông chẳng khác người sắp tứ tuần. Rõ ràng nếu có cơ hội, anh ta sẽ tạm biệt Vùng 28 rồi trở về quê nhà hoặc đi nơi khác, miễn sao nơi đó không phải là Kim Ngân.
Sau gần nửa tiếng đi về hướng nam, hai chiếc thiết giáp giảm dần tốc độ. Phía trước chúng là cánh cổng sắt đen trũi và ánh đèn pha từ tháp canh của quân doanh số 28. Làm xong thủ tục kiểm tra, hai chiếc xe liền tiến vào doanh trại. Người dẫn đường nhìn Lục Châu hồi lâu, sau rụt rè nói với nàng:
-Tôi có một thỉnh cầu, không biết cô có thể đáp ứng, thưa công chúa?
-Vâng?
-Tôi rất hâm mộ cô, thưa công chúa Lục Châu! – Giọng điệu anh chàng hơi gấp gáp và ngượng ngùng – Tôi biết cô không thể chụp ảnh vì vấn đề bí mật, nhưng liệu cô có thể cho tôi chữ ký?
Lục Châu chưa kịp đáp lời thì Chiến Tử chen ngang:
-Không được! Nếu ai đó phát hiện, họ sẽ biết công chúa đang ở đây!
Người dẫn đường cười:
-Xin yên tâm, tôi sẽ không thể nói với ai khác bởi vì tôi đang bị giám sát. Tất cả những người có tiếp xúc với các vị đều bị kiểm soát cuộc sống cá nhân cho tới khi các vị hoàn thành nhiệm vụ. Ngay ở trong chiếc xe này cũng thế.
Nói đoạn anh ta chỉ vào góc xe, ở đó có một máy quay nhỏ xíu đang xoay qua xoay lại. Người dẫn đường không hề nói chơi, tất cả đang được theo dõi hết sức chặt chẽ. Lục Châu suy nghĩ hồi lâu rồi ký tên mình vào cuốn sổ cá nhân của anh ta. Công chúa ký xong, anh chàng nọ nâng niu cuốn sổ như thể nó là thứ báu vật mà kể cả nguyên liệu quang tố cũng không thể sánh kịp. Anh ta cúi đầu lia lịa:
-Cảm ơn cô! Vạn Thế sẽ ban phước cho cô. Năm sau tôi nhất định sẽ tới xem cuộc thi Tổng Lãnh, tôi sẽ cổ vũ cho cô, thưa công chúa!
Lục Châu mỉm cười, cúi đầu cảm ơn thành ý. Trông biểu hiện của anh chàng kia, Vô Phong liền quay sang nhìn công chúa, ánh mắt hấp háy như muốn nói “nổi tiếng dữ nhỉ, công chúa?”. Thấy tên tóc đỏ trêu chọc mình, Lục Châu nhíu mày yêu cầu hắn chỉnh đốn thái độ.
Hai chiếc xe chạy thêm một quãng nữa thì dừng hẳn. Nhóm công chúa xuống xe, sau đó theo người dẫn đường tiến sâu vào doanh trại. Ba người họ đội mũ trùm và che kín mặt, đặc biệt là công chúa. Vì nếu có gã lính nào đấy nghe thấy hai chữ “Lục Châu”, lập tức ngay ngày mai, cả lục địa này nhốn nháo gọi tên nàng và nhiệm vụ của công chúa sẽ đổ bể sạch sẽ. Cơ mà nổi tiếng như công chúa, Vô Phong cũng muốn. Được ngưỡng mộ, được người ta xin xỏ chữ ký, khoái lắm chứ bộ! – Hắn thở phì phì, lòng ghen tỵ với Lục Châu.
Người dẫn đường đưa họ tới trung tâm doanh trại, cách nơi dừng xe khoảng ba mươi mét. Tại đó có một tòa nhà kiểu dáng kim tự tháp – sở chỉ huy của quân doanh số 28. Nó xây nên từ cát, bốn mặt tòa nhà có bốn dải sa kết tuyến khổng lồ kết hình chữ thập màu trắng bạc. Ở bốn mặt ấy có rất nhiều ô cửa sổ, đại đa số đều sáng đèn và luôn thấy người qua lại. Dù chưa vào trong nhưng Vô Phong khẳng định nơi này có nhiều sinh khí hơn so với những con phố lặng lẽ như nhà mồ ngoài kia. Bước qua cổng chính, nhóm công chúa được dẫn qua lối tắt thay vì phải đi qua hàng rào an ninh. Tuy vậy, lối tắt là một hàng lang đầy rẫy máy quay và hệ thống phòng thủ điều khiển từ xa. Người dẫn đường nói rằng chỉ cần phát hiện đối tượng khả nghi, hành lang sẽ xả khí gây mê và ở đây không hề có ngã rẽ hay lối thoát. Trong lúc đó, Vô Phong lại mải mê rờ tay lên tường, muốn coi kiến trúc bằng cát khác kiến trúc thường ở chỗ nào. Hắn cảm giác tường khá mềm, như thể từng hạt cát sắp tách rời nhau, song kỳ thực lại vững chắc vô cùng. Dẫu hắn ấn tay mạnh cỡ nào, mặt tường cũng không suy chuyển dù cảm giác mềm mềm vẫn lan truyền khắp bàn tay.
Thang máy đưa nhóm công chúa lên tầng năm, nằm lưng chừng tòa nhà kim tự tháp. Người dẫn đường đưa họ theo một lối thẳng tắp từ cửa thang máy đi ra. Hai bên lối đi là những căn phòng làm việc được bao bọc bởi lớp kính trong suốt và người bên ngoài có thể nhìn vào. Tại đây, Vô Phong bắt gặp khá nhiều cảnh tượng kỳ lạ. Hắn đặc biệt ấn tượng với một căn phòng gồm hai mươi nhân viên, mỗi người đội một chiếc mũ kim loại che kín mặt, họ ngồi trên ghế thép gắn đầy những cần điều khiển. Người dẫn đường cho biết đây là tổ điều khiển phi thuyền không người lái. Một số căn phòng giữ tác phong truyền thống với bàn làm việc, giấy má xếp thành tập cao ngất ngưởng. Vài căn phòng khác lại chẳng có gì ngoài một máy chiếu ba chiều, những tập tài liệu số hóa và các nhân viên thực hiện thao tác trên máy tính ảo. Còn nhiều lối rẽ cùng vô số những căn phòng khác mà Vô Phong không thể thấy hết. Tuy nhiên, hắn nhận thấy cánh cửa ra vào mỗi phòng hiếm khi yên vị vì người qua lại vào ra liên tục. Nhân viên tại đây hầu như chẳng để ý ba vị khách lạ bởi sự khẩn trương đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm trí họ. Vài người vừa đi vừa nói chuyện bộ đàm, Vô Phong nghe loáng thoáng thế này:
-Đội hậu cần đâu rồi? Chúng tôi đang thiếu vũ khí!
-Cần điều thêm phi thuyền không người lái, ba chiếc hỏng mất rồi!
-Gửi cái này tới phòng phó thống lĩnh? Tôi e là không được, thưa ngài. Ngài phó thống lĩnh đang chỉ đạo cuộc chiến, ông ấy sẽ giết tôi nếu làm gián đoạn công việc.
Hoặc có lời lẽ gay gắt thế này:
-Chúng tôi cần tăng viện, ngay bây giờ! Tình hình nguy cấp lắm rồi! Chúng tôi cần phi thuyền đổ bộ và phi thuyền trợ chiến!
Nghe cách họ nói chuyện, nhóm công chúa phỏng đoán doanh trại đang vướng vào một cuộc chiến. Tuy nhiên họ không tò mò hay hỏi han người dẫn đường, chỉ lặng lẽ bước theo anh ta.
Phía cuối lối đi là phòng của phó thống lĩnh quân doanh số 28. Không gõ cửa cũng chẳng mở lời, người dẫn đường cứ thế đẩy cửa vào. Cửa vừa mở, một loạt lời lẽ chửi bới ầm ĩ văng ra. Lời chửi bới xuất phát từ một người đàn ông hói đầu, gương mặt đỏ au với bộ râu quai nón bạch kim. Ông ta có dung nhan hằn đầy nếp nhăn của ông già sáu mươi tuổi, nhưng lại sở hữu cánh tay gân guốc và tráng kiện của thời thanh xuân. Và người này còn rất khỏe, bởi lẽ ông ta đang chửi bới hăng máu hơn bao giờ hết:
-Hãy gửi quân tiếp viện, ngay bây giờ! Con mẹ nó! Đội 3 và đội 7 của tôi sắp tiêu tùng trong cái thị trấn chó má đó! Mười người đã chết, bộ các ông còn định trì hoãn tới khi nào? Này?! Có nghe không đấy? Con bà chúng mày! Vạn Thế nguyền rủa chúng mày!
Sau lời chửi bới là âm thanh vỡ nát. Chiếc bộ đàm bẹp dúm trong bàn tay to khỏe, nó bị vò, bị nghiền rồi biến thành một cục đen thui lui nằm chỏng chơ trên đất. Người dẫn đường chẳng tỏ thái độ gì, chừng như đã chứng kiến cảnh này quá nhiều. Anh ta nói:
-Thưa phó thống lĩnh, người đã tới.
Trông thấy nhóm công chúa, người đàn ông râu quai nón nở nụ cười miễn cưỡng, sắc đỏ trên gương mặt vẫn không hề dịu đi. Ông ta mời ba người Phi Thiên ngồi xuống ghế, đoạn quay sang nói với người dẫn đường:
-Ai bảo cậu xin chữ ký công chúa?
-Tôi biết lỗi, thưa ngài.
-Dọn nhà vệ sinh một tháng, không ăn sáng một tháng, không được ra ngoài mua sắm một tháng, không được gọi điện về gia đình một tháng. Nộp quyển sổ lưu chữ ký ra đây!
Anh chàng kia có chút bất mãn:
-Thưa ngài, những cái khác tôi làm được. Nhưng quyển sổ… nó là vật cá nhân, thưa ngài.
-Ta sẽ trả khi công chúa Lục Châu đây xong việc.
Anh lính nọ cười tươi, đoạn đưa quyển sổ cho cấp trên. Có lẽ với anh ta, để sở hữu một thứ của công chúa Lục Châu, chịu mấy hình phạt kể trên chẳng đáng gì. Vô Phong lại quay sang hấp háy mắt trêu chọc công chúa. Cô gái bèn thúc mạnh khuỷu tay vào sườn tên tóc đỏ làm gã này đau tái mặt.
Đợi người lính nọ rời khỏi phòng, người đàn ông râu quai nón đóng cửa phòng và khóa trái cửa. Ông ta mở lời:
-Các vị có thể cởi khăn bịt mặt. Vậy ra… cô là Lục Châu? Thật hân hạnh! – Ông ta bắt tay công chúa – Ta là Đổ Yên, phó thống lĩnh quân doanh 28. Hiện doanh trại đang tham gia chiến dịch lớn, vì vậy ta sẽ nói thật nhanh. Hãy đặt câu hỏi khi ta nói xong, vì vậy, xin đừng cắt ngang. Tuy nhiên, có một việc ta đang thắc mắc. Bên Phi Thiên nói các vị có bốn người, vậy người thứ tư đâu?
Thú không hề đi cùng với nhóm công chúa. Hành tung của gã khá bí ẩn, ngay cả thuyền trưởng Nhất Long cũng không nói rõ với Lục Châu rằng Thú sẽ tới sau hay xuất hiện ở đâu. Công chúa đành trả lời:
-Anh ta sẽ tới sau, thưa ngài.
-Vậy hả? Thôi được, chúng ta sẽ vào việc ngay.
Dứt lời, Đổ Yên mở máy chiếu ba chiều hiển thị bản đồ Âm Giới. Ông phóng to bản đồ, tìm đến Vùng 28 và bắt đầu diễn giải:
-Hiện các vị đang ở Vùng 28, nằm tại miền bắc Âm Giới. Ở đây có khá nhiều ngọn núi, chúng tôi đã cho phi thuyền rà soát kỹ lưỡng nhưng không hề thấy Ác… Ác… xin lỗi, là gì nhỉ? À, Ác Lạc Điểu! Tôi không quen với cái tên này lắm, hãy gọi nó là “quái vật”, đơn giản hơn! Chúng tôi cũng kiểm tra những khu vực lân cận trong bán kính hai mươi cây số song cũng không tìm thấy quái vật. Vì vậy, các vị phải tiếp tục đi sâu hơn vào lãnh thổ Âm Giới, tức là vượt qua Lằn Ranh Vàng số 28. Chúng tôi sẽ giúp các vị di chuyển, tối đa là sáu mươi cây số. Sau sáu mươi cây số, các vị phải tự thân vận động. Tôi rất tiếc, phạm vi hoạt động của chúng tôi chỉ tới đấy. Chúng tôi sẽ cung cấp lương thực đủ dùng trong nửa tháng và các trang thiết bị để vượt sa mạc. Tôi cũng sẽ cấp một chiếc thẻ thông hành, nếu bắt gặp lính liên quân, các vị hãy đưa chiếc thẻ này ra, họ sẽ giúp đỡ. Nhớ, đừng để mất thẻ! Ngoài ra, chúng tôi sẽ kết nối bộ đàm của các vị với trụ sở này, hãy giữ liên lạc và báo động khẩn cấp nếu xảy ra chuyện. Chúng tôi sẽ làm hết sức có thể! Xong, có câu hỏi nào không?
-Thẻ thông hành? Ý ông là nếu mất thẻ, lính liên quân sẽ bắn chúng tôi? – Vô Phong hỏi.
-Phải. Để đảm bảo bí mật, tôi là người duy nhất biết rõ mục đích chuyến đi của các vị. Những thống lĩnh hay phó thống lĩnh khác đều không biết. Vì vậy, tấm thẻ thông hành là vật hộ mạng của các vị.
Công chúa lên tiếng:
-Sa mạc lớn cỡ nào, thưa ngài?
-Rất lớn. Nó kéo dài khoảng một trăm dặm. Tuy nhiên, trên sa mạc có khá nhiều thị trấn, các vị có thể ghé qua tìm lương thực và nước uống. Nhưng chúng không thuộc quản lý của liên quân, chúng có thể là những thị trấn độc lập, hoặc cũng có thể bị bọn phiến loạn chiếm giữ. Nhỡ gặp bọn phiến loạn, các vị chỉ có hai lựa chọn: bị giết hoặc giết chúng.
Lần thứ ba trong ngày, Chiến Tử mở miệng:
-Quá nguy hiểm. Không thể vượt qua sa mạc được.
-Nhưng đó là con đường ngắn nhất. Nếu đi đường vòng, các vị sẽ mất một tháng, chưa kể gặp nhiều nguy hiểm hơn. Để giúp các vị đi qua sa mạc, Đại Hội Đồng đã gửi chuyên gia. Anh ta là…
Đổ Yên nói chưa hết, tiếng gõ cửa phòng chợt vang lên cắt lời ông ta. Ngài phó thống lĩnh chạy ra mở cửa, vừa thấy vị khách bên ngoài thì quay lại nói với nhóm công chúa:
-Anh ta đây rồi! Các vị có thể làm quen với nhau.
Vị khách liền bước vào phòng. Trước sự ngỡ ngàng của Vô Phong và Lục Châu, người đó cúi đầu, tay khẽ nâng cặp kính cận, miệng thốt giọng nữ trong trẻo:
-Chào công chúa, chào Vô Phong, chúng ta lại gặp nhau. A, ở đây có người mới? Nếu tôi không nhầm là Chiến Tử? Chào anh, xin tự giới thiệu, tôi là Mai Hoa, nhân viên đội tra khảo Đại Hội Đồng.
 
Quyển 3 - Chương 6: “Tôi đang đi tới cái chết”


Vô Phong nhớ rõ tuần trước, hắn còn thấy Mai Hoa bẹp dí trên giường bệnh và rên rỉ sắp chết. Tên tóc đỏ không muốn gã bốn mắt về Tụ Hồn Hải, cũng chẳng mong gã bình phục sau dăm bữa nửa tháng. Hắn chỉ cần Mai Hoa nằm trong nhà thương đủ lâu để khỏi chõ mũi vào công việc của người khác. Chẳng ai thích một con cú vọ cứ bay là là trên đầu, hỏi han thẩm vấn hết người nọ tới người kia; một chuyến hành trình đến Xích Quỷ đã quá đủ, Vô Phong không có nhu cầu thưởng thức thêm tác phong chim lợn của gã.
Nhưng ngay lúc này, ở Vùng 28 của Âm Giới, Mai Hoa đang hít thở đàng hoàng trước mắt tên tóc đỏ. Vẫn cặp kính sáng lóa, vẫn giọng nói oanh vàng thánh thót cùng đôi tay lăm lăm cuốn sổ ghi chép, sự tồn tại của gã đầy tính trêu ngươi pha lẫn bỡn cợt. Tên tóc đỏ nghĩ Diễm Tà chưa đủ mạnh tay. Hắn tin rằng cần một cú đấm mạnh hơn, nhiều đoạn xương lẫn lộn với thịt hơn mới khiến con cú bốn mắt kia thôi vỗ cánh. Song tất cả đã muộn, con cú bốn mắt đang rúc lên những âm thanh đầu tiên:
-Lẽ ra tôi được nghỉ. Nhưng chẳng mấy ai ở Đại Hội Đồng thông thạo lãnh thổ Âm Giới nên tôi phải đi cùng mọi người.
Trái với tên tóc đỏ, Lục Châu không tỏ vẻ khó chịu trước sự xuất hiện bất ngờ của Mai Hoa, nàng chỉ ngạc nhiên:
-Vết thương của anh sao rồi? Đã lành chưa? Tôi nghe bác sĩ bảo phải một, hai tháng nữa anh mới có thể đi lại bình thường?!
-Đáng lý là thế. – Mai Hoa cười – May mắn cho tôi, Tàn Thi của đội Thổ Hành đã rút ngắn thời gian hồi phục. Thật tuyệt! Mặc dù phương pháp của anh ta có hơi… đáng sợ. Nhưng dù gì chăng nữa, tôi đã ở đây và mọi người có thể yên tâm!
Vô Phong cố lắm mới ngăn được tiếng cười khinh bỉ thoát khỏi vòm miệng. Những lý lẽ của Mai Hoa, hắn… không ngửi nổi. Tên tóc đỏ dám cá có vô số người rành rẽ đường đi Âm Giới, không phiền nhiễu và đỡ ăn hại hơn Mai Hoa. Ở Xích Quỷ, gã bốn mắt chẳng được tích sự gì ngoài việc tăng độ khó cho chuyến hành trình. Lần trước Diễm Tà đã giúp nhóm công chúa nhẹ gánh, còn lần này tại Âm Giới, ai sẽ giúp họ? Âm Giới vốn hỗn loạn, gươm đao đạn pháo bay đầy trời và Vô Phong đang khẩn cầu một viên đạn lạc rơi trúng đầu gã bốn mắt. Chỉ cần con cú vọ này im mồm và thôi vỗ cánh, cái giá nào hắn cũng chịu.
Lục Châu không thể từ chối sự tình nguyện của Mai Hoa, bởi phía sau gã là toan tính của những nhân vật giấu mặt thuộc Đại Hội Đồng. Vô Phong không hiểu họ sẽ được lợi lộc gì khi theo dõi và giám sát công chúa, hắn chỉ nhận ra thế giới Tâm Mộng chẳng hề đoàn kết dù hiểm họa Quỷ Vương mỗi lúc một lớn. Mọi chuyện sẽ đơn giản hơn nhiều nếu tất cả cùng chung tay truy tìm cái thứ Quỷ Vương chết tiệt kia. Bất quá vì lợi ích và những mục đích khác biệt mà các quốc gia nghi kỵ lẫn nhau, đồng thời đẻ ra lắm thứ quái thai, như gã Mai Hoa này là ví dụ điển hình.
Nhưng có vẻ Mai Hoa quyết tâm không lặp lại màn trình diễn dở tệ của mình ở Xích Quỷ. Kết thúc phần chào hỏi, gã mượn chiếc máy ba chiều trên bàn làm việc của phó thống lĩnh Đổ Yên rồi nhét thẻ dữ liệu vào khe cắm. Chiếc máy phóng ra làn sáng màu xanh dương bao trùm khắp căn phòng. Trong không gian màu xanh, bản đồ lục địa Kim Ngân dần hiện lên. Nó cao bằng Mai Hoa, bề ngang to gấp ba lần gã, nhìn qua chẳng khác mấy loại bản đồ thông thường. Tuy nhiên, Mai Hoa chứng minh rằng nó đặc biệt hơn người ta tưởng:
-Tự tôi đã thiết kế nó. Nhờ nó, chúng ta có thể tìm được những tuyến đường ít nguy hiểm cũng như các Vùng An Toàn gần nhất. Nó cũng tích hợp hệ thống định vị nên mấy người không cần lo lắng chuyện lạc đường.
Dứt lời, gã bèn thực hiện vài thao tác nhỏ, trên tấm bản đồ bỗng xuất hiện hàng trăm vùng đất màu trắng bọc trong đường viền vàng. Chúng là Vùng An Toàn và Lằn Ranh Vàng. Đứng sau Mai Hoa, tên tóc đỏ có thể thấy Vùng 28 nằm phía trên cùng tấm bản đồ. Bắt đầu từ Vùng 28, một con đường màu lục chạy về hướng nam, rẽ nhánh tới nhiều Vùng An Toàn khác và trải dài khắp lãnh thổ Âm Giới. Không chỉ vậy, con đường màu lục còn đi qua biên giới Âm Giới, tỏa theo nhiều hướng từ đông sang tây, dẫn đến hầu khắp quốc gia lẫn Vùng An Toàn, trông như một bộ rễ cây khổng lồ xuyên suốt miền bắc lục địa Kim Ngân. Mai Hoa chỉ vào hệ thống đường màu lục và giới thiệu:
-Đây là tuyến đường bình yên nhất ở Kim Ngân, dân giao thương gọi nó là Sinh Lộ. Tôi nói “bình yên” là vì quân đội thường ghé qua những con đường này. Vẫn có những nguy hiểm như trộm cắp, lũ phiến quân… thi thoảng chúng lại xuất hiện để cướp bóc. Tốt nhất chúng ta nên tránh mặt bọn chúng, đỡ phiền phức.
Tiếp tục xuôi theo hướng nam, bộ rễ màu lục thu hẹp độ rộng, các Sinh Lộ dần tụ về một hướng rồi châu đầu và kết thúc tại Tuyệt Tưởng Thành – một trong số ít những quốc gia tự trị ở Kim Ngân. Kể từ đây không còn con đường màu lục nào đi về phương nam nữa. Vô Phong để ý phía sau Tuyệt Tưởng Thành có một đường màu đỏ cắt ngang lục địa thành hai nửa. Hắn hỏi Mai Hoa:
-Cái đường màu đỏ là sao?
-Lằn Ranh Đỏ. – Mai Hoa trả lời – Nó chia lục địa thành Bắc Kim Ngân và Nam Kim Ngân. Chúng ta đang đứng ở miền bắc, nơi có chút luật pháp và an ninh. Còn miền nam…
Gã bốn mắt thở dài như thể loài người chưa có ngôn từ nào đủ sức diễn tả tình trạng Nam Kim Ngân. Tuy nhiên, nhóm công chúa không cần lo lắng về Lằn Ranh Đỏ hay miền nam Kim Ngân vì Ác Lạc Điểu đang bị thương, tuyệt không đủ sức mò tới đó.
Mai Hoa xoay ngang tấm bản đồ rồi phóng to Âm Giới quốc; từ khu dân cư Vùng 28 cho tới những khoảnh đồi hay triền núi khô cằn của Âm Giới, tất cả đều hiện lên một cách sống động dưới dạng ảnh ảo ba chiều. Ngay trước mặt Mai Hoa là Vùng 28, gã kéo tấm bản đồ lên để mọi người thấy rõ vùng sa mạc nằm giữa lãnh thổ Âm Giới. Vô Phong nhận ra chỉ duy nhất một trục đường xanh lục chạy qua sa mạc và không hề có nhánh rẽ. Mai Hoa chỉ vào vùng sa mạc, sau nói:
-Sa mạc Hồi Đằng, diện tích khoảng tám vạn ki-lô-mét vuông (80,000 km2). Trong sa mạc có một ngọn núi duy nhất, gọi là Dương Hoa Tụ, ngọn núi cao nhất Âm Giới. Đáng tiếc, muốn tiếp cận nó, chúng ta không thể theo Sinh Lộ mà phải chọn đường khác…
Mai Hoa phóng lớn bản đồ để mọi người thấy rõ ngọn Dương Hoa Tụ cùng những thông số của nó. Ngọn núi cao khoảng năm ngàn mét (5000m), cách thị trấn gần nhất khoảng năm mươi cây số, trước kia từng là mỏ khai thác quang tố, giờ bị bỏ hoang. Gã bốn mắt vẽ đường dẫn đến ngọn núi, theo đó nhóm công chúa sẽ tiến vào sa mạc Hồi Đằng, tiếp tục đi theo Sinh Lộ khoảng một trăm cây số rồi rẽ sang hướng tây nam. Họ cần vượt qua ít nhất mười thị trấn mới có thể tới Dương Hoa Tụ. Đáng tiếc các thị trấn không thuộc quyền quản lý của liên quân hay chính phủ, nguy cơ trộm cướp phiến loạn hiện ra rất rõ ràng. Lục Châu đề nghị:
-Nếu thế, chúng ta có thể đi theo Sinh Lộ rồi vòng lại ngọn núi, có được không?
-Tôi đã tính chuyện đó, nhưng không thể. – Mai Hoa trả lời – Nếu vòng lại, cô sẽ gặp Bãi Lầy Chết. Hẳn cô đã từng nghe đến nó? Phải, chẳng ai dám đối mặt nó cả.
Nói đoạn Mai Hoa kéo bản đồ về phía mình. Vô Phong nhận ra Bãi Lầy Chết nằm ở cuối sa mạc. Đó là một khu vực gồm nhiều đụn cát sụt lún, gió bão vần vũ quanh năm nên không thể phân biệt đường đi. Lịch sử Kim Ngân ghi nhận chưa từng ai vượt qua được chốn này, những kẻ vô tình hoặc cố ý đi vào chỉ có một kết cục duy nhất: chôn thây dưới cát. Nhóm công chúa cũng không thể đi đường vòng xa hơn bởi dưới sa mạc Hồi Đằng đang có chiến tranh giữa phiến quân và quân chính phủ. Họ không thể đi qua một nơi mà mưa đạn tưới tắm đất đai, cây cối nhiều hơn mưa rào. Vô Phong liền nói:
-Tại sao chúng ta không dùng phi thuyền đi thẳng tới ngọn núi luôn? Sao phải lằng nhằng thế?
Mai Hoa lắc đầu thở dài trước lời thắc mắc của tên tóc đỏ. Phó thống lĩnh Đổ Yên lên tiếng:
-Cậu nên biết tại Kim Ngân, hai mươi phần trăm lính xuất ngũ sợ đi phi thuyền. Phi thuyền luôn là mục tiêu ưa thích của bọn khủng bố, nhất là những chiếc bay đơn độc trên bầu trời. Tôi nghe nói vài đám phiến loạn đã sở hữu pháo chân không, đủ sức thổi bay một hạm đội.
Tên tóc đỏ khẽ rùng mình. Mai Hoa cười khổ:
-Dù sao thì từ đây vào sa mạc, chúng ta có thể đi nhờ xe thiết giáp của liên quân, đỡ được một trăm cây số, không tệ lắm!
Lời an ủi của gã chẳng khiến Vô Phong phấn chấn hơn chút nào. Bởi sau một trăm cây số đi xe sẽ là gần bốn trăm cây số cuốc bộ dưới cái nóng khủng khiếp của sa mạc cùng vô số nguy hiểm rình rập. Ngay lúc này, tên tóc đỏ bắt đầu thèm khát được như Hỏa Nghi hay Tiểu Hồ, đồng thời tưởng tượng ra vô số kịch bản chết chóc dành cho mình.
-Những thị trấn đều nguy hiểm cả sao? – Lục Châu hỏi.
Mai Hoa lắc đầu:
-Một số thị trấn hoạt động tự trị và chúng ta có thể, có thể thôi, được an toàn. Nhưng tôi không biết chắc đâu là vùng tự trị, đâu là nơi bị phiến quân chiếm đóng.
Vô Phong gãi gãi cằm khó hiểu:
-Tại sao họ tự trị được? Lũ phiến quân đông hơn cơ mà?
Gã bốn mắt cười, đôi mắt hấp háy như thể Vô Phong vừa hỏi trúng vấn đề thú vị. Gã nói:
-Ở Kim Ngân, có một số chiến binh tự do, gọi là “Đầu Sói”. Họ tự thiết lập băng nhóm, chiếm cứ thị trấn hoặc thành phố và thành lập khu tự trị riêng. Các Đầu Sói rất phức tạp, một số hoạt động như khủng bố: cướp bóc, bắt cóc đòi tiền chuộc; số khác ngả về Đại Hội Đồng; một số thì thay đổi liên tục, tùy theo bên nào trả nhiều tiền hơn. Nghe nói sáu trong bảy người mạnh nhất thế giới, trừ Bất Vọng, đang làm Đầu Sói ở Kim Ngân.
Nghe gã bốn mắt diễn giải, một thứ gì đấy bất giác trào dâng trong lòng Vô Phong như cơn sóng bất thình lình đổ ập lên bờ, cuốn sạch mọi ý nghĩ muốn quay về nhà hẵng vừa chớm nở. Miền đất mới, những con người mới, đó là điều hắn mong ước. Nhưng hắn nhận ra ngoài sự phấn khích phiêu lưu còn tồn tại thứ cảm xúc lạ thường khác: niềm khao khát chiến đấu. Hắn tự nhận mình không phải kẻ hiếu chiến, nhưng nghe chuyện về Đầu Sói, về những kẻ tự do, hắn muốn gặp và đánh tay đôi với từng người một. Nghĩ vẩn vơ như thế một lúc, hắn vội lắc lắc đầu. Hắn tin rằng mình tập luyện với Hắc Hùng quá nhiều nên đã nhiễm tính hung hăng cục súc của gã.
Sau một hồi thảo luận, nhóm công chúa quyết định sẽ làm theo kế hoạch của Mai Hoa. Dù còn nhiều nghi ngờ vì màn thể hiện kém cỏi lần trước, song Vô Phong (và cả công chúa) hy vọng sự hiểu biết của gã sẽ làm cuộc hành trình dễ thở hơn. Tuy vậy, điều rủi ro là Mai Hoa không dám chắc Ác Lạc Điểu có thật đang cư ngụ tại đỉnh Dương Hoa Tụ hay không. Gã nói:
-Nếu Ác Lạc Điểu không ở Dương Hoa Tụ, chúng ta phải tiếp tục đi về miền nam Âm Giới. Ở đó đầy rẫy núi đồi và tôi thực không muốn cuốc bộ trèo lên chúng tí nào!
Một vấn đề khác là không ai biết Ác Lạc Điểu đã hồi phục hay chưa. Con quái thú mang trên người hằng sa số thương tích, theo lẽ thường phải dưỡng thương ít nhất hai tháng. Nhưng Lục Châu nghi ngờ sức mạnh Quỷ Vương sẽ giúp con quái vật hồi phục nhanh hơn. Giả dụ tốc độ hồi phục của Ác Lạc Điểu nhanh gấp đôi thì nàng còn non ba tuần nữa để tìm ra nó. Ba tuần trong sa mạc nóng như lửa và những thị trấn đầy nguy hiểm, liệu có kịp? Nếu con quái thú không ngụ trên Dương Hoa Tụ, đâu sẽ là điểm tìm kiếm kế tiếp? Những câu hỏi xoáy sâu vào lòng Lục Châu, kéo tâm trí nàng sang tận tháng hai năm sau khi mà kỳ thi Tổng Lãnh diễn ra. Không bao giờ ngừng lo lắng, đó là con người công chúa.
Nhưng Lục Châu không mặc cho sự lo lắng hoành hành tinh thần mình quá lâu. Nàng lên tiếng:
-Vậy bao giờ chúng ta xuất phát?
-Ngay bây giờ, nhưng các vị cần chuẩn bị thêm một số thứ. Chúng tôi có thể giúp. – Phó thống lĩnh Đổ Yên trả lời.
Dứt lời, Đổ Yên đưa bốn người rời khỏi tòa nhà kim tự tháp rồi dẫn họ xuống khu hậu cần của doanh trại. Nhóm công chúa đã chuẩn bị quân trang đầy đủ trước khi đến Kim Ngân, cơ bản không cần sắm sửa thêm vũ khí nhưng tại khu hậu cần, họ thu thập thêm nhiều vật dụng khác như sa kết tuyến. Sa mạc Hồi Đằng về đêm thường xuất hiện bão cát, sa kết tuyến sẽ giúp họ có một nơi trú chân an toàn. Họ cũng bổ sung vài món thực phẩm chuyên dùng cho việc hành quân dài ngày. Vô Phong đặc biệt chú ý một loại thực phẩm đựng trong túi giấy mỏng dính, ngoài bao bì có hướng dẫn sử dụng là chỉ cần chôn cái túi xuống cát nóng, sau năm phút có thể dùng ngay. Nghĩ thứ này hữu dụng, tên tóc đỏ vơ cả lố túi giấy dày ụ rồi nhét vào ba lô.
truyện copy từ .
Trong lúc cả đám đang bận rộn, Mai Hoa chợt hỏi:
-Tôi nghe nói có một thành viên Thổ Hành đi cùng mọi người, hắn đâu?
-Anh ta sẽ đến sau. – Lục Châu trả lời.
-Đến sau? Vậy làm sao hắn bắt kịp chúng ta được? Đường đi trong sa mạc Hồi Đằng đâu dễ tìm? Chúng ta cần để lại hướng dẫn cho hắn.
Công chúa lắc đầu:
-Thuyền trưởng Nhất Long của chúng tôi nói anh ta có thể tự tìm đường, để lại hướng dẫn hay dấu hiệu là chuyện không cần thiết.
Mai Hoa nhún vai:
-Nếu đó là ý của cô, thưa công chúa.
Chuẩn bị xong nhu yếu phẩm, nhóm bốn người theo Đổ Yên tới khu đỗ xe nằm gần cổng ra vào doanh trại. Hiện thời vài đơn vị liên quân sắp di chuyển ra ngoài mặt trận, nhóm công chúa sẽ đi cùng họ rồi tiến nhập sa mạc Hồi Đằng. Phó thống lĩnh Đổ Yên không hứa hẹn sẽ trợ giúp nhóm công chúa vì bản thân ông ta cũng đang vướng phải một cuộc chiến ác liệt khác. Mặc dù đã để lại số máy khẩn cấp và có thể liên lạc bất cứ lúc nào, song ngài phó thống lĩnh khuyên nhóm công chúa nên tự giữ lấy mình. Biết chẳng thể trông chờ vào Đổ Yên, Lục Châu bèn kiểm tra ba lô cá nhân, khi thấy đồ đạc đầy đủ với chiếc thẻ thông hành nằm ngay ngắn dưới đáy túi, nàng mới bước tiếp. Thấy công chúa như vậy, ai nấy đều lo lắng, trừ Chiến Tử. Có vẻ những thử thách của Kim Ngân chẳng thể lay động bộ mặt lạnh ngắt và trơ trơ không chút biến đổi của gã.
Đám người trở lại con đường cũ, vòng qua tòa nhà chỉ huy hình kim tự tháp rồi đi thêm hai trăm mét nữa thì tới bãi tập kết doanh trại. Phía trước bãi tập kết có một hàng rào mắt cáo cao gần trăm mét, bao bọc toàn bộ Vùng 28; cứ hai trăm mét đoạn rào lại mọc lên một tòa tháp canh làm bằng thép, mái chóp nhọn, phía trên gắn bóng đèn vàng nhấp nháy. Đó là Lằn Ranh Vàng nổi tiếng của Kim Ngân. Vô Phong nghe công chúa nói rằng bức tường rào ấy yểm đầy phép thuật, có thể phản đòn tấn công hoặc hất bay những kẻ có ý định trèo qua. Nghe xong, Vô Phong mới để ý thấy hàng rào thi thoảng lại nhá lên sắc lam dìu dịu.
-Phép thuật của Lằn Ranh Vàng lấy ý tưởng từ loại phép phòng thủ cổ xưa của Kim Ngân, tên là Bách Quang Lam Thuẫn. – Lục Châu thì thào với tên tóc đỏ – Nhưng chúng chỉ bắt chước được bề ngoài thôi. Chỉ duy nhất Tuyệt Tưởng Thành mới có thể thực hiện hoàn hảo phép Bách Quang Lam Thuẫn.
Tại bãi tập kết, nhiều tiểu đội liên quân trong quân phục rằn ri màu xanh dương đang chờ đợi lệnh xuất phát. Họ ngồi trên đất, tựa mình vào thành xe thiết giáp đóng bụi, hoặc đứng tại chỗ với bàn tay đặt hờ trên khẩu súng, hết thảy đều hướng ánh mắt đầy ưu tư về phía xa, nơi cánh cổng của Lằn Ranh Vàng án ngữ. Khi nhóm công chúa xuất hiện, chỉ vài người trong số họ quay sang nhìn ngó một cách thờ ơ, sau lại dành hết quan tâm cho cánh cổng. Có thể Lục Châu đang bịt kín mặt nên họ chẳng nhận ra nàng, nhưng dù biết công chúa ở đây đi chăng nữa, Vô Phong tin rằng họ cũng chẳng quan tâm. Hắn thấy trong đôi mắt những người lính ấy chỉ có nỗi hồi hộp, dù gương mặt họ đã hằn sâu dấu vết chiến tranh. Dường như họ đang chờ đợi một tin tức tốt lành từ phía sau cánh cổng.
Không gian yên ắng bao trùm bãi tập kết bỗng chốc bị phá vỡ khi cánh cổng của Lằn Ranh Vàng chuyển động. Nó mở ra, mang vào doanh trại những âm thanh ầm ầm từ đoàn xe thiết giáp, những tiếng chửi bới náo loạn bên ngoài hàng rào. Khi đoàn xe chưa dừng hẳn, những người lính từ trên xe đã nhảy xuống và không ngừng lớn tiếng:
-Cứu thương! Cứu thương! Nhanh lên!
Đội y tế và binh lính liền tụ tập quanh đoàn quân mới trở về. Khi những cánh cửa xe thiết giáp bật mở, mùi tanh nồng ào ạt tuôn vào gió, tràn ngập khắp không gian, tựa muôn ngàn mũi nhọn đâm thủng khứu giác. Dù đứng cách một quãng khá xa, Vô Phong vẫn cảm nhận rõ vị tanh đang móc vào tận sống mũi. Từ đoàn xe, những người bị thương được đưa đi trên cáng. Dưới ánh đèn pha của doanh trại, Vô Phong nhìn thấy những cơ thể ngập máu: người bị đâm, người tan nát nửa thân thể vì trúng đạn pháo. Có người đang hấp hối, đầu chỉ còn dính hờ trên cổ, đường thanh quản lòi ra ngoài da và lều phều bọng máu. Vì thanh quản đứt, y không thể nói lời cuối cùng. Y chỉ có cách viết, chiếc bút trong tay y cố sức nguệch ngoạc mấy đường vô nghĩa trên mảnh giấy trắng đặc sệt màu đỏ. Nhưng rồi y không thể chống chọi trước cái chết đang ập đến quá nhanh. Chiếc bút lẫn mảnh giấy rơi xuống, người ấy buông thõng tay, tưới dòng máu đặc quánh lên mảnh đất Âm Giới. Máu ở nơi đây không thể tẩy rửa, chỉ có ngấm qua cát đá và khiến miền đất Kim Ngân ngày càng héo úa khô cằn.
Đêm hôm nay, đã có những cái chết.
Đổ Yên tìm một người trong số những binh lính vừa trở về từ mặt trận. Kẻ này mặc quân phục xỉn máu và bết máu, mặt đen sì do ám khói súng đạn, chỉ mỗi vành mắt còn lộ màu da thịt. Hai người họ nói chuyện với nhau hồi lâu, sau đó ngài phó thống lĩnh đưa người nọ tới gặp nhóm công chúa, đoạn giới thiệu:
-Đây là người lái xe cho các vị, tên là Triết Xa. Anh ta sẽ đưa mọi người tới sa mạc Hồi Đằng. Còn thắc mắc gì nữa không? Không hả? Vậy… chúc may mắn, Vạn Thế ban phước cho các vị!
Dứt lời, Đổ Yên quay lại công việc của mình. Ông ta vừa đi vừa chửi bới, cái đầu trọc bóng loáng hết quát tháo ở khu lán trại y tế rồi lại vòng ra bãi tập kết, bàn bạc cùng những đội trưởng các đội sắp ra mặt trận. Còn ở phía này, Triết Xa chẳng quan tâm tới bộ dạng trùm đầu che mặt kín mít của nhóm công chúa. Anh ta gật gù chào hỏi mọi người, sau đó dẫn họ lên một chiếc xe thiết giáp. Đợi nhóm công chúa ổn định chỗ ngồi trong khoang sau, Triết Xa bèn kiểm tra máy móc ở khoang lái, anh ta vừa tháo ổ mạch điện vừa nói:
-Các vị từ đâu đến? Ồ, không nói sao? Vậy thì chắc là tổ công tác đặc biệt. Tôi đã chở nhiều người như vậy. Họ đi thu thập tin tình báo ở sa mạc Hồi Đằng, truy lùng các Đầu Sói. Tôi chẳng biết họ ra sao nữa, vì tôi chỉ chở họ đi chứ không đưa họ về. À, có đồ ăn tới, mấy người đói bụng chứ? Không à? Vậy xin lỗi nhé… Ê! Này! Này! Quay lại đây, cho xin một đĩa!
Ở bãi tập kết, đội hậu cần đang mang nước uống và thức ăn cho binh lính. Triết Xa vớ lấy một đĩa cơm sườn bò nướng, chẳng cần thìa hay dĩa, cứ thế bốc bằng tay mà ăn. Anh ta ăn ngay trong khoang lái và chẳng nề hà khi bốn người đang nhìn mình. Vô Phong thấy rõ bàn tay của anh ta dính đầy bùn đất, thậm chí cả máu. Nhưng Triết Xa không bận lòng, chỉ chú mục nhai nuốt ừng ực đống thức ăn lẫn đất cát và máu. Sau ba phút, cái đĩa sạch bách, một hạt cơm cũng chẳng còn. Vừa lúc ấy, đoàn xe thiết giáp rục rịch xuất phát, Triết Xa nuốt vội ngụm nước rồi vừa nói vừa thở:
-Xin lỗi mọi người nhé! Đánh nhau suốt mấy ngày, đói quá!
Triết Xa khởi động máy, chiếc xe khẽ rung lên như con thú vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, sau bắt đầu chuyển bánh. Nó cùng hàng chục xe thiết giáp màu cát tiến ra cánh cổng của Lằn Ranh Vàng. Tại đây, Vô Phong chợt thấy nguồn cơn của những tiếng chửi bới ban nãy. Bên ngoài hàng rào, liên quân đứng thành hàng ngăn chặn một đám đông dân chúng đang cố gắng tràn qua cổng. Binh lính giương súng liên tục bắn chỉ thiên nhưng đám người vẫn điên cuồng đòi vượt qua; họ chen lấn, gào thét, khóc lóc, chửi rủa, cắn xé. Họ mang hình hài con người nhưng hành động của họ y hệt bầy dã thú. Họ hét lên:
-Mở cổng ra! Hãy cho chúng tôi vào!
-Tôi cầu xin các người! Cho tôi vào đi! Tôi không phải trộm cướp, tôi không phải khủng bố!
Qua cửa kính xe, Vô Phong thấy rõ những kẻ khỏe đánh kẻ yếu, đàn ông túm tóc đàn bà, người già bị những kẻ trẻ hơn lôi tuột về phía sau. Nếu có thêm những cái chết mới ở đây, hắn cũng không lạ. Tên tóc đỏ hỏi Triết Xa:
-Dân tị nạn phải không? Sao không cho họ vào?
Triết Xa lắc đầu:
-Ai mà biết trong số ấy liệu có khủng bố hay phiến quân không? Phải đợi hai tháng nữa, lúc ấy mới có đợt xét duyệt cho dân tị nạn vào Vùng An Toàn.
Đoàn xe lầm lũi tiến vào bóng đêm. Không gian nhập nhoạng ánh đèn pha từ doanh trại và người ta có thể thấy hàng trăm túp lều của dân tị nạn phía ngoài Lằn Ranh Vàng. Họ đã di chuyển hàng tháng trời từ nơi chiến sự đến Vùng 28, nhưng giờ họ phải chờ đợi hai tháng và trong thời gian đó, không ai bảo đảm an toàn cho họ. Bọn trộm cướp sẽ qua đây quấy phá bất cứ lúc nào, còn liên quân sẽ chẳng tốn sức để bảo vệ dân tị nạn.
-Chúng tôi từng bảo vệ họ… – Triết Xa nói – …nhưng bọn phiến quân thường đem người trà trộn vào và nổ bom tự sát. Mấy năm trước, một trung đội đã tan xác vì trò này. Thế nên chúng tôi không thể giúp dân tị nạn nữa. Họ phải đi nơi khác thôi!
Lằn Ranh Vàng cùng đám dân tị nạn dần lùi lại sau lưng đoàn xe thiết giáp. Không gian giờ chỉ còn tiếng động cơ, tiếng gió cát quất vào cửa kính xe, thi thoạng lại rộn lên những âm thanh xóc nảy trên con đường gồ ghề cát đá. Từng trảng khói bụi cuộn lên, vón thành cục rồi tan biến vào màn đêm đen đặc. Bóng tối nơi đây chỉ một màu đen, tuyệt chẳng có chút ánh sáng, tựa cái miệng khổng lồ đang nuốt chửng vạn vật vào cái dạ dày không đáy của mình. Vô Phong nhìn vào bóng đêm, lòng thấp thỏm chờ đợi những điều đang chờ đợi mình.
Kim Ngân đã dang tay “chào đón” những vị khách lạ.
Qua gương chiếu hậu, Triết Xa trông thấy bộ dạng bồn chồn của Vô Phong, anh ta cười:
-Lo lắng hả anh bạn? Ở đây… xem nào… có vài bản nhạc đấy, muốn nghe thử không?
Tên tóc đỏ gật gật. Triết Xa cười lớn, đoạn mở nhạc. Từ chiếc máy phát cũ kỹ, những âm thanh rộn rã vang lên trong xe thiết giáp, hoàn toàn trái ngược với màn đêm khổng lồ đầy tĩnh lặng bên ngoài. Vô Phong hỏi:
-Bài hát tên gì vậy?
-“Tôi đang đi tới cái chết”! – Triết Xa vừa đáp vừa gật gù theo giai điệu của bài hát, sau mở miệng hát theo:
“Tôi đang lái một chiếc xe cũ kỹ
Tôi đang đi trên một con đường đầy khói mù
Tôi đang đi tới cái chết
Tôi không sợ hãi
Vì có những người chết đang chờ tôi
Và chúng ta sẽ mở tiệc trên bàn ăn của tử thần…”.
”.
 
Quyển 3 - Chương 7: Ta chẳng ở bên này, cũng không ở bên kia…


Đặc khu Cửu Long vẫn thế: náo nhiệt và không bao giờ ngủ. Số lượng du khách đổ về chẳng hề có dấu hiệu thuyên giảm, dù cuộc chiến băng đảng cách đây gần một tháng đã lan truyền khắp mặt báo trong và ngoài nước. Đã nảy sinh nhiều bình luận cho tương lai Cửu Long như kinh tế gián đoạn, hình ảnh sụt giảm, vân vân và vân vân… đại khái toàn lời lẽ đầy tiêu cực. Nhưng không, Cửu Long đang tồn tại, đang giàu có và ngày càng giàu có hơn, như thể nhạo báng những kẻ thích chơi trò tiên tri. SKhi người ta có thể vứt sinh mạng cho bài bạc thì chẳng còn gì đáng sợ nữa. Thậm chí, băng đảng bỗng chốc được tôn thành món “đặc sản” của Cửu Long. Những bức ảnh chụp đường phố vấy máu hay cửa tiệm tan nát vì trận chiến băng đảng được dân tình săn lùng, hoặc rao bán với giá trị không tưởng. Và không khó hiểu khi người ta bắt đầu quan tâm về tòa nhà lớn nhất vào gần như cao nhất ở đặc khu: Quận 4. Cả tháng nay, cảnh binh phải thiết lập hàng rào ngăn chặn những kẻ hiếu kỳ muốn mò vào quận. Chẳng ai nghĩ một ngày kia, cái nơi nhếch nhác bẩn thỉu ấy thu hút du khách đến vậy. Điên! Xã hội điên hết cả rồi! – Vài người cảm thán.
“Nhưng không điên, sao gọi là con người?” – Đông Hoàng nghĩ. Khi của cải thừa mứa, trò vui đầy rẫy và tất cả đều nhàm chán, sự điên khùng sẽ nảy sinh như một lẽ tất yếu. Có người thích cảnh tượng bất biến như một bức tranh; có kẻ ưa sự chuyển động và không ngừng tìm cách làm mọi thứ chuyển động theo, kể cả phải phá vỡ sự yên bình. Đông Hoàng thuộc tuýp thứ hai. Một đám người điên khùng muốn tham quan Quận 4? Ý tưởng hay! – Đông Hoàng gật gù và bắt đầu mường tượng kế hoạch cải tạo khu nhà cũ nát đó. Lão suy nghĩ hăng say đến mức quên rằng mình vừa trở về từ Đại Hội Đồng.
Phiên tòa xét xử Bất Vọng vẫn chưa kết thúc, nhưng Đông Hoàng được phép về nước để điều trị bệnh. Lão có bệnh thật, mấy năm gần đây lão bị đau khớp, bất quá không nặng tới mức phải vác thân già từ lục địa Thượng Cổ về Đông Thổ. Vài kẻ tai to mặt lớn, cụ thể ở đây là Trần Độ, đã tác động Đại Hội Đồng cho phép lão trở lại Xích Quỷ vài ngày. Tất nhiên, Trần Độ là loại người không bao giờ cho đi mà chẳng nhận lại được thứ gì.
Đông Hoàng thôi nghĩ về Quận 4. Lão ngả người trên ghế, ngắm nhìn Cửu Long từ đỉnh tháp sòng bạc. Thành phố này giờ nằm trong tay lão, việc cải tạo Quận 4 chỉ là vấn đề thời gian. Vẫn còn những ông chủ khác – những người chống đối đế chế Đông Hoàng, nhưng đó là khối màu tương phản nhỏ nhoi trong một bức tranh mà màu của Đông Hoàng chiếm đa số. Dù thừa khả năng, Đông Hoàng sẽ không triệt tiêu sắc màu tương phản ấy, bởi nếu mất đi sự đối lập hay tương phản, lão sẽ có quyền lực tuyệt đối – một thứ khiến vạn vật ngừng chuyển động và đó là dấu hiệu sụp đổ. Kẻ thù lớn nhất của lão ở Cửu Long là Năm mắt lươn đã ngồi tù, vì thế lão không cần suy nghĩ thêm cho thành phố này nữa. Lão cần tập trung sức lực cho cuộc chơi lớn ngoài kia, nơi mà hằng sa số con quái vật hình người đang tồn tại.
Sau cuộc gặp gỡ Trần Độ, lão cảm thấy may mắn vì mình còn sống sót.
*
* *
Lùi lại vài ngày trước, khi mà Đông Hoàng vẫn còn ở Đại Hội Đồng và hoang mang trước thông tin Tư Ngang bị bắt. Lão từng nghĩ những kẻ đại diện của Mũi tên vèo vèo không bao giờ bị tóm. Chẳng riêng gì lão mà tất cả, bao gồm người mới nghe danh, người tìm hiểu cặn kẽ và cả những người đã làm ăn trực tiếp với Mũi tên vèo vèo đều nghĩ vậy.
Nhưng chỉ một đêm, niềm tin đó sụp đổ dưới cái tên Thổ Hành. Vì đang trong tình trạng quản thúc nên Đông Hoàng không rõ sự tình, chỉ nghe kể lại rằng Tư Ngang bị dẫn về Đại Hội Đồng, mặt tái xanh tái đỏ, tựa hồ vừa trải qua cơn ác mộng khủng khiếp nhất. Người gã dính đầy máu, dù cơ thể chẳng có tổn thương nào. Người ta lại tin những kẻ đại diện Mũi tên vèo vèo sẽ không khai tên khách hàng để bảo vệ uy tín của tổ chức, nhưng lần này, Đông Hoàng nhổ toẹt vào niềm tin ấy. Đâu ra sự vững vàng ở một kẻ mà tinh thần của y bị bóp nát? Rồi y sẽ khai tất tần tật và cuộc đời Đông Hoàng chắc suất xuống hố. Dưới cái hố chỉ có mình lão, bởi Thiên Hải và Quạ Đen đã chuồn đi từ lâu, còn phó đô đốc Đỗ Thọ đời nào chịu chết chung với lão? Thực ra, theo luật Đại Hội Đồng, lão sẽ bị xử tù vài chục năm. Nhưng xử tù chục năm với ông già bảy mươi tuổi khác nào xử tử?
Tuy vậy, đó chỉ là chút lung lay nhất thời trước tin xấu. Đông Hoàng nhanh chóng bình tâm. Lão phân tích tình hình và tự thấy chẳng có gì đáng ngại. Thứ nhất, Phi Thiên mới tìm được nhân chứng là Tư Ngang chứ không có vật chứng. Thứ hai, vật chứng quan trọng nhất là bản hợp đồng giữa Đông Hoàng và Mũi tên vèo vèo đã bị hủy. Không có bản hợp đồng này, lão có quyền ngoảnh mặt coi như không quen biết khi đối diện Tư Ngang.
Cần phải nói cách thức hoạt động của Mũi tên vèo vèo khá đặc biệt. Hợp đồng giữa người thuê và công ty vận chuyển tồn tại trong quá trình giao hàng. Khi quá trình này kết thúc, nếu bên nhận hàng không có khiếu nại hay thắc mắc, người thuê sẽ trả tiền thông qua người đại diện, đồng thời cùng hủy hợp đồng. Hai bên không còn liên quan hay nghĩa vụ gì với nhau. Nó giải thích tại sao Mũi tên vèo vèo hiếm bị sờ gáy và rất khó để tìm ra những khách hàng của công ty này. Đông Hoàng nhớ rõ mọi văn bản hợp đồng đã cháy rụi trong lò lửa, thậm chí đám tro còn được tống vào bể phốt, đảm bảo không ai tìm ra, kể cả đấng toàn năng. Sau một hồi suy tính thấu đáo, lão già vuốt ngực thở dài, cho rằng mình quá lo lắng. “Già rồi, già rồi!” – Lão nghĩ thầm.
Nhưng tâm tình vừa mới ổn định, Đông Hoàng lại nhận được tin một vị quan chức cấp cao của Phi Thiên muốn gặp gỡ mình. Dọa nạt? Thỏa thuận? Hay điều gì khác nằm ngoài ba thứ trên? – Lão già mỉm cười. Cuộc đời rốt cục chỉ là trò kinh doanh gồm những quy luật mà một khi nắm rõ chúng, chiến thắng sẽ nằm chắc trong tầm tay. Quan chức cấp cao Phi Thiên? – Đông Hoàng chép miệng. Kể cả phải giáp mặt hoàng đế Phi Thiên, lão cũng không ngại bởi lão đang có lợi thế.
Sau khoảng nửa tiếng, vị quan chức cao cấp nọ xuất hiện. Đông Hoàng quay đầu về phía cửa và giật mình thon thót ngay từ cái nhìn đầu tiên. Trong mắt lão là một cái xác khô đét được ai đó bốc lên từ nấm mồ rồi bằng quỷ thuật khủng khiếp nào đấy, cái xác có thể đi lại như con người và khoác trên mình bộ áo choàng màu đen thẫm. Suy nghĩ ấy cứ tồn tại trong đầu Đông Hoàng, cho tới khi cái xác mở miệng chào hỏi và chìa tay ra một cách lịch thiệp:
-Ông là Đông Hoàng? Chào ông, tôi là Trần Độ.
Sau chút ngập ngừng, Đông Hoàng bèn bắt tay Trần Độ. Khi nắm lấy bàn tay xương xẩu của kẻ đối diện, trong khoảnh khắc, một nỗi sợ mơ hồ len qua da thịt Đông Hoàng, khẽ khàng luồn vào mạch máu tựa con rắn nhỏ xíu, từ từ trườn lên cổ rồi quấn quanh bộ não, cọ cọ hai chiếc nanh khiến lão tưởng chừng có tiếng rin rít trên lớp xương sọ. Đông Hoàng bất giác ớn lạnh xương sống dù ngoài mặt vẫn tỏ vẻ điềm tĩnh. Lão không nghĩ thế giới Tâm Mộng lại có loại “sinh vật” này.
-Mời ông ngồi. – Trần Độ nói – Tôi không có nhiều thời gian nên sẽ đi ngay vào vấn đề. Nhưng “ngay lập tức” sẽ chẳng dẫn tới đâu cả. Chúng ta đang bắt đầu lên một chiếc xe mà khi vào khúc cua phải hãm bớt tốc độ, ông hiểu ý tôi chứ? Vả lại người Đông Thổ, nhất là nước Xích Quỷ các ông vốn thích lòng vòng, phải không?
-Đa số thôi, thưa ngài. Nhưng tôi không thuộc đám thích lòng vòng.
Trần Độ cười, khóe mép vẽ một đường ăn sâu và khoét hai hốc lớn trên gò má khô đét. Lão xác chết tiếp lời:
-Nhưng ít nhất chúng ta cũng nên biết rõ về đối phương. Tôi biết ông, nhưng ông chưa biết tôi. Tôi là thủ lĩnh Hội đồng pháp quan.
Dứt lời, Trần Độ đặt lên bàn một khối kim loại hình lập phương, thi thoảng phát tiếng ri ri tựa một con muỗi vỗ cánh bay ngang tai. Lão xác chết chỉ vào khối kim loại:
-Máy chống nghe trộm thế hệ mới nhất của họ Hỏa. Nếu muốn, tôi có thể đặt hàng giùm ông.
Vừa nói, lão xác chết vừa mở chiếc cặp xách tay, lúi húi lôi ra một đống giấy tờ. Phía bên kia, Đông Hoàng âm thầm đánh giá đối phương, vết sẹo trên cái đầu trọc thi thoảng co giật. Lão đầu sẹo biết cơn ớn lạnh ban nãy không vô duyên vô cớ xuất hiện. Đông Hoàng dám cá những kẻ lần đầu tiếp xúc Trần Độ đều có cảm giác này. Lão đầu sẹo không ngại ai kể cả hoàng đế Phi Thiên, nhưng riêng pháp quan, nhất là thủ lĩnh Hội đồng pháp quan Phi Thiên lại là chuyện khác.
Trần Độ sắp xếp giấy tờ thành tập, sau đẩy chúng về phía Đông Hoàng cùng một cây bút. Không đợi đối phương thắc mắc, Trần Độ giải thích ngay:
-Đây là giấy đề nghị. Tôi đề nghị ông nhượng cổ phần của công ty khai thác quang tố Vĩnh Hằng, đổi lại Phi Thiên chúng tôi sẽ không truy cứu chuyện ông tài trợ cho Xích Tuyết nữa.
Đông Hoàng ngạc nhiên, sau đọc bản đề nghị. Tờ giấy này yêu cầu Đông Hoàng ủy quyền cho Vĩnh Chi Niên – ông chủ công ty Vĩnh Hằng chuyển giao cổ phần cho Phi Thiên quốc. Đọc một thôi một hồi, lão đầu sẹo ngẩng mặt lên giả bộ ngạc nhiên:
-Ngài đang đùa! Tôi đâu có quyền lực để sở hữu một công ty khai thác quang tố? Mặc dù tôi phải thẳng thắn thừa nhận rằng mình rất khao khát sở hữu một công ty như thế.
Trần Độ mỉm cười, lông mày nhướn lên như thể chờ đợi câu trả lời này từ lâu. Lão xác chết nói:
-Thực tế là ông đang sở hữu nguồn lợi tức khổng lồ từ quang tố, và ông sẽ khao khát nó hơn nữa. “Lòng tham vô đáy”, người Đông Thổ nói vậy, đúng không? Ông đứng hàng cuối trong hai mươi người giàu nhất thế giới, nhưng tài sản thực tế của ông cao hơn thế, ít nhất phải ở vị trí thứ tám, đấy là chúng tôi vẫn chưa thống kê hết. Sự giàu có của ông không chỉ ở sòng bạc mà ở công ty Vĩnh Hằng này. Tuy nhiên, đã tới lúc ông nhường miếng bánh cho người khác. Dĩ nhiên chúng tôi sẽ trả phí đàng hoàng.
Đông Hoàng lắc đầu cười:
-Tôi không hiểu ngài nói gì.
-Ông hiểu rất rõ ấy chứ. – Trần Độ nhún vai – Tôi đã gặp Tư Ngang, gã đại diện Mũi tên vèo vèo. Gã khai cả rồi. Ông đích thực là có tài trợ một nghìn thùng vàng cho Xích Tuyết. Gã mà nói những lời này cho tòa án, hẳn sẽ không hay ho gì. Ông nên biết thẩm phán Bắc Viễn có biệt danh là “đồ tể”, ông ta sẽ thi hành án mà không để bất cứ quốc gia nào can thiệp, kể cả là Phi Thiên quốc chúng tôi chứ đừng nói Xích Quỷ (*). Ấy là trong trường hợp chính phủ Xích Quỷ chịu giúp ông. Nhưng chúng ta có thể thương lượng với nhau. Đồng ý chứ?
Đông Hoàng thở dài, lắc đầu như thể đang nói với một kẻ không hiểu chuyện:
-Tôi rất vui mừng nếu được làm ăn với Phi Thiên quốc. Tuy nhiên tôi không thể ký vào tờ đề nghị. Những cổ phần đó đâu phải của tôi? Tôi đâu biết Vĩnh Chi Niên là ai? Còn nữa, chúng ta đang sống trong thế giới của luật pháp, thưa ngài. Những lời đe dọa chẳng làm tôi sợ đâu. Ai mà biết cái gã mà các ngài bắt được có thật là đại diện Mũi tên vèo vèo, hay là một kẻ được dựng lên nhằm uy hiếp tôi? Mà nếu hắn là đại diện Mũi tên vèo vèo thật, ai kiểm chứng lời của hắn?
Lời lẽ của Đông Hoàng tỏ rõ lợi thế cửa trên. Rõ ràng muốn khép tội lão đầu sẹo, một mình Tư Ngang chưa đủ, Phi Thiên cần nhiều hơn thế. Nhưng Trần Độ vẫn bình thản, hoặc giả như bộ mặt lão quá ít da thịt nên chẳng thể biểu lộ cảm xúc. Để đáp lại Đông Hoàng, Trần Độ trả lời bằng cách rút ra một tập giấy khác. Vị thủ lĩnh pháp quan chưa vội đưa nó cho Đông Hoàng mà cười:
-À, dĩ nhiên rồi, luật pháp, luật pháp! Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy nguyên tắc, ý ông là vậy? Tôi không phải dân kinh doanh như ông, nhưng tôi biết mỗi công ty phải có chiến lược kinh doanh. Mũi tên vèo vèo cũng vậy, bản chất của đám này là kinh doanh, bọn họ cũng cần khách hàng để duy trì tổ chức. Ông là khách sộp, dễ gì họ bỏ qua? Và để tính chuyện làm ăn lâu dài với khách hàng, họ lưu giữ mọi hồ sơ vận chuyển từ ngày mới thành lập cho tới bây giờ.
Đông Hoàng suýt nữa mở miệng nói rằng bản hợp đồng luôn bị hủy khi chuyến vận chuyển kết thúc. Nhưng nói vậy khác nào tự tố cáo mình? Đã phủ nhận thì phải phủi sạch trơn! – Đông Hoàng tự nhủ và cố trát vẻ thản nhiên lên da mặt. Trần Độ tiếp tục:
-Hẳn ông đang nghĩ mình đã hủy hồ sơ? Đúng, đó là luật của Mũi tên vèo vèo, mọi khách hàng phải tuân theo, kể cả chính phủ. Nhưng trong cơ sở dữ liệu của họ, mọi chuyến hàng đều được ghi chép. Chúng là những tài liệu tuyệt mật mà Mũi tên vèo vèo trân trọng như mạng sống của chính họ. Nhưng xét trên quan điểm lợi ích, một mình ông không thể so sánh với chính phủ Phi Thiên chúng tôi. Và để đổi lấy tài liệu này, chúng tôi đã đổi cho họ khá nhiều lợi ích dài lâu – thứ mà ông không thể có.
Lão già xác chết đẩy tập hồ sơ về phía trước và Đông Hoàng đọc nó ngay lập tức. Tập hồ sơ gồm hợp đồng mà Đông Hoàng ký với Tư Ngang; một bản ghi chép quá trình vận chuyển, từ lúc một nghìn thùng vàng lên phi thuyền ở Xích Quỷ, tuồn vào Kim Ngân thông qua chuyến viện trợ và được Thiên Hải chuyển đến điểm giao hàng. Hai tập giấy trên đều là bản sao nhưng ở góc phải mỗi tập đóng dấu hình mũi tên vàng cách điệu. Lần trước ký hợp đồng, Đông Hoàng không thấy con dấu này. Một thoáng lo lắng lướt ngang tâm trí Đông Hoàng, vết sẹo trên đầu hơi co giật. Tuy vậy, lão đầu sẹo vẫn không nao núng:
-Những thứ này có nghĩa lý gì? Phi Thiên các ngài có thể dựng nên mọi thứ, các ngài rất giỏi chuyện đó.
Trần Độ cười nhạt:
-Không có bịa đặt hay vu cáo ở đây, thưa ông. Những tập hồ sơ này lấy từ kho dữ liệu của Mũi tên vèo vèo. Thứ này… – Trần Độ chỉ vào con dấu hình mũi tên – …có nguồn gốc từ một loại phép thuật cổ xưa, được đóng từ chính tay thủ lĩnh Mũi tên vèo vèo. Không công nghệ hay phép thuật nào có thể bắt chước nó. Hiện ở Đại Hội Đồng có vài con dấu như thế và sẽ chẳng mất nhiều thời gian để đối chiếu xem con dấu thật hay giả. Nếu tin, mời ông ký vào giấy đề nghị. Nếu không, chúng ta sẽ gặp nhau ở Đại Hội Đồng, và tôi cam đoan ông chẳng có cửa thắng nào cả.
Đông Hoàng chống cằm, đôi mắt nhắm lại, trong đầu đầy những suy tính; tuy ngoài mặt không biểu lộ nhưng trong lòng tự thừa nhận mình đã thua. Khoan bàn con dấu là thật hay giả, riêng cái cách Trần Độ đặt vấn đề đã tỏ rõ mục đích của Phi Thiên quốc: hoặc thương lượng, hoặc không còn sống mà thương lượng. Giờ Phi Thiên có đủ nhân chứng lẫn vật chứng, Đông Hoàng không thể đơn thương độc mã chống lại họ. Chính phủ Xích Quỷ chắc chắn không vì lão đầu sẹo mà làm tổn hại quan hệ với Phi Thiên. Không và không bao giờ! – Đông Hoàng khẳng định. Cuộc chơi này dường như quá sức với Đông Hoàng vì nó không phải kinh doanh, càng không có quy tắc. Bởi suy nghĩ quá nhiều, Đông Hoàng đã quên mất quy tắc đơn giản nhất: lợi ích là số một. Mũi tên vèo vèo hay bất cứ đám nào đi chăng nữa, cuối cùng vẫn phải quay về quy tắc cốt lõi ấy.
Nhưng oái ăm thay, đứng trước cửa sống, Đông Hoàng lại chần chừ. Lợi nhuận từ công ty khai thác quang tố quá lớn và lão không cam tâm nhìn chúng rơi vào tay người khác. Nếu mất công ty Vĩnh Hằng, Đông Hoàng không còn cơ hội len chân vào ngành kinh doanh siêu lợi nhuận này nữa. Lão có công ty này là nhờ may mắn và khi nó biến mất, may mắn sẽ không bao giờ xuất hiện lần thứ hai. Lão mong mỏi thoát khỏi phiên tòa, nhưng lão còn khao khát quang tố hơn thế.
Giờ không phải lúc chơi trò đánh đố nhau. – Đông Hoàng hiểu rõ điều đó. Người Đông Thổ chỉ thẳng thắn khi mọi thứ được phơi bày và Đông Hoàng cũng vậy:
-Mũi tên vèo vèo làm vậy không sợ mất danh tiếng sao? Đừng quên tiếng nói của tôi khá quan trọng trong giới siêu giàu.
Trần Độ mỉm cười, khóe miệng nhếch lên kéo giãn lớp môi khô khốc màu tai tái rồi nói:
-Bởi Phi Thiên cho họ một lợi ích mà họ thèm khát hơn cả danh tiếng, là gì thì tôi sẽ không nói. Tuy nhiên, tôi có thể tiết lộ cho ông hay lịch sử của Mũi tên vèo vèo dài lâu hơn bất cứ nền độc lập nào ở thời hiện đại này. Họ làm nghề vận chuyển từ rất, rất, rất, rấtttttttt lâu. – Trần Độ dài giọng – Hàng triệu chuyến hàng đã qua tay họ và đôi lúc gặp trục trặc, như trường hợp của ông chẳng hạn! Nhưng ngày nào thế giới còn những điều khó nói, ngày đó họ còn tồn tại. Chút rắc rối của ông rồi sẽ tan biến như hạt cát trong dòng chảy lịch sử của họ. Vả lại… họ kinh doanh thông qua lời đồn đại, nếu ông nói họ thế này thế kia, nó sẽ tồn tại như lời đồn mà thôi.
Đông Hoàng không bình luận gì thêm. Không khí giữa hai người vẫn tĩnh lặng, chỉ có tiếng “ri ri” từ máy chống nghe trộm. Nhưng bên dưới bề mặt bình yên đó, những đợt sóng ngầm của suy nghĩ và tính toán đẩy qua đẩy lại, tưởng chừng có thể bùng lên bất cứ lúc nào. Sau khi loại trừ mọi khả năng, Đông Hoàng đành chấp nhận thua cuộc, tuy nhiên lại không chịu thua một cách dễ dàng:
-Tôi sẽ ký bản đề nghị, nhưng với điều kiện sau khi phiên tòa kết thúc. Và tôi muốn tiền được chuyển ngay lập tức.
-Được thôi, chúng tôi chờ được. – Trần Độ nói – Ông cũng không cần mở lời đỡ hộ Bất Vọng, luật sư của chúng tôi sẽ tự mình làm việc ấy. Tiền sẽ chuyển ngay khi hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực, chậm nhất là hai ngày.
-Tôi muốn tiền được chuyển bằng hiện vật, không phải ngân phiếu hay chuyển vào tài khoản.
-Hai vạn thùng vàng sẽ được chuyển tới Cửu Long bằng phi thuyền vận tải. – Trần Độ trả lời.
-Và tôi không muốn bất cứ rắc rối nào sau khi kết thúc hợp đồng.
Trần Độ nhún vai cười:
-Sẽ như ý ông.
Sau đó, cả hai đều cúi đầu bày tỏ thiện chí. Song cá nhân Đông Hoàng không tin vào thiện chí của Trần Độ. Lão đầu sẹo tính khả năng sau khi nhượng hết cổ phần, Trần Độ sẽ tung đòn chí tử là bắn tin cho chính phủ Xích Quỷ. Nếu Xích Quỷ biết Đông Hoàng từng sở hữu cổ phần công ty khai thác quang tố, họ sẽ nổi khùng và tiêu diệt lão bằng mọi cách có thể. Con bà nó số nhọ như mõm chó! – Đông Hoàng tự chửi mình rồi cười thầm. Lão cần tẩu tán tiền bạc trước khi cái xác ướp Trần Độ kia giở quẻ.
Không gian đương tĩnh lặng, bất chợt Trần Độ lên tiếng:
-Nói gì thì nói, chúng ta đang nhìn nhau với thái độ thù địch. Hãy xóa bỏ sự thù địch bằng một thỏa thuận khác, được chứ? Tháng tới, anh bạn Cao Khánh của tôi… ông biết hắn chứ? Gã chủ khu giải trí Phi Thiên thành ấy? Hắn sắp triển khai một dự án lớn ở Đông Thổ và cần tìm một đối tác am hiểu hệ thống sòng bạc. Ông có hứng thú chứ?
Trần Độ mất ba phút diễn tả địa điểm, nơi khởi công và chi phí của dự án. Đông Hoàng cũng chỉ mất ngần ấy thời gian để nhận ra những lợi ích mà nó sẽ mang lại. Tuy nhiên, Đông Hoàng không quan tâm dự án triển khai lúc nào mà hỏi:
-Đổi lại tôi phải làm gì?
Lão thủ lĩnh pháp quan cười, đôi mắt nheo lại thành hai rãnh hẹp nhưng sâu hun hút trên gương mặt hốc hác. Lão nói:
-Tôi sẽ không đòi bất cứ quyền lợi nào cả. Chỉ cần ông đưa cho tôi thông tin về người Lạc Việt. Tôi nghe nói trong thư viện ám bụi của Xích Quỷ, có một số quyển sách bị lãng quên của tộc người này. Sao chép chúng và đưa cho tôi, đổi lại là một phần trong dự án của Cao Khánh, ông đồng ý chứ?
Từng nếp nhăn xô nhau trên bờ trán Đông Hoàng. Đây không phải lần đầu tiên lão nhận được đề nghị kiểu này. Cách đây không lâu, Tiếu cũng đưa ra một yêu cầu tương tự (**). Nhờ đọc sách, Đông Hoàng đã bớt thành kiến và có cái nhìn khác về tổ tiên mình. Nhưng cái quái gì ở người Lạc Việt mà kẻ nào cũng muốn tìm hiểu?
*
* *
Phiên tòa chưa kết thúc. Ba ngày nữa, Đông Hoàng phải quay lại Đại Hội Đồng. Ngay bây giờ, lão đang bị quản thúc bởi nhân viên tòa án. Họ đang ở ngoài cửa và sẽ đảm bảo lão không thể đi đâu ngoại trừ gặp bác sĩ, tuy nhiên việc dùng bộ đàm lại không bị cấm. Trong quá trình xét xử, luôn có kẽ hở nhằm tạo điều kiện cho đôi bên thỏa thuận, đó là một phần luật chơi ở Đại Hội Đồng. Ba ngày không nhiều, nhưng chừng ấy đủ để Đông Hoàng điều hành công việc và lập nhiều kế hoạch mới. Lão đương phân vân nên ngả theo chiều nào, Xích Tuyết hay chính phủ Phi Thiên? Nếu đáp ứng yêu cầu của Trần Độ, lão coi như đã làm ăn với Phi Thiên, dù cho yêu cầu này chỉ là những cuốn sách vô giá trị về mặt tiền bạc. Và sẽ chẳng hay ho gì nếu Liệt Giả biết được việc này.
Dòng suy nghĩ của lão đang chảy mạch lạc bỗng khựng lại khi nhân viên phục vụ báo rằng bác sĩ đã tới. Đông Hoàng ừ hữ đáp lại một cách uể oải. Lát sau, cánh cửa gỗ của căn phòng hơi nhích ra, chỉ chừa khe hẹp vừa đủ cho hai người bước qua rồi từ từ đóng lại. Trước mắt Đông Hoàng là tay bác sĩ quen thuộc và một gã phụ tá mà lão chưa gặp bao giờ. Lão để ý gương mặt gã phụ tá cứng đơ, khuôn mặt người chết còn biểu lộ nhiều cảm xúc hơn mặt gã. Cùng lúc, gã bác sĩ lên tiếng, giọng điệu đều đều như cái máy lập trình sẵn:

-Chào ngài, tôi đã tới. Chứng đau khớp của ngài thế nào? Có nặng hơn không? Sắp chết chưa?
Đông Hoàng nheo mắt trước cách ăn nói kỳ lạ của gã bác sĩ. Trong khi đó, gã phụ tá cười khùng khục. Đông Hoàng định bụng đuổi đám này ra khỏi phòng thì bỗng nhiên tay bác sĩ đổ vật xuống sàn, hai mắt mở thao láo và cứng đờ, trông như bị trúng độc. Đông Hoàng toan hét lớn thì gã phụ tá lên tiếng:
-Bình tĩnh nào, ngài chủ tịch đáng kính! Ông bác sĩ của ngài vẫn sống nhăn, chỉ là thuật thôi miên vừa hết tác dụng, ông ta sẽ như con cá chết trong vài phút.
Giọng gã này nhờ nhợ bán nam bán nữ, ngữ điệu đầy tính trêu ngươi. Đông Hoàng nhìn gã, lòng đầy ngạc nhiên:
-Tiếu? Vậy ra… đây là mặt thật của ngươi?
Gã nọ nở nụ cười méo mó:
-Là tôi. Nhưng ông nghĩ cái mặt tôi thế này sao?
Vừa nói, gã vừa kéo da cổ, lớp da bị kéo dài cả gang tay cho thấy gã đang đeo mặt nạ. Đông Hoàng nhếch mép:
-Anh bạn liều lĩnh đấy! Biết Đại Hội Đồng đang treo thưởng ngươi cao thế nào không?
-Biết chứ, hề! – Tiếu đáp – Và tôi biết căn phòng này của ngài cách âm và không có máy quay nên mới dám vào đây.
Đông Hoàng nhún vai:
-Sao cũng được.
Mặc dù có dung diện khác nhưng phong cách của Tiếu vẫn chẳng thay đổi. Gã nhún nhảy bước tới cạnh Đông Hoàng, vớ luôn ly nước hoa quả trên tay ghế của lão và tu một hơi, sau nói:
-Liệt Giả gửi lời cảm ơn đến ông. Nhờ một nghìn thùng vàng, bọn họ đã xây dựng cơ sở vững chắc. Tuy nhiên, Xích Tuyết bắt đầu tuyển quân và họ muốn ông tài trợ thêm.
-Bao nhiêu?
-Hai vạn thùng vàng. Xích Tuyết cần nhiều vũ khí hơn nữa. Liệt Giả nói hãy cho ông ta hai vạn và năm sau ông ta sẽ trả ông mười vạn.
-Khó! Ý ta không phải tiền, mà số lượng hàng sẽ rất lớn, cần ít nhất hai chiếc phi thuyền vận tải cỡ lớn. Mà bây giờ cảng hàng không đang bị kiểm soát chặt chẽ lắm! Tài khoản của ta cũng đang bị theo dõi, không thể chuyển khoản hoặc gửi ngân phiếu được.
Tiếu búng tay tanh tách:
-Vấn đề là ở chỗ đó! Còn nhớ lần trước tôi nói gì với ông không, hay khoái chí với mấy con bé chanh cốm nên quên hết rồi hả? Ồ, xin lỗi đã xúc phạm! Tôi từng nói Mũi tên vèo vèo không an toàn (***), vì vậy tôi đã chuẩn bị một trạm chuyển hàng mới…
Tiếu móc từ trong người ra một chiếc máy chiếu ba chiều nhỏ xíu, ngang cây bút viết. Tấm bản đồ Cửu Long hiện ra giữa không trung, Tiếu liền chỉ vào khu vực đông nam thành phố:
-Ông biết chỗ này chứ! Đó… đưa vàng tới nơi này, tôi sẽ chuyển chúng bằng đường biển, hơi chậm một chút nhưng chắc chắn. Sẽ không có con khỉ nào rớ được ngón tay vào tiền của chúng ta! Còn chuyển nó vào Kim Ngân như thế nào là trách nhiệm của tôi, ông không cần lo. Hề! Nhiệm vụ của ông là đối mặt với phiên tòa sắp tới. Tôi nghe nói gã đại diện Mũi tên vèo vèo bị bắt rồi hả?
Vết sẹo trên đầu Đông Hoàng hơi nhăn lại như con rắn thủ thế trước nguy hiểm. Chuyện tuyệt mật như vậy, thế quái nào thằng điên này lại biết? – Lão tự nhủ, sau trả lời:
-Phải.
-Vậy ông đối phó ra sao? – Tiếu cười rinh rích – Hắn mà mở miệng khai, ông chết chắc! Chà, nhà tù không trung của Đại Hội Đồng dữ dội lắm, tôi cá ông mà lên đó sẽ thành cá đông lạnh sau một ngày!
Gã giơ ngón cái ra như thể Đông Hoàng sắp vào tù đến nơi. Lão già cười:
-Phi Thiên chỉ có nhân chứng mà không có vật chứng. Ta sống dai lắm, anh bạn à!
Tiếu vỗ tay:
-Tốt! Vậy là ông vẫn chưa mục xương trong tù! Ta cùng nâng ly chúc mừng!
Gã lại nâng ly nước hoa quả và ực một hơi sạch bách. Đông Hoàng nhìn gã, khóe miệng hơi nhếch lên một chút. Tiếu có nguồn thông tin mạnh mẽ, nhưng rõ ràng chưa mạnh đến mức biết được cuộc gặp bí mật giữa lão và Trần Độ. Sẽ tốt hơn nếu lão giữ bí mật này cho riêng mình. Để tránh đả động thêm chuyện tòa án, lão bèn chuyển chủ đề:
-Ta không nghĩ Thiên Hải lại là người của Liệt Giả. Hắn giỏi, ta công nhận, nhưng đâu có nghĩa là chạy lăng nhăng khắp nơi như vậy, đúng không?
Tiếu cười:
-Liệt Giả là kẻ kỳ lạ, ông ta có những luật kỳ lạ giành cho đám phụ tá lạ kỳ chẳng kém. Tuy nhiên, ông nên biết Liệt Giả có năm con chó săn… à nhầm, trợ thủ! Ý tôi là trợ thủ! Hai kẻ luôn theo sát ông ta là Ngũ Diệu và Phổ Thành. Ba kẻ còn lại là Thiên Hải, Diễm Tà và một người tôi chưa từng gặp.
Tiếu đưa cho Đông Hoàng ảnh chụp những trợ thủ của Liệt Giả, trừ người thứ năm mà gã chưa gặp. Gã tiếp lời:
-Vậy còn Quạ Đen? Ông không biết hắn là người của Tân đảng sao?
-Ta biết. Ngày đầu tiên đến đây, hắn đã tự giới thiệu như vậy. Giờ Quạ Đen bỏ đi như vậy, thực hơi tiếc.
-Nhưng thằng đó đã giúp ông xử lý bọn băng đảng của Năm mắt lươn, đúng không? Giờ Cửu Long là của ông, vì thế hãy bớt lo nghĩ cho nơi này đi. Hề!
Đông Hoàng cười:
-Vậy còn anh bạn? Lại tiếp tục đi tìm Quỷ Vương chứ?
Tiếu thở dài vẻ buồn bã:
-Hiện giờ thì chưa. Đám Phi Thiên kín tiếng quá, tôi không biết chúng đang đi đâu. Nhưng chúng sẽ lộ chân tướng sớm thôi. Trong thời gian chờ đợi tin tức, tôi nên giết thêm ai đó chăng? Hí hí!
Điệu cười rinh rích của gã làm Đông Hoàng sởn gai ốc. Lão chỉ biết Tiếu bị truy nã gắt gao chứ không hề biết nguyên nhân thực sự là do gã hạ sát trưởng lão Hạ Đông của Thánh Vực. Tuy nhiên, nếu biết, Đông Hoàng cũng không bất ngờ. Khi nào bảo cái thằng điên khùng này chưa từng giết người, lão mới thấy lạ.
-Hãy chuyển vàng như kế hoạch. – Tiếu nói – À, còn một điều này nữa, tôi đã nhờ ông tìm hiểu về bộ tộc Lạc Việt, ông làm giúp tôi chưa? (****)
Đông Hoàng liền đi tới bàn làm việc, mở ngăn kéo, lấy ra một tập giấy dày cui và đưa cho Tiếu:
-Chúng là những bộ sách hiếm trong kho lưu trữ của Xích Quỷ. Mất hai ba bữa nhậu và vài trăm thùng vàng để gã quản kho cho ta mượn. Nhưng ngươi cần gì ở thứ này? Ta đọc cả rồi, chúng chỉ là chuyện kể và huyền sử, không phải thông tin chính thống.
Tiếu ôm tập giấy, hỉ hả cười:
-Có những điều thú vị ẩn giấu dưới mấy chuyện kể cho trẻ con. Sẽ rất vui đấy, ngài chủ tịch đáng kính à!
Đông Hoàng nhìn vào mắt Tiếu, cố gắng đọc thấu tâm can gã nhưng bất khả. Lão hỏi tiếp:
-Còn một chuyện nữa… chúng ta đã để con bé tóc đỏ rơi vào tay người Phi Thiên. Ngươi nói con bé đó rất quan trọng với Liệt Giả, đúng chứ? Sao ta không thấy gã phàn nàn gì?
Tiếu lắc đầu:
-Không, tất cả đều nằm trong kế hoạch. Liệt Giả không trách ông nên cứ yên tâm mà sống, hề! Giờ ông phải trị bệnh đau khớp chứ nhỉ?
Dứt lời, gã rờ tay xuống cổ người bác sĩ đang nằm trên sàn và ấn ngón cái lên đốt xương sống. Người nọ tự động đứng dậy, sau đó tiến hành điều trị cho Đông Hoàng. Người này cư xử hoàn toàn bình thường, hầu như chẳng lộ ra điểm đáng nghi nào, ngoại trừ việc y không hề để tâm đến sự tồn tại của Tiếu. Và điều này khiến Đông Hoàng đau đầu thay vì đau khớp. Nếu một ngày nào đấy lão hết giá trị sử dụng, Tiếu hoàn toàn có thể dùng thứ quỷ thuật thôi miên, điều khiển một ai đó tiêu diệt lão. Còn một điều nữa, quan hệ giữa con bé tóc đỏ và Liệt Giả là gì? Dù tiếp xúc con bé Liệt Trúc chưa lâu nhưng lão lờ mờ nhìn ra mối liên hệ giữa hai người họ. Bằng trực giác, lão cảm nhận được sự khuất tất trong lời nói của Tiếu.
Xong việc, Tiếu cùng gã bác sĩ rời khỏi phòng. Đông Hoàng nhìn theo, tâm trí xào xạo những mưu mô tính toán. Lão cần thuê đám vệ sĩ mới mạnh hơn, cần nhiều nguồn thông tin hơn, cần nhiều sức mạnh hơn. Bởi lợi ích là trên hết và sẽ có một ngày, những liên minh sẽ sụp đổ. Lão cần chuẩn bị trước khi ngày đó ập đến.
Đương mải nghĩ ngợi, bỗng nhiên bộ đàm của Đông Hoàng nhận được cuộc gọi từ số máy lạ. Lão mở máy trả lời thì nghe được một giọng nói lành lạnh:
-Ông khỏe chứ, Đông Hoàng? Tôi là Trần Độ. Cuộc gọi này rất an toàn, ông phải lo chuyện nghe lén. Việc hôm trước tôi nhờ, ông giúp được chứ?
Đông Hoàng gõ gõ ngón tay lên mặt bàn. Ánh mắt phóng ra ngoài cửa kính, vươn đến bầu trời đen đặc không ánh trăng không ánh sao, chỉ có mây đen vần vũ. Ẩn tàng sau tầng mây đầy nguy hiểm kia, còn bao nhiêu con quái vật khác đang tồn tại?
Đâu là đồng minh? Đâu là kẻ thù?
Đông Hoàng mỉm cười. Lão không ở bên đồng minh, cũng chẳng đối đầu kẻ thù. Lão có con đường của riêng mình. Và cuối cùng, Đông Hoàng trả lời:
-Tôi sẽ gửi bản thảo cho ông.
Trong lúc ấy, vị bác sĩ cùng tay phụ tá đã rời tháp sòng bạc. Họ đường ai nấy đi và tay bác sĩ sẽ chẳng hiểu tại sao mình lại đứng giữa đường phố, sau cuống quýt gọi điện cho Đông Hoàng, rối rít vì trễ giờ và thở phào nhẹ nhõm khi lão già không trách móc. Còn gã phụ tá rẽ vào một con phố nhỏ ít người qua lại, trên tay là tập tài liệu về lịch sử người Lạc Việt. Gã cứ đi, cho đến khi bộ đàm trong túi rung bần bật, gã dừng bước và õng ẹo trả lời:
-Quý ông Liệt Giả gọi điện sớm vậy?
-Ta không đùa. – Đầu dây bên kia trả lời – Công việc thế nào? Đông Hoàng đồng ý tài trợ tiếp chứ?
-Không vấn đề. Hề! Một tuần nữa, hai vạn thùng vàng sẽ tới Kim Ngân.
-Tốt. Vậy còn vấn đề giữa chúng ta? Ngày đầu tiên gặp gỡ, ngươi nói sẽ tìm Liệt Trúc, vậy nó đâu? (*****)
Tiếu nở nụ cười tươi rói:
-Đang tìm kiếm, quý ngài Liệt Giả đáng kính! Đang tìm kiếm! Thế giới Tâm Mộng rộng lắm, tìm một đứa trẻ đâu dễ?
-Ta cho ngươi nửa năm. Nếu tìm không ra, ta sẽ tính sổ với ngươi.
Lời vừa dứt, tiếng cúp máy đóng rụp. Tiếu sờ sờ cổ, cảm giác như có lưỡi máy chém vô hình đang chực chờ lao xuống. Nửa năm? Gã bất giác mỉm cười rồi tháo bỏ lớp mặt nạ da, thay vào đó là chiếc mặt nạ trắng với hoa văn diêm dúa. Sau đó, gã tung tẩy bước, miệng nghêu ngao hát một khúc nhạc tự chế đầy quỷ quyệt:
-Ta chẳng ở bên này, cũng không ở bên kia, hai chân ta ở hai thuyền…
 
Quyển 3 - Chương 8: Đường tới sa mạc


Cùng là đêm tối, nhưng mỗi vùng đất trên thế giới Tâm Mộng lại có cách thể hiện khác nhau. Nếu Cửu Long không ngủ thì cách đó hàng vạn dặm theo hướng đông nam, trên con đường Sinh Lộ dẫn về sa mạc Hồi Đằng của Âm Giới, mọi thứ đang say giấc. Ở đây, bóng tối là kẻ độc bá. Nó hất cả thùng sơn màu đen khổng lồ vào không gian và thời gian, cưỡng bức vạn vật quy phục dưới sự thống trị của mình. Nó là thứ chân lý tương tự mặt trời, mà mặt trời sẽ có ngày lụi tàn, còn nó trường tồn vĩnh viễn. Trước kẻ thù quá toàn năng, Âm Giới chẳng còn cách nào ngoài cúi đầu thúc thủ, tự nhuộm mình trong sắc đen, khiến bóng tối càng thêm hùng mạnh. Sẽ có một cơn ác mộng khủng khiếp dành cho kẻ xấu số nhỡ lạc vào chốn này, bởi đôi mắt y như mù và hoàn toàn không thể thấy bàn tay mình, thổi vào tai y là những cơn gió lạnh lẽo mà đứt đoạn, tựa tiếng thở từ miệng một con quái vật rằng: “tao sẽ vờn mày suốt đêm và giết mày trước khi mặt trời mọc!”. Nơi đây là đại dương của những nỗi sợ mơ hồ lẫn nỗi khiếp nhược. Không thứ gì dám đứng lên chống lại bóng đêm, tất cả đều ngoan ngoãn nằm yên, chờ đợi vị vua mặt trời quay trở lại.
Nhưng có kẻ cai trị tất có kẻ phản kháng. Từ trong màn đêm thăm thẳm, một luồng ánh sáng xuất hiện, soi rọi mặt đất khô khốc. Nguồn sáng đến từ ngọn đèn của một chiếc xe thiết giáp đang lăn bánh trên con đường lổn nhổn đá sỏi. Chiếc xe đang đi theo hướng tây nam, chốc chốc lại rung lên từng hồi, tựa người lữ hành cô độc run rẩy tìm đường thoát khỏi bóng tối mênh mông. Qua ánh đèn, những trảng bụi mù từ dưới gầm xe cuộn lên, trôi về phía sau, kéo thành vệt dài rồi tan vào không gian khổng lồ mà im lặng rợn người. Trong xe, ngoài tiếng động cơ và những thanh âm xóc nảy do xe va phải ổ gà, không khí hoàn toàn yên ắng. Những bản nhạc đã chạy hết và giờ đây ngoài anh chàng Triết Xa lái xe, bốn người nhóm công chúa đều ngủ. Cuộc hành trình sắp tới rất dai dẳng, họ tiết kiệm sức lực được lúc nào hay lúc ấy.
Tuy vậy, Vô Phong vẫn mở mắt thao láo. Hồi hộp, lo lắng, hàng tá suy nghĩ về bọn khủng bố, phiến quân, về những Đầu Sói; chừng ấy thứ khiến tên tóc đỏ trằn trọc. Hắn dám cá những người trong nhóm chỉ nhắm mắt vậy chứ chẳng hề an giấc, nhất là công chúa. Công chúa mà ngủ được thì hắn đã lăn ra ngáy khò khò từ lâu.
Bỗng từ phương xa, những tiếng nổ ì ùng như tiếng sấm vọng đến tai Vô Phong. Tiếng nổ không lớn, chỉ như tấm lụa khẽ phất bên tai, nhưng đủ sức kéo mái đầu đỏ phải ngoảnh lại. Qua ô cửa kính, Vô Phong thấy những khối ánh sáng màu vàng trắng chớp tắt chớp hiện ở đằng tây. Ánh sáng khi làm lộ ra những trảng mây đen nặng nề lợp kín bầu trời, khi hắt lên những dáng hình xương xẩu và gồ ghề của dải núi xa xa, lúc nhì nhằng tựa những chảo chớp phơi bày lớp da hoang hóa của miền đất Âm Giới. Và đôi lần, những quầng sáng bùng lên rực rỡ như muốn trở thành một mặt trời thứ hai hòng lật đổ bóng đêm, sau nhạt dần rồi vụt tắt. Đó là dư âm dư ảnh của chiến trường giữa liên quân và đám phiến loạn cách đây hàng chục cây số. Vô Phong bỗng nhận ra không phải mặt trời, cũng chẳng phải bóng đêm, mà tiếng súng đạn mới là chúa tể đích thực tại miền đất này.
Đêm nay có những người chết. Ngày mai có những tiếng khóc tiếc thương và cả những lời nguyền rủa dành cho Kim Ngân lục địa.
Ngắm nhìn cảnh tượng hồi lâu, tên tóc đỏ quay về với đống tâm trí lộn xộn. Vô Phong không có khả năng sắp xếp suy nghĩ thành con đường thông suốt như Hỏa Nghi. Với hắn, suy nghĩ là những chướng ngại vật cần leo qua, hoặc phải bị phá hủy dưới lưỡi thanh Bộc Phá. Nhưng khoảng không gian chật hẹp của xe thiết giáp không cho hắn cơ hội vung tay vung chân, thành thử còn mỗi hoạt động cơ mồm là khả dĩ. Bất quá nói cái gì? Nói với ai?
Ngó ngang ngó dọc một hồi, Vô Phong bèn leo lên khoang lái và hạ mông xuống chiếc ghế trống. Thấy hắn, Triết Xa nói:
-Không ngủ được sao, anh bạn?
Vô Phong gật đầu. Triết Xa không nói gì thêm mà tiếp tục phận sự của mình. Dưới ánh đèn pha, con đường Sinh Lộ trải dài trong mắt họ với sỏi đá và đầy rẫy những ổ gà chực chờ bánh xe lao xuống. Không bóng cây, không một bóng loài vật, con đường dấy lên trong lòng người ta niềm khao khát mãnh liệt được nói, nói để quên đi nỗi buồn chán do chính nó gây ra. Và rất đỗi bình thường khi tên tóc đỏ mở miệng trò chuyện với Triết Xa, dù hắn chẳng biết gì về người này:
-Anh là người Âm Giới hả?
-Không. – Triết Xa lắc đầu – Tôi là người Tuyệt Tưởng Thành.
Vô Phong nheo mắt, cảm giác đã từng nghe qua địa danh nọ. Mãi lúc sau hắn mới nhớ lúc ở trong phòng phó thống lĩnh Đổ Yên, Mai Hoa đã nói về một tiểu quốc độc lập nằm phía trên Lằn Ranh Đỏ - con đường chia lục địa Kim Ngân thành hai nửa nam bắc. Hắn nói:
-Tại sao phải gọi là “Tuyệt Tưởng Thành” mà không phải “Tuyệt Tưởng quốc”?
-Bởi vì trước kia, trong thời đại phi cơ giới, Tuyệt Tưởng Thành chúng tôi là thủ đô của một đế chế rộng lớn. Khi đế chế sụp đổ, thủ đô Tuyệt Tưởng vẫn tồn tại cho đến bây giờ. Chúng tôi lấy cái tên Tuyệt Tưởng Thành làm tên nước, thế nên trong văn bản, chữ “Thành” được viết hoa. – Triết Xa cười.
Tên tóc đỏ gật gù, sau lại nhận ra điều lạ. Hắn vốn nghĩ Tuyệt Tưởng Thành chẳng có thừa nhân lực giúp đỡ nước khác. Mỗi quốc gia ở Kim Ngân đều phải căng mình chống đỡ khủng bố lẫn phiến loạn, nhất là với Tuyệt Tưởng Thành khi đối mặt hàng tá hiểm họa từ phía bên kia Lằn Ranh Đỏ. Nhưng qua lời kể của Triết Xa, tiểu quốc này có đầy đủ cơ sở để làm chuyện không tưởng đó:
-Chúng tôi sở hữu một phép thuật cổ xưa và rất nổi tiếng. Bách Quang Lam Thuẫn, anh nghe bao giờ chưa? Nó là phép phòng thủ tuyệt đối, ngăn chặn mọi đòn công kích. Nhờ nó, Tuyệt Tưởng Thành luôn đứng vững và là nơi yên ổn nhất lục địa.
Lời lẽ của Triết Xa hết sức kiên định, hồ như tin tưởng tuyệt đối vào sự trường tồn của Tuyệt Tưởng Thành. Sau đó, anh ta bắt đầu kể về thời quá khứ xa xăm, khi Tuyệt Tưởng Thành còn là thủ đô đế chế cho tới ngày trở thành quốc gia độc lập. Anh ta nói thành phố được bao bọc bởi một lớp tường thành cổ mà nếu nhìn từ trên cao, nó có hình dạng giống tấm khiên. Thành phố có hai quận riêng biệt với lâu đài nhà cửa được dựng nên từ cát và sa kết tuyến, hai quận nằm vắt chéo nhau, tựa hai thanh kiếm khổng lồ đặt trên tấm khiên vĩ đại và tại giao điểm giữa hai thanh kiếm là hoàng cung. Bên ngoài hai quận là những xưởng đúc kiếm nằm ở bốn hướng riêng biệt, lò rèn ngày đêm đỏ lửa cùng tiếng quai búa không ngừng nghỉ. Bằng thái độ đầy tự hào, Triết Xa nói chỉ duy nhất đất nước mình còn lưu giữ nghề rèn phái “truyền thống”.
Anh chàng lái xe quả có biệt tài kể chuyện, bởi tâm trí Vô Phong bắt đầu mường tượng ra khung cảnh Tuyệt Tưởng Thành. Trong mắt hắn, con đường phía trước trở nên sống động hơn dù rằng nó chẳng có gì khác ngoài sỏi đá bụi bặm. Suýt nữa hắn lầm tưởng mình đang trên đường về quê hương của Triết Xa. Nhưng rất nhanh sau đó, Vô Phong sực tỉnh khi bên mạn tây, những khối ánh sáng vàng trắng lại chớp tắt chớp hiện. Không có những tòa kiến trúc bằng cát, không có những lò rèn đỏ lửa, không Tuyệt Tưởng Thành, giờ chỉ có miền đất hoang hóa đang chờ đợi tên tóc đỏ. Hắn ngó đồng hồ đeo tay. Đã một giờ sáng, nhưng còn rất lâu nữa mới đến bình minh. Vô Phong mong sao Triết Xa hãm bớt tốc độ, chiếc xe bị hỏng hóc hoặc bất cứ thứ gì có thể khiến cuộc hành trình chậm trễ. Bộ hành qua sa mạc rộng lớn trong bóng tối trùng điệp vây quanh, điều đó làm hắn sinh cảm giác chẳng lành.
Triết Xa không đáp lại mong mỏi của tên tóc đỏ. Anh ta chỉ thực hiện đúng bổn phận, chiếc xe thiết giáp vẫn thẳng hướng về sa mạc Hồi Đằng. Sau khi băng qua con đường đầy ổ gà, nó bắt đầu leo dốc, tốc độ chậm hơn trước một nửa. Từ mạn tây, những khối lửa vàng trắng của chiến trường bùng lên và hắt ánh sáng ra khắp nơi. Ánh sáng tồn tại đủ lâu để Vô Phong nhận ra chiếc xe đang băng qua đường đèo trên một dãy núi xù xì chắn ngang Sinh Lộ. Dải núi lởm chởm những chóp nhọn cao thấp nằm liền kề nhau, trông như hàm dưới của một con quái vật. Và có vẻ con quái vật đã lãnh trọn một cú đấm nên chiếc hàm lố nhố không đều, từng chiếc răng nứt vỡ hoặc sứt mẻ quá nửa. Nhưng khi ánh sáng lụi tàn và bóng đêm làm chủ, Vô Phong vẫn có thể thấy bóng dáng dãy núi hiện lên đầy đe dọa và sẵn sàng cắn xé bất cứ ai có ý định vượt qua nó.
Bất quá chướng ngại là chướng ngại, còn con người vẫn phải đi. Khi xe leo dốc, ánh đèn pha rọi tới một bệ kim loại màu xám nằm bên đường. Vô Phong thấy bệ thép này giống cái chậu cỡ lớn, từ miệng phát ra những dòng chữ màu xanh dương nhợt nhạt lơ lửng giữa không trung: “Đường đèo số 59 Vùng 28, do chính phủ Âm Giới và liên quân hợp tác xây dựng…”. Vô Phong chỉ đọc được tới đó vì những dòng chữ phía sau bị mờ và nhiễu. Triết Xa nói:
-Tôi cũng không biết những dòng chữ sau viết cái gì nữa. Nghe nói cái bệ kỷ niệm này bị bọn cướp bắn ngay sau ngày khánh thành.
Tên tóc đỏ nghển cổ ngó xuống thì thấy thân bệ chi chít lỗ đạn bắn. Rõ ràng những kẻ cướp không hề muốn Kim Ngân phát triển. Chúng muốn mọi thứ hoang tàn và khốn khổ nhằm dễ bề đày đọa người khác. Bản chất của kẻ cướp là vậy, chỉ khác nhau ở hình dáng và địa vị.
Chiếc xe thiết giáp rẽ trái, chạy thẳng một lúc thì rẽ phải, chạy thẳng một đoạn lại rẽ trái. Đường đèo 59 Vùng 28 là vậy, ngoằn nghèo như thân rắn xuyên ngang dải núi, lắm khúc cua hẹp và cần người cầm lái chắc chắn như Triết Xa. Con đèo này đặc biệt nguy hiểm vì không có thanh chắn bao đường, xe có thể lao đầu xuống vực bất cứ lúc nào. Ở đây, tai nạn không phải hiếm và người chết không phải ít, nhưng vì mưu sinh, người Âm Giới phải sống chung với con đường. Từ bên phải đường đèo 59, Vô Phong có thể cảm nhận rõ cái bóng khổng lồ của ngọn núi đang đổ xuống đầu mình, phóng ra những cánh tay vô hình chực hất chiếc xe xuống vực. Vừa lúc xe gặp khúc cua, tên tóc đỏ bất giác tóm chặt tay nắm cửa, bờ trán rịn những giọt mồ hôi lạnh ngắt. Nhưng Triết Xa là tay lái cừ khôi. Dưới sự điều khiển của anh ta, chiếc xe trượt theo đường gấp khúc hẹp như một vận động viên thực hiện bài biểu diễn hoàn hảo không có động tác thừa. Chỉ duy lúc bánh xe lao qua, sỏi đá bên dưới cuốn theo phát tiếng rào rạo gieo rắc sợ hãi vào lòng tên tóc đỏ. Hắn đã nghĩ tới cái chết, song cuối cùng chẳng có tai ương nào cả.
Hết khúc cua, chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Con đường giờ thẳng hơn nhiều, những khúc cua không gấp và hẹp nữa, nó rộng mở hơn, ít hiểm họa hơn. Tuy thế, cái bóng khổng lồ của ngọn núi bên cạnh đường đèo vẫn ám ảnh Vô Phong. Suốt đoạn đường, nỗi sợ mơ hồ len lỏi khắp cơ thể hắn, khiến hắn luôn phải bám một vật vững chắc như ghế ngồi hoặc tay nắm cửa. Mãi đến khi con đường đổ dốc xuống và xuất hiện nhiều luồng gió thổi ngược tạt vào cửa kính xe, Vô Phong mới tạm thời bình tâm. Hắn không dè bản thân có lúc khó coi như thế. Song cũng nhờ chuyến đi, hắn chợt hiểu trong mình còn ẩn tàng rất nhiều nỗi sợ hãi, chỉ là chúng chưa có dịp bộc lộ.
Trên đoạn đường đèo đổ dốc xuống không hề có khúc cua, chiếc xe cứ bon bon chạy rồi vượt qua dãy núi, tiếp tục tiến vào Sinh Lộ. Vô Phong không thể nhìn thấy bất cứ động thái nào từ chiến trường phía tây vì dãy núi đã che mắt hắn. Giờ đây, mọi thứ từ nhàm chán, sợ hãi, lo âu, thấp thỏm, suy tư… hết thảy mớ nguyên liệu đó đổ vào một cái nồi với nước dùng nguội ngắt là bóng đêm, rắc thêm chút sỏi đá rào rạo và ổ gà xóc nảy dưới bánh xe làm gia vị. Không củi lửa đun nóng, món lẩu hỗn tạp trên bày ra trước mặt Vô Phong và hắn không thể nuốt nổi. Cái vị từ nồi lẩu khiến hắn mệt óc, mà mùi hương của nó làm hắn chẳng thể chợp mắt. Ngứa ngáy và ngáp ngủ chán chê, Vô Phong quay sang hỏi chuyện Triết Xa:
-Anh làm lính liên quân bao lâu rồi?
-Bốn năm. Tôi đi lính sớm, năm mười bảy tuổi. Ở Tuyệt Tưởng Thành, trai mười bảy tuổi phải làm nghĩa vụ quân sự rồi. Sau đó tôi theo đường quân nhân chuyên nghiệp, được khoảng chục năm thì được điều sang liên quân. Hai năm đầu tôi ở Nam Kim Ngân, vùng đất phía dưới Lằn Ranh Đỏ ấy! Hai năm kế, tôi về Âm Giới, ở đây cho tới bây giờ. Bốn năm rồi tôi chưa về nhà.
-Lâu vậy sao? – Vô Phong gãi đầu – Tôi tưởng phải có nghỉ phép?
-Ở Kim Ngân, đó là chuyện xa xỉ. – Triết Xa nói – Khi một người nghỉ phép, phải có người mới thế chỗ. Nhưng nhiều khi người mới chết nhanh quá và sở chỉ huy không tìm được nhân lực thay thế, người cũ phải ở lại. Tôi bị như vậy suốt bốn năm rồi! Thứ ba tuần trước, một gã đến thay tôi, nhưng ngay tối hôm ấy, khi đang xếp đồ đạc thì tôi nghe tin gã tan xác cùng xe. Gã đang chở hàng hậu cần thì một quả đạn pháo rơi thẳng khoang lái. Vậy đấy! Người ta cứ bảo bọn phiến loạn là lũ tay mơ cầm súng, nhưng chúng có họ hàng với tử thần đấy!
Triết Xa cười như đang kể chuyện tiếu lâm. Vô Phong cười không nổi. Ở Kim Ngân, người ta chứng kiến cái chết nhiều đến độ quen mắt, dần dần sinh vô cảm và có thể lấy cái chết làm chủ đề đùa cợt. Bởi chúng ập đến quá dễ dàng và không một lời cảnh báo, sự chết chóc của Âm Giới khiến Vô Phong sinh nghi với màn đêm. Tên tóc đỏ liếc qua cửa kính, mắt căng ra, đầu óc tưởng tượng một quả đạn pháo vô hình sắp sửa bay tới. Chờ đợi cái chết và chết một cách không rõ ràng, nếu phải chọn lựa, Vô Phong sẽ chọn phương án đầu tiên. Hắn bắt đầu tự hỏi tại sao mảnh đất này lắm chết chóc đến thế?
Tại sao con người vẫn cứ giết nhau?
-Người ta không chịu hòa giải sao? – Vô Phong thắc mắc – Bọn họ, ý tôi là đám phiến loạn, họ không muốn hòa bình à?
Triết Xa thở dài:
-Họ bất mãn với kiểu gia đình trị của các hoàng gia, họ muốn xóa bỏ chế độ quân chủ. Nhưng đấy là thời kỳ đầu, giờ tôi chẳng biết đám phiến quân đánh nhau vì cái gì nữa. Một số kẻ ưa thích cuộc sống bạo lực và cướp bóc, chúng không thích hòa bình và sẽ chống lại bất cứ ai đề xuất hòa bình. Vậy nên Kim Ngân trở thành thiên đường của khủng bố, trộm cướp. Yên tâm đi, Kim Ngân chẳng thay đổi đâu. Đời chúng ta, đời con rồi tới đời cháu chúng ta, lục địa này vẫn thế thôi!
Con đường phía trước xe thiết giáp tối tăm, trơ trọi, tuyệt không có tương lai hay tia hy vọng từ những làn khói bụi vô hồn đang bốc lên. Nó giống như lời của Triết Xa, giống như sự tồn tại của Kim Ngân. Bom đạn chiến tranh không chỉ hủy diệt nhựa sống nơi đây mà còn triệt hạ những hy vọng của con người. Tên tóc đỏ tin rằng Triết Xa không phải trường hợp cá biệt. Ngay cả hắn, một kẻ xa lạ lần đầu tới Kim Ngân cũng chẳng thể nhìn ra viễn cảnh sáng sủa cho vùng đất này.
Chiếc xe vẫn băng băng chạy, đi được khoảng mười cây số thì bắt gặp một bệ kim loại lớn ở vệ đường bên phải. Chiếc bệ này khá giống với chiếc bệ trên đường đèo 59 từ màu sắc, dáng vẻ cho tới những vết đạn chi chít trên thân. Phía trên miệng bệ lơ lửng những dòng chữ màu xanh dương chỉ dẫn hai hướng. Nếu tiếp tục đi thẳng thêm hai trăm cây số, họ sẽ gặp Vùng An Toàn số 43; nếu rẽ phải, đi thêm bốn mươi cây số, họ sẽ tới sa mạc Hồi Đằng. Đường thẳng vẫn thuộc Sinh Lộ, đường bên phải thì không. Vô Phong thực muốn đi thẳng, nhưng để tới núi Dương Hoa Tụ thì bắt buộc phải rẽ vào con đường thứ hai. Triết Xa bẻ lái, tên tóc đỏ liền nhìn về Sinh Lộ, vẻ nuối tiếc tràn ngập khắp gương mặt. Như một phản xạ vô điều kiện, hắn thủ tay sau lưng, nắm chặt cán thanh Bộc Phá và sẵn sàng rút nó ra bất cứ lúc nào.
Tuy nhiên, vì sự an toàn của công chúa, Phi Thiên quốc luôn có những sắp đặt từ trước. Vừa rời Sinh Lộ vài phút thì từ bảng điều khiển trên xe thiết giáp, một giọng nam giới chợt vang lên:
-Ưng Xám đây, xin khai báo danh tính.
Triết Xa đáp lời:
-Triết Xa, lữ đoàn 67, biển xe: UA – 67 – 11A1. Tôi đang chở bốn người làm công tác đặc biệt trong sa mạc Hồi Đằng.
Một hồi im lặng trôi qua, sau đó những tiếng rè rè vang lên cùng tiếng trả lời:
-Xác nhận đúng mã số. Chúng tôi cần sự xác nhận của một người trong đoàn công tác đặc biệt.
Triết Xa quay sang Vô Phong, đoạn hất đầu về phía bảng điều khiển. Tên tóc đỏ hiểu ý, bèn nói:
-Chào.
Triết Xa phì cười trước lời xác nhận quá đỗi giản đơn của Vô Phong. Một lát sau, phía Ưng Xám hồi đáp:
-Xác nhận đúng giọng nói. Cho phép thông qua. Xin chào, chúng tôi là Ưng Xám, đội quản lý không phận sa mạc Hồi Đằng. Hiện giờ, cách đây bốn cây số, có một nhóm đang di chuyển rất nhanh về phía các vị, hãy tránh xa con đường này! Tìm một chỗ nấp nhưng đừng đi vội! Hãy đợi thông báo của chúng tôi.
Một hòn đá tảng vô hình rơi trúng đầu Vô Phong. Hắn giật mình thon thót:
-Phiến quân à?

-Chúng tôi không dám chắc. – Đội Ưng Xám trả lời – Nhưng có lẽ là đúng. Các vị nên chuẩn bị tinh thần.
Vô Phong bèn quay về phía sau, định bụng gọi mọi người dậy. Nhưng ba người còn lại vốn không hề ngủ, họ sẵn sàng khí giới ngay khi nghe thấy lời cảnh báo của Ưng Xám. Lúc ấy, Triết Xa khẩn trương đánh tay lái sang phải rồi nhấn ga chạy hết tốc lực. Cảm thấy khoảng cách đã đủ xa, anh ta liền dừng xe rồi ấn một nút nhỏ trên bảng điều khiển. Vô Phong nhận ra chiếc xe thiết giáp đang thay đổi, nó vốn có màu đen nhưng giờ chuyển sang màu cam. Khi Triết Xa tắt đèn, chiếc xe nổi bật trong bóng tối. Ngồi ở hàng ghế trước, Vô Phong có thể thấy rõ từng mảng bụi trên nắp xe. Cách ngụy trang khó hiểu này khiến tên tóc đỏ tá hỏa song Triết Xa trấn an:
-Không sao đâu, rồi cậu sẽ thấy. Nhưng giá chúng ta ở gần đồi núi thì tốt. Chỗ này trống trải quá! Nếu chúng có đèn pha đủ mạnh, chúng sẽ phát hiện ra ta. Tốt nhất mấy vị nên chuẩn bị đi.
Không ai bảo ai, cả năm người trong xe nín thở như bắt đầu một cú lặn sâu. Họ sợ một âm thanh nhỏ nhất sẽ thu hút sự chú ý. Không gian tĩnh lặng đến nỗi những tiếng sột soạt cục cựa trên ghế của Vô Phong không khác nào tiếng sấm. Vô Phong ngó sang Lục Châu, đợi công chúa nhìn lại thì nói không thành tiếng, miệng cố uốn ra câu “Kệ mẹ nó!”. Trông bản mặt nhăn nhăn nhở nhở của hắn, Lục Châu không cười, hàng lông mày của nàng uốn xuống như cây cung, phóng đi ánh mắt giận dữ găm thẳng trán tên tóc đỏ. Vô Phong vội quay đi, coi như không biết gì. “Ghê gớm quá công chúa ơi!” – Hắn tự nhủ.
Cả bọn cứ chờ đợi, chờ đợi… Còn thời gian cố tình lê bước, thả những nỗi lo âu nặng trịch xuống tâm trí căng như dây đàn của con người. Năm phút trôi đi và khi mới bắt đầu phút thứ sáu, từ đằng xa, một tập đoàn khoảng chín mười chiếc xe xuất hiện, ánh đèn rọi làn khói bụi mù trời. Chúng không hẳn là “xe” vì chiếc nào cũng nham nhở như được ghép lại từ hàng đống phế liệu, nhưng vì chạy bằng bốn bánh nên gọi chúng là “xe” cũng chẳng sai. Trên mỗi xe có đám người hò hét ầm ĩ, tay cầm súng bắn chỉ thiên liên hồi, xem chừng rất khoái trá. Chúng liên tục rọi những đèn pha công suất lớn khắp nơi hòng tìm kiếm thứ gì đấy. Bọn Vô Phong nín thở theo dõi chúng và hầu hết (trừ Chiến Tử) đều dựng tóc gáy khi bảng điều khiển trên xe thiết giáp hốt nhiên phát tiếng rè rè kèm theo giọng nói của đội Ưng Xám:
-Là phiến quân. Hình như chúng vừa cướp bóc ở đâu đó. Hãy hy vọng là chúng ta không cần nổ súng.
Ánh đèn pha từ đám phiến quân bỗng rọi tới khoảng không phía trước xe thiết giáp. Luồng sáng di chuyển chầm chậm rồi quét qua chiếc xe. Tại thời điểm ấy, bọn Vô Phong đều nghĩ lũ phiến quân đã phát hiện ra họ. Nhưng luồng sáng vẫn di chuyển, tiếp tục sục sạo khắp màn đêm. Ánh đèn pha thứ hai rọi đến và cũng bỏ qua chiếc xe hệt như ánh đèn thứ nhất. Vô Phong chợt hiểu cách ngụy trang của xe thiết giáp mô phỏng màu sắc vùng đất Âm Giới nên không bị phát hiện. Tuy vậy, phải nói rằng đám phiến quân đương say men chiến thắng nên mới bỏ qua con mồi hai lần.
Khi lũ phiến quân đi xa và tiếng súng lọt thỏm vào màn đêm, bọn Vô Phong mới thở hắt một hơi nhẹ nhõm. Ưng Xám phát tín hiệu đèn xanh, Triết Xa lập tức nhấn ga phi hết tốc lực. Tất cả đều đồng ý với hành động của anh ta, chẳng ai muốn lưu lại nơi này thêm một giây nào nữa.
Những cây số tiếp theo hoàn toàn yên bình. Xe thiết giáp băng băng lao về phía trước, ánh đèn soi rọi lối đi, tựa ngọn tên bịt mũi vàng xẻ rách màn đêm. Thi thoảng đội Ưng Xám lại thông báo sa mạc Hồi Đằng còn cách đây bao nhiêu cây số. Con đường bên dưới bánh xe phủ cát và bằng phẳng hơn nhiều, hầu như chẳng còn ổ gà hay sỏi đá, Vô Phong cảm tưởng xe đang lướt trên một tấm lụa khổng lồ được trải căng. Triết Xa nói:
-Sắp tới sa mạc rồi. Lúc nãy, tôi hy vọng sẽ thấy Hồi Đằng ngày trăng sáng. Chà, đi lại ở Âm Giới bao nhiêu năm mà tôi chưa từng thấy trăng mọc lên ở sa mạc này.
-Ngày trăng sáng là sao?
-Người ta nói khi mặt trăng xuất hiện, sa mạc Hồi Đằng sẽ bừng sáng. Truyền thuyết còn kể nếu cả ba mặt trăng cùng xuất hiện, sa mạc sẽ biến thành băng tuyết (*). Tôi không tin truyền thuyết, nhưng cái đầu tiên thì tin vì nó từng xảy ra rồi. Nhưng từ ngày Kim Ngân hỗn loạn, người ta chẳng thấy cảnh ấy nữa.
-Vì sao?
-Mây quá nhiều. Với cả gió cứ thổi khói súng khói đạn về sa mạc, thành ra không bao giờ thấy trăng ở Hồi Đằng.
Vô Phong nghiêng đầu ngó lên trời. Hắn chẳng thấy gì ngoài một màu đen thui, bởi lẽ mây đã che khuất bầu trời, không chừa tí khe hở nào cho ánh sáng lọt qua. Tên tóc đỏ háo hức muốn chứng kiến kỳ cảnh trên sa mạc, nhưng trong không gian tối thùi lùi này đi lại còn khó chứ chưa đợi nhìn hay ngắm. Và nếu mây cứ tiếp tục vần vũ như thế, hắn tin rằng sớm mai sẽ chẳng thể thấy ánh bình minh. Hiện tại nặng nề, tương lai mờ mịt, cảm giác khó chịu lan tràn khắp cơ thể Vô Phong. Nếu chẳng phải nồng độ ưa phiêu lưu khoái mạo hiểm trong máu ở mức cao, hắn đã xin công chúa quay lại Thần Sấm từ lâu.
Chạy thêm một quãng khoảng hai cây số, xe thiết giáp giảm tốc độ rồi dừng lại. Nó đã đến nơi cần phải đến. Nhóm công chúa bèn lục tục xuống xe. Vừa mở cửa, làn hơi lạnh giá như trăm ngàn bó roi quất lên người họ. Vô Phong khựng lại, toàn thân rùng mình trước màn chào hỏi quá đỗi nồng nhiệt của sa mạc Hồi Đằng. Dù đã mặc áo ấm nhưng hắn không dè thời tiết khắc nghiệt đến thế. Gã Mai Hoa im thin thít từ đầu tới giờ bỗng thở ra một hơi khoan khoái:
-Tới Hồi Đằng rồi, dễ chịu quá!
Nhóm công chúa vừa cố làm quen với khí hậu, vừa kiểm tra đồ đạc tư trang. Xong xuôi đâu đấy, họ chính thức rời khỏi xe thiết giáp. Triết Xa nhìn họ và thở dài:
-Tôi chỉ đi được đến đây thôi, mong mọi người thông cảm.
Đáng lý Lục Châu sẽ đáp lời, nhưng vì tính bí mật của chuyến đi, nàng không được lên tiếng. Vô Phong bèn nói hộ công chúa:
-Cảm ơn. Chúc anh may mắn.
-Này anh bạn, nếu thấy ngày trăng sáng ở Hồi Đằng, hãy chụp một kiểu ảnh nhé! – Triết Xa nói với Vô Phong – Tôi rất muốn coi. Nếu quay lại doanh trại 28, cứ hỏi Triết Xa, lái xe lữ đoàn 67, mọi người đều biết tôi. À, dĩ nhiên là trong trường hợp tôi còn sống. Có khi một lát nữa, tôi tan xác cũng nên! À quên, có thể cho tôi biết tên cậu chứ?
-Cứ gọi tôi là “tóc đỏ”. – Vô Phong trả lời.
-Nhớ đấy, tóc đỏ. – Triết Xa cười – Tạm biệt. Vạn Thế phù hộ các vị, chúc may mắn!
Nói rồi Triết Xa đóng cửa xe, rồ ga, quay lại con đường cũ để trở về Vùng An Toàn 28. Vô Phong nghe loáng thoáng anh ta mở bài hát “Tôi đang đi tới cái chết”. Nghĩ tới đây, hắn chợt nhận ra mình chẳng nhớ khuôn mặt anh chàng tài xế nọ. Có lẽ do mặt hắn ám khói đen quá nhiều, do những lo âu… – Vô Phong thầm nhủ. Hắn tự hứa sẽ quay lại Vùng An Toàn 28 tìm Triết Xa ngay sau khi xong việc. Nhưng trước hết, hắn phải tự lo thân mình trong nhiệm vụ đầy nguy hiểm sắp tới.
Nhóm công chúa họp bàn thêm lần nữa trước khi khởi hành. Mai Hoa khởi động một máy chiếu ba chiều nhỏ ngang chiếc bút, tấm bản đồ sa mạc màu xanh dương xuất hiện và lơ lửng giữa không trung. Trên bản đồ có bốn chấm sáng đang tụ lại một chỗ ở phần rìa sa mạc, chính là bốn người bọn họ. Từ đây, họ sẽ đi xuôi theo hướng nam, thẳng hướng đến ngọn Dương Hoa Tụ. Trong đêm nay, họ cần đi càng xa càng tốt vì sáng mai là thời gian mà lũ phiến quân trộm cướp đi kiếm ăn. Mai Hoa nói:
-Tôi đi trước dẫn đường.
-Tôi theo sau. – Công chúa tiếp lời – Vô Phong đi cùng tôi. Còn anh bọc hậu nhé, Chiến Tử?
Chiến Tử gật đầu đồng ý, nhưng Vô Phong lắc đầu:
-Để tôi bọc hậu, thưa công chúa. Cô đi cùng Chiến Tử tốt hơn.
Từ hồi đầu, Vô Phong luôn cố gắng ở gần công chúa mọi lúc mọi nơi, nay hắn lại muốn tách ra, rõ ràng là sự lạ. Ngay cả Lục Châu cũng thấy điều này. Tuy nhiên nàng không để tâm quá lâu, chỉ gật đầu đồng ý:
-Vậy cũng được.
Bàn thảo xong, bốn người lập tức khởi hành. Họ đeo kính mắt nhìn đêm để thấy đường, đồng thời tránh gió bụi. Qua cặp kính, Vô Phong thấy rõ một vùng sa mạc trải dài hút tầm mắt. Bề mặt sa mạc lố nhố những đụn cát cao thấp, xen vào giữa là những đồi cát lớn, những triền cát cùng mặt dốc phẳng lì như được cắt bằng lưỡi dao. Bao giờ mới thoát khỏi vùng đất này? – Vô Phong không biết, nhưng mặt cát lún dưới chân cho biết đây sẽ là cuộc hành trình tốn sức nhất mà hắn từng trải qua.
Tuy vậy, nhóm công chúa không băng qua sa mạc trong đơn độc. Lục Châu mới đi vài bước, chợt nghe thấy bộ đàm của mình vang giọng nói nam giới:
-Chào công chúa Lục Châu, chúng tôi là tổ Ưng Xám vừa dẫn đường cho các vị. Hãy giơ tay lên, chúng tôi cần xác định lại vị trí của cô.
Công chúa ngước lên trời và thấy một chấm đỏ mờ nhấp nháy giữa màn đêm. Đèn hiệu phi thuyền! – Nàng nghĩ, đoạn giơ cánh tay làm dấu hiệu. Tổ Ưng Xám trả lời:
-Chúng tôi thấy cô rồi. Xin tự giới thiệu, chúng tôi là tổ Ưng Xám của doanh trại 28. Theo lệnh phó thống lĩnh Đổ Yên, từ bây giờ, chúng tôi sẽ theo các vị trong suốt cuộc hành trình. Tôi là A1.
Giọng của A1 vừa dứt, một giọng khác tiếp tục, lần này là giọng nữ giới:
-Còn tôi là A2. Chúng tôi sẽ cảnh báo đường đi, hỗ trợ chiến đấu hoặc cung cấp nhu yếu phẩm khi cần. Tuy nhiên, sẽ có lúc chúng tôi phải trở về để tiếp nhiên liệu. Mong các vị hiểu. Hy vọng chúng ta hợp tác tốt.
Lục Châu gật đầu:
-Cảm ơn mọi người. Vạn Thế phù hộ cho chúng ta.
-Cảm ơn, Vạn Thế phù hộ cho cô, công chúa. À… cho bạn đồng hành của cô nữa, xin lỗi, thực tình tôi hơi bối rối! Nhưng làm việc với cô đúng là vinh hạnh lớn cho tôi! – A2 trả lời.
-Chúng ta đang làm việc! – A1 lên tiếng, giọng điệu bức xúc – Làm đúng nhiệm vụ của cô đi.
Tổ Ưng Xám ngắt kết nối. Công chúa không bình luận gì thêm trước việc cô nàng A2 hâm mộ mình thái quá. Trong mắt nàng giờ chỉ có ngọn núi Dương Hoa Tụ. Theo lệnh nàng, cả nhóm xuất phát, bốn con người dấn thân vào bóng tối và di chuyển trên biển cát mênh mông. Dù chẳng biết những gì đang đón lõng ở phía trước, nhưng họ vẫn tiến bước. Mai Hoa đi đầu dẫn đường, tiếp theo là công chúa cùng Chiến Tử, còn Vô Phong đi sau cùng. Ngoài việc cảnh giới tuyến sau, tên tóc đỏ phải làm nhiệm vụ mà đại thánh sứ Tây Minh giao phó. Hắn chăm chú theo dõi Chiến Tử, bàn tay hết đặt lên thân súng lại chuyển sang cán kiếm Bộc Phá. Hắn đang suy nghĩ, đang phân vân.
Nếu phải giết Chiến Tử, hắn nên chọn vũ khí nào?
Vô Phong ngó đồng hồ đeo tay. Mới hai giờ sáng và còn lâu nữa mới đến bình minh.
 
Quyển 3 - Chương 9: Thời đại cũ


Nhóm công chúa đã tiến vào sa mạc với sự hỗ trợ của tổ Ưng Xám. Nhưng Ưng Xám chưa phải là tất cả, Phi Thiên quốc đang vận dụng mọi nguồn lực khả thi để giúp Lục Châu.
Ở đại dương phía bắc Kim Ngân, cách đất liền năm trăm cây số, Thần Sấm đang ẩn thân trên một đảo hoang. Hòn đảo sở hữu những rặng núi cao tựa tường thành bao bọc phi thuyền, ngăn trở mọi cái nhìn từ biển khơi. Nếu có những cặp mắt trên không trung, chúng sẽ chỉ thấy một vùng đất cằn cỗi và chẳng có gì ngoài đá: mọi thể loại đá lớn, đá bé, đá mẹ đá con, đủ sức đập bẹp mọi ý nghĩ tò mò và tọc mạch về hòn đảo. Bởi lẽ Thần Sấm đã khoác lên mình tấm áo tàng hình – một loại công nghệ pha lẫn phép thuật, cho phép con tàu khổng lồ trở nên vô tung vô ảnh. Bởi chiếc áo đặc biệt này, Thần Sấm chưa bao giờ bị phát hiện và cũng chưa người ngoại quốc nào trông thấy hình dáng thực sự của nó.
Hòn đảo im lìm say ngủ giữa đại dương mênh mông, mặc kệ sóng biển vỗ ì oạp dưới chân. Nó đã ngủ ở đây vạn năm và sẽ tiếp tục ngủ thêm vạn năm nữa. Nhưng Thần Sấm không nhiễm tính lười biếng đó. Bên trong phòng điều khiển phi thuyền, hàng chục nhân viên đang hoạt động hết công suất. Qua những màn hình ba chiều màu xanh dương, các nhân viên liên tục cập nhật tin tình báo từ Kim Ngân, sau đó lại nhận tin từ Phi Thiên, tổng hợp chúng rồi chuyển cho thuyền trưởng Nhất Long. Ở một góc khác, những dữ liệu về đám phiến quân, trộm cướp và Đầu Sói trong sa mạc Hồi Đằng được liệt kê, sau đó chuyển cho thuyền trưởng Nhất Long. Còn tại khu vực chính của phòng điều khiển, những hình ảnh trực tiếp về nhóm công chúa được theo dõi liên tục, tình trạng từng người ra sao, nhiệt độ thời tiết thế nào, tất cả được báo cáo cho thuyền trưởng Nhất Long. Và vị thuyền trưởng đáng kính thấy bụng mình đang no kễnh vì tin tức, thể trọng như tăng vài ký. Thế nên ngài chẳng đoái hoài tới bữa khuya, dù nó được dọn ra từ trước đó nửa tiếng.
Nhất Long cùng nhân viên làm việc từ thời điểm Lục Châu tiến vào Kim Ngân tới khi họ rời khỏi Vùng An Toàn 28, cả thảy là tám tiếng đồng hồ. Các nhân viên đã đổi ca hai, còn thuyền trưởng vẫn chưa nghỉ vì chẳng ai có thể thay ngài. Suốt hôm ấy, Nhất Long không chăm chút ria mép như thường lệ, lại bù đầu với hàng đống giấy tờ tài liệu, thành thử bộ ria dần biến thành hình chổi sể. May mắn thay, đến hai giờ sáng, một tin tức tốt lành khiến vị thuyền trưởng phấn chấn hơn nhiều:
-Nhóm công chúa đã vào sa mạc, thưa thuyền trưởng. – Một nhân viên thông báo – Họ đều ổn. Trong bán kính năm mươi cây số không xuất hiện đối tượng đáng nghi nào.
Nhất Long nheo mắt nhìn màn ảnh ba chiều. Nhờ máy quay đêm của phi thuyền Ưng Xám, ngài thấy rõ bốn cái bóng nhỏ xíu đang bộ hành trên sa mạc. Bước đầu tiên trong chiến dịch truy bắt Quỷ Vương suôn sẻ, ngài thuyền trưởng thở phào rồi đưa ngón tay chỉnh trang bộ ria và trở lại danh hiệu “quý ông bàn chải”, thay vì “đức ngài chổi sể”. Tâm trí ngài bớt nặng nề hơn và có đủ khoảng trống cho những lời khẩn cầu tha thiết từ cái dạ dày. Đói! – Ngài tự nhủ, đoạn quay sang bữa khuya của mình rồi vỗ tay nói lớn:
-Họp! Họp! Anh này, thu thập cho tôi tất cả thông tin liên quan! Anh này, nối liên lạc với hoàng đế! Cô này, gọi đội trưởng Thổ Hành tới đây, khoan, gọi thêm cả ngài đại thánh sứ nữa! Khẩn trương, khẩn trương nào!
Các nhân viên có năm phút để hoàn tất những yêu cầu của Nhất Long. Cùng thời gian ấy, ngài thuyền trưởng vội vàng lót dạ mấy chiếc bánh quy cùng nước trà lá “thiết mộc” đắng nghét. Ngon! – Ngài gật gù.
Sau năm phút, Tây Minh, Hắc Hùng, các cố vấn và chuyên viên có mặt, những hồ sơ cần thiết được chuẩn bị đầy đủ. Ngài thuyền trưởng nắn bộ ria thêm lần nữa, vuốt quần áo thật phẳng phiu rồi kiểm tra đôi bốt cao cổ còn bóng loáng hay không. Khi thấy bản thân đủ đứng đắn, Nhất Long mở máy chiếu bắt đầu cuộc họp. Từ thinh không, ảnh chiếu của Bạch Dương đệ thập xuất hiện. Ông ngồi trên Ngai Thép, gương mặt cương nghị, ánh mắt già nua nhưng đầy tỉnh táo dù cái tuổi của ông không cho phép thức tới hai giờ sáng. Từ con người ấy toát ra những phẩm chất chỉ có ở dòng dõi hoàng đế Phi Thiên, khiến mọi người trong phòng điều khiển tự động đặt tay lên ngực và cúi đầu trước ông trong kính nể. Nhất Long là một trong số đó, dù đã gặp đệ thập không ít lần:
-Hoàng đế.
Đệ thập gật đầu, khoát tay ra hiệu mọi người tiếp tục công việc. Nhất Long mở máy chiếu ba chiều, một loạt thước phim, ảnh chụp và tài liệu hiện lên, lơ lửng giữa không trung. Ngài thuyền trưởng đẩy một màn hình ảo về phía hoàng đế rồi nói:
-Công chúa đã vào sa mạc Hồi Đằng, thưa ngài.
Trên màn hình, Đệ thập thấy rõ bốn cái chấm đen nhỏ xíu đang di chuyển trên miền cát rộng lớn. Dù không biết trong bốn cái chấm ấy đâu là Lục Châu, song ông chăm chú nhìn như thể đang thấy rõ gương mặt con gái mình. Tuy vậy, tình cảm người cha trong ông nhanh chóng nhường chỗ cho tư cách hoàng đế. Đệ thập hỏi Nhất Long:
-Bọn họ không gặp rắc rối gì chứ?
-Không, thưa ngài. Chỉ có một chi tiết nho nhỏ là người dẫn đường vào Vùng 28 đã xin chữ ký công chúa, hiện Đại Hội Đồng đang theo dõi anh ta. Hiện chưa có báo cáo nào cho thấy có phiến quân hay trộm cướp vào sa mạc, tôi nghĩ từ giờ tới sáng, nhóm truy tìm sẽ an toàn.
Hoàng đế gật gù tỏ ý hài lòng. Ông quay sang Hắc Hùng:
-Thú đã tới Âm Giới chưa? Ta chưa nghe được tin tức nào về anh ta cả.
-Đã tới, thưa ngài. – Đội trưởng Thổ Hành đáp – Nhưng có lẽ phải một, hai ngày nữa, anh ta mới bắt kịp công chúa. Tuy vậy, khi hoạt động ở miền đông nam Âm Giới, anh ta thu được một tin rất quan trọng: Đạn Đạo, hay còn được biết với biệt danh Lục Ổ Xoay, một trong bảy người mạnh nhất thế giới làm Đầu Sói ở sa mạc Hồi Đằng. Ông ta từng cộng tác với Phi Thiên, quan hệ khá tốt, tôi nghĩ nếu nhờ cậy, ông ta chắc chắn sẽ giúp.
Đệ thập trầm ngâm một chút, sau nói:
-Ta từng gặp Đạn Đạo, tay này khá quái nhưng không phải người xấu. truyện copy từ .
-Vấn đề là chúng ta không biết Đạn Đạo ở đâu, thưa ngài. Mặc dù có bản doanh ở Hồi Đằng nhưng ông ta đi khắp nơi, hầu như không ai biết ông ta đi đâu hay làm việc gì.
-Hãy tiếp tục tìm kiếm Đạn Đạo, nhưng đừng trông chờ ở hắn. – Đệ thập tiếp lời – Hắn là Đầu Sói, sống ngoài vòng pháp luật. Nhiều khả năng hắn sẽ khước từ chúng ta.
Một người trong ban cố vấn lên tiếng:
-Liệu chúng ta có thể trả tiền thuê ông ta không, thưa ngài? Các Đầu Sói vẫn thường làm công việc bảo hộ nếu chúng ta trả tiền cho họ.
Hoàng đế lắc đầu:
-Anh bạn không hiểu rồi! Các Đầu Sói thông thường là thế, nhưng bảy người mạnh nhất thế giới không bao giờ bị mua chuộc. Họ sẽ làm nếu thấy hứng thú, sẽ ra đi khi thấy chán. Bất Vọng là trường hợp đặc biệt vì hắn xuất thân từ quân đội Phi Thiên. Nhưng lần trước, chẳng phải người của ta mạo hiểm lắm mới kéo được Bất Vọng ra khỏi Quận 4 sao?
-Là tôi thiếu hiểu biết, thưa ngài. – Người nọ đáp.
Dù vậy, Đệ thập vẫn để ngỏ khả năng hợp tác với Đạn Đạo. Hiện thời Bất Vọng đang bị giam ở Đại Hội Đồng và gần như chắc chắn không thể tới Kim Ngân. Nếu có gã “Lục Ổ Xoay” đó giúp đỡ, hoàng đế sẽ yên tâm hơn về công chúa.
Nhưng Đạn Đạo không phải vấn đề duy nhất. Ở Hồi Đằng còn nhiều Đầu Sói khác và phần đông bọn họ chẳng có lý lịch dễ nghe và thân thiện như Đạn Đạo. Các chuyên viên giúp Nhất Long sắp xếp các tư liệu thành hệ thống, còn ngài thuyền trưởng giới thiệu:
-Ở Hồi Đằng có hai mươi tư (24) Đầu Sói. Nhưng thực chất chỉ có ba Đầu Sói mạnh nhất tranh đấu với nhau, những kẻ khác đứng ngoài vòng chiến hoặc quy phục bọn chúng.
Bản đồ sa mạc Hồi Đằng hiện lên giữa không trung, Nhất Long bèn kéo nó ra giữa phòng rồi phóng to vùng tây nam sa mạc. Số liệu thống kê cho thấy đây là khu vực rộng gần bốn ngàn ki-lô-mét vuông (4,000 km2), có hơn sáu mươi (60) thị trấn lớn nhỏ nằm rải rác, số lượng nhân khẩu không rõ vì chẳng ai dám điều tra dân số ở chốn nguy hiểm này. Trên bản đồ, vùng đất bị chia thành ba mảng màu khác nhau: đỏ, vàng, xanh; mỗi Đầu Sói chiếm cứ một mảng. Nhất Long bắt đầu với vùng đất màu đỏ, những thông số liên quan cũng dần hiện lên. Chủ nhân vùng đất này là một gã Đầu Sói có cái đầu trọc lóc, bộ mặt sạm nắng to bè chiều ngang cùng lớp da nhờn nhẫy trông như cái bánh tráng tưới nhiều dầu ăn, thân hình ục ịch ngân ngấn những mỡ những thịt ở bắp tay, bắp chân và cái bụng to thồi lồi che lấp phần thắt lưng. Gã là hình mẫu của một xã hội thừa mứa và hưởng thụ, không phải miền đất Kim Ngân đói kém đầy bạo loạn. Nhất Long chỉ vào ảnh gã, nói:
-Đạt Ba, thủ lĩnh vùng này, một Đầu Sói, một kiếm sĩ. Giá truy nã: một trăm (100) thùng vàng nếu giết chết, bốn trăm (400) thùng vàng nếu bắt sống. Một tên tội phạm đến từ Đông Thổ, từng có tiền án ở Bắc Thần quốc, Xích Quỷ quốc, Hoàn Đan quốc… Một gã sinh trưởng nhờ nghề đâm chém mướn, sau tham gia vài tổ chức đánh thuê, cuối cùng chạy về Kim Ngân làm Đầu Sói. Ở Hồi Đằng, gã “quậy” rất mạnh, cướp bóc cả hàng của liên quân. Một tay khá.
Ngài Đệ thập giơ tay:
-Xin phép ngắt lời. Ta nhớ Bất Vọng từng bị treo giải là hai trăm (200) thùng vàng nếu giết chết, năm mươi (50) thùng kim cương nếu bắt sống. Không lẽ giá giết chết của gã Đạt Ba này bằng nửa Bất Vọng?
-Thực ra cái giá đó của Bất Vọng cách đây gần hai mươi năm rồi, thưa hoàng đế. – Nhất Long nói – Tính theo vật giá bây giờ phải gấp mười lần lên. Nhưng sự kiện ấy quá lâu rồi. Giờ không ai dám trả giá cho cái đầu Bất Vọng nữa vì chẳng gã nào động được lông chân hắn cả. Các vị hiểu chứ? Ông bạn chúng ta vô giá!
Mọi người cười rộ trước lời đùa cợt của Nhất Long. Ngài thuyền trưởng tiếp tục công việc với tấm bản đồ, lần này là vùng đất màu xanh. Gã Đầu Sói kiểm soát nơi đây là một tay cao lênh khênh nhưng có cảm giác không vững chãi, tựa ngọn cây luôn đung đưa trước gió. Gã bó mình trong chiếc áo choàng màu cát, khăn che mặt kín mít chỉ hở ra cặp mắt kỳ dị với đồng tử màu trắng, trong khi phần củng mạc lại có màu đen. Nhất Long phóng to ảnh gã đoạn tiếp lời:
-Quỷ Nhãn, à… cái tên dễ hiểu quá hả? Không biết tại sao hắn có đôi mắt như thế, không có thông tin gì cả. Quay lại vấn đề. Gã này là một kiếm sĩ, một Đầu Sói. Một tên tội phạm đến từ Bạch Tu quốc, cái nước buôn bán trẻ con, mọi người chắc không lạ (*). Trước đây hắn không phải tội phạm mà trực thuộc quân đội Bạch Tu, sau chuyển sang nghề kiếm sĩ tự do. Hắn từng làm vận chuyển, vệ sĩ, vân vân… à, đáng lưu ý là hắn từng làm Hộ vệ thánh sứ, dạng hợp đồng. Giá truy nã: bốn trăm (400) thùng vàng nếu giết chết, mười (10) thùng kim cương nếu bắt sống. Một gã đáng giá và vô cùng nguy hiểm. Nhóm công chúa nên tránh xa tên này.
Hoàng đế nhìn ảnh hai gã Đầu Sói, lòng âm thầm đánh giá độ nguy hiểm của chúng với con gái mình. Trong khi đó, Nhất Long đang giới thiệu gã Đầu Sói cuối cùng – chủ nhân vùng đất màu xanh:
-Hiệp Dung, một pháp sư người Bắc Thần quốc. Gã này từng làm công tác đào tạo pháp sư cho chính phủ Bắc Thần, sau bị bắt vì dính líu tham nhũng và lạm dụng tình dục. Ra tù, gã chuyển qua hoạt động xã hội đen và nắm quyền lãnh đạo một băng đảng lớn. Vì rắc rối chuyện băng đảng, Hiệp Dung lánh nạn nhiều nơi, cuối cùng phải về Kim Ngân. Giá truy nã: ba trăm (300) thùng vàng nếu giết chết, nhưng tới ba mươi (30) thùng kim cương nếu bắt sống vì chính phủ Bắc Thần muốn dẫn độ gã về nước.
Gã Đầu Sói tên Hiệp Dung có khuôn mặt dài thuỗn cùng đôi mắt vàng ệch. Da mặt gã căng bóng, sống mũi thẳng tắp, chiếc cằm vuông vức một cách hoàn hảo. Nếu khoác lên mình một bộ trang phục lịch lãm thay vì đắp một đống áo quần rách rưới lên người như trong ảnh, Hiệp Dung hẳn là một quý ông hấp dẫn. Nhưng gã là dân Đông Thổ chính gốc, không có dòng máu lai và để sở hữu gương mặt đặc trưng đó của người Hoa Thổ, gã đã phẫu thuật thẩm mỹ, vừa làm đẹp vừa dễ lẩn trốn, lại tiện đường thu hút phụ nữ. Đệ thập nhìn ảnh của Hiệp Dung, sau lại quay sang Đạt Ba và Quỷ Nhãn, trong lòng cân đo đong đếm. Ông hỏi:
-Đám này so với Hộ vệ thánh sứ của ta thì thế nào?
Nhất Long trả lời:
-Không thể nói chính xác, thưa ngài. Bọn Đầu Sói luôn giữ kín sức mạnh bản thân, thế chúng ta không thể biết thực lực của chúng. Nhưng một điều rõ ràng là về nhân lực, chúng mạnh hơn nhóm công chúa. Kể cả khi Thú gia nhập đoàn công chúa, chúng vẫn mạnh hơn.
Để tiếp cận Dương Hoa Tụ, nhóm Lục Châu phải băng qua lãnh địa của Đạt Ba và một phần địa bàn của Quỷ Nhãn. Nhưng điều này không có nghĩa Hiệp Dung sẽ nằm ngoài vòng chiến. Nếu biết được một nhân vật tên gọi “công chúa Lục Châu” hay “thánh sứ Lục Châu” tới đây, toàn bộ sa mạc sẽ dậy sóng. Ba gã Đầu Sói trên đều thuộc dạng trộm cướp, chúng sẽ săn đuổi công chúa hòng trao đổi tiền chuộc. Thậm chí những Đầu Sói từ nơi khác cũng đến Hồi Đằng hòng tranh giành món mồi béo bở này.

-Chúng ta đã cài điệp viên vào các thị trấn… – Nhất Long chỉ lên bản đồ – …khoảng tám đến mười người. Họ sẽ giúp nhóm công chúa tránh va chạm với Đầu Sói. Nhưng trong tình huống xấu nhất, chúng tôi sẽ đưa toàn bộ đội Thổ Hành vào sa mạc.
Trước nay các nước luôn giới hạn số lượng thành viên Thổ Hành vào lãnh thổ của họ. Tuy nhiên, nếu mức độ nguy hiểm với nhóm công chúa vượt ngưỡng cho phép, Phi Thiên sẽ bất chấp mọi thứ, kể cả mối quan hệ ngoại giao. Ở đây không hề có tình cảm gia đình của hoàng đế mà bởi tính mạng công chúa hết sức quan trọng. Năm sau có kỳ thi Tổng Lãnh và công chúa là thánh sứ Phi Thiên duy nhất đủ sức tranh chấp vị trí ấy. Còn về lâu dài, Lục Châu là một trong hai người có khả năng thừa kế ngai vàng và nội bộ Phi Thiên sẽ rối loạn nếu nàng có bất cứ mệnh hệ gì.
Tuy nhiên, Phi Thiên không đơn độc. Lần này nhiều quốc gia thuộc khối liên minh và cả những nước ngoài liên minh cũng chung tay giúp đỡ. Họ không thể làm ngơ mãi trước cuộc vận động không ngừng nghỉ của Đệ thập ở Đại Hội Đồng. Song nguyên nhân chủ yếu khiến họ thay đổi thái độ là sự kiện trưởng lão Hạ Đông bị hạ sát và tổ chức Xích Tuyết trỗi dậy ngày càng mạnh, các quốc gia hiểu rằng họ đều có phần trong cuộc truy tìm Quỷ Vương. Dù chẳng ai rõ sức mạnh Quỷ Vương gây ra hậu quả gì và cũng không mấy người tin vào những truyền thuyết xa xưa, nhưng tất cả đều hình dung ra viễn cảnh thế giới hỗn loạn nếu có kẻ biết sử dụng nguồn sức mạnh ấy. Đệ thập nói:
-Có mười nước đã hứa hỗ trợ chúng ta, họ vào Kim Ngân chưa?
-Tới rồi, thưa ngài. Họ đang ở các Vùng An Toàn xung quanh sa mạc. – Nhất Long đáp – Nhưng họ chỉ giúp đỡ khi chúng ta gặp rắc rối. Dù sao đây cũng là nguồn hỗ trợ đáng kể, thưa ngài. Tôi không mong phải đem đội Thổ Hành vào Âm Giới.
-Ta nghĩ nên đề nghị họ tới Dương Hoa Tụ truy bắt Ác Lạc Điểu. Nhiều hướng tấn công sẽ làm phân tán sự chú ý của lũ Đầu Sói, khả năng thành công cũng cao hơn.
Một người trong ban cố vấn lên tiếng:
-Ngài nên cân nhắc, thưa hoàng đế. Công chúa đang mất rất nhiều điểm trong mắt hội đồng Thánh Vực. Ác Lạc Điểu là cơ hội cuối cùng cho công chúa lấy lại lợi thế trước khi kỳ thi Tổng Lãnh diễn ra. Tôi nghe nói hoàng tử Vi Hàn của Lưu Vân cũng đến Âm Giới, khéo giờ này gã đang trên đường tới Dương Hoa Tụ cũng nên.
Đệ thập trầm ngâm:
-Lưu Vân không thuộc liên minh của chúng ta… Vi Hàn mà bắt được Ác Lạc Điểu cũng không phải là chuyện lớn lắm…
-Nhưng không chỉ có Vi Hàn, thưa ngài. – Vị cố vấn nói – Thánh sứ mười nước đang ở đây và ai cũng mong muốn chiếm hữu Ác Lạc Điểu. Nếu để vuột mất nó, tôi nghĩ trong kỳ thi năm sau, dẫu công chúa thắng tất cả trận đấu thì cơ hội để cô ấy trở thành Tổng Lãnh rất thấp.
Lời của người cố vấn đúng với tình hình thực tế nên không ai phản bác. Mọi người trong phòng liền hướng ánh mắt về phía hoàng đế và chờ đợi ông ra quyết định. Đệ thập chống cằm, những dòng suy nghĩ trong đầu ông chảy dồn xuống những nếp nhăn bờ trán rồi đọng lại trên đôi mắt già nua đương khép hờ. Bản chất của ngôi vị hoàng đế là quyết định, là lựa chọn một giải pháp dễ nhất trong những giải pháp khó nhất. Nhưng giờ đây lựa chọn nào cũng khó như nhau, Đệ thập thực cảm thấy ngộp thở. Ông nhìn cả đám một lượt rồi dừng lại trước người im lặng từ đầu cuộc họp đến giờ – đại thánh sứ Tây Minh, sau nói:
-Đại thánh sứ ở lại với ta, mấy người tiếp tục làm việc đi.
Đám đông lập tức giải tán rồi quay lại với công việc chuyên môn. Đợi ai nấy đi hết, Tây Minh liền tiến lên phía trước, mặt đối mặt hoàng đế, miệng lầm rầm chú ngữ. Khi đại thánh sứ đọc hết chú ngữ, từ khoảng không giữa ngài và hoàng đế xuất hiện một khối cầu nhỏ. Khối cầu nở rộng, bao bọc cả Đệ thập lẫn Tây Minh, tạo thành một vùng không gian biệt lập trong căn phòng điều khiển phi thuyền. Người ngoài trông vào sẽ chỉ thấy hai cái bóng mờ mờ tựa sương khói, hoàn toàn không thể nghe thấy họ làm gì hay bàn luận điều chi. Còn nếu đứng từ trong khối cầu, cảnh vật bên ngoài vẫn rõ ràng nhưng lại câm lặng và không màu sắc. Biệt Giới Niệm là tên loại phép thuật này.
Đệ thập chưa vội nói ngay mà hớp ngụm trà pha lá “thiết mộc” – một thói quen khó bỏ của ông. Chờ hoàng đế uống xong, Tây Minh lên tiếng:
-Sức khỏe của ngài không tốt, đừng nên lạm dụng “thiết mộc”.
-Không sao. – Đệ thập xua tay – Vào việc đi. Ông thấy sao? Có nên gọi thánh sứ của mười nước kia cùng tham gia truy bắt Quỷ Vương?
Đại thánh sứ đưa ngón tay rờ rẫm đỉnh đầu. Và sau một hồi, có vẻ Tây Minh đã tìm thấy tia sáng trong mái tóc bạc trắng của mình, ngài nói:
-Tôi nghĩ là không nên, thưa ngài.
-Ông lo lắng cho cuộc thi Tổng Lãnh? – Đệ thập hỏi.
-Hoàn toàn không, thưa ngài. Nếu được, tôi sẽ khuyên Lục Châu bỏ quách kỳ thi đó. Tổng Lãnh là một chức danh, không hơn. Chính công chúa mới là vấn đề làm tôi lo lắng. Nếu thánh sứ nước khác cùng tham gia tìm kiếm, Lục Châu tự hiểu rằng nó phải tranh giành Ác Lạc Điểu để tạo lợi thế cho kỳ thi năm sau. Con gái ngài rất thông minh, hẳn rồi! Nhưng nó là đứa học trò cứng đầu nhất tôi từng biết. Con bé sẽ tìm mọi cách vừa hoàn thành cả nhiệm vụ bắt Quỷ Vương lẫn việc giữ thể diện cho quốc gia trong cuộc thi Tổng Lãnh. Quá nhiều mục tiêu khiến Lục Châu rối trí. Tôi thấy không nên tạo áp lực với con bé nữa.
-Ông thực sự rất hiểu con bé. – Hoàng đế nói – Ta thấy ông mới xứng là cha nó, không phải ta.
-Đó là trách nhiệm của tôi, thưa ngài.
Hoàng đế cúi đầu suy tính thêm chút nữa rồi nói:
-Vậy cứ làm theo ý ông. Còn chuyện Chiến Tử? Hắn có biểu hiện gì lạ không?
-Không. Nhưng tôi đã cử Vô Phong giám sát hắn. Gã tóc đỏ này không mạnh lắm, nhưng gã có thể vì Lục Châu mà làm tất cả. Đôi khi những thằng trẻ ranh hám gái thế này lại hữu dụng đấy chứ?
Đệ thập cười:
-Phải rồi, cái gã đó vốn là như thế.
-Xin lỗi, tôi không hiểu lắm?! Ý ngài là… – Tây Minh nghi hoặc.
Hoàng đế xua tay như thể mình vừa phát ngôn một cách hàm hồ. Ông tựa lưng vào Ngai Thép rồi thở dài. Trong tiếng thở dài ấy, Tây Minh cảm nhận rõ những dư vị nuối tiếc, ông đoán hoàng đế đang nghĩ một thời xa xăm của quá khứ. Đệ thập bóp trán như cố xua tan những phiền muộn ra khỏi tâm trí song không thể. Ông nhấp ngụm trà rồi nói:
-Chà, giá như dòng họ Chiến Tử vẫn còn ở đây. Họ sẽ cho chúng ta những lời khuyên xác đáng. Hội đồng pháp quan có mười người, nhưng hơn hai mươi năm rồi mà ta vẫn chưa tìm được người thế chỗ của dòng họ Chiến Tử.
-Chín pháp quan còn lại vẫn tốt, thưa ngài. Còn có Trần Độ nữa.
Hoàng đế lắc đầu cười:
-Một mình Trần Độ không thể cáng đáng hết. Tay đó già hơn ta chục tuổi, bệnh tật không ít, chắc cũng không trụ được lâu hơn nữa. Thời đại của chúng ta sắp hết rồi.
Tây Minh ngạc nhiên:
-Ngài chưa bao giờ như thế! Ngài đang lo lắng điều gì?
-Nếu Quỷ Vương không phải Ác Lạc Điểu mà là ta, ông sẽ xử lý thế nào?
Lần này tới lượt đại thánh sứ khó nghĩ. Nổi danh thông thái nhưng ngay bây giờ, ngay thời điểm này, Tây Minh khó lòng đưa ra nhận định chính xác. Thông tin từ Xích Quỷ cho biết ngôi mộ của Đệ thập trên đỉnh Hoành Sơn đã không còn những làn hắc khí Quỷ Vương (**). Nhưng nó thể hiện Ác Lạc Điểu làm vấy bẩn ngôi mộ hay chính ngôi mộ tự sản sinh luồng hắc khí đó? Nếu là khả năng thứ hai thì Bạch Dương đệ thập sẽ có kết cục giống thằng bé Oa Lạc thuở nào.
Ngay lúc ấy, lần đầu tiên sau nhiều năm, Tây Minh thầm cầu viện đấng toàn năng Vạn Thế. Sẽ có lúc thời đại cũ lụi tàn, thời đại mới thổi đến, nhưng không phải theo kịch bản này. Nếu Bạch Dương đệ thập ra đi trong tư thế của một ngọn nến tắt phụt, bóng đêm sẽ tràn tới Phi Thiên và Tây Minh sợ rằng viễn cảnh của thời đại mới sẽ méo mó hơn bao giờ hết. Ngài đại thánh sứ nói:
-Chưa thể nói trước điều gì. Chúng ta nên đợi tin tức từ Lục Châu, thưa ngài.
-Hy vọng là tin tốt. – Đệ thập cười – Ta chỉ nói với ông vậy thôi. Tạm biệt.
Ảnh chiếu của hoàng đế biến mất. Đại thánh sứ thu lại phép Biệt Giới Niệm, không gian làm việc khẩn trương của phòng điều khiển phi thuyền lập tức lấp đầy đôi tai và đôi mắt ngài. Tây Minh nhìn lên màn hình ba chiều, trong lòng như có lửa đốt. Ông muốn Lục Châu tìm thấy Ác Lạc Điểu càng sớm càng tốt.
Nhưng cuộc hành trình của công chúa mới bắt đầu. Lúc này mới ba giờ sáng và còn lâu nữa mới đến bình minh.

(*) Bạch Tu quốc từng được đề cập trong Quyển 2 – Chương 38
(**) trên đỉnh Hoành Sơn có mộ phần của Bạch Dương đệ thập, xem lại Quyển 2 – Chương 60, 63
 
Quyển 3 - Chương 10: Hồi Đằng Cô Mộ


Sa mạc Hồi Đằng như một đứa con thừa hưởng toàn bộ tính cách từ người cha Kim Ngân. Nó quạu quọ, tỏ ra khó chịu với bất cứ ai viếng thăm mình, luôn tìm cách xua đuổi họ bằng những triền cát lún sụt ngốn tới cổ chân hay vô số cung đường dài đằng đẵng bào mòn sức lực. Bóng tối cũng hùa theo sa mạc, nó bốc cát từ những dải đồi xa xăm phía đông và thổi chúng bằng cơn gió lạnh buốt. Xứ sở lạnh lẽo hoang vu này là chốn lý tưởng để rút cạn niềm vui trong mọi trái tim lạc quan nhất. Chưa cần thiếu lương thực hay nước uống, nội cái dáng dấp vô hình mà khổng lồ của đêm đen nơi đây cũng đủ đánh gục con người, vùi thể xác họ, chôn tâm trí họ dưới tầng cát sâu nhất. Bi hài thay, cuốn “Tâm Mộng thế giới – kiến thức căn bản” mô tả mỗi lần trăng lên, Hồi Đằng lại bừng sáng, cát lấp lánh tựa vụn kim cương, cả sa mạc như vị nữ hoàng đẹp lộng lẫy. Nhưng đó là câu chuyện quá khứ. Sau hơn năm mươi năm nội chiến, vị nữ hoàng trở thành mụ già xấu xí, bó mình trong chiếc áo đen và luôn thở ra những lời lẽ cay nghiệt.
Trước màn tiếp đãi thiếu thịnh tình của Hồi Đằng, nhóm công chúa vẫn tiếp tục bước. Cơn mệt mỏi, cơn khát, cơn đói bắt đầu xâm lấn khắp cơ thể, song chừng ấy không khiến họ dừng chân. Quãng đường tính từ đầu sa mạc tới ngọn Dương Hoa Tụ dài gần bốn trăm (400) cây số, nếu cho rằng Ác Lạc Điểu cần khoảng ba tuần hồi phục thì mỗi ngày nhóm Lục Châu phải đi hai mươi (20) cây số. Lý thuyết là vậy song trên thực tế, nhóm bốn người nên đi xa hết mức có thể, bởi chẳng ai biết trong ba tuần sẽ có biến cố gì. Họ có thể tránh Đầu Sói nhưng nhiều khả năng sẽ chạm trán bọn trộm cướp. Do vậy càng đi được xa bao nhiêu, họ càng dư thời gian giải quyết rắc rối bấy nhiêu.
Nhóm công chúa đã đi được gần mười cây số, hiện giờ đang băng qua một triền cát lớn. Triền cát cao hơn bề mặt sa mạc khoảng năm sáu mét, trải dài năm cây số theo hướng tây nam và có hai mặt dốc: dốc bên phải phẳng lì, độ nghiêng khá lớn trong khi dốc bên trái thoải hơn nhưng lồi lõm hơn. Đường trên triền cát khá lún, mỗi bước đi là mỗi lần cát ngập tới cổ chân, tốn sức vô cùng. Nhưng đây là lựa chọn thuận lợi nhất dành cho nhóm công chúa. Phía dưới mặt dốc bên trái triền cát, một vùng toàn cung đồi chạy ngang dọc tán loạn, tựa tường thành tự nhiên ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài, hầu như không có lối đi khả dĩ. Còn bên cạnh mặt dốc bên phải là vương quốc của hằng sa số gò cát mọc lố nhố cao quá đầu người; lần đầu thấy chúng, Vô Phong và Lục Châu chợt nhớ về ký ức kinh hoàng ở “đất chết” đất Lạc Việt. Đứng trước hai khu vực kể trên, bọn họ buộc phải bộ hành qua triền cát. Chốc chốc, từng cơn gió từ đằng đông ào ạt vượt qua dãy đồi táp vào bốn người bộ hành, lấp hết những dấu chân của họ. Gió thổi mạnh như muốn ném họ ra khỏi con đường, thỉnh thoảng rít lên tràng âm thanh “U… u…” rợn tóc gáy, tưởng chừng có tiếng khóc ai oán quẩn quanh. Đừng bảo lại có một “đất chết” khác nhé? – Vô Phong thầm nhủ.
Suy nghĩ vớ vẩn ấy không tồn tại lâu trong đầu gã tóc đỏ. Bị gió buốt vỗ mặt liên tục, lại thêm nhiệm vụ giám sát Chiến Tử, hắn phải trở về hiện thực khắc nghiệt của sa mạc thay vì nấn ná với suy tưởng. Nhìn công chúa chán, hắn lại quay sang theo dõi Chiến Tử, thâu tóm mọi hành vi của gã bằng trí nhớ. Nhưng đây không phải công việc mà hắn ưa, đằng thẳng ra là căm thù. Vốn thích tự do, Vô Phong ghét chuyện mình bị soi mói lẫn soi mói người khác. Phiền nỗi hắn chẳng sửa nổi cố tật mồm đi trước suy nghĩ cất bước theo sau. Chỉ vì đại thánh sứ Tây Minh nhắc đến “công chúa”, hắn lỡ há miệng mắc quai, giờ phải lãnh thứ trách nhiệm chết tiệt này. Tên tóc đỏ thấy mình đang trở thành một con cú vọ, một Mai Hoa thứ hai. Cái miệng hại cái thân mà! – Hắn thở dài.
Nếu cứ chăm chăm công việc giám sát nhàm chán, Vô Phong đã lăn ra ngáp ngáp từ lâu. May mắn cho gã tóc đỏ, hắn vẫn còn một thứ vừa để tiêu khiển vừa tiện việc luyện tập: Phong kỹ. Không cần phải mang một hòn sỏi nhỏ như lúc trước, giờ đây hắn có cát – đống tài nguyên vô tận của sa mạc Hồi Đằng. Bằng Phong kỹ, hắn “bốc” cát từ dưới chân rồi điều khiển chúng bay vòng quanh cánh tay mình. Nếu có trẻ con ở đây, chẳng hạn như Liệt Trúc, con bé sẽ trố mắt ngắm nhìn không biết chán. Nhưng bản thân Vô Phong không hài lòng. Mỗi lần thi triển Phong kỹ, dòng cát bị khựng lại, quần tụ thành khối lớn một lúc lâu, sau mới tiếp tục chuyển động – cứng nhắc giật cục hệt một đoàn tàu hỏng hóc động cơ, chẳng hề linh hoạt thanh thoát như hắn mong đợi.
Phong kỹ là loại bí kỹ cho phép nâng ngoại vật, nguyên tắc khá đơn giản: dùng gió tạo ra một lực đẩy lớn hơn trọng lượng ngoại vật. Ví dụ để nâng một hòn đá bằng Phong kỹ, Vô Phong cần tập hợp gió tạo lực đẩy vào phần dưới hòn đá. Nếu hắn tạo một lực đẩy mạnh tác động vào hòn đá theo góc bốn mươi lăm độ từ dưới lên, nó sẽ văng đi như thể có người ném, lực đẩy càng mạnh, tốc độ văng càng lớn, lực đẩy tác động từ chiều nào, đá văng theo chiều ấy. Mở rộng nguyên lý, nếu tạo lực đẩy vào vũ khí, tốc độ đòn đánh sẽ tăng lên. Vô Phong giác ngộ kỹ thuật này trên đường tới Hoành Sơn, mà đường kiếm xô đổ giới hạn mười ba mét một giây (13m/s) chính là thành quả. Mặc dù chưa thành thục, cũng chưa thể tái lập đường kiếm xuất thần ấy nhưng hắn đã nắm được nguyên lý cơ bản.
Tuy nhiên điều khiển ngoại vật di chuyển theo ý muốn phức tạp hơn thế, cần nhiều lực khác nhau thay vì chỉ một lực đẩy tác động ngoại vật, lại cần cả sự tương tác qua lại giữa các lực đẩy. Chẳng hạn để điều khiển một hòn đá bay lượn trong không trung, Vô Phong cần tạo nhiều lực đẩy tác động vào nó, đồng thời vẫn phải duy trì lực đẩy từ bên dưới và nếu mất lực này, hòn đá sẽ rơi. Lý thuyết khó là vậy, thực hành còn khó gấp mười. Dù rất cố gắng nhưng dòng cát trên tay gã tóc đỏ đang di chuyển theo kiểu bị cưỡng bức, hoàn toàn thiếu tính tự nhiên – tính chất căn bản nhất của Phong kỹ.
Gió buốt từ bóng tối quất lên người Vô Phong, lôi hắn ra khỏi thế giới của bí kỹ. Tên tóc đỏ giật mình, vội vàng nhìn về phía công chúa rồi thở phào khi thấy nàng vẫn ổn. Qua kính nhìn đêm, hắn phóng tầm mắt về đằng đông, quét xuống phương nam rồi lại ngoảnh sang mạn tây. Cát, cát, cát… và cát, ngoài ra chẳng còn thứ gì khác trên miền đất hẻo lánh này, họa chăng có phi thuyền Ưng Xám phát ánh đèn hiệu màu đỏ ở mãi tít trên cao. Ánh đèn ấy tựa con đom đóm nhỏ bé du hành giữa vũ trụ mênh mông vô tận, vô tình gieo nỗi cô độc trơ trọi vào tâm trí những kẻ bộ hành phía dưới. Vô Phong chợt thèm bầu trời đầy tiếng thét của loài đọa ngã ở đất thánh hay không gian rợp bóng lạc điểu tại đất Lạc Việt. Thèm khát bao nhiêu, hắn chán nản mảnh đất này bấy nhiêu. Sự im lặng khổng lồ của sa mạc Hồi Đằng lết theo từng bước chân tên tóc đỏ và khiến hắn phát bệnh. Bộ não hắn đang bị sa mạc hóa: khô cằn, thiếu nước, thiếu luôn ý thức về thực tại.
Không riêng gì Vô Phong, những người khác trong đoàn đều thấm mệt. Mười cây số trên sa mạc không như mười cây số đường bằng, nhất là sa mạc Hồi Đằng, nhóm công chúa tới được đây là hơn người thường nhiều lần. Chỉ duy nhất Chiến Tử vẫn vững vàng, gã như cỗ máy hoạt động không ngừng nghỉ. Lục Châu tính chuyện nghỉ chân, tuy vậy anh chàng A1 của tổ Ưng Xám cho rằng chưa phải lúc thích hợp:
-Không nên nghỉ ở đây, thưa công chúa. Hãy đi hết đường triền, phía cuối đường có nhiều chỗ an toàn hơn, hãy nghỉ chân ở đó!
Đường triền này cao hơn bề mặt sa mạc, lại là nơi hứng gió, nếu nghỉ chân ở đây, cả bốn người sẽ sớm bị vùi lấp. Không còn cách nào khác, họ phải tiếp tục đi. Mặc dù con đường bắt đầu thoải dốc, thế nhưng họ vẫn gặp khó khăn với mặt cát lún, tốc độ di chuyển chẳng hề nhanh hơn trước. Cùng lúc ấy, gió ngày càng mạnh, mang theo nhiều luồng cát cứa ngang qua mặt họ. Dù đã bịt kín mặt nhưng Vô Phong vẫn cảm thấy độ ram ráp, sàn sạn của từng hạt cát tựa những mũi dao nhỏ li ti. Hồi Đằng không chỉ xua đuổi mà còn đang tìm cách giết người.
Nhóm công chúa mất thêm nửa tiếng nữa mới thoát khỏi triền cát đau khổ. Trước mắt họ bây giờ là một vùng lòng chảo lớn, thấp hơn mặt sa mạc khoảng ba bốn mét. Vùng lòng chảo không bằng phẳng mà mấp mô bởi vô số đụn cát trải dài đến tận chân trời phía nam, chen giữa các đụn là nhiều triền cát ngắn và thấp. Điều đáng nói là sau vài bước dợm thử, Vô Phong cảm thấy mặt cát ở đây có kết cấu khá vững, không sụt lún như đường triền ban nãy. Bất quá điều tên tóc đỏ muốn bây giờ là nghỉ, ngủ hoặc ngáy.
Bốn người chọn một chỗ nghỉ ngơi kín đáo phía sau triền cát. Chiến Tử lôi từ trong ba lô ra những khối kim loại hình lục lăng và đặt chúng ở giữa. Gã đánh một mồi diêm ném vào đám kim loại, tức thì bùng lên ngọn lửa màu cam. Lửa nóng nhưng không có khói, không phát sáng ra xung quanh, những khối lục lăng cũng chẳng hề mòn đi giống như củi than. Chúng là “Hỗ Thạch” – loại vật liệu có khả năng khuếch đại và giữ nhiệt năng, dùng được trong mọi môi trường. Ở một góc độ nào đấy, chúng rất giống bí kỹ “khuếch đại” của Tàn Thi (*). Người Kim Ngân vẫn dùng Hỗ Thạch để băng qua sa mạc. Nhờ ngọn lửa, cả đám tạm quên đi khí hậu giá rét và cơn buồn ngủ đang xâm lấn đầu óc. Mai Hoa mở tấm bản đồ đoạn nói:
-Chúng ta đang ở lòng chảo Hồi Đằng. Cứ tiếp tục đi theo hướng tây nam, thị trấn đầu tiên cách đây hai trăm cây số, nhưng tôi e với tốc độ này thì năm ngày nữa mới đến nơi.
Lục Châu cắn môi suy nghĩ. Đường lòng chảo tuy bớt khắc nghiệt hơn nhưng bộ hành trên cát vẫn tổn hao sức lực, miễn cưỡng đẩy nhanh tốc độ sẽ gây hậu quả ngược. Làm cách nào đây? – Nàng tự hỏi.
Chiếc vòng tay của công chúa chợt phát sáng, thông báo cho nàng biết có tin tức mới từ Thần Sấm. Lục Châu gỡ chiếc vòng và nó tự động sắp xếp thành khối hình trụ phát ảnh ba chiều. Vô Phong thoáng thấy những bức ảnh cùng một tấm bản đồ. Công chúa đọc một lúc rồi xoay màn ảnh về phía ba người còn lại:
-Mọi người đọc đi.
Vô Phong nhận ra trên màn ảnh là hình chụp ba Đầu Sói thống lĩnh các thị trấn ở sa mạc Hồi Đằng. Hắn không dám chắc trong ba kẻ Đạt Ba, Quỷ Nhãn và Hiệp Dung, ai là kẻ nguy hiểm nhất, bởi lẽ gã nào cũng tiềm tàng nguy cơ chết chóc từ gương mặt cho tới dáng dấp. Nhưng nếu phải lựa chọn, hắn sẽ đề cử Quỷ Nhãn. Cái tên cao lênh khênh có cặp mắt quái lạ ấy khiến hắn bất an. Dù vậy, con lợn béo ú Đạt Ba cũng chẳng hề kém cạnh và thị trấn đầu tiên mà bọn Vô Phong hướng tới lại nằm trong lãnh địa của gã. Mai Hoa thở dài:
-Toàn bọn đầu bò đầu bướu, Đầu Sói nỗi gì?
Vô Phong bật cười trước lời đùa cợt của gã. Nhưng công chúa không cười nổi. Mỗi gã Đầu Sói sở hữu từ hai trăm cho tới ba trăm lâu la, hợp lại chẳng khác nào một tiểu đoàn. Nhìn vào lượng quân số khủng khiếp này, nàng không dám chắc có thể lọt vào hang ổ của chúng chứ đừng nói tìm được đường đến Dương Hoa Tụ. Trông dáng vẻ bồn chồn lo lắng của Lục Châu, Mai Hoa trấn an:
-Cứ cẩn thận là được thôi, công chúa. Nếu khéo léo, sẽ chẳng ai phát hiện ra chúng ta.
-Mấy cái thị trấn ấy toàn người của Đầu Sói, sao họ không phát hiện ra cơ chứ? – Công chúa nói.
Mai Hoa nhún vai:
-Phải. Nhưng Đầu Sói khác trộm cướp ở chỗ họ có luật lệ và quy tắc. Mỗi thị trấn do họ quản lý có quyền tự trị và hàng tháng phải đóng phí bảo kê. Cứ tưởng tượng Đầu Sói là hoàng đế, băng đảng của hắn là chính phủ, làm theo chính phủ và hoàng đế, chúng ta sẽ an toàn.
Tất nhiên bọn công chúa cần nhiều thứ khác mới có thể đường hoàng tiến vào lãnh địa của Đầu Sói, nhưng tựu chung không khó, cơ bản phải “chơi” đúng luật do Đầu Sói đề ra. Nhưng giờ này bàn chuyện mấy thị trấn e rằng xa xôi, việc trước mắt mà nhóm công chúa cần làm là vượt qua hai trăm cây số trong bí mật và an toàn. Nếu để ai đó biết được “công chúa Phi Thiên quốc” đang có mặt ở Hồi Đằng, lập tức hàng tá Đầu Sói, phiến quân lẫn trộm cướp sẽ đổ về đây săn lùng nàng.
-Tin tình báo nói Đạn Đạo, người mang biệt danh “Lục Ổ Xoay” cũng ở vùng đó. – Lục Châu lên tiếng – Nếu tìm được Đạn Đạo, hy vọng ông ấy sẽ giúp chúng ta.
Mai Hoa ngạc nhiên:
-Đạn Đạo, một trong bảy người mạnh nhất thế giới hả?
Công chúa gật đầu:
-Đúng thế. Hồi nhỏ, tôi từng gặp ông ấy một lần.
-Thật sao? – Mai Hoa trố mắt – Ông ta làm gì với Phi Thiên vậy? Công tác đặc biệt chăng?
Câu hỏi của gã bốn mắt mang tính móc máy nhiều hơn tò mò, tuy vậy công chúa vẫn nhã nhặn trả lời:
-Ông ấy từng làm Hộ vệ thánh sứ cho Phi Thiên chúng tôi, là hộ vệ cho ai thì tôi không nhớ rõ.
-Ở Đại Hội Đồng không có bất cứ tấm ảnh nào về Đạn Đạo cả! Cô nhớ dung mạo ông ấy chứ?
Đôi mắt Mai Hoa sáng rực, dù ngồi cách xa nhưng Vô Phong có thể thấy mắt gã đang chiếu tia sáng soi rọi màn đêm. Cái mặt Mai Hoa hiện lên đầy đủ phẩm chất của một con cú vọ đã thấy mồi, nó quyết không để lọt miếng ăn béo bở này. Lục Châu ngại ngùng trước biểu cảm thái quá của gã nhưng vẫn từ tốn đáp:
-Tôi không nhớ lắm, vì hồi ấy còn bé. Chỉ nhớ ông ấy hay ngậm một cọng cỏ dài và đội một chiếc mũ rộng vành. Vậy thôi!
Mai Hoa chép miệng:
-Chà, chà! Cảm ơn cô, công chúa! Mấy vị biết đấy, chẳng ai biết rõ dung mạo của bảy người mạnh nhất cả, thế nên mấy thông tin này hữu ích lắm! Người ta bảo những đối thủ khiêu chiến Đạn Đạo chỉ sống được hai giây, từ lúc xướng danh cho tới khi gục xuống. Người ta bảo Đạn Đạo là kiếm sĩ, có người bảo ông ta là pháp sư, thậm chí thánh sứ.
-Thế rốt cục ổng là cái gì? – Vô Phong hỏi.
-Tôi không biết. – Mai Hoa lắc đầu – Tôi nghĩ ông ấy là pháp sư với phép thuật hùng mạnh. Có những loại ma thuật giết người trong nháy mắt, hẳn ông ta sở hữu chúng.
-Súng cũng giết người trong nháy mắt mà?
Mai Hoa lắc đầu:
-Súng chỉ có tác dụng trong quần chiến hoặc chiến trường lớn. Trong những cuộc đấu tay đôi, nó hầu như không có tác dụng.
Và sau đó gã cú vọ tuôn một tràng dài dằng dặc về chuyện đánh tay đôi. Gã nói rất có nghề và đầy kinh nghiệm, dù kỹ năng chiến đấu của gã dở như hạch. Vô Phong cũng không ngăn cản, cứ mặc kệ gã phát thanh. Giữa không gian tẻ nhạt này, kiếm được một gã hoạt động cơ mồm không biết mệt kể cũng hay.
Sau nửa tiếng, công chúa cảm thấy nghỉ ngơi như thế là đủ. Chiến Tử bèn vùi cát dập ngọn lửa rồi cất Hỗ Thạch vào ba lô. Họ xóa sạch mọi dấu vết tố cáo mình đã lưu lại nơi này, sau đó mới tiếp tục cuộc hành trình. Trước lúc khởi hành, Chiến Tử phân phát cho mỗi người một lon nước nhỏ. Tên tóc đỏ tưởng nước giải khát bèn bóc nắp lon tu ừng ực. Ai dè mới nuốt ngụm đầu tiên, hắn gần như tắc thở trước vị ngọt khé cổ của lon nước. Tên tóc đỏ phun phì đống nước, ho sù sụ, thở không ra hơi:
-Con bà nó… nước gì thế này?
-Nước tăng lực của Thổ Hành. – Chiến Tử trả lời.
Món nước tăng lực thực ra có phần tương tự chiếc bánh đen mà Vô Phong vẫn thường dùng trong các trận chiến. Tuy nhiên, nó chỉ giúp duy trì thể lực, tăng hưng phấn trí não chứ không phục hồi thể trạng ngay lập tức hay gây tác dụng phụ (**). Dù vậy, giống chiếc bánh đen, món nước ngọt khủng khiếp và rất dễ sốc óc nếu không chuẩn bị tinh thần trước khi sử dụng. Chiến Tử nhìn Vô Phong từ đầu đến chân rồi nói:
-Rơi vãi hết rồi đấy.
Nói rồi gã mặt lạnh bỏ đi, bỏ mặc Vô Phong dính nước tùm lum tùm loe trên áo. Trời đang lạnh, gặp cảnh này thật chẳng hay ho tí nào. Lục Châu hỏi han:
-Anh ổn chứ? Cần thay áo không?
Tên tóc đỏ xua tay tỏ vẻ ổn. Bắt đầu từ đó, địa vị Chiến Tử trong đầu hắn tụt hạng thảm hại, từ “chó săn” xuống “con chó săn đểu giả”.
Sau khoảng mười phút đi trên vùng lòng chảo, lần đầu tiên nhóm công chúa cảm thấy dễ thở tính từ lúc họ bắt đầu vào sa mạc. Quả thực nơi đây có bề mặt cát khá vững chắc, ít chỗ sụt lún, hầu như không khác đất bằng là mấy. Vì là vùng lòng chảo nên gió bị cản trở và không thể rờ những ngón tay lạnh buốt của mình lên bốn người bộ hành, chỉ khẽ thoảng như hơi thở chậm rãi pha chút ngại ngùng của giá lạnh. Vượt qua đèo cát và cung đồi ở phía trên, gió rót âm thanh êm dịu xuống vùng lòng chảo thay vì gào thét như trên đường triền cát. Trong thanh âm dịu êm có những âm trầm thấp đương ngân xướng, tựa những lưỡi mỏ neo thả vào tâm hồn người rồi chìm dần, chìm dần, khi chạm tới đáy lòng thì khẽ đào lên một chút ký ức. Hòa mình trong giai điệu đó, con người tìm thấy tâm sự của mình, sau lại tò mò muốn khám phá tâm sự của chính sa mạc.
Hồi Đằng đang có nỗi buồn riêng.
Nhóm công chúa duy trì vận tốc vừa phải theo hướng tây nam. Ở hướng này, số lượng đụn cát ít hơn, mở ra nhiều con đường thênh thang rộng mở dẫn tới trung tâm lòng chảo. Nhóm công chúa chọn những lối như thế mà đi. Vô Phong có cảm giác con đường đang dẫn xuống sâu hơn, bởi dãy đồi phía ngoài lòng chảo dần cao lên trong mắt hắn. Giờ đây, xung quanh hắn, gió chỉ như mành lụa khổng lồ khẽ phe phẩy, hất lên cuộn bụi mong manh từ những đụn cát muôn hình vạn trạng. Từng cuộn bụi trôi lướt nhanh trong không trung rồi tan biến tựa bọt biển. Từ trên cao, thi thoảng lại có đợt gió từ sa mạc tràn xuống với tốc độ chậm chạp. Chúng – những cơn gió ấy – đã hết mình trong bài ca gào thét, để rồi khi sức cùng lực kiệt lại trầm mình trong vùng lòng chảo, mang theo đám mưa bụi lây rây rắc xuống, tựa lời trăng trối trước lúc tan biến. Nhóm công chúa lặng lẽ di chuyển trên con đường cát rộng mênh mông, bóng dáng họ mờ mờ dưới làn mưa cát. Mới lúc trước, họ còn muốn thoát khỏi Hồi Đằng càng nhanh càng tốt, giờ lại muốn đi sâu vào nó, tìm kiếm mối tâm sự của nó phía sau bản âm hưởng gió và cát đầy buồn bã.
Sau một tiếng, nhóm công chúa đi được thêm mười cây số. Con đường dưới chân họ hẹp dần do nhiều gò cát xen lấn. Càng tới cuối đường, gò cát xuất hiện càng dày đặc, cuối cùng kết thúc ở một dải đồi nằm chắn ngang. Bọn Lục Châu chẳng còn cách nào khác là vượt qua nó. Lúc này, cô nàng A2 của tổ Ưng Xám nói với bốn người qua bộ đàm:
-Hết dải đồi này, mọi người sẽ vào trung tâm lòng chảo và di tích Hồi Đằng Cô Mộ. Chúng tôi không thấy dấu hiệu gì bất thường, nhưng hãy cảnh giác.
Vô Phong hỏi lại:

-Hồi Đằng Cô Mộ là cái gì?
Cô gái A2 cười đoạn trả lời:
-Lát nữa anh sẽ thấy thôi.
Dải đồi trước mặt họ không cao lắm, ước chừng khoảng ba bốn trăm mét. Nhưng đường lên đỉnh khá dốc, buộc nhóm công chúa phải chống gậy leo lên. Mai Hoa đi trước, ba người còn lại theo sau. Những cây gậy mà họ đang sử dụng được làm bằng kim loại đặc biệt, khi sục vào mặt cát sẽ tạo trọng lực nén xuống phần đầu gậy, cố định vị trí và giúp họ có điểm tựa vững chắc hơn. Song đường sườn đồi có nhiều hục cát lún khiến Vô Phong dẫm phải rồi trượt chân, tay không kịp bám gậy, ngã lăn xuống chân đồi. Mấy lần như thế báo hại tên tóc đỏ hì hục trèo lại từ đầu, vừa trèo vừa chửi hết “con bà nó” lại “con mẹ nó”. Khổ nỗi càng chửi, hắn lại càng mệt, hai má thở phì phò không ra hơi. Sau rốt công chúa bèn dừng bước, đợi Vô Phong tới nơi thì chìa tay ra trước mặt hắn. Tên tóc đỏ lắc đầu:
-Không cần đâu, công chúa… hộc, tôi tự đi được, hộc…
Trông bộ dạng lem nhem dính đầy cát của hắn, Lục Châu mím miệng cười song không nói gì. Vô Phong đành nắm lấy tay nàng mà đi. Chẳng hiểu vận số đen đủi thế nào, tên tóc đỏ dẫm tiếp mấy hục cát lún nữa, may có công chúa kéo lại chứ không lại lăn xuống vạch xuất phát dưới chân đồi. Mang tiếng bảo vệ công chúa mà giờ phải để nàng giúp mình, thâm tâm Vô Phong thấy nhục dần đều. Cơ mà được tha hồ nắm tay công chúa, cái nhục này cũng hạnh phúc lắm, hé hé hé! – Tên tóc đỏ nén nụ cười đê tiện vào lòng.
Bốn người mất nửa tiếng mới đặt chân lên đỉnh đồi. Thứ đầu tiên họ cảm nhận được là tiếng gió hoàn toàn thay đổi, nó êm ru nhưng trong trẻo, tựa được cất lên từ một thanh quản đầy nữ tính. Cát quần tụ, gần như ngưng đọng trong không trung, dựng nên một bức màn mỏng mờ mờ che mắt cảnh vật bên dưới chân đồi. Khi bàn tay của gió vén bức màn cát sang một bên, nhóm công chúa nhận ra họ đã tới vùng trung tâm lòng chảo. Và cũng ở đây, Vô Phong tìm được đáp án cho câu hỏi vừa nãy. Đứng từ đỉnh đồi, hắn có thể thấy cách chân đồi khoảng năm trăm mét là một quần thể kiến trúc đổ nát tụ tập phía sau dải tường thành nứt vỡ. Khối quần thể bị chôn ngập trong sa mạc, chỉ chừa một phần thân thể của chúng trên mặt cát, đủ để người ta hiểu rằng đã có một nền văn minh từng tồn tại. Nơi đây là di tích Hồi Đằng Cô Mộ.
Bốn người tiếp tục đi xuống chân đồi, bước qua một đường triền thấp rồi tiếp cận dải tường thành đá màu xám, dưới chân đầy rẫy đá vụn đá tảng. Nó chỉ cao quá đầu người một chút, nhưng nếu không có cát, chiều cao thực tế phải gấp khoảng mười lần. Mặt tường thành đầy rẫy vết nứt chân chim và vô số tảng cát tựa rêu mốc đã bám dính suốt thời gian dài. Nhóm công chúa bước qua một khe nứt lớn của bức tường, sau tiến nhập khu di tích. Càng đi sâu, phế tích hiện lên trước mắt họ càng nhiều. Trên con đường cát, họ bắt gặp vài ba mái chóp nhọn đóng bụi nằm ngổn ngang, trước kia từng là đỉnh cao của những tòa tháp nào đấy. Phía sau mái chóp nhọn, họ thấy nhiều tòa nhà hình khối vùi thân dưới lòng đất, nhô ra phần mái và nằm rải rác khắp sa mạc, trong quá khứ, chúng từng là khu dân cư hoặc dãy cửa hàng nằm trên con phố sầm uất đông người qua lại. Điều đặc biệt là tất cả đám phế tích này được dựng nên từ cát và sa kết tuyến. Không khó để tìm ra sa kết tuyến lẫn trong các tòa nhà kể trên, chúng sở hữu phép thuật dài lâu tới nỗi các công trình vẫn còn giữ được ít nhiều hình dáng ban đầu. Tuy vậy, bởi xây nên từ cát nên khi bị tàn phá, những công trình này không nứt vỡ như dải tường thành ngoài kia mà “rữa” ra, như thể khối kem bị nóng chảy. Và tới một lúc nào đấy, Hồi Đằng Cô Mộ sẽ tan chảy rồi biến mất hoàn toàn.
Mặc dù đang tiến hành nhiệm vụ, nhưng bốn người vẫn dành chút tò mò lẫn cảm xúc cho chốn hoang phế này. Vô Phong mở lớn mắt, cố gắng thâu hết cảnh tượng vào trí nhớ. Hắn hỏi Lục Châu:
-Chỗ này là thành phố phải không, công chúa?
-Phải. Một thành phố cát. – Lục Châu gật đầu – Ngày trước, nó tên là Hồi Đằng Cô Thành.
Nhóm người tiếp tục xuôi theo con đường cát về hướng tây nam, tuy nhiên tốc độ chậm hơn hẳn vì tinh thần của họ đang bị cuốn vào một trũng cát lớn. Ở đó có hàng chục cột trụ khổng lồ màu bạc, hầu hết chẳng còn lành lặn và cắm xiêu vẹo trong cát, xen lẫn là tàn dư của một tòa kiến trúc như đá lát bậc thềm, những lan can gãy đổ hay mái chóp nhọn tróc lở. Vô Phong bỏ kính nhìn đêm, say sưa ngắm nghía hoa văn trên thân các cột trụ. Dù bị thời gian bào mòn, các hoa văn vẫn hiện lên rõ ràng với muôn vàn dáng vẻ từ hình lục giác, hình lăng trụ, hình kim cương cho tới đường hoa văn hỗn hợp, trông chẳng khác gì bông tuyết. Nhìn chúng, Vô Phong mường tượng ra một cung điện màu bạc rộng lớn như trái tim băng đặt giữa sa mạc với những tòa tháp nằm so le nhau, có đường lan can chạm trổ tinh xảo bao quanh sân thượng, có hàng trăm bậc thềm dẫn lên cửa chính. Khi bước qua cửa, người ta sẽ choáng ngợp bởi hàng cột trụ lấp lánh hoa văn, tưởng chừng lạc vào vùng đất đầy tuyết rơi ở phương bắc xa xôi. Tên tóc đỏ buột miệng:
-Lạ thật…
Lục Châu đi cạnh Vô Phong, nghe hắn nói vậy thì hỏi:
-Lạ cái gì?
-Tôi cảm giác nơi này không thuộc về sa mạc. Nó khác quá…
Công chúa mỉm cười, sau nói:
-Ở thời phi cơ giới, có một công chúa ở Băng Thổ bị ép phải lấy hoàng đế ở Kim Ngân. Từ khi về Kim Ngân, nàng công chúa không bao giờ vui. Để chiều lòng cô ấy, vị hoàng đế đã cho xây dựng Hồi Đằng Cô Thành với kiến trúc giống như ở Băng Thổ. Nhưng truyền thuyết nói vị công chúa không bao giờ quên đất Băng Thổ. Lúc chết, linh hồn cô ấy nhập với sa mạc và khi ba mặt trăng cùng xuất hiện, sa mạc Hồi Đằng sẽ biến thành băng tuyết.
-Vậy truyền thuyết là sự thật? – Vô Phong ngạc nhiên.
-Không, chỉ là truyền thuyết thôi. – Lục Châu lắc đầu – Giống truyện cổ tích mà chúng ta vẫn thường nghe hồi bé vậy.
Vừa lúc ấy, gió mang cát rải xuống vùng trung tâm lòng chảo. Gió luồn lách qua những cột trụ, những ngôi nhà tan chảy, lang thang khắp khu di tích rồi cất tiếng lòng của nó lên trời đêm. Nghe tiếng gió khẩn thiết ấy, tên tóc đỏ thầm mong ánh trăng xuất hiện. Khi sa mạc bừng sáng, Hồi Đằng Cô Mộ hẳn sẽ lộng lẫy hơn bao giờ hết, dù rằng nó chỉ còn là đống hoang tàn. Nhưng bọng mây khổng lồ trên bầu trời năm mươi năm qua chưa hề thủng, khói đạn khói súng từ mọi nơi vẫn bay về đây và che khuất ánh sáng. Nếu quả thực linh hồn nàng công chúa kia còn tồn tại, cô ta sẽ chẳng bao giờ thấy Hồi Đằng biến thành băng tuyết thêm lần nào nữa.
Phải mất một lúc lâu, nhóm công chúa mới dứt được vùng trũng cát. Họ tiếp tục băng qua những tòa nhà trong khu di tích và xuôi về đằng tây nam. Cảnh tượng Hồi Đằng Cô Mộ khiến họ không muốn nghỉ chân dù trước đấy đã đi mười cây số. Nhưng một thông tin cảnh báo từ cô nàng A2 buộc bốn người phải dừng bước:
-Hãy tìm chỗ nấp đi, khẩn trương lên! Có một đoàn xe đang lao về phía các vị! Hình như là bọn cướp!
Lời cảnh báo vừa dứt, những ánh đèn vàng nhỏ xíu từ đằng xa xuất hiện, rọi thẳng về phía nhóm công chúa. Họ vội vàng rời khỏi con đường, giấu mình sau một cột trụ lớn chắn ngang trên cát. Lục Châu thì thào vào bộ đàm:
-Sao bây giờ mấy người mới nói?
-Xin lỗi công chúa. – A2 trả lời – Bọn chúng nấp trong khu di tích, chúng tôi không phát hiện ra.
Bốn người nhổm đầu qua cột trụ, tay lăm lăm vũ khí sẵn sàng giao chiến. Họ thấy ánh đèn vàng lớn dần, mang theo tiếng máy móc xe cộ vang rền khuấy đảo không gian yên tĩnh. Âm thanh ấy xuất phát từ những chiếc xe phế liệu cũ nát, giống hệt đoàn xe của đám trộm cướp mà Vô Phong gặp trước lúc vào sa mạc. Nhưng đám xe này không hề truy lùng bọn công chúa mà đang đuổi theo một nhóm ba người. Phía trước ánh đèn, Vô Phong nhận ra ba người đó gồm một người đàn ông, một phụ nữ và một đứa trẻ con, dường như là gia đình. Họ nắm tay nhau mà chạy, nhưng có vẻ chẳng còn mấy hơi sức vì họ liên tục ngã trên cát, trong khi đoàn xe đang băng băng lao đến. Lục Châu khẽ thảng thốt:
-Họ bị bắt mất!
-Đừng can dự, công chúa! – Anh chàng A1 nói – Đây không phải việc của chúng ta.
Lục Châu bấu ngón tay lên thân cột trụ, chừng như muốn lao ra ngay lập tức. Không lâu sau, những chiếc xe phế liệu đã bắt kịp và lập thành vòng vây quanh gia đình nọ. Từ trên xe, một toán cướp nhảy xuống, trên mình khoác áo trùm đầu, tay lăm lăm súng ống chĩa vào ba con người tay không tấc sắt. Người đàn ông quỳ xuống mặt cát, hai tay giơ lên cao, điệu bộ thống khổ vô cùng. Dù cách khá xa nhưng nhóm công chúa vẫn nghe thấy giọng ông ta rõ mồn một:
-Xin các người! Chúng tôi không có một xu nào cả! Hãy để chúng tôi đi!
Bên cạnh ông ta, người phụ nữ ôm chặt đứa con gái vào lòng, ánh mắt run rẩy cầu mong chút nhân từ. Nhưng “nhân từ” không có trong từ điển sống của bọn đạo tặc Kim Ngân. Mặc cho người đàn ông van nài, người phụ nữ gào thét và tiếng khóc từ đứa trẻ con, chúng lục soát từng người một, giằng giật mớ tay nải của họ hòng tìm kiếm đồ vật giá trị. Bất quá người đàn ông không nói dối, gia đình ông ta chẳng có gì ngoài vật dụng cá nhân với chút lương thực đi đường. Bọn cướp làu bàu:
-Mẹ kiếp, ngồi đây cả tối mà chẳng được tích sự gì cả!
-Tìm kỹ lại xem, biết đâu chúng nó giấu cái gì đấy?!
-Kỹ lắm rồi, mày không thấy à?
Và rồi một gã đề nghị:
-Con bé này thì sao? Bán nó cho nhà thổ chứ?
-Bé quá! Không bán được! Nó lớn thêm hai, ba tuổi nữa thì may ra… – Một gã lắc đầu.
-Bán được! – Một gã khác nói – Nhà thổ ở địa bàn của Hiệp Dung sẽ mua. Tao biết chỗ!
Lũ cướp gật gù, coi như đã bàn bạc xong. Chúng lôi đứa nhỏ ra khỏi vòng tay người mẹ khốn khổ, người đàn bà ấy cùng cha con bé bèn lao tới ôm chặt chân bọn cướp, họ gào lên:
-Xin các người! Đừng bắt con tôi đi! Tôi xin các người!
-Xin các ông thả con tôi! Tôi xin các ông!
Chứng kiến sự việc từ đầu chí cuối, Lục Châu không thể chịu được cảnh đứa bé gái sắp trở thành một món hàng trao đổi. Cô gái niệm phép, lòng bàn tay xập xòe ánh lửa điện. Nhưng trước khi nàng kịp rời khỏi chỗ ẩn nấp thì Chiến Tử đã ấn vai nàng xuống. Bàn tay gã như gọng kìm thép khiến Lục Châu nhăn mặt đau đớn:
-Chiến Tử, anh… tại sao?
-Đây không phải việc của chúng ta. – Chiến Tử đáp.
-Chúng đang bắt cóc con bé! Chúng sắp rao bán nó!
Giọng điệu công chúa đã mất bình tĩnh, nhưng Chiến Tử đáp một cách thờ ơ:
-Vậy chỉ trách số nó không may mắn.
Mặc cho Lục Châu vùng vẫy, Chiến Tử nhất quyết không buông, bàn tay gã siết lại, mạnh đến mức công chúa không thể cử động nổi. Phía bên kia, trong một nỗ lực giành giật đứa con bất thành, bà mẹ khốn khổ lên cơn rồ dại cắn vào tay một tên cướp. Gã này đỏ mặt tía tai la oai oái:
-Bỏ ra! Mẹ kiếp! Đồ chó dại! Bỏ ra!
Gã đẩy người phụ nữ ra rồi giương súng bóp cò. Ánh chớp lửa tàn khốc cùng tiếng nổ liên hồi vang dội khắp Hồi Đằng Cô Mộ, tưởng chừng cách xa một cây số cũng có thể nghe thấy. Khi khẩu súng không thể khạc đạn nữa, thân thể người đàn bà đổ ập xuống nền cát. Người đàn ông – người chồng – người cha chết lặng, ông ta quỳ bên cái xác mà khuôn mặt vẫn trân trân như chưa hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Ông ta chợt quên sạch ngôn ngữ loài người, cổ họng ú ớ những tiếng như chó tru. Nhưng nỗi đau của người đàn ông không kéo dài lâu bởi loạt đạn thứ hai ập đến ngay sau đó. Ông ta gục xuống cạnh vợ mình, đôi mắt mở lớn hướng thẳng về nơi nhóm công chúa đang ẩn nấp. Tấn thảm kịch còn tiếp diễn khi đứa bé bắt đầu gào khóc. Tiếng khóc đứt đoạn rồi câm bặt trước hàng tá cú đấm cú đá từ bọn cướp, chẳng cần nhìn tận mắt cũng có thể hình dung ra cảnh tượng những đôi tay to bè thô ráp dộng xuống gương mặt ngây thơ non nớt. Mỗi lần tiếng đấm đá ấy dội đến, công chúa lại rùng mình, đôi vai run bần bật. Nàng tựa mặt vào thân cột trụ và khóc trong sự bất lực.
-Đánh vừa thôi! Nó hỏng mặt thì sao mà bán được? Đi thôi! Tới chỗ của Hiệp Dung!
Lũ cướp trèo lên xe rồi chạy khỏi Hồi Đằng Cô Mộ, tìm nơi ngã giá con bé với nhà thổ. Một chút tiền bạc sẽ làm bọn cướp hứng khởi trước khi bắt đầu một cuộc cướp bóc mới. Còn phía sau cột trụ, nhóm công chúa gần như không thở nổi. Nếu chẳng phải gia đình nọ, khéo chừng chính họ đã lọt vào ổ phục kích của lũ cướp. Nhưng họ không tự nhủ may mắn, càng không muốn bày tỏ lời cảm ơn tới người chết. Họ cũng không ra chôn hai xác chết bởi gió và cát sẽ làm việc đó. Chiến Tử là người đầu tiên đứng dậy, gã nói:
-Đi thôi, công chúa. Chúng ta phải ra khỏi lòng chảo trước bình minh.
Nghe lời gã hộ vệ, Lục Châu cũng nhanh chóng rời đi. Nhưng kể từ lúc ấy, đầu óc nàng bị ám ảnh và mỗi khi nhớ lại những tiếng đấm đá giã xuống gương mặt đứa trẻ con, nàng lại khóc. Nhóm người không ai nói gì, chỉ lầm lũi đi, cố gắng thoát khỏi Hồi Đằng Cô Mộ càng nhanh càng tốt. Chỉ riêng Vô Phong ngoái lại ngắm nhìn khu di tích. Tên tóc đỏ từng mong ánh trăng xuất hiện, nhưng giờ thì không. Hắn muốn nỗi bi kịch bị chôn chặt trong bóng tối, mãi mãi không xuất hiện và chẳng được ai nhớ đến.
Gió vẫn cất tiếng hát buồn bã trong mưa cát. Hôm nay đã có người chết, nhưng không có lời tiếc thương mà chỉ thêm tiếng nguyền rủa.
Chừng nào Kim Ngân còn bi kịch, Hồi Đằng sẽ chẳng bao giờ thấy ánh trăng.

(*) bí kỹ “khuếch đại” của Tàn Thi, xem lại Quyển 2 – Chương 53
(**) Vô Phong hay sử dụng chiếc bánh này mỗi khi găp nguy hiểm.
 
Quyển 3 - Chương 11: Thập Kiếm


Thế giới Tâm Mộng ở một khía cạnh nào đó, rất đẹp.
Thế giới ấy ngụ trên một tinh cầu gồm bốn lục địa lớn nằm tại bốn phương. Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng và mỗi ngày, con người đều tìm thấy niềm vui từ Tâm Mộng. Những ngày tháng 4 ở lục địa Hoa Thổ, con người hướng về Phi Thiên thành, vui chơi ca hát trong lễ quốc khánh Phi Thiên quốc. Cuối tháng 7 trên Thượng Cổ lục địa, con người tổ chức lễ hành hương và cùng nhau nhảy múa dưới ánh sáng ba mặt trăng ở Cố Niên thành. Sẽ chẳng ai từ chối tiếng vẫy gọi của nhiều điều thần bí còn tồn tại trên Đông Thổ, hoặc một cái vẫy khác mang hơi hướng phàm tục nhưng sôi động hơn: sòng bạc. Kém duyên nhất là Băng Thổ; nó xua đuổi con người bằng tuyết lạnh, nhưng luôn khiêu khích những trái tim ưa mạo hiểm bằng dáng vẻ vĩ đại, hiểm trở và nhiều bí mật. Cho tới nay, những tích truyện cổ xưa từ lục địa băng giá ấy vẫn mê hoặc lòng người. Bằng nhiều vẻ đẹp khác nhau, bốn lục địa vây quanh đất thánh Hỗn Nguyên để bà mẹ Vạn Thế có thể ngắm nhìn và tự hào về chúng.
Nhưng khi nhìn về hướng đông nam, Vạn Thế sẽ nhói lòng bởi đứa con Kim Ngân. Nó nằm một chỗ biệt lập, cách xa bốn người chị em, tự trang điểm mình bằng tội ác, sự tàn bạo và vô số hạng người không thể chứa chấp. Không thể đo đếm được dưới lớp da của nó, bao nhiêu máu đã đổ hay bao nhiêu xác người bị chôn vùi, chỉ biết một thế kỷ gần đây dân chúng thế giới luôn rùng mình mỗi khi nhắc tới Kim Ngân. Dân chúng hỏi “bao giờ nó bình yên?”, các chính trị gia hỏi “nó có thể sinh ra bao nhiêu tiền?”, còn kẻ sùng đạo Vạn Thế hỏi rằng “tại sao nó tồn tại?”.
Thế giới Tâm Mộng ở một khía cạnh nào đấy, thật khủng khiếp.
Lục Châu đã nghe, đã thấy, đã hình dung và sẵn sàng tinh thần chạm trán bộ mặt đáng sợ của Kim Ngân. Nhưng ở Hồi Đằng Cô Mộ, mọi chuẩn bị của nàng tan nát như hòn ngọc mỏng manh rơi xuống sàn đá lạnh. Giờ đây, trong đầu nàng đặc nghẹt tiếng khóc trẻ con lẫn với tiếng đấm đá dữ dội. Nó ám ảnh, bao bọc Lục Châu như một chiếc áo trùm ngăn trở nàng với thực tại. Công chúa cảm thấy mỗi bước đi như đạp vào khoảng không vô định. Trôi nổi trong khoảng không ấy, nàng có cảm giác đang bị đồng hóa với vạn vật ở sa mạc Hồi Đằng: nhỏ bé, bất lực trước bóng tối và chỉ biết chờ đợi ngày mai mặt trời sẽ mọc. Sự dằn vặt cào vào trái tim nàng từng chút một, vết cào sau sâu hơn vết cào trước, lây nhiễm những suy xét tiêu cực vào tâm trí Lục Châu. Nàng căm thù thái độ dửng dưng của ba gã đàn ông đi cùng mình, kể cả Chiến Tử. Nàng nghĩ họ là những kẻ vô tâm và chính họ gây nên tấn thảm kịch trên Hồi Đằng Cô Mộ.
Gió lạnh mang theo mưa cát rải xuống lòng chảo sa mạc, vỗ về tâm trí rối bời của Lục Châu. Cô gái dần bình tâm và tự thấy mình ngẫm ngợi vớ vẩn. Đồng đội của công chúa không sai, Chiến Tử không sai, họ đang làm mọi thứ vì nàng. Nhưng khi tâm trí sáng suốt hơn, nỗi buồn trong nàng lại thêm lớn. Giáo điều Vạn Thế nói Quỷ Vương một khi tái sinh sẽ biến cả thế giới thành địa ngục, kéo theo vô số tội ác. Nhưng Quỷ Vương chưa xuất hiện mà tội ác đã đầy rẫy trên Kim Ngân. Tội ác từ đâu ra? Hay chính con người? – Lục Châu hồ nghi, nàng tự hỏi thứ quái quỷ gì đang xảy ra trên mảnh đất này. Tại sao không cần Quỷ Vương, tội ác vẫn tồn tại?
Tại sao con người đối xử với nhau như vậy?
Công chúa bước đi trong nỗi khắc khoải kiếm tìm câu trả lời. Đã năm giờ sáng nhưng bóng đêm khổng lồ vẫn ngự trị Hồi Đằng và không có dấu hiệu nào cho thấy đế chế màu đen này sẽ sụp đổ. Mặt trời… mặt trời… chưa bao giờ Lục Châu khao khát mặt trời đến thế. Nàng nhớ những lần tản bộ trên vườn thượng uyển không trung ở hoàng cung Phi Thiên (*), khắp lan can, khoảnh hoa cỏ hay các cầu thang lên xuống được sơn phết ánh bình minh vàng nhạt ấm áp. Đứng từ vườn thượng uyển, nàng có thể thấy nắng sớm như cơn thủy triều tràn qua quận Trăng Khuyết, lấn sang quận Mắt Trắng rồi ngập quá nửa thân những ngọn tháp cao ngất còn đỉnh tháp vẫn chìm trong dư vị bóng tối. Giờ đây cảnh tượng đó thuộc về một thời xa xăm, thậm chí Lục Châu không dám tin nó từng tồn tại. Niềm khao khát và ước vọng bên trong nàng bị xắt, bị xẻ thành ngàn vạn mảnh vụn rồi bị nghiền nát dưới bóng đêm khổng lồ. Công chúa không phải trường hợp cá biệt, người dân Kim Ngân đã sống như vậy hơn một thế kỷ và tương lai của họ sẽ chẳng khác gì hiện tại.
Mặt trời nào cho con người nơi đây?
Hơn năm giờ sáng nhóm công chúa mới đi hết di tích Hồi Đằng Cô Mộ, sau đó ra khỏi trung tâm lòng chảo. Bắt đầu từ đây, họ thấy vô số gò cát lớn nằm rải rác khắp miền đất, xen giữa là những con đường dẫn về hướng tây nam. Bước theo một trong những con đường này, họ dự trù khoảng hai mươi cây số nữa là đi hết lòng chảo sa mạc. Mai Hoa nói cả nhóm cần tăng tốc, bởi nhiệt độ ban ngày ở đây rất cao và chỉ mất năm phút để luộc trứng trên cát – trong trường hợp họ mang theo trứng. Thuở xưa, vùng này còn nhiều sông lạch, cây cối, thậm chí là những khoảng rừng nhỏ nên con người vẫn sống được. Khi Hồi Đằng Cô Thành sụp đổ, nước cùng cây cối biến mất, vùng lòng chảo thiếu bóng mát, nhiệt độ dần tăng rồi biến thành xứ hoang vu. Mọi chuyện còn tồi tệ hơn khi Âm Giới quốc xảy ra nội chiến; Mai Hoa chỉ lên trời, nói:
-Cái đám mây khổng lồ đó… nó đầy mùi súng đạn và ô nhiễm. Nó hấp hơi, không khí không thoát được, nóng kinh khủng!
Vô Phong nghe vậy thì chột dạ, tưởng tượng rằng mình đang nằm trong một cái nồi có nắp đậy và sắp bị luộc chín. Không riêng hắn, ba người còn lại cũng hình dung được tình cảnh nực cười song hãi hùng ấy. Chẳng ai bảo ai, họ bước thật nhanh, cố gắng thoát vùng lòng chảo trước lúc trời sáng.
Tuy nhiên mọi sự không dễ dàng. Tuy gặp ít chướng ngại nhưng nhóm công chúa đang ra khỏi lòng chảo nên con đường dốc lên, thay vì dốc xuống như khi họ tiến nhập. Tính từ lúc bắt đầu, họ đã cuốc bộ gần bốn mươi cây số nên giờ chân tay nặng như đeo chì, nếu chẳng phải Mai Hoa vẽ ra viễn cảnh thịt luộc thịt hấp thì cả bọn đã kiếm chỗ nghỉ chân. Gió từ bên ngoài đổ vào lòng chảo, lăn trên con đường cát, khẽ ập tới nhóm công chúa như níu kéo họ. Sự cô độc khiến Hồi Đằng xua đuổi tất cả, nhưng khi có người chịu bước tới trái tim Hồi Đằng Cô Mộ, sa mạc lại muốn họ bên nó mãi mãi. Nhưng mặc cho gió thở than, đoàn người vẫn tiếp bước. Không thể giữ chân họ, gió ngày càng mạnh và bộc lộ tính khí bạo tàn trong tiếng hú gào điếc tai, cát xuôi dòng gió táp vào nhóm người chực vùi lấp họ.
Khó khăn càng thêm khó khăn khi nhóm công chúa bắt gặp nhiều dải triền cát chắn ngang đường và nối tiếp nhau, dải sau cao hơn dải trước tựa đợt sóng biển cuộn trào. Đường lên triền cát dựng đứng như tường thành, buộc họ phải đi vòng một đoạn hơn ba trăm mét mới quay lại trục đường chính. Sau những dải triền, bốn người tiếp tục dấn thân trên con đường dốc. Họ khó nhọc cất bước, cố gắng tránh mọi chướng ngại kể cả những đụn cát chỉ hơi đùn lên một chút so với bề mặt. Gió lớn thổi cát che mờ kính nhìn đêm khiến họ đôi lúc đi sai hướng, may sao Mai Hoa cứ mười phút lại kiểm tra la bàn nên gã nhanh chóng điều chỉnh lại hướng di chuyển. Nỗi ám ảnh bị thiêu sống tại vùng lòng chảo lớn đến mức nhóm công chúa cắm mặt mà đi, không trò chuyện, không dừng bước, không nghỉ ngơi, cứ thế suốt một tiếng rưỡi liền. Họ chăm chú vào cuộc hành trình, chẳng hề để ý bình minh xuất hiện lúc nào; mãi tới khi chiếc kính nhìn đêm lóa màu, họ mới nhận ra trời đã sáng.
Nhưng thực tình, bình minh ở Hồi Đằng là thứ phế phẩm nhất trong những thứ gọi là “bình minh”. Không tia nắng chói gợn lên đằng chân trời, cũng chẳng có thảm nắng lan khắp vùng đất, bởi tất cả ánh thái dương bị đọng lại trong đám mây khổng lồ đang bao trùm sa mạc. Giờ đây, bọn Vô Phong có thể thấy rõ đám mây đó. Nó có màu xanh xám, bao phủ toàn bộ vòm trời như chiếc lồng úp. Và đấy là thứ tạo vật xấu xí nhất mà Vô Phong từng thấy. Trên chiếc lồng màu xanh xám, vô số cục mây hình bán cầu trĩu nặng tựa những bọc mủ căng phồng nằm san sát nhau, lắm cục vỡ toác ói dòng khí màu xanh đen lan tràn khắp nơi, một số nhễu xuống tầng không, số khác lại mưng mủ thành nhiều cục mây nhỏ hơn. Đám mây khổng lồ này đầy bệnh tật, tưởng chừng sắp đổ ập xuống sa mạc bất cứ lúc nào. Nhưng năm mươi năm qua, thân thể bệnh hoạn ấy chưa một lần tan vỡ. Nó vẫn tồn tại, song không phải mục đích sống, mà vì muốn vạn vật trở nên tàn tạ giống nó.
Bình minh ở Hồi Đằng là phế phẩm, “ban ngày” nơi đây còn hơn thế – một thứ phế phẩm hạng nhất. Không gian sa mạc tựa bị nhúng trong cốc nước đục, cát màu trắng nhờ nhờ, cảnh vật ảm đạm thê lương vô cùng, chừng như vẫn run rẩy sau ách thống trị của bóng tối. Vô Phong nghĩ mới gần bảy giờ sáng nên trời chưa sáng hẳn. Nhưng hắn đi mãi, đi mãi, rồi khi kim giờ đồng hồ nhích sang số 9, hắn nhận ra cái màu nhờ nhờ của sa mạc không hề biến mất. Ánh nắng mặt trời đã đọng lại trong tấm màng mây đầy u mủ, chỉ thẩm thấu được chút ít rồi rớt từng giọt hiếm hoi xuống vùng lòng chảo. Nếu không có đồng hồ, ai nấy đều nghĩ sa mạc đang độ chiều tà chứ không phải buổi sáng.
Chỉ trong ba tiếng, nhiệt độ vùng lòng chảo tăng liền hàng chục độ, từ cái lạnh buốt giá đến cái nóng điên người, dù chưa tới mức nướng da chín thịt song đủ khiến bọn Vô Phong vã mồ hôi như tắm. Không có ánh nắng gay gắt nhưng không gian hấp đầy hơi nóng, gió chẳng làm mát mà đưa hơi nóng luồn qua áo, len lỏi vào lỗ chân lông đun sôi huyết mạch. Tên tóc đỏ cảm giác cổ họng khô đắng, da dẻ nứt nẻ, bộ não queo quắt và nội tạng gần như hóa thạch. Hắn cần chút nước để vực dậy tấm thân nặng nề của mình. Mai Hoa khuyên hắn không nên làm vậy mà nói:
-Cậu sẽ mệt hơn thôi! Cố gắng vượt qua cái đoạn kia, rồi chúng ta sẽ nghỉ.
“Cái đoạn kia” mà Mai Hoa đang chỉ vào là một dải đất nghiêng dẫn lên mép lòng chảo. Vô Phong thở phào, lòng thầm nghĩ sắp dứt nợ với chốn nóng nực chết tiệt này. Khốn nạn thay, nó chỉ là khởi đầu của hàng tá thứ chết tiệt khác. Trên dải đất nghiêng, mặt cát vừa lún khó đi, vừa lắm hục mà chỉ cần dẫm phải, người sẽ mất thăng bằng. Chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, gã tóc đỏ vô cùng bén duyên với mấy hục cát. Dải đất nghiêng chỉ dài khoảng bốn trăm mét mà hắn dẫm trúng đám này tam tứ thứ lần, nhẹ thì sụt chân, nặng thì lăn một mạch xuống dưới. Đói, mệt, khát, Vô Phong đã nghĩ đến chuyện từ bỏ cuộc hành trình, nằm lại nơi đây và đợi chờ khoảnh khắc thân thể mình bốc mùi nướng thơm lừng. Có thêm gia vị hẳn sẽ ngon lắm! – Hắn thở.
Nhưng dù mệt lả người, cái mồm tên tóc đỏ vẫn phát thanh như thường, thậm chí khỏe hơn trước. “Con bà nó cái sa mạc, tao nguyền rủa mày!”, “Con điếm Hồi Đằng!”… bao nhiêu lời lẽ tục tằn, Vô Phong nói bằng hết. Hắn chửi to, át luôn tiếng gió đương gầm rú. Với ba người còn lại, từ lúc Vô Phong lăn xuống rồi lại lóc cóc trèo lên là khoảng thời gian tồi tệ nhất. Lăn xuống, hắn chửi một, bước lên, hắn chửi mười, tra tấn màng nhĩ đồng đội bằng đủ ngôn từ ô nhiễm nhất. Đợi khi tên tóc đỏ rớ được tới mép lòng chảo, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Mai Hoa nhìn hắn, gật gù:
-Anh bạn khỏe gớm!
Vô Phong méo mồm cười. Hắn quay lại nhìn vùng lòng chảo lần cuối, thấy rõ từng luồng khí nóng đang bốc lên xoắn vặn không khí, trông như một chảo dầu khổng lồ đang bốc hơi. Hắn nhóng mắt về đằng xa, cố tìm dấu tích của Hồi Đằng Cô Mộ. Phiền nỗi dưới bầu không gian ăm ắp sắc màu nhợt nhạt lẫn những cơn gió cát mờ mịt, Vô Phong chẳng thể tìm ra bất cứ điều gì. Hắn không biết còn cơ hội nào quay lại đây, thậm chí không biết chính mình liệu có muốn thế? Hồi Đằng Cô Mộ thật đẹp, đẹp tới độ khiến người ta muốn ở lại ngay lần tiếp xúc đầu tiên…
…và khủng khiếp đến nỗi ít người muốn gặp thêm lần nữa.
Sau hơn bảy tiếng, nhóm công chúa đã đi qua gần năm mươi cây số. Giờ đây, dù uống thêm mấy lon nước tăng lực Thổ Hành, họ cũng không thể bước tiếp. Mai Hoa nhìn quanh, đoạn chỉ vào một dải đồi cách chỗ đang đứng khoảng một trăm mét về hướng tây:
-Chỗ ấy nhé?
Vô Phong gãi đầu thở hồng hộc:
-Sao không nghỉ ngay tại đây?
-Chỗ này trống trải quá, dễ lộ. – Mai Hoa nói – Chúng ta cần một giấc ngủ dài, sau đó hẵng đi tiếp.
Lục Châu ngạc nhiên:
-Ngủ? Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên nghỉ vài tiếng!
-Từ giờ đến 2 giờ chiều, cô không đi nổi đâu, công chúa. – Mai Hoa cười – Chúng ta sẽ uống hết nước trước khi đội Ưng Xám đưa hàng viện trợ tới. Với cả đi ban ngày dễ bị phát hiện. Ngủ thật ngon và chúng ta sẽ có sức đi đêm, an toàn hơn. Hơn nữa, tôi nghĩ mọi người đều đói rồi…
Nghe tới đây, dạ dày Lục Châu chợt phát ra một tiếng “ục”, không lớn, nhưng đủ khiến Vô Phong ngoảnh lại nhìn nàng từ đầu đến chân. Công chúa ngượng chín mặt, vội nói:
-Anh nói đúng! Chúng ta nên nghỉ ngơi!
Nghe lời Mai Hoa, cả đám liền đi tới dãy đồi nọ. Dãy đồi khá cao, đủ che chắn trước những ánh mắt thiếu thân thiện từ hướng tây, dưới chân đồi có nhiều đụn cát lớn hình chóp nằm rải rác, từ xa trông tựa những túp lều. Khi đến nơi, Lục Châu lôi ra bốn đoạn sa kết tuyến hình trụ tròn màu đen dài tầm nửa mét, đường kính bé hơn một đốt ngón tay. Công chúa đặt chúng theo hình chữ thập trên mặt cát sau đó niệm phép, sắc đen trên các thanh sa kết tuyến tan rã thành nhiều tua rua như vòi bạch tuộc hút cát, lộ phần lõi trụ màu bạc chói mắt. Lục Châu niệm thêm lần nữa, bốn thanh trụ ngỏng đầu, đám tua rua đen lôi cát lên, đắp thành bốn mảng cát lớn hình tam giác chập đỉnh vào nhau tạo nên một khối kim tự tháp. Công chúa dùng tay gạt bớt cát trên những đoạn góc cạnh, niệm phép điều chỉnh tạo dáng, rồi lại dùng đắp cát che đi các thanh sa kết tuyến.
Sau năm phút, công chúa đã tạo ra ngôi nhà cát giống hệt một đụn cát nằm dưới chân đồi, nó có một ô cửa thấp phải cúi người mới đi qua được. Ba gã đàn ông bước qua cửa, họ nhận ra diện tích bên trong nhà vừa đủ cho cả đám tựa lưng vào tường mà ngủ, nếu nằm thì phải co chân bó tay vì thiếu chỗ. Không phải Lục Châu chẳng thể tạo ra ngôi nhà rộng rãi, mà bởi nếu làm thế, nó sẽ to lớn hơn so với những đụn cát xung quanh, dễ gây chú ý. Nhưng rộng hay hẹp chẳng quan trọng với bọn Vô Phong nữa, họ chỉ cần chốn nghỉ ngơi, chấm hết. Mỗi người tự tìm chỗ cho mình trước khi cát sụt xuống che lấp cửa ra vào. Một ngọn đèn màu tím dịu nhẹ được thắp lên giúp họ thấy rõ mặt nhau, song vẫn dẫn đường mở lối cho giấc ngủ đi vào tiềm thức. Mai Hoa nói:
-Các vị ai đói thì ăn trước nhé, tôi xin phép.
Nói rồi gã tựa lưng vào tường, đầu hơi ngoẹo sang trái, tiếng thở chậm dần rồi phát đều đều qua cánh mũi. Chiến Tử cũng không ăn uống gì mà thủ tay trong túi quần, đầu gục xuống, toàn thân bất động. Nhìn Chiến Tử, không ai có thể đoán gã đang thức hay ngủ hay… đã chết. Điều ấy làm Vô Phong lo lắng. Hắn có trách nhiệm bảo vệ công chúa, phiền nỗi cơn mỏi mệt cứ kéo dịp mí mắt trên của hắn. Lục Châu ngồi cạnh hắn, liền quay sang nói khẽ:
-Anh nên ngủ một giấc. Nhưng nếu đói thì cứ tự nhiên, tôi không phiền đâu.
-Cô mới là người nên “cứ tự nhiên”, không phải tôi.
Tên tóc đỏ nhe răng cười, cố tình gợi lại cái âm thanh phát ra từ dạ dày Lục Châu. Công chúa nhíu mày nhìn hắn, cho rằng đó chẳng phải chuyện cười. Nó sẽ là một câu chuyện hài hước khi nàng hoàn thành nhiệm vụ, nhưng giờ tuyệt đối không phải. Nàng tựa vai vào tường, co mình, nhắm mắt và cố gắng ngủ.
Nhưng vừa chìm trong cơn mộng mị, cảnh tượng người đàn ông đổ vật xuống nền cát tái hiện trong đầu Lục Châu. Nhãn cầu của ông ta mở lớn, xoáy thẳng vào mắt nàng. Trong khoảnh khắc, nàng cảm giác miệng ông ta đang mấp máy điều gì. Nàng hốt hoảng tỉnh giấc, đôi tay quờ quạng trong kinh hãi. Vô Phong vẫn chưa ngủ, thấy công chúa như vậy thì hỏi han:
-Cô ổn chứ?
Lục Châu gật gật, tỏ ý vẫn bình thường. Nàng nhìn quanh, soi kỹ từng ngóc ngách để chắc chắn rằng không có đôi mắt nào đang nhìn mình. Nhưng kể từ đó, công chúa không thể chợp mắt nữa. Nàng sợ lại gặp người chết trong mơ, sợ tiếng khóc ai oán ở Hồi Đằng Cô Mộ. Chẳng hiểu từ lúc nào, nước mắt ngấn dài trên má Lục Châu, đọng trên cằm rồi nhỏ tí tách xuống áo. Vô Phong thấy rõ điều đó, hắn biết lý do nàng khóc. Lần này hắn lên tiếng thay vì im lặng:
-Cô vẫn nhớ đứa bé đó sao?
Cô gái gật đầu. Vô Phong thở dài, cứ như công chúa thì bao nhiêu nước mắt cho vừa? Ở xứ sở người ăn thịt người này, câu chuyện tang tóc ở Hồi Đằng Cô Mộ chỉ như muối bỏ biển. Bản thân tên tóc đỏ đã cạn khô nước mắt cho những chuyện như thế. Hồi còn sống trong chợ rác Uất Hận thành, hắn từng thấy hàng trăm đứa bé gái bị bắt vào nhà thổ và còn nhiều chuyện kinh khủng hơn thế. Cảm giác bất lực trước cái chết của người khác, hắn đã trải qua. Tên tóc đỏ vẫn nhớ rõ khoảnh khắc Oa Lạc tan biến trong đại điện Thánh Vực. Hắn nói:
-Đó không phải lỗi của cô. Nghĩ mà xem, nếu giúp gia đình họ, ai dám khẳng định họ không gặp cướp nữa chứ?
Lục Châu im lặng hồi lâu. Nàng gạt nước mắt, cố nuốt một hơi vào cổ họng khản đặc cho bớt tiếng nấc rồi nói:
-Nhưng ít nhất thì họ vẫn có cơ hội sống? Phải chứ?
Tên tóc đỏ lúc lắc đầu thở dài ngao ngán:
-Cơ hội? Cơ hội… rồi… cơ hội ở đâu khi xung quanh họ chẳng có hy vọng? Cho họ sống thêm một năm để nhìn thấy cái xứ chết tiệt này ngày càng chết tiệt hơn à? Nếu tôi là họ, công chúa à, tôi không muốn sống vậy đâu.
-Ý anh … chúng ta bỏ mặc họ chết là đúng?
Vô Phong gãi đầu gãi tai:
-Không phải thế… Ý tôi là chuyện họ chết không liên quan tới cô. Hãy tìm Ác Lạc Điểu, đấy mới là điều cô nên làm trước tiên. Để con chim thổ tả ấy quậy tưng bừng sẽ chẳng hay ho gì hết.
Lục Châu phì cười. Tên tóc đỏ ăn nói không giỏi nhưng luôn biết cách làm người khác cười bằng lời nói, dù giọng điệu hắn hơi thô thiển. Bất quá công chúa không quản Vô Phong nữa, bởi lẽ những câu chuyện cười trên đời đều từ sự thô thiển mà ra.
Công chúa nhổm người dậy, đôi tay vòng qua đầu gối, đôi mắt đăm đăm nhìn ngọn đèn màu tím. Nếu trước mặt nàng có Tiểu Hồ, hoặc Chiến Tử đang thức, nàng sẽ tâm sự. Nhưng giờ đây chỉ còn Vô Phong lắng nghe và điều ấy khiến nàng ngượng ngùng. Phải đến khi nỗi lòng ứ đọng quá lâu trên cổ họng rồi bung ra, nàng mới mở lời:
-Tôi có cảm giác bất lực, Phong à… Tôi không thể làm gì khác.
-Tôi nói rồi, có phải lỗi của cô đâu?
-Không, thực sự là thế. Anh biết đấy, tôi được dạy rằng một thánh sứ phải giúp đỡ người cô thế, những người yếu đuối. Tôi đã nghĩ như thế từ lâu lắm. Ừm… tôi đã nghĩ thế… tôi luôn muốn mình mạnh hơn nữa để đi khắp nơi và giúp những người như vậy. Nhưng có vẻ nó hơi viển vông. Tôi đã nghĩ rất nhiều… tôi nhận ra mình chẳng thể làm gì hết.
Vô Phong cười:
-Đi khắp nơi? Vậy còn ngai vị? Chẳng phải cô là người thừa kế?
-Không, tôi không nghĩ mình phù hợp. – Công chúa lắc đầu – Cần nhiều phẩm chất để trở thành nữ hoàng. Họ phải cố gắng gấp nhiều lần so với nam giới. Tôi không hợp với ngai vị. – Nàng nhún vai – Thật đấy!
-Nhưng trở thành nữ hoàng, cô có thể giúp đỡ nhiều người hơn!
Lục Châu nhún vai:
-Nhưng cũng có lúc chẳng thể làm gì. Hoàng đế ngày nay không như thời đại phi cơ giới.
Hai người im lặng, ánh mắt Lục Châu nhìn vào ngọn đèn tím, còn Vô Phong nhìn nàng. Tên tóc đỏ biết công chúa rất thành thật về chuyện thừa kế ngai vàng. Hắn thở phù:
-He! Chúng ta đang nói tới đâu rồi nhỉ? Tóm lại là cô suy nghĩ nhiều quá, công chúa à!
-Tôi cả nghĩ quá chăng?
-Không, vì cô là người nhân hậu.
-Ý anh là ngây thơ?
-Không. Nhâu hậu khác, ngây thơ khác.
-Anh cảm thấy phiền?
-Không. Tôi thích điều đó. Cứ sống như cô muốn, tôi sẽ bảo vệ cô.
Lục Châu nhướn mày ngạc nhiên:
-Thích… ý anh là sao?
Vô Phong cười sặc:
-Hả? Vấn đề chăng? Người tốt ai chẳng quý?
-Nhưng phải có lý do nào đấy chứ? Tôi thấy… nó thật kỳ cục.
Tên tóc đỏ nháy mắt:
-Nghĩ nhiều làm gì? Ngủ đi, công chúa. Ngủ lấy sức để còn tóm cổ con chim thổ tả kia chứ?
Công chúa mỉm cười, nói:
-Thế anh không ngủ sao?
-Tôi… ờ… chậc! – Vô Phong chép miệng – Sa mạc này rất nguy hiểm, đúng không? Ít nhất cũng cần có người thức chứ!
-Vậy khi nào mệt, hãy gọi tôi dậy.

-“Dzồi, dzồi”, biết “dzồi”!
Lục Châu nằm xoay lưng lại với Vô Phong và giấu đôi môi đang cười sau lòng bàn tay. Nàng chưa gỡ bỏ được mối tơ vò trong lòng, nhưng ít nhất nàng cảm thấy thoải mái hơn. Nghĩ tới đây, nàng chợt thấy mình quá đáng với tên tóc đỏ khi đến đất Lạc Việt, xa hơn nữa là ở đất Thiên Phạn. Nàng cần làm điều gì đấy để đền bù cho hắn. Mình đang nghĩ cái gì thế này? – Công chúa ôm mặt, tự ấn mình vào giấc ngủ, cố quên đi những suy nghĩ vẩn vơ ấy. Nhưng nàng không thể gạt chúng ra khỏi đầu và chính những suy tư nhảm nhí đó lại khiến nàng dễ ngủ hơn.
Phía bên kia, Vô Phong vẫn thức, ánh mắt hiếm khi rời khỏi Chiến Tử. Đợi công chúa ngủ hẳn, hắn bèn mở máy chiếu ba chiều và bắt đầu gõ chữ trên bàn phím ảo:
“Mọi chuyện vẫn bình thường, thưa đại thánh sứ…”.

Trong lúc nhóm công chúa nghỉ ngơi thì ở một nơi nào đấy trên thế giới Tâm Mộng, một cuộc họp sắp diễn ra.
Cuộc họp ấy được tổ chức trong một căn phòng rộng nhưng đượm mùi cũ nát. Trong phòng có bốn cây cột lớn đỡ trần đã bong sơn lở gạch, lộ phần cốt thép han gỉ tựa thân thể bị hoại tử nặng. Ở giữa bốn cây cột lớn là một bóng đèn treo soi ánh sáng vàng vọt xuống mười chiếc ghế gỗ xếp vòng tròn bên dưới. Sự tĩnh lặng như bầy kiến bò lổm ngổm chiếm cứ mọi ngóc ngách căn phòng, thi thoảng rợn lên âm thanh lục cục từ bọn chuột, những thứ không phải chuột hoặc tự bản thân sự tĩnh lặng sinh ra.
Thế rồi những tiếng bước chân vọng tới khiến bầy kiến chạy dáo dác. Có đôi chân bước chậm, có đôi chân bước nhanh, có đôi chân uể oải như vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ, lại có đôi chân ẩn nấp sau vạt áo dài kéo lệt sệt trên mặt đất. Chúng đến từ nhiều hướng khác nhau, cuối cùng tụ họp tại mười chiếc ghế gỗ. Mười ghế, mười người và nhiều cách ngồi khác nhau: kẻ bắt chân chữ ngũ, kẻ dạng chân một cách bất cần, kẻ ngồi xổm trên ghế, kẻ ngả ngốn đầy buông tuồng… Ánh đèn vàng chỉ rọi được nửa thân họ, không làm lộ diện gương mặt họ. Nhưng có vẻ tất cả đều quen biết nhau, một người lên tiếng:
-Lâu rồi mới tụ họp đông đủ thế này nhỉ? Lần gần đây nhất… hình như là mười năm trước?
-Cũng tầm ấy. – Người khác gật gù.
Một người xoay đầu nhìn quanh rồi hỏi:
-Tùng Bách (**) đâu nhỉ? Sao ta không thấy?
-Tùng Bách rớt đài lâu rồi, ông không nhớ sao?
-Vậy hả? Ta chẳng quan tâm lắm. Dạo này Thập Kiếm xuất hiện vài ba đứa trẻ ranh, chẳng được như trước nữa.
Phía góc phải, một giọng nữ cất lên:
-Đừng tự tin quá, ông già. Già rồi thì chân chậm mắt mờ, hiểu chứ?
Vài ba tiếng cười đầy khiêu khích nổi lên, nhưng chẳng có tiếng cãi vã nào. Kẻ đang ngồi dạng chân bất chợt nói lớn, giọng khỏe và trẻ:
-Có chuyện gì thì nói nhanh lên! Thằng chủ trì đâu?
Một người khác cất giọng:
-Bình tĩnh đi chó con. Đừng nghĩ vào được Thập Kiếm là mày nói năng thế nào cũng được. Tự tay ta từng giải quyết hai thằng như vậy rồi đấy!
Kẻ nọ nhổm dậy nói:
-Thế thì giải quyết ở đây luôn đi. Ông ở trong Thập Kiếm quá lâu rồi, rút lui và nhường cho lớp trẻ, Vạn Thù à!
Lão già tên Vạn Thù cười lớn, sau rời ghế:
-Chú mày muốn thế đấy nhé!
Hai người rút kiếm chuẩn bị một trận quyết đấu. Nhưng ngay lúc ấy, một giọng nói khác chen ngang vào giữa và tách họ ra:
-Nào, nào! Hai vị không nên biến chỗ này thành chiến trường chứ! Luật nói rằng khi có cuộc họp, không ai được phép gây chiến. Xin hãy nhớ cho.
Kẻ vừa nói bước vào trung tâm vòng ghế. Dưới ánh đèn vàng, gã hiện lên với áo khoác màu xanh đen dài tới đầu gối; gã có gương mặt vuông vức, chiếc mũi dài thẳng tắp, râu quai nón lún phún quanh mang tai cùng một mái tóc bóng mượt hất ngược. Nhìn kẻ mới đến, gã trai trẻ kia nhún vai quay về chỗ ngồi. Gã điển trai nọ khẽ cúi đầu trước Vạn Thù:
-Ngài Vạn Thù vẫn khỏe chứ?
Vạn Thù ngạc nhiên:
-Vẫn thế, nhưng sao lại là chú mày? Vua chợ rác – thiên tử Uất Hận Thành đâu?
-Hiện giờ chưa có. – Gã điển trai cười – Thiên tử Uất Hận Thành vừa mất tháng trước, các băng nhóm đang chiến đấu kịch liệt và chưa thể chọn ra vị vua mới. Tôi là trợ lý của ông ấy, theo luật, tôi sẽ chủ trì cuộc họp này. Ở đây có nhiều người biết mặt tôi, các vị không phản đối chứ?
Không có tiếng nói phản bác nào. Gã điển trai cúi đầu:
-Vậy xin phép bắt đầu cuộc họp. Nhưng trước hết chúng ta cần đọc lại lời thề, được chứ? Luật là luật!
Gã điển trai dứt lời nhưng không có ai hưởng ứng. Gã chép miệng:
-Thôi nào, đọc cho xong đi, các vị đâu còn là trẻ con nữa, đúng không? Ngay cả Ngũ pháp sư và bảy người mạnh nhất thế giới cũng đều phải đọc mà?!
Đám người quay sang nhìn nhau như thể họ bị ép buộc tham gia vào một trò chơi lố bịch. Nhưng một người, hai người rồi tất cả cùng đồng thanh nói:
-Vì giàu có, thống trị, chi phối. Không tiết lộ, không tố cáo, không bôi nhọ.
Gã chủ trì vỗ vỗ tay:
-Cảm ơn các vị! Tôi sẽ vào ngay vấn đề. Lý do tổ chức cuộc họp Thập Kiếm ngày hôm nay là vì có một khách hàng cần đến sức mạnh của các vị, thù lao là mười thùng quang tố. Người này… à, anh ta đây rồi! Vào đi, anh bạn!
Ngay lập tức, tiếng bước chân cùng tiếng lách cách nặng nề dội tới. Vài người trong Thập Kiếm đứng dậy nhường đường cho gã khách hàng. Kẻ này mang theo một xe đẩy, trên xe đựng mười thỏi trụ đá gồ ghề màu xanh trắng có đường gân đỏ, mỗi thỏi dài bằng cẳng tay người, xếp chồng lên nhau. Mỗi thỏi là được gọi là một “thùng”. Lượng quang tố khá lớn, nếu đổi sang tiền mặt thì đủ cho một kẻ tiêu xài ăn chơi phung phí suốt hai mươi năm liền. Không khó hiểu cả mười người đều dán mắt vào lượng tài sản khổng lồ này, nhưng họ nhanh chóng nhận ra kẻ sở hữu nó còn đáng chú ý hơn. Đó là một gã mặc bộ đồ áo liền quần kẻ ca rô đen trắng, đeo chiếc mặt nạ trắng tô hoa văn diêm dúa sặc sỡ. Vài tiếng xì xầm nổi lên trong Thập Kiếm, cuối cùng một người nói:
-Vậy ra ngươi là Tiếu, kẻ đã giết Hạ Đông?
-Chính xác! – Tiếu cười – Ngài có con mắt tinh tường đấy, không đến nỗi lù khù khú đế lắm!
Người nọ cười một tiếng, chẳng thèm đếm xỉa lời khiêu khích của Tiếu. Lại một tràng xì xầm nữa nổi lên giữa các thành viên Thập Kiếm. Cuộc bàn tán của họ chỉ kết thúc khi gã đeo mặt nạ đi vòng quay chiếc xe đẩy rồi buông giọng nói mai mái bán nam bán nữ:
-Với tất cả sự kính trọng, không chút coi thường, tôi tìm tới Thập Kiếm là để mong các vị lấy đầu một người cho tôi. Thù lao là mười thùng quang tố.
-Ai? – Vạn Thù hất hàm hỏi – Mà khoan… hãy nói đúng đối tượng. Chúng ta không đùa cợt ở đây.
Tiếu cười rinh rích, sau cười toe:
-Ông già hiểu tôi quá! Được rồi, tôi sẽ nghiêm túc. Lần này, tôi muốn cái đầu của công chúa Lục Châu. Tôi chẳng biết cô ta ở đâu, vì vậy các vị hãy tự tìm kiếm.
Mọi lời xầm xì bàn tán chấm dứt, các thành viên Thập Kiếm quay sang nhìn nhau, dò xét ý tứ nhau qua ánh mắt. Một người hỏi Tiếu:
-Hẳn là ngươi đã tổ chức một cuộc họp thế này với Ngũ pháp sư?
Tiếu thở dài èo uột, giọng điệu tỏ ra bi thương một cách kệch cỡm:
-Phải. Một đám hèn nhát! Hu hu! Chẳng ai chịu giúp tôi cả! Tôi mong mấy vị Thập Kiếm sẽ dũng cảm hơn bọn họ.
Nói tới đây, Tiếu liền nhường sân khấu cho người chủ trì cuộc họp. Gã này nói:
-Với tư cách người chủ trì, tôi sẽ làm chủ phiên “đấu giá” này. Có một vài quy tắc nhỏ, chắc mọi người đều biết nhưng tôi vẫn phải nhắc lại. Quy tắc một: có ba lần đấu giá, sau mỗi lần đầu giá, mức thù lao phải được nâng lên. Quy tắc hai: sau khi rời căn phòng này, không ai được tiết lộ điều gì, sống để trong tim, chết mang xuống mồ. Quy tắc ba: người thuê và người được thuê hãy thực hiện đầy đủ mọi điều khoản hợp đồng. Quy tắc bốn: giữ gìn ba quy tắc trên, nếu ai phá vỡ, Uất Hận Thành sẽ tính sổ với người đó. Được rồi… vậy… phiên đấu giá bắt đầu, ai muốn cái đầu của Lục Châu? Lần một: mười thùng quang tố!
Gã chủ trì nói xong, khoảng ba người đứng dậy bỏ đi, sau đó lại thêm ba người nữa. Tiếu thở dài õng ẹo:
-Thôi nào, vừa mới đấu giá thôi mà?! Các vị hèn nhát vậy sao?
Một trong số sáu người nọ cười lớn:
-Đối đầu với Phi Thiên quốc? Bọn ta không ngu đâu, thằng lòe loẹt!
Căn phòng chỉ còn lại bốn thành viên Thập Kiếm. Gã chủ trì nhìn họ hồi lâu, rồi đưa mắt ra hiệu cho Tiếu. Tên đeo mặt nạ lại chạy vào bóng tối, lát sau trở ra với một chiếc xe đẩy khác đựng mười thỏi quang tố. Gã chủ trì vỗ tay:
-Đấu giá lần hai: hai mươi thùng quang tố cho cái đầu của Lục Châu! Ai theo?
Bốn người còn lại liền đưa mắt nhìn nhau. Người nọ chẳng thấy mặt người kia vì tất cả đều chìm trong bóng tối. Song đây là thế giới kiếm sĩ thượng đẳng mà chỉ cần nghe tiếng hơi thở, nhìn vào cách thay đổi tư thế ngồi, mỗi người họ đều biết đối phương đang nghĩ gì. Lát sau, hai người nữa rời ghế. Tiếu nhìn theo một trong hai người và ngạc nhiên hết sức:
-Vạn Thù, sao lại là ông? Chúng ta đang cùng chiến tuyến mà! Tân đảng và Xích Tuyết đang hợp tác mà!
Vạn Thù lắc đầu:
-Ta hợp tác với Liệt Giả, không phải ngươi.
Lão già cười lớn rồi bỏ đi. Chỉ còn lại hai thành viên Thập Kiếm và sự tĩnh lặng bắt đầu tái chiếm căn phòng. Gã đeo mặt nạ lại lôi ra chiếc xe thứ ba chở mười thỏi quang tố nữa. Lần này giá trị thù lao đã gấp ba, nếu ai ôm được mớ của nả này, hắn sẽ hưởng cuộc sống thần tiên đích thực. Tay chủ trì cuộc họp nói:
-Đấu giá lần chót: ba mươi thùng quang tố cho cái đầu công chúa Phi Thiên. Hai vị đây theo chứ?
Một người lên tiếng:
-Thêm năm thùng quang tố nữa, ta sẽ cắt đầu con bé đó.
Tiếu đáp lời:
-Giá chót rồi, thưa quý ngài. Tôi nghe nói quý ngài đây đang sống vương giả lắm, sao phải kì kèo khiếp vậy?
-Năm thùng quang tố nữa, hoặc ta bỏ! – Người nọ kiên quyết.
-Giá chót. Thưa quý ngài! – Tiếu mỉm cười.
Người nọ đứng dậy bỏ đi. Thành viên Thập Kiếm cuối cùng còn trụ lại chính là kẻ vừa gây gổ với lão già Vạn Thù. Đợi bóng dáng người kia khuất hẳn, tay này liền nói với Tiếu:
-Trả thêm năm thùng quang tố đi!
-Một! – Tiếu đáp.
-Bốn? – Người kia nói.
-Hai! – Tiếu cười.
-Ba thùng quang tố nữa, giá chót! – Gã nọ nói – Coi như đấy là trả thêm cho việc tao phải tốn nhân lực đi tìm con bé công chúa. Và sẽ chẳng còn thằng nào giúp mày đâu, thằng lòe loẹt à!
Tiếu cười khanh khách:
-Nhất trí! Ba thùng quang tố nữa! Tổng cộng ba mươi ba thùng quang tố! Rất hân hạnh được hợp tác!
Kẻ thuê chìa tay, kẻ được thuê bắt lấy. Giao dịch chính thức có hiệu lực. Tới đây, gã chủ trì nói:
-Và quy tắc cuối cùng: người được thuê phải hoàn thành nhiệm vụ. Nếu thất bại sẽ bị loại ra khỏi Thập Kiếm, hoặc phải khiêu chiến một trong bảy người mạnh nhất. Các vị hiểu rồi chứ?
Những cái bắt tay, những cái cười vang lên bên cạnh ba mươi ba thỏi quang tố. Và lúc này công chúa vẫn say ngủ, nàng chẳng hề biết mình đã trở thành con mồi bị săn đuổi.
 
Quyển 3 - Chương 12: Diễn và sống


Cái nóng lan khắp không gian, ôm trọn Hồi Đằng. Chẳng đến từ mặt trời, cũng không phải lớp cát nóng bỏng, cái nóng sinh ra từ đám mây màu xanh xám trên bầu trời sa mạc. Nó không đơn thuần chỉ cào vào da thịt mà còn thẩm thấu, len lỏi, mò tới rồi bóp nghẹt linh hồn con người. Bí bách, bức bối, khó thở, đó là những gì Vô Phong cảm nhận được. Tuy đang ở trong ngôi nhà cát nhưng hắn có thể hình dung cảnh tượng bên ngoài: bỏng rãy, không gian méo mó vì đầy hơi nóng bốc lên và bị bao phủ bởi sắc màu lờ nhờ ảm đạm. Hắn có thể thấy cái lồng mây khổng lồ đương bay là là dồn xuống sa mạc những hơi thở bệnh tật, rút bớt sinh khí của vạn vật. Vô Phong thuộc đám vạn vật đó, hắn đương phải há mồm ra mà hít thở. Gã tóc đỏ cảm giác một đám cháy đang bò lan khắp người, nó âm ỉ nhưng không thể bị dập tắt dù đã nốc cạn hai chai nước. Khó chịu… khó chịu quá! – Vô Phong thở phì phì. Hắn ngộ ra chính tâm tư của mình về vùng đất này đẻ ra nỗi khó chịu ấy. Chừng nào hắn còn thức, những tâm tư ấy còn tồn tại.
Bất quá hắn không thể ngủ. Vì tinh thần trách nhiệm, hay đúng hơn là tinh thần dại gái, hắn phải thức. Phiền nỗi Vô Phong cứ lờ đà lờ đờ bởi sức lực bị cái nóng ngấu nghiến, lại thêm ánh đèn tím dìu dịu mỏng manh đang cố sức kéo sụp mí mắt. Để tỉnh táo hơn, hắn mở cuốn “Tâm Mộng thế giới – kiến thức căn bản” và đọc. Những dòng chữ ảo hiện lên, hắn bắt đầu đọc về lịch sử lục địa Kim Ngân và sau một hồi “nghiên cứu”, hắn chợt hiểu đây là con đường ngắn nhất dẫn tới giấc ngủ. Vô Phong ngay lập tức dừng lại chuyện sách vở rồi chuyển qua luyện tập Phong kỹ. Cách này khá hiệu quả vì hắn cần hoạt động cơ tay nhiều hơn để điều khiển dòng cát và mỗi khi cát rớt xuống, hắn phải hoạt động cơ mồm để chửi. Cơn buồn ngủ vì thế cũng tạm lắng. Hắn không quên việc thi thoảng ngó sang Chiến Tử, coi xem thân thể bất động như xác chết của gã này có gì đổi khác.
Luyện tập, giám sát, luyện tập, giám sát… Vô Phong thực hiện quy trình nhàm chán ấy hàng tiếng đồng hồ. Tới khoảng hai giờ chiều, hắn cạn sức như cái giếng cạn nước trơ đáy. Nếu không vì tinh thần nhiệm vụ (dại gái), hắn đã lăn ra ngáy từ lâu lắm. Tên tóc đỏ ngó sang công chúa và thấy nàng vẫn say giấc. Hắn cần chợp mắt, nhưng người nào đó phải thức dậy. “Người nào đó” cố nhiên không phải Chiến Tử, vậy Mai Hoa liệu có ổn? Suy đi tính lại, gã bốn mắt tuy đáng ghét song là kẻ trách nhiệm, có thể tin tưởng được. Vả lại những thằng thư sinh bốn mắt luôn dễ sai bảo! – Tên tóc đỏ cười đểu, đoạn vận Phong kỹ phóng một luồng cát vào thẳng mặt Mai Hoa. Gã cú vọ choàng tỉnh, mồm ú ớ:
-Ai? Ai? Cái gì? Chúng ta đang ở đâu?
Tên tóc đỏ mím môi nén tiếng cười sặc, sau giả bộ quan tâm:
-Xin lỗi! Tôi lỡ tay!
Dứt lời hắn nhổm tới giả đò phủi bụi giùm Mai Hoa và ra vẻ hối lỗi. Gã bốn mắt gỡ tấm kính dính đầy cát, thổi phù phù rồi hỏi bằng cái giọng ngáp ngắn ngáp dài:
-Ậu àm ái ì ế? (Cậu làm cái gì thế?)
-Đang luyện tập bí kỹ, he he! – Vô Phong giả lả.
-Luyện tập… ôi… – Mai Hoa vươn vai ngáp – …mấy giờ rồi? Cậu dậy sớm thế?
-2 giờ chiều. Tôi có ngủ đâu?
Mai Hoa ngạc nhiên:
-Hả? Sao không ngủ?
-Chỗ này toàn bọn trộm cướp, đúng không? Phải có người thức chứ? – Vô Phong trả lời – Tôi mệt lắm rồi, ông bạn thức tí nhé! Cám ơn!
-Ấy khoan…
Không đợi con cú vọ thanh minh thanh nga, Vô Phong nện thân uỵch xuống nền cát, quay mặt vào tường che đi nụ cười gian manh. Giấc ngủ nhanh chóng ập tới và kéo Vô Phong vào sâu trong lòng nó. Phía bên kia, Mai Hoa ngẩn tò te một hồi, mãi lúc sau mới hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Gã ôm mặt vò tóc gãi đầu, cố kìm cơn thèm ngủ đang cào cấu hai hốc mắt, tình cảnh khá tội nghiệp. Xui cho gã, Vô Phong không dễ mềm lòng. Chưa đầy hai phút sau, tên này bắt đầu phát tiếng ngáy rền rĩ, hắn ngáy không to lắm, nhưng ở không gian tĩnh lặng này nó chẳng khác gì sấm rền. Mai Hoa đắm đuối nhìn Vô Phong, mồm há hốc như cá ngão hớp khí, lòng tự thề sẽ đánh đổi mọi thứ để được thế chỗ tên tóc đỏ. Như đáp lại thỉnh cầu của gã, Lục Châu chợt tỉnh dậy và nói:
-Nếu anh muốn ngủ nữa thì ngủ đi, tôi trông chừng cho!
Mai Hoa mở cờ trong bụng. Gã gật đầu ngay tắp lự, lòng biết ơn công chúa vô hạn (và quên ngay sau đó), dựa lưng vào tường tiếp tục tận hưởng giấc nồng. Nhưng tư thế ngủ này khiến gã khó chịu và không thể chợp mắt. Mai Hoa cũng không thể duỗi mình thoải mái bởi Vô Phong đã chiếm gần hết chỗ. Căn nhà cát không lớn mà tên tóc đỏ nằm chình ình một bãi, khuỳnh chân khuỳnh tay chiếm hết diện tích, chưa kể tiếng ngáy khiếp đảm của hắn. Nó rè rè, è è, thi thoảng lọc xọc như cái máy cưa đã lâu chưa bảo dưỡng, xứng đáng dẫn đầu danh sách những loại âm thanh kinh khủng nhất thế giới. Mai Hoa bó tay thúc thủ trước Vô Phong, đoạn chỉ tên này và nói với Lục Châu:
-Cô có gã hộ vệ vui tính đấy. Chưa ai đi qua Hồi Đằng mà ngủ ngon lành vậy đâu!
Một tràng ngáy phát ra từ miệng Vô Phong như củng cố vững chắc lời nhận xét của Mai Hoa. Gã bốn mắt cúi đầu cười khùng khục. Công chúa thì miễn bình luận, nàng lảng sang vấn đề khác:
-Bao giờ chúng ta đi tiếp?
-Khoảng 8 giờ tối. À, tôi biết cô vội nhưng có vài điều ở Hồi Đằng mà cô cần hiểu. Ban ngày ở đây đầy rẫy bọn cướp, vả lại trời nóng, đi rất tốn sức. Đợi đêm xuống, trời lạnh hẳn, chúng ta khởi hành là vừa. Lạnh bao giờ cũng tốt hơn nóng, đúng không?
-Tôi không hiểu đám cướp bóc. – Công chúa nói – Người dân Âm Giới nghèo như vậy, đâu còn tiền bạc để cướp nữa?
-Không đơn thuần là tiền. Ở Kim Ngân, mọi thứ đều có giá trị. Quần áo, lương thực, con người… tất tần tật đều có thể bị cướp. Chẳng hạn như lương thực, bọn cướp sẽ vơ vét rồi bán lại cho dân cư khu tị nạn, hoặc bán cho Đầu Sói. Chúng có thể săn người, đám đàn ông bị ép buộc vào băng đảng hoặc làm nô lệ, đàn bà thì bị bán cho nhà thổ, như con bé hồi sáng nay chẳng hạn. Xin lỗi vì nhắc lại chuyện không hay. Thậm chí chúng có thể săn người để lấy nội tạng của họ, mấy thứ đó ở Kim Ngân rất có giá. Cuộc sống ở đây… đại khái là thế.
Tinh thần Lục Châu đang trầm ổn bỗng nhộn nhạo vì Mai Hoa khơi ra chuyện cũ. Những ký ức ác nghiệt quay về, bao vây và kéo cô gái xuống vũng lầy tuyệt vọng. Công chúa lắc lắc đầu xua đi mấy suy nghĩ không hay. Nàng đăm đăm nhìn ngọn đèn tím, lòng cố nghĩ về Ác Lạc Điểu rồi tưởng tượng cuộc chiến ác liệt với con quái vật. Nhưng trong thế giới của sự im lặng, ác mộng và tội lỗi áp đảo tâm trí Lục Châu, tái hiện vô số hình ảnh của tấn thảm kịch Hồi Đằng Cô Mộ. Tuy không rõ nỗi ám ảnh này chấm dứt lúc nào, nhưng công chúa biết ngày mai, ngày kia và nhiều ngày sau đó, nó sẽ chưa chịu buông tha nàng. Lục Châu bắt chuyện với Mai Hoa – một chuyện mà nàng nghĩ rằng hết sức lố bịch. Song ngay lúc này, chuyện lố bịch ấy là thứ duy nhất có thể cứu nàng khỏi sợ hãi.
-Có thật anh làm việc cho đội tra khảo Đại Hội Đồng? Tôi cảm giác anh không giống thế… – Lục Châu nói – Ý tôi là anh không giống người làm công tác tra khảo.
Gã bốn mắt thở dài:
-Cô không phải người đầu tiên thắc mắc điều này. Nhưng đúng là tôi làm việc ở đội tra khảo. Tôi không thẩm vấn trực tiếp tội phạm mà tạo “khung cảnh thẩm vấn”. Cô biết đấy, con người có nhiều tính cách khác nhau và tội phạm cũng vậy. Khung cảnh tác động tâm lý của tội phạm, nó giúp người thẩm vấn dễ dàng khai thác thông tin hơn.
-Vậy điều gì khiến anh từ bỏ vị trí đó và chuyển sang giám sát bọn tôi?
Mai Hoa vươn người cho đỡ mỏi, đoạn nói:
-Tôi từng làm điệp viên ở Kim Ngân khoảng tám năm, tham gia nhiều công tác mật. Tấm bản đồ này của tôi… – Mai Hoa vỗ vỗ chiếc máy chiếu đeo bên hông – …là thành quả sau ngần ấy thời gian. Những đường Sinh Lộ đều do tôi tự vẽ, được trả giá bằng nhiều lần chết hụt. Bởi vậy, tôi được Đại Hội Đồng cử đi cùng với cô.
-Vậy còn chuyến đi tới đất Lạc Việt lần trước là vì lý do gì?
-Họ đánh giá cao kỹ năng thu thập tin tức của tôi. Họ hứa sẽ trả một khoản tiền lớn nếu tìm được thông tin giá trị. Đáng tiếc, tôi bị loại quá sớm và chẳng kiếm được đồng nào.
Lục Châu nhíu mày nhìn gã, ánh mắt đầy vẻ ngạc nhiên:
-Đừng nói anh đang cố tìm hiểu tôi?!
Mai Hoa cười:
-Cô thông minh đấy, công chúa. Không chỉ có vậy, Đại Hội Đồng muốn nhiều hơn thế. Họ muốn biết những mối quan hệ của cô, những hộ vệ. Mọi thứ! Họ muốn nắm bắt điểm mạnh và điểm yếu của cô.

-Nhưng để làm gì?
Gã cú vọ chỉnh lại cặp kính cận, trong khoảnh khắc, mắt kính phản chiếu ánh đèn và Lục Châu không thể nhìn thấy mục quang thật sự của gã. Mai Hoa đáp lời:
-Tôi nghĩ phần nhiều là do cha cô, Bạch Dương đệ thập. Ông là người đáng ngưỡng mộ nhưng lại quá cứng rắn. Tôi chắc cô biết rõ chính sách đối ngoại của Phi Thiên hiện giờ cũng giống tính cách cha cô vậy. Điều đó khiến nhiều người, đặc biệt là ủy viên cấp cao Đại Hội Đồng khó chịu. Nhưng họ chẳng thể làm gì cả, giống một đám chó bị xích lại và chỉ biết sủa nhặng lên. Nhiệm vụ săn tìm Quỷ Vương là cơ hội tốt để đám chó, ý tôi là mấy lão ủy viên, khai thác thông tin về Phi Thiên. Tới giờ, Đại Hội Đồng biết rõ cô là một người trầm tính, kín kẽ nhưng đôi lúc dễ mất kiểm soát lý trí.
-Vậy đó là những gì anh viết về tôi sau chuyến đi Lạc Việt?
-Phải. Tôi đã trông đợi họ trả tiền. Nhưng có vẻ chỉ tính cách thôi thì chưa đủ, mấy lão ủy viên nói chúng quá chung chung và chẳng nói lên được điều gì. Tuy nhiên, tôi biết chúng rất có giá trị. Đừng khiêm tốn rằng “tôi chẳng là gì” nhé, công chúa! Cô thừa biết bản thân mình quan trọng thế nào với Phi Thiên. Sẽ không hay ho nếu có người lợi dụng được điểm yếu, hay thậm chí sinh mạng của cô. Dùng nguyên một chiếc Thần Sấm mỗi tháng đốt hơn mười cục quang tố, sử dụng toàn bộ đội Thổ Hành để bảo vệ con gái mình, còn người cha nào như Bạch Dương đệ thập không, công chúa Lục Châu? Tôi nghĩ là có, nếu các ông bố có quyền lực như đệ thập. Và tôi tin chắc mọi người cha sẽ “mềm mại” hơn khi con gái mình gặp chuyện bất lợi.
Lục Châu cắn môi suy nghĩ. Nàng nói khẽ:
-Tại sao anh cho tôi biết những điều này? Chẳng phải anh làm việc cho Đại Hội Đồng?
-Làm người khác tin tưởng mình sẽ khai thác được nhiều thông tin hơn, phải chứ?
Lục Châu sực tỉnh như vừa thoát khỏi cơn mê. Nàng nhận ra mình đang ở trong cái bẫy tra khảo mà Mai Hoa đã giăng ra từ trước. Gã biết rõ tâm lý Lục Châu còn bấn loạn nên chủ động trò chuyện, sau đó im lặng để tạo áp lực lên công chúa rồi cô gái ngoan ngoãn bước vào cái bẫy của gã, chẳng cần ai thúc ép. Mai Hoa không nói giỡn, gã đích xác làm việc cho đội tra khảo và làm rất tốt, rất tài tình.
-Cô là người cứng rắn, nhưng đôi lúc mềm yếu quá mức. Kiểu như hai con người cùng tồn tại trong một thân thể vậy. Điều đó khiến cô dễ bị khai thác hơn. – Mai Hoa tiếp lời.
Lục Châu cựa mình, đôi tay cuộn trước ngực như thủ thế. Gã bốn mắt cười mỉm:
-Đừng nghĩ xấu về tôi quá nhiều. Nhưng tôi cũng không mong cô nghĩ tốt. Cứ bình thường và đối xử với nhau như đồng nghiệp. Cô hiểu chứ? Thực tình… tôi thích cô hơn đám Đại Hội Đồng. Điệp viên là thế, đồng cảm với kẻ thù là chuyện bình thường. Vậy nên mới sinh ra bộ phận phản gián. Tôi giám sát cô nhưng cũng có kẻ khác giám sát tôi. Đám ủy viên Đại Hội Đồng giám sát tôi mọi lúc mọi nơi, họ biết hết.
-Vậy anh không ngại khi nói ra những lời này?
-Bởi hiện tại tôi đang tự do và tôi biết rõ điều đó. Một điệp viên phải hiểu lúc nào “diễn”, lúc nào “sống”.
-Vậy anh đang diễn hay sống?
-Đoán xem? – Mai Hoa nhướn mày.
-Tôi đoán là cả hai.
Gã bốn mắt búng ngón tay:
-Cô hiểu vấn đề nhanh đấy! Nó có lợi cho quan hệ giữa hai chúng ta. Tôi thích cô, nhưng không vì thế tôi sẽ ngừng công việc. Nhưng có thể vì thích cô nên tôi sẽ nhắm mắt cho qua một vài thứ chăng? Cái đó còn tùy thuộc nhiều thứ. Nhưng chắc chắn một điều là tôi sẽ không bất lợi cho cô. Ở đây có người luôn sẵn sàng làm gỏi tôi mọi lúc mọi nơi… – Mai Hoa hất hàm về phía Chiến Tử và Vô Phong – …tôi không muốn thử độ bền của mình với hai gã này đâu.
Công chúa vẫn khoanh tay trước ngực, coi chúng như tấm khiên ngăn trở con cú vọ bốn mắt. Lúc trước, Mai Hoa trong mắt nàng là một gã thư sinh lập cập vụng về. Nhưng ngay lúc này gã đang thể hiện một bộ mặt hoàn toàn khác: đầy tính toán và khó đoán vô cùng. Liệu đây có phải bộ mặt thật của Mai Hoa hay chỉ là chiếc mặt nạ mà gã dùng để biểu diễn trước Lục Châu? Nếu vậy thì còn bao nhiêu gương mặt nữa mà gã còn cất giấu? Lục Châu không dám chắc.
Đáng ngạc nhiên là Mai Hoa chủ động đẩy Lục Châu vào thế cảnh giác. Gã không giấu giếm lý do đi theo nhóm công chúa cũng như hàng mớ toan tính từ phía Đại Hội Đồng. Lục Châu cảm giác mình đang diễn một vai nhỏ trong vở kịch lớn và những vai diễn lớn sẽ chiếm lĩnh sân khấu sau khi các vai nhỏ lọt thỏm vào bóng tối hoặc tệ hơn: biến mất vĩnh viễn. Không phải bây giờ nàng mới có suy nghĩ này, nhưng qua lời xác nhận của Mai Hoa, nó trở nên phũ phàng hơn nhiều.
-Chúng ta đều phục vụ mục đích của người khác, ở một khía cạnh nào đó, chúng ta là công cụ. – Mai Hoa nói – Khác biệt là giá trị công cụ. Cô có giá trị hơn tôi. Phi Thiên sẵn sàng đánh đổi để cô được an toàn, còn Đại Hội Đồng sẽ không vì tôi đâu. Tuy nhiên mỗi chúng ta đều có cơ hội để thoát khỏi tình cảnh này. Cô muốn hoàn thành nhiệm vụ để tạo lợi thế cho cuộc thi Tổng Lãnh năm sau, đúng chứ? Còn tôi hy vọng kiếm được một khoản tiền rồi trở về Diệp quốc. Tôi chán việc đi khắp nơi và làm phiền người khác rồi. Nhưng cho tới lúc ấy, tôi còn làm phiền cô dài dài.
Lục Châu nhìn ngọn đèn tím, tìm kiếm câu trả lời cho vô vàn thắc mắc trong lòng rồi buông lời. Nàng không chắc đang nói với Mai Hoa hay tâm sự với chính mình:
-Tại sao luôn có những bất đồng? Nếu Đại Hội Đồng giúp đỡ nhiều hơn, chúng tôi đã không phải đến đây.
Gã bốn mắt cười đằng mũi, như thể lời nói của Lục Châu chứa đầy sự hài hước:
-Bất đồng, bất đồng… phải… Xưa nay người ta luôn giải thích tại sao con người lại bất đồng. Ai đó nói rằng vì ngôn ngữ khác nhau nên con người tranh đấu với nhau. Hẳn là thời năm đế chế cổ đại hay thời phi cơ giới, người ta nói nhiều thứ tiếng lắm nhỉ? Vậy họ đánh nhau vì ngôn ngữ, kể cũng có lý. Nhưng ở thời hiện đại này, theo tôi biết, khoảng bảy phần mười dân số Tâm Mộng cùng chung ngôn ngữ và… tất cả vẫn đánh nhau ì xèo. Tôi nghĩ số lượng cuộc chiến tranh thời hiện đại chắc chỉ thua mỗi thời phi cơ giới.
-Vì lý do gì mà vẫn bất đồng?
Mai Hoa nhíu mày nhún vai:
-Tôi không biết. Nhưng theo cảm quan cá nhân, khi cùng chung ngôn ngữ, con người thấy vui. Họ vui vì dễ bề lợi dụng nhau, thay vì cố gắng hiểu nhau hơn.
-Vậy đến bao giờ con người mới hết bất đồng?
-Cái đó là câu chuyện của những nhà triết học, của những ông già ủy viên Đại Hội Đồng. Tôi nghĩ sẽ chẳng ai trả lời được đâu. Cô cũng đâu cần bận tâm nhiều thứ vậy? Việc của cô là nghỉ ngơi, ăn uống nạp một số dưỡng chất thiết yếu. Chúng ta sẽ khởi hành lúc 8 giờ, một đoạn đường dài và chúng ta sẽ đi suốt đêm. Ngủ, công chúa à, cô cần ngủ!
-Anh không ngủ sao?
Mai Hoa thở dài:
-Vô Phong bảo tôi canh gác. Ờ thì canh gác. Đằng nào tôi cũng không ngủ được nữa. Ngủ đi, công chúa. Đừng để ý tiếng ngáy … – Gã hất hàm về phía tên tóc đỏ – …cứ coi nó là một bản nhạc mới lạ. Ít nhất nó hay hơn tiếng gió ngoài kia nhiều lắm!
Công chúa không cười. Trước nay nàng vẫn luôn giữ nụ cười để tạo sự thân thiện nhưng lần này thì không. Lục Châu chấp nhận mình đang gặp những khúc mắc vượt quá sức chịu đựng của bản thân. Tâm trạng nàng đang bối rối và nàng sẽ không tìm cách che giấu nó. Sống đúng với cảm xúc không có gì sai và chẳng có gì hay khi cứ làm chim trong lồng – như Vô Phong từng nói. Lục Châu cuộn mình ở một góc rồi cố gắng ngủ. Trong một thoáng, nàng chợt nhớ những lời mà tên tóc đỏ từng nói, sau tự nhủ:
“Thôi thì… kệ mẹ nó vậy…”.
 
Quyển 3 - Chương 13: Đại Lộ Đỏ


Ác mộng không quay lại ngay sau lần xuất hiện đầu tiên mà sẽ kiên nhẫn đợi chờ, nhằm lúc con người vui vẻ nhất mới tấn công. Với Lục Châu, nó lui vào bóng tối và tạm thời buông tha cô gái.
Ở Hồi Đằng, giấc ngủ thường ngắn, đứt đoạn, tựa một cuốn truyện mỏng bị xé mất vài trang giữa và làm người ta hết muốn đọc những trang kế. Không thể nói Lục Châu đã có giấc ngủ ngon. Nàng luôn có cảm giác chập chờn, ý thức phập phù như trôi nổi trong làn nước. Đến 6 giờ tối, công chúa trở dậy với cái đầu đau nhức cùng thân thể bải hoải. Tuy vậy, trong lúc ngủ, nàng không gặp lại gương mặt với đôi mắt mở trừng trừng của người chết, cũng không nghe thấy tiếng khóc xé lòng trên Hồi Đằng Cô Mộ. Một giấc ngủ không trọn vẹn nhưng an lành, ít nhất cơn mệt mỏi từ chuyến đi hôm qua đã hết. Sau công chúa, đến lượt Chiến Tử tỉnh giấc. Cái mặt gã vẫn trơ trơ như nước đá, không ngáp, không mỏi mệt và nếu không để ý cặp mắt đỏ vè, ai nấy đều nghĩ gã thức nguyên ngày.
Cả nhóm dậy hết, còn mỗi Vô Phong hưởng thụ giấc nồng. Bao nhiêu tật xấu lúc ngủ, hắn phơi bày sạch sành sanh. Không chỉ sở hữu tiếng ngáy kinh hoàng, tư thế ngủ của hắn cũng hết sức kinh dị. Mai Hoa là nhân chứng sống cho câu chuyện này. Từ lúc nhận nhiệm vụ “canh gác”, gã bốn mắt chứng kiến Vô Phong lăn lê bò toài đủ kiểu. Tên tóc đỏ khi nằm sấp, khi nằm nghiêng, khi cuộn tròn như bánh xe lăn sang chỗ Chiến Tử, Mai Hoa rồi công chúa – đủ một vòng lại lăn về chỗ cũ. Giờ đây hắn đương an giấc kiểu trồng cây chuối: lưng tựa xuống đất, chân tựa vào tường và chổng ngược lên trời. Vô Phong không diễn xiếc mà ngủ, ngủ say hẳn hoi. Con bà nó đang ngáy thật kìa! – Mai Hoa dụi mắt tưởng mình ngủ mớ. Ngay cả Chiến Tử, kẻ thờ ơ với mọi thứ cũng phải trố mắt với kiểu ngả ngốn chẳng giống ai của Vô Phong. Công chúa cũng thấy bộ dạng khó coi đó, nàng nói khẽ:
-Để Phong ngủ thêm lát nữa. Chốc gọi anh ấy cũng được.
Ba người đồng ý với công chúa, họ tụm lại với nhau, coi như không biết thứ sinh vật tóc đỏ kia. Mai Hoa khởi động máy chiếu ba chiều, mở ra tấm bản đồ sa mạc Hồi Đằng. Trên bản đồ, gần sát mép khu lòng chảo có bốn chấm tròn màu trắng ở chung một chỗ, chính là bốn người nhóm công chúa. Từ chỗ họ tới thị trấn gần nhất dài khoảng một trăm năm mươi cây số (150). Hai phần ba đoạn đường đầu tiên khá an toàn, nhưng một phần ba còn lại là vấn đề bởi nó nằm trên một trục đường lớn xuất phát từ hướng đông bắc. Trục này khá quan trọng do đoạn đường cuối của nó chia thành ngã ba: nhánh tây dẫn tới Vùng An Toàn số 51, nhánh đông dẫn vào Sinh Lộ – nơi liên quân kiểm soát, còn đi thẳng là đến địa phận của Đầu Sói. Mai Hoa nói:
-Vừa an toàn, vừa nguy hiểm, có thể nói là vậy. Khá nhiều người qua lại tuyến đường này, từ dân tị nạn, thương nhân cho tới trộm cướp, thậm chí phiến quân. Khu này… – Gã chỉ vào đoạn đường phía trước ngã ba – …gọi là “Đại Lộ Đỏ”. Khi đó đội Ưng Xám phải tách ra, không thể đi chung nữa.
-Vậy ai sẽ cung cấp lương thực và nước uống cho chúng ta? – Lục Châu hỏi.
-Đại Lộ Đỏ không thiếu thứ gì, nhưng phải bỏ tiền ra mua. Cơ mà giá lương thực khá đắt, tôi sẽ cố lo chuyện đó.
Lục Châu cười:
-Anh không phải lo tiền bạc. Chúng tôi sẽ chi trả đầy đủ.
-Tôi không nghi ngờ tài lực của Phi Thiên. Nhưng ở Kim Ngân, mang nhiều tiền là vác quan tài trên lưng. Không chỉ bọn cướp, đám dân tị nạn cũng là nguy cơ. Nghèo đói sinh trộm cắp, muôn đời là thế. Hơn nữa…
Gã bốn mắt nói chưa xong thì tấm thân mang tên Vô Phong lộn úp, đổ uỵch xuống, chân suýt đè lên máy chiếu. Cả đám giật mình tưởng bom rơi, còn Vô Phong vẫn ngủ ngon lành như thể hành động của hắn chẳng hề đe dọa hòa bình thế giới. Chưa hết, hắn còn gác một chân lên… người Chiến Tử, sau ôm chặt cứng gã này. Chiến Tử bối rối, mấy lần hẩy con ký sinh tóc đỏ ra mà không được. Công chúa quay mặt vào tường nín cười, nàng chưa từng thấy Chiến Tử gặp khó như vậy. Mai Hoa không ngạc nhiên, Vô Phong có thể ngủ kiểu trồng chuối thì chuyện hắn ôm ấp ai đấy là quá đỗi bình thường. Gã bốn mắt ho khan vài tiếng rồi tiếp tục bàn việc:
-Ờm… chúng ta nói tới đâu rồi? À… tôi định nói là cô quá nổi bật, công chúa à.
Lục Châu mím môi cố gắng không nghĩ tới Vô Phong thêm nữa. Nàng hỏi lại Mai Hoa:
-Xin lỗi, anh vừa nói gì?
-Tôi nói cô quá nổi bật. Biết tại sao không? Cái mùi của cô. Nó không đơn thuần chỉ là nước hoa hiệu “Hồng Thường – 135”, nó mang mùi dòng dõi hoàng gia, mùi của người đã sống trong hoàng cung nhiều năm. Tin tôi đi, ở Kim Ngân không cần chó săn vì mũi bọn cướp thính hơn nhiều. Cô sẽ thu hút chúng. Còn nữa, đôi mắt của cô. Phải, đôi mắt màu xanh thẫm đó sẽ hớp hồn kẻ khác, nó tố cáo cô là một phụ nữ đẹp dù che mặt kín cỡ nào chăng nữa. Đừng nhìn ai đó quá lâu, tạm bỏ thói quen dùng nước hoa và… cô nên nhịn tắm vài ngày.
Công chúa ngớ người nghe Mai Hoa kiến giải. Nàng không chắc mình mang phẩm chất quý phái hay thu hút gì gì đấy, song loại nước hoa nàng dùng đúng là “Hồng Thường – 135”. Nó có mùi hương dịu nhẹ, tự nhiên và không làm người đối diện khó chịu. Tuy nhiên có hàng tá loại nước hoa tương tự, Lục Châu dùng thứ này chỉ vì sở thích. Nàng nghi ngờ năng lực của Mai Hoa không chỉ giới hạn trong tình báo và tra khảo. Nhưng không tắm ư? – Lục Châu rùng mình, cảm tưởng đám vi trùng sắp sinh sôi nảy nở trên da. Thiên tính của nữ giới là tắm gội, từ bỏ đâu dễ? Cô gái nhăn nhó:
-Anh có quá lời không vậy? Không tắm? Tôi sẽ… hôi hám!
-Bốc mùi một chút sẽ giúp cô an toàn. Tuy nhiên, để cô tới giai đoạn “bốc mùi”, e rằng cần kha khá thời gian. Hãy chịu khó một chút, công chúa. Cái mùi của cô sẽ thu hút nhiều thứ, ví dụ…
Vô Phong ngáp một tiếng lớn cắt ngang lời Mai Hoa. Hắn buông Chiến Tử, vươn vai duỗi tay duỗi cẳng rồi quay ngoắt sang trái, chân gác lên người Mai Hoa, đầu thì gối lên… đùi công chúa. Lục Châu cấm khẩu, bần thần hồi lâu. Trong lúc công chúa chưa kịp phản ứng, tên tóc đỏ bất giác khịt khịt mũi, đôi tay vô thức ôm lấy eo cô gái rồi… rúc vào lòng nàng ngủ ngon lành. Bản mặt tên này lúc đó thực quá ăn rơ với hai chữ “đê tiện”. Lục Châu nhìn Mai Hoa, gã bốn mắt nhún vai, ngón tay trỏ xuống tên tóc đỏ:
-Đây là một ví dụ điển hình.
Công chúa không bình luận thêm nữa. Tình cảnh này đủ khiến nàng khó thở chứ đừng nói trả lời.
Phải mất một lúc Lục Châu mới gỡ được Vô Phong ra và cũng ngần ấy thời gian để nàng gọi hắn dậy. Tên tóc đỏ tỉnh giấc không hẳn vì công chúa mà vì cái bụng kêu ca dữ dội. Thấy cả đám nhìn mình chằm chặp, Vô Phong ngạc nhiên:
-Tôi dậy muộn quá à? Xin lỗi, nhưng còn thời gian ăn không? Đói quá!
Lục Châu lắc đầu và nói mọi người đang chờ hắn, sau đó cả nhóm bắt đầu bữa ăn. Thức ăn chỉ toàn món đóng hộp đủ dinh dưỡng song kém ngon miệng, cộng thêm nước tăng lực Thổ Hành làm đồ giải khát. Điểm nhấn đáng kể là lô túi giấy thực phẩm mỏng dính mà Vô Phong thửa từ quân doanh số 28. Nhiệt độ ở sa mạc đang chuyển lạnh nhưng cát hẵng còn nóng rãy, đủ thời gian để Vô Phong chôn những túi giấy xuống cát. Sau năm phút, chúng nở phình như túi bỏng ngô, bên trong đựng món thịt gà nóng hổi cùng nước sốt. Không tệ! – Cả đám gật gù khi thưởng thức món này, còn tên tóc đỏ ước gì mình đã vơ vét nhiều hơn.
Không khí giữa bốn người khá trầm lặng. Ai nấy tập trung ăn, hầu như không nói với nhau câu nào. Duy Vô Phong hơi lấn cấn. Hắn nhớ trước lúc tỉnh dậy có cảm giác rất thoải mái, như thể ôm được cái gối vừa bự vừa mềm. Hắn nói chuyện này với mọi người, đoạn hỏi cái gối đâu và ai giữ nó. Mai Hoa liền nghiêng đầu sang Chiến Tử:
-Nó đây!
-Là sao? – Tên tóc đỏ nhíu mày.
-Cái gối của cậu đây! Ôm hàng tiếng đồng hồ không chịu bỏ, phải không công chúa?
Lục Châu không đáp nhưng ngừng ăn, nàng sợ nếu ăn tiếp sẽ chết sặc vì cười. Vô Phong ban đầu không tin, nhưng trông biểu hiện của công chúa, mặt hắn đần thối rồi tự hỏi mình đã gây nên tội nghiệt gì. Hắn khẳng định chuyện này mà đến tai Tiểu Hồ, con nhỏ tinh quái đó sẽ bêu riếu hắn hàng tháng trời. Khốn nỗi Lục Châu rất thân thiết với cô ta, đàn bà lại vốn đa sự nên thể nào sự tích hôm nay cũng lan truyền khắp Thần Sấm, không chóng thì chày. Nhơ rồi, tấm thân tôi nhơ nhuốc thật rồi! – Vô Phong thẫn thờ, lòng dạ chẳng còn hứng thú ăn uống, thầm nghĩ chết quách đi cho bớt ô nhục.
Nửa tiếng sau, bữa ăn kết thúc và chẳng có màn tự vẫn nào của tên tóc đỏ. Họ đốt tất cả túi giấy, hộp đựng nhằm thiêu hủy mọi dấu vết, đề phòng có kẻ bám đuôi. Người duy nhất đang đuổi theo họ – theo Lục Châu biết – là Thú. Ngày đầu tiên đã qua, Lục Châu vẫn chưa nhận được tin tức nào của gã này ngoài lời khẳng định chắc như đinh đóng cột từ thuyền trưởng Nhất Long: Thú sẽ tới. Bất quá gã tới lúc nào thì không ai dám khẳng định. Lục Châu lo rằng với tình trạng khí hậu khắc nghiệt ở Hồi Đằng, khéo một tuần nữa cũng chưa thấy mặt Thú. Vả lại gã chưa từng tập luyện cùng nhóm, liệu có ổn? – Công chúa nghĩ ngợi.
Cả đám nghỉ ngơi thêm nửa tiếng, đến 8 giờ thì khởi hành. Khi bước ra khỏi căn nhà cát, bốn người gặp gió lạnh từ đằng đông quật tới và nghe thấy những luồng cát bay lào xào bên tai. Chúng, những nô lệ của bóng tối, đang hò reo chào mừng nhóm công chúa quay lại không gian đen đặc khổng lồ. Lúc này chỉ số nhiệt độ sa mạc chỉ loanh quanh trong năm đầu ngón tay. Vô Phong rùng mình, cảm giác một lưỡi bào buốt giá đang nạo sạch từng lớp quần áo, lột từng mảng da thịt. Mười hai tiếng bộ hành trong cái lạnh, quãng đường dài dằng dặc ẩn tàng vô số hiểm họa, áp lực vô hình song khủng khiếp từ màn đêm, giám sát nhất cử nhất động của Chiến Tử… từng ấy thứ đang chờ đợi Vô Phong. Phía bên kia, Lục Châu thu hồi những đoạn sa kết tuyến, ngôi nhà cát sụp xuống như chưa hề tồn tại. Công chúa kiểm tra ba lô lần nữa, sau khi chắc chắn giấy thông hành vẫn an toàn, nàng nói:
-Chúng ta vẫn giữ đội hình cũ nhé, ai có ý kiến không? Không hả? Vậy đi thôi!
Bốn người đeo kính nhìn đêm và dưới sự dẫn đường của Mai Hoa, họ bắt đầu dấn thân vào bóng tối. Trên cao, phi thuyền Ưng Xám cũng nhập cuộc. Qua bộ đàm, nhóm công chúa có thể nghe giọng cô nàng A2:
-Chúng tôi đã trở lại. Mọi người khỏe cả chứ? Được rồi, có vài thông tin mọi người nên biết. Nhiệt độ ngoài trời là 2 độ C, vận tốc gió hai mươi dặm một giờ, không lý tưởng lắm. Tôi nghĩ đêm nay mọi người sẽ khó đi xa. Công chúa, cô nghe rõ chứ? Tôi…

Không đợi A2 nói hết, anh chàng A1 lập tức chen ngang:
-Tình hình ổn định, trong bán kính mười cây số không có dấu hiệu khả nghi. Tuy nhiên gió cát mạnh khiến tầm nhìn của chúng tôi bị hạn chế. Có lẽ chúng tôi nên kiểm tra thêm các khu vực lân cận, hãy luôn cảnh giác và giữ liên lạc.
Ánh đèn đỏ từ chiếc phi thuyền chậm rãi di chuyển về hướng đông. Như chợt nhớ ra điều gì, Vô Phong gỡ kính rồi ngẩng mặt nhìn bầu trời. Một chút thất vọng len lỏi vào tâm trí hắn.
Đêm nay không có trăng.

Sau nhiều giờ cuốc bộ, nhóm công chúa chẳng rõ đã đi được bao xa bởi còn mải vật lộn cùng gió, cát và bầu không gian với mức nhiệt số âm. Sự lạnh lẽo không đứng nguyên một chỗ, nó bện vào những ngọn gió đông, quất xuống bốn người họ như đòn roi vọt quất lưng đám nô lệ. Giả như cái lạnh có hình hài, bốn người đã vùng dậy giết chết nó ngay tức thì. Họ cũng chẳng rảnh coi xem cảnh vật xung quanh có gì đổi khác. Nhưng té ra đấy là chuyện hay bởi mọi thứ ở sa mạc này đều chung cái tên “Nguyễn Y Vân”, nhìn vào chỉ thêm nản lòng.
Giá rét làm Vô Phong nhớ nhung cái nóng ban ngày. Cái nóng chảy mỡ khó chịu và đầy bức bối đó, Vô Phong thấy nó đáng yêu đến kỳ lạ. Giá rét khiến hắn nghĩ kho tàng phép thuật khổng lồ của thế giới Tâm Mộng thực chất là mớ rác rưởi bởi chẳng có phép thuật nào thay đổi thời tiết. Tên tóc đỏ bắt đầu tìm ra chất thơ mộng trên những con phố vắng tanh như nghĩa địa ở Vùng An Toàn số 28, so với nơi quái quỷ tối như hũ nút này, chúng lãng mạn hơn nhiều. Trước lúc tới sa mạc, hắn rất háo hức vì được dấn thân phiêu lưu, nhưng sự háo hức ấy như cục nước đá đang tan chảy trên mặt cát nóng. Hồi Đằng là thế. Những kẻ chôn xác ở đây vì đói khát thì ít mà chết bởi tuyệt vọng thì nhiều. Trong mắt người băng qua Hồi Đằng, con đường phía trước mênh mông như đại dương không điểm dừng. Không chỉ lòng quyết tâm mà cần nhiều phẩm chất hơn thế để vượt qua sa mạc này. Với công chúa, “nhịn tắm” là một phẩm chất như vậy.
Đàn ông có thể nhịn tắm vài ngày, vài tuần hay… cả tháng, không vấn đề. Còn với nữ giới, bất kể sang hèn hay địa vị xã hội cao thấp thế nào, một ngày không tắm là thảm họa diệt vong. Ưa thích tắm gội là thiên tính của họ. Riêng Lục Châu, việc tắm thậm chí được quy ra thời khóa biểu và nâng tầm nghệ thuật. Ở hoàng cung Phi Thiên, công chúa có phòng tắm rộng lớn, có những cô hầu gái giúp nàng làm sạch bản thân, sở hữu bộ sưu tập ti tỉ loại dầu thơm dưỡng da hay nước hoa mà bất cứ cô gái nào cũng ao ước. Nhưng đó là chuyện ngày hôm qua. Ngày hôm nay là sa mạc và chẳng có cái bồn hoa lệ nào dành cho cô gái.
Thực chất việc tắm táp ở sa mạc là dùng khăn ướt lau cơ thể bởi nước không có nhiều. Nhưng ngay cả việc này, Lục Châu cũng bị hạn chế. Mai Hoa khuyên nàng như vầy:
-Tôi nói rồi đấy, cô có thứ mùi quyền quý rất đặc trưng. Chịu khó đổ mồ hôi vài ngày đi, công chúa. Với lại chúng ta nên dành nước để uống, không phải mấy trò vệ sinh linh ta linh tinh. Tin tôi đi, bẩn dễ chịu hơn khát nhiều lắm!
Lục Châu nhăn nhó. Bên trong nàng diễn ra một trường ác chiến giữa lý trí và thiên tính; lý trí nói nàng quá đỏng đảnh chỉ nghĩ việc chải chuốt, thiên tính lại khiến nàng rùng mình khi nghĩ cảnh vài ngày tới sẽ trở nên hôi hám. Nhưng bằng quyết tâm sắt đá, nàng đành nghe lời Mai Hoa, dù hơi miễn cưỡng. Hành trình tới Kim Ngân do nàng lựa chọn, vì vậy nàng phải tự gánh lấy những hệ lụy, khó khăn hay hậu quả. Công chúa thấy so với lần lạc vào đất chết ở Lạc Việt, quằn quại nguyên ngày với những xác sống thường xuyên ói mửa giòi bọ, nhịn tắm không phải vấn đề lớn. Chuyện nhỏ! – Nàng tự trấn an.
Nhưng hóa ra “chuyện nhỏ” này phiền phức hơn Lục Châu tưởng tượng. Nàng ngộ ra rằng đời người dễ phát điên vì mấy chuyện tủn mủn vụn vặt hơn những chuyện trọng đại.
Sau ba ngày, nhóm công chúa đã vượt qua bảy mươi cây số, trung bình một ngày đi được hơn hai mươi cây, kém xa so với lúc khởi hành. Nhưng cần nói rằng quãng đường khắc nghiệt hơn gấp bội, đi được từng ấy là cả nỗ lực to lớn. Sau mỗi cuộc hành trình, tất cả họ đều kiệt sức, thân thể ướt đẫm mồ hôi dù suốt đêm trầm mình trong gió rét cắt da cắt thịt. Cũng thời gian ấy, Lục Châu dùng nước chỉ – để – uống, tuyệt không dùng vào việc khác. Nhưng từng ngày trôi qua, nỗi bứt rứt mang tên “tắm gội” quấy nhiễu cô gái càng dữ, như một đứa trẻ mè nheo đòi mẹ mua quà và khi không được đáp ứng thì khóc rống lên. Nữ giới vốn yếu đuối trước bản năng của chính mình, Lục Châu cũng vậy.
Đến ngày thứ ba, tính cách công chúa thay đổi khá nhiều: nàng lớn giọng hơn, dễ cáu gắt hơn, ngữ điệu thường cụt lủn không đầu không cuối, hệt một quả bom đã tịt ngòi nhưng tiềm ẩn nguy cơ nổ lanh tanh bành bất cứ lúc nào. Tắm gội – chung quy vì hai chữ ấy mà nàng khổ sở. Nàng chắc mẩm mình đã thành một ổ dịch bệnh truyền nhiễm, nàng thấy từng đàn vi trùng đang bò lổm ngổm trên tóc, trên da, trên từng ngóc ngách cơ thể. Suy nghĩ đó càng được củng cố khi ba gã đàn ông hạn chế tiếp xúc công chúa. Mai Hoa hay Vô Phong đã đành, đằng này Chiến Tử - người mà Lục Châu tin tưởng nhất cũng giữ khoảng cách với nàng. Điều này làm Lục Châu khó chịu gấp vạn lần chuyện nhịn tắm. Tối hôm ấy, trong căn nhà cát, Lục Châu ngồi kế bên Chiến Tử và nhìn gã rất lâu, tới nỗi gã phải mở miệng:
-Chuyện gì sao, công chúa?
-Tại sao anh tránh mặt em? Có phải vì… em quá hôi hám?
Hàng lông mày Chiến Tử chau lại rồi cả khuôn mặt nhăn nhó. Nên nhớ bản mặt gã trước nay như cục nước đá, câu hỏi của Lục Châu phải chứa đựng ý nghĩa lớn lao lắm mới làm nó biến dạng. Chiến Tử đáp lời:
-Cô nói gì thế, công chúa? Tôi không hiểu?! Chỉ là tôi nghĩ cô muốn được ở một mình.
Lục Châu ngẩn người, tự hỏi mình nói thế bao giờ. Thực tình, ba gã đàn ông đều hiểu phải tránh xa phụ nữ khi họ tức giận. Thực sự, Lục Châu chẳng hôi hám như nàng tưởng. Tối hôm đó, Vô Phong lại trình diễn màn ngủ ngáy quái dị; hắn trồng cây chuối, lăn một vòng quanh nhà cát rồi ngả lên đùi công chúa, ôm lấy eo nàng ngủ ngon lành. Hắn làm thành thục, nhanh gọn tới nỗi Lục Châu chẳng kịp phản ứng. Và trông điệu bộ tên tóc đỏ mới đê tiện làm sao: miệng cười nhếch mép, mũi hít hà như thể đang an giấc trên một cánh đồng đầy hương hoa. Trông cảnh tượng này, Mai Hoa bịt mồm, cố chuyển tiếng cười thành tiếng ho khan, sau nói:
-Biết tôi nghĩ gì không, công chúa? Có một vài loại người mà những dơ bẩn thể xác không thể làm mất đi cái mùi cao quý của họ, chỉ có cách tra tấn hoặc đày đọa tinh thần họ suốt thời gian dài thì may ra. Ồ, tôi đùa thôi, đừng để ý!
Câu chuyện của Lục Châu chỉ là một phần nhỏ trong vô số khó khăn trên đường đi. Không phải tự nhiên mà Mai Hoa khuyên công chúa ngừng tắm rửa. Càng gần Đại Lộ Đỏ, khí hậu càng khắc nghiệt, gió cát như bầy đỉa vô hình quấn bám người bộ hành và hút cạn sức lực của họ. Hệ quả là nước được tiêu thụ nhiều hơn bình thường. Ngay cả Mai Hoa, kẻ có kinh nghiệm sống mười năm ở Kim Ngân cũng không uống nước ít hơn ba người đồng đội. Trước cơn khát, mọi kinh nghiệm hay lý luận đều vô nghĩa. Ngày thứ hai, nhóm công chúa đã sống mà không có nước gần ba tiếng trước khi Ưng Xám kịp mang hàng viện trợ tới. Vô Phong sẽ không bao giờ quên một trăm tám mươi phút kinh hoàng đó. Vì khát cháy cổ, hắn đã cố liếm láp, hy vọng có giọt nước nhỉ ra từ cái chai rỗng khô khốc. Hắn thậm chí chẳng còn hơi sức chửi Vạn Thế, cả ngoài miệng lẫn trong tâm trí. Tư tưởng của hắn phân thành hai nửa: nửa này mong tìm thấy nước, nửa kia muốn chết ngay để thoát khỏi tình cảnh khốn khổ. Mãi khi Ưng Xám mang hàng viện trợ đến, tên tóc đỏ mới hoàn hồn, cảm giác vừa trở về từ Tụ Hồn Hải.
Nhưng thời tiết hay nước uống không phải lý do làm bọn Vô Phong chậm trễ. Trong cuộc hành trình, họ không chạm trán trộm cướp nhưng gặp nhiều thứ nguy hiểm hơn: dân tị nạn và đoàn thương nhân. Ngày đầu tiên, bọn Vô Phong phát hiện một nhóm tị nạn khoảng hai trăm người từ hướng bắc đi xuống, trùng với đường di chuyển của họ. Cực chẳng đã, bốn người phải chuyển sang đường vòng bởi chẳng thứ gì hấp dẫn bọn cướp bằng đám dân chúng yếu đuối tay không tấc sắt. Sang ngày thứ hai, một đoàn thương nhân từ phía tây nam đi lên và buộc nhóm công chúa dừng bước. Hầu hết dân buôn ở Kim Ngân đều thuê chiến binh bảo vệ hàng hóa, nhưng bọn cướp chẳng hề e sợ mà sẽ liều lĩnh hơn, nguy hiểm hơn. Những cuộc đánh nhau giữa đội áp tải hàng và lũ cướp xảy ra như cơm bữa. Nhưng theo lời Mai Hoa, nếu có cơ hội, nhiều đoàn thương nhân sẵn sàng cướp bóc. Ở Hồi Đằng, mọi thứ đều có giá trị và ai cũng có thể trở thành kẻ ác. Nhóm công chúa một lần nữa phải chuyển qua tuyến đường mới dài hơn, tiến độ di chuyển vì vậy chậm hơn nhiều so với dự kiến.
May mắn cho bọn Vô Phong, rạng sáng ngày thứ tư không xuất hiện bất cứ sự cản trở nào. Chướng ngại duy nhất là thứ thời tiết ẩm ương của sa mạc, tuy nhiên họ đã quen với nó. Với họ, những đoạn đường cát lún nuốt chân người, những cơn bão cát từ hướng đông đổ tới hay khí hậu lạnh giá giờ đây chỉ là chút khó chịu ngoài da, không hơn. Sự quen thuộc khiến họ bớt mệt mỏi, bớt tiêu thụ nước uống và có sức chuyện trò thay vì im lặng như mấy ngày trước. Trong lúc nghỉ chân, Vô Phong hỏi:
-Tại sao gọi là Đại Lộ Đỏ?
-Vì ở đó có những dải cát màu đỏ. Đại khái… rất khó giải thích, cậu sẽ gặp nó sớm thôi. – Mai Hoa đáp lời – Truyền thuyết kể thời phi cơ giới, nơi đấy diễn ra rất nhiều trận đánh lớn, máu đổ nhiều đến mức nhuộm màu cát, về sau gọi là Đại Lộ Đỏ. Nhưng là chuyện kể thôi, đừng tin. Chúng ta sẽ nghỉ chân ở Đại Lộ trước khi đến thị trấn đầu tiên.
Theo Mai Hoa mô tả, Đại Lộ Đỏ là khu nghỉ chân của mọi loại người trong sa mạc, từ trộm cắp, thương nhân, dân tị nạn, thậm chí cả lính liên quân. Nó không thuộc quyền sở hữu của ai, cũng không bị xâm phạm bởi bất cứ ai, lại có những luật lệ mà mọi người phải tuân theo, kể cả Đầu Sói. Mai Hoa tiếp lời:
-Ở đấy không cho phép nổ súng hay “bụp” nhau, tất nhiên trộm cắp thì vẫn có. Người ta đồn Đại Lộ thuộc về một trong bảy người mạnh nhất, không rõ là người nào nhưng luật lệ do kẻ đó đặt ra thì chưa ai dám phá.
Sau cuộc nghỉ chân, nhóm công chúa lại tiếp tục cuộc hành trình. Ngay đêm ngày thứ tư, họ đi được hơn ba mươi cây số và tới 6 giờ sáng ngày thứ năm, họ chỉ cách Đại Lộ Đỏ mười cây. Nhưng bắt đầu từ đây, tổ Ưng Xám ngừng nhiệm vụ giám sát. Xung quanh Đại Lộ có hàng ngàn cặp mắt, sẽ chẳng tốt lành nếu kẻ nào đấy phát hiện trên bầu trời có bóng dáng phi thuyền. Phải đợi lúc nhóm công chúa tới Dương Hoa Tụ, tổ Ưng Xám mới quay trở lại. Cô nàng A2 tiếc nuối vô cùng và luôn chủ động bắt chuyện Lục Châu, tựa hồ không muốn rời xa. Vốn bản tính không muốn mếch lòng ai, công chúa đành bớt chút sức lực để tán gẫu cùng cô ả. Cuộc nói chuyện giữa hai cô gái hẳn sẽ kéo dài bất tận nếu anh chàng A1 không cắt ngang rồi đưa phi thuyền về căn cứ.
Mười cây số còn lại là một con đường hẹp, ngoằn ngoèo, nằm lọt trong hệ thống gồm những triền cát cao từ năm mét trở lên. Các triền cao quá đầu người, đường lại nhiều ngã rẽ nên nơi đây chẳng khác gì mê cung. Suốt hai tiếng bộ hành, tầm nhìn của nhóm công chúa luôn bị triền cát che khuất, lắm lúc họ nghĩ Mai Hoa đã lạc đường. Nhưng gã bốn mắt không để tâm, cũng chẳng cần la bàn định hướng hay bản đồ, cứ thế mà đi như thể thông thuộc nơi này làu làu. Tới khi gặp một dải đồi lớn chắn ngang đường, Mai Hoa cười:
-Đến rồi!
Theo lời gã, cả đám liền rút gậy trọng lực băng qua đồi cát. Đường đồi vừa dốc vừa dài, leo trèo rất tốn sức. Riêng Vô Phong không dám đi nhanh vì sợ tái lặp cảnh lăn lông lốc xuống chân đồi. Hắn thò chân kiểm tra từng bước một, chắc rằng không có hục cát lún nào mới dám đi tiếp. Tên tóc đỏ dự tính khi quay về Phi Thiên sẽ viết một cuốn sách mà trong đó dành toàn lời lẽ chửi rủa cho sa mạc Hồi Đằng. Nhưng ý định ấy biến mất ngay ở khoảnh khắc mà Vô Phong đặt chân lên đỉnh đồi, bởi trước mắt hắn là Đại Lộ Đỏ.
Cách ngọn đồi năm cây số về hướng tây nam là hai bức tượng màu đen tím. Dù đứng ở xa, Vô Phong vẫn có thể hình dung vóc dáng khổng lồ của chúng đang áp đảo tầm mắt. Cả hai tượng tạc hình quái thú đầu có sừng, đuôi dài, thân ngựa đang tung vó, trên lưng quái thú có kỵ sĩ giương kiếm tựa chừng sắp xuất trận. Hai bức tượng nằm cách nhau năm cây số, phía sau mỗi tượng có hai dải núi xám thẳng tắp chạy song song. Giữa hai dải núi là miền cát trắng, xen lẫn là vô số vệt cát đỏ tựa mạch máu nổi hằn trên lớp da trắng mịn. Khó mà khẳng định cát màu đỏ do máu nhuộm, song một điều chắc chắn rằng nơi đây đã từng là cửa ải, đã chứng kiến những trận chiến vĩ đại nhất thời phi cơ giới. Vô Phong bị hút hồn vào hai bức tượng. Chúng đã vỡ nát nhiều chỗ; tượng bên phải vỡ thân, tượng bên trái mất đầu kỵ sĩ, nhưng khí thế oai hùng của chúng vẫn nguyên vẹn như thuở mới ra đời. Chúng chẳng huy hoàng nhưng vượt qua thời gian, vượt qua cả không gian lờ nhờ ảm đạm đặc trưng của Hồi Đằng, hai bức tượng vẫn rực rỡ một cách khó hiểu. Và sau bao năm tháng, chúng vẫn đủ sức thổi bùng lên khao khát chiến đấu, khao khát vùng vẫy trong ranh giới sinh tử và khao khát được chết trong trái tim những gã đàn ông. Không riêng tên tóc đỏ, ngay cả Chiến Tử cũng ấn tượng mạnh trước nơi này, gã hơi hé miệng, vừa để xả bớt cảm giác choáng ngợp, vừa cảm nhận không khí chiến trường cổ xưa.
-Đến rồi, thưa các vị! – Mai Hoa cúi người đưa tay, điệu bộ như một hướng dẫn viên du lịch – Chào mừng đến với Đại Lộ Đỏ!
 
Quyển 3 - Chương 14: Đóng dấu


Nhóm công chúa không phải là những người duy nhất muốn trú chân ở Đại Lộ Đỏ. Trên đường xuống chân đồi cát, Vô Phong trông thấy nhiều đoàn bộ hành từ phía bắc đang hướng về Đại Lộ, phần đông là dân chúng Âm Giới – những người phải rời bỏ nhà cửa vì chiến sự giữa quân doanh số 28 và đám phiến loạn cách đây vài ngày, hoặc không thể tìm nơi trú chân trong Vùng An Toàn. Có đoàn rất đông ước chừng vài trăm nhân mạng, có đoàn vài chục, lại có nhóm lẻ tẻ dăm ba người. Bọn họ kẻ hớt hải, kẻ mệt mỏi, kẻ kiệt sức vì chạy trốn suốt đêm và giờ đang bước đi bằng tinh thần, kẻ rệu rã bởi quá chán chường cuộc sống nay đây mai đó. Nhưng dẫu tuyệt vọng thế nào chăng nữa, tất cả vẫn cố sức lết tới Đại Lộ. “Trước khi tự tử, hãy về Đại Lộ Đỏ”, câu nói đó đã lưu truyền khắp Âm Giới hàng chục năm nay.
Lẫn trong dòng người tị nạn là vài đội thương nhân. Đám này mang theo những con quái thú da nâu thấp lùn, bốn chân ú na ú nần như súc gỗ cổ thụ, thân hình tròn ung ủng với cái bụng phệ chạm đất, đầu gắn liền với thân và hầu như không thấy khúc cổ, trên trán mọc hai cái sừng nhỏ. Loài vật này nhìn tổng thể chẳng khác cục xúc xích khổng lồ. Chúng lặc lè bước, lưng chất đống bọc hàng hóa và trĩu nặng hai bên hông. Vô Phong không nghi ngờ sức tải của lũ quái thú; với vóc dáng vật vã đó, khoác thêm lượng hàng gấp đôi cũng chẳng thành vấn đề với chúng. Nhưng, tên tóc đỏ không tin chúng có thể băng qua những đường triền sa mạc hay bãi cát sụt lún bằng thân hình ục ịch ấy. Hắn hỏi Mai Hoa:
-Mấy con này là cái giống gì thế?
-Dân bản xứ gọi nó là “giác cầu”, còn người nước ngoài hay gọi nó là con “cao su”.
Vô Phong nhướn mày không hiểu cái tên “cao su”. Vừa lúc ấy, từ đằng xa, một con giác cầu sụt chân xuống hố cát, toàn thân lún quá nửa so với mặt đất. Cần phải nói rằng người bị sa chân xuống hố cát sẽ không chết, song lại không thể tự leo lên vì cát lèn chặt cơ thể, trọng lượng tăng gấp bội, cần một hoặc hai người khác giúp sức, anh ta mới thoát khỏi cái hố. Nhưng trường hợp này là giác cầu, thứ sinh vật sở hữu hình thể lẫn trọng lượng gấp mười lần con người. Vô Phong dám cá trăm đôi tay xúm lại cũng chưa chắc kéo nổi con thú béo núc ấy ra khỏi hố.
Nhưng trái ngược suy nghĩ của hắn, chẳng ai trong đoàn thương nhân để tâm con giác cầu, vẻ như họ thây kệ sự sống chết của nó. Tức thì một cảnh tượng lạ lùng diễn ra trong mắt Vô Phong: con thú bỗng rùng mình, tấm thân từ từ dâng cao trên bốn cái chân dài ngoẵng mà trước đấy vài giây còn ngắn ngủn úc ích thịt. Nó nhấc chân, bước ra khỏi hố rồi trèo lên mặt đất một cách nhẹ nhàng và chậm rãi. Lúc này con thú cao vống, những người bên dưới phải ngước mỏi cổ mới thấy cái bụng dính đầy cát của nó. Xong việc, con giác cầu rùng mình, thu ngắn bốn chân, sau lại tiếp tục cuộc hành trình. Chứng kiến sự việc từ đầu chí cuối, tên tóc đỏ trố mắt, mồm méo xẹo. Hắn liền quay sang Mai Hoa:
-Cái quái gì thế? Con đó làm bằng cao su thật à?
Mai Hoa cười rần:
-Dĩ nhiên là không! Cấu trúc cơ thể loài giác cầu cho phép nó co dãn tùy ý. Khung xương, da, mạch máu, nội tạng… mọi thứ trong cơ thể nó có thể kéo dài hoặc thu gọn. Người ta bảo những thợ rèn Tuyệt Tưởng Thành lấy ý tưởng từ giác cầu và tạo nên thứ kim loại co dãn như ngày nay.
Tên tóc đỏ nhíu mày ngẫm ngợi. Bằng cái giọng nhỏ rí, hắn hỏi Mai Hoa:
-Thế nó làm dài “cái ấy” được không?
-Tôi không biết. – Mai Hoa thì thầm – Nhưng nghe đồn con đực và con cái có thể làm “chuyện ấy” trong khoảng cách một cây số.
Vô Phong đần mặt, không hỏi thêm câu nào về loài giác cầu nữa. Con bà nó… một cây số á! – Hắn mường tượng. Càng tưởng tượng phong phú bao nhiêu, cái mồm hắn méo xệch bấy nhiêu.
Nhóm công chúa rời ngọn đồi cát, gia nhập dòng người tị nạn và thẳng hướng đến Đại Lộ Đỏ. Mỏi mệt, thẫn thờ, bệ rạc … mọi từ ngữ thiếu sinh khí nhất đều toát ra từ những bộ y phục xỉn màu nhàu nát, bám đầy đất cát lẫn mùi súng đạn mà đám dân chúng Âm Giới khoác lên người. Họ đầy đủ thành phần già trẻ lớn bé song đều sở hữu vóc dáng gầy gò thiếu dinh dưỡng, nước da nâu sạm bởi khí hậu khô nóng, nét khổ ải hằn đầy gương mặt vì cuộc sống bấp bênh cùng đôi mắt trơ dại do chứng kiến quá nhiều cái chết. Nhân dạng của họ như sinh ra để miêu tả sự buồn bã, một nỗi buồn thảm ác độc tới nỗi có thể bóp chết niềm vui của kẻ khác chỉ bằng cái nhìn. Trong tay họ, vô số chiếc va li chẳng còn lành lặn; chúng đã tróc nước sơn ngoài, gãy quai xách hoặc bung nắp do bị va đập và quăng quật sau chuỗi ngày trốn chạy phiến quân hay bọn cướp đường. Vô Phong thấy rõ một chiếc va li thủng lỗ chỗ vết đạn còn chủ nhân của nó bước đi cà nhắc, bắp chân cuốn băng thấm đầy máu. Người Âm Giới dắt díu nhau thành hàng dài, vết chân chi chít mặt cát như viết thêm nỗi đau cho lịch sử năm mươi năm nội chiến của đất nước này.
So với người dân, đám thương nhân lại lắm dinh dưỡng hơn. Dẫn đầu đoàn thương nhân là chủ hàng, những kẻ an tọa trên lưng giác cầu và béo tốt chẳng kém gì con thú mà họ cưỡi. Họ hầu như chẳng bao giờ đụng chân xuống đất trừ lúc đi vệ sinh. Ngay lúc này, Vô Phong trông thấy một gã chủ hàng đang thưởng thức bữa sáng gồm bánh mì, thịt nguội và nước lọc. Gã ăn thả cửa, uống thả phanh, và giữa không gian khổng lồ đầy tĩnh lặng, tiếng nhai nuốt của gã làm đám dân chúng đói khát phát điên. Họ nửa muốn giết gã, nửa muốn cầu xin gã ban cho ít vụn bánh mì. Ở đây, ăn uống phè phỡn trước mặt kẻ khác vừa chứng tỏ đẳng cấp xã hội, vừa mang nghĩa sỉ nhục. Bảo vệ hàng hóa là đám kiếm sĩ, những kẻ đang ở giai đoạn “làm giàu” thay vì “tìm kiếm cái ăn” như dân chúng Âm Giới. Đại đa số bọn kiếm sĩ sở hữu gương mặt vô cảm cùng cực, tựa miếng kim loại chẳng hề có độ nhám – loại mặt trơn láng đặc trưng của quân giết người làm lẽ sống và dẫu bao nhiêu máu dính vào cũng trôi tuột đi. Để trở nên giàu có trên miền đất nghèo khổ, cách nhanh nhất là tự biến mình thành kẻ tàn ác.
Một điểm chung giữa dân chúng và thương nhân là tất cả đều bốc mùi nồng nặc. Dân tị nạn chẳng có đủ thời gian uống nước chứ đừng nói tắm rửa, còn với đám thương nhân thì tiền mới là thứ họ quan tâm, không phải sự sạch sẽ. Thành thử bầu không khí sình lên chất vị tổng hợp của mồ hôi, máu, thức ăn thừa dính trên quần áo cộng thêm mùi khăn khẳn đặc trưng của lũ giác cầu. Dù đã bịt kín mặt nhưng Lục Châu vẫn ngửi thấy mớ hỗn hợp kinh khủng đó, suýt nữa nôn ngay tại chỗ. Vô Phong sống ở chợ rác, bẩn thỉu thành quen, hôi thế này chứ hôi nữa hắn vẫn coi là bình thường. Chỉ duy cái mùi bốc lên từ lũ giác cầu khiến hắn hơi khó chịu.
Trong sự rệu rã, đoàn người tiến tới Đại Lộ Đỏ. Đi được một quãng bỗng có giọng nói từ phía xa vọng đến, nghe bập bõm vài chữ “Xếp hàng…”. Mấy vạn con người chẳng ai bảo ai, tự động xếp thành năm hàng dọc, mỗi hàng cách nhau nửa cây số. Các đội thương nhân cậy đông nhân lực, lắm vũ khí nên ra sức chen lấn hòng đi đầu. Nhưng gần tới cổng Đại Lộ, bọn họ ngừng xô đẩy và buộc phải xếp sau người khác. Rõ ràng đám này chẳng ngại kẻ ra lệnh xếp hàng hay sự uy nghiêm từ hai bức tượng khổng lồ chắn trước Đại Lộ. Chủ nhân của Đại Lộ Đỏ mới là người khiến họ e sợ. Giỡn mặt một trong bảy người mạnh nhất? Không gã thương gia nào đủ điên làm chuyện đó.
Nhóm công chúa hiện đứng ở hàng thứ hai tính từ bên phải sang. Mai Hoa đi đầu, trên tay là hai đồng vàng và gã đang lúi húi lục hết túi quần nọ rồi túi áo kia. Lục Châu thấy vậy bèn nói:
-Tôi có tiền đây…
Mai Hoa lắc đầu cười:
-Nghĩ tôi nghèo túng vậy sao, công chúa? Chỉ thiếu một đồng vàng thôi, nhưng mà tôi chỉ có tiền chẵn, không có đồng lẻ. Chờ chút, nó ở quanh đây thôi… À! Đây rồi!
Gã bốn mắt thở phào khi tìm thấy đồng vàng thứ ba trong túi quần, đoạn tiếp lời:
-Ở Âm Giới có câu “dù thế nào vẫn phải có ba đồng vàng”. Để vào Đại Lộ Đỏ, cô cần tối thiểu ba đồng vàng. Trả nhiều hơn cũng được nhưng họ không thối lại tiền thừa đâu.
-Mỗi người trả ba đồng vàng? – Lục Châu hỏi.
-Không, chỉ cần một người trả và người đó sẽ bảo lãnh cho người khác. Một người bảo lãnh cho một nghìn người cũng được. Nhưng nếu bất cứ ai gây chuyện không hay, người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm, thậm chí mất mạng. Vấn đề nằm ở chỗ đó! Thến chẳng ai muốn lo chuyện bao đồng hết.
Nhiệt độ sa mạc nhanh chóng tăng cao, không khí mỗi lúc thêm nóng bức. Trái ngược với nó là dòng người chậm chạp nhích từng bước một, ngàn đôi chân trong tư thế bồn chồn, trăm cặp mắt chốc chốc nghến ngó lên hàng đầu và chung câu hỏi “những thằng trên kia làm gì mà lâu quá thể?”. Nhóm công chúa cũng sốt ruột chẳng kém dân tị nạn, cuộc hành trình dài đằng đẵng đêm qua khiến họ thèm khát nghỉ ngơi hơn bao giờ hết. Vô Phong thi thoảng kiễng chân đếm xem còn bao nhiêu người nữa mới tới lượt mình, đếm chán thì ngửa cổ ngắm đám mây xanh xám khổng lồ rồi lại gục đầu nhìn mặt cát trắng khô khốc. Bất quá ngắm cảnh nơi này chỉ thêm xúc phạm đôi mắt. Dù tư duy kinh doanh thuộc loại hạng bét nhưng Vô Phong khẳng định nơi đây chẳng có tí ti cơ hội nào để phát triển du lịch, trừ phi thế giới này tồn tại thằng điên nhìn thấy cái “đẹp” ở đám mây ô nhiễm kia.
Nhưng định lý muôn thuở là con người nôn nóng bao nhiêu, mọi thứ quanh họ lề mề bấy nhiêu. Thời gian ở Hồi Đằng như con ốc sên bò lết, kéo dài rỉ nhớt của nó lên dòng người mòn mỏi đợi chờ. Tám giờ, chín giờ rồi mười giờ sáng, nhóm công chúa vẫn chưa thể vào Đại Lộ Đỏ. Lúc này, hơi nóng như đàn rắn chui qua quần áo cắn xé da thịt, bơm sự bức bối vào tinh thần con người. Khí hậu khắc nghiệt lẫn biển người đậm đặc hôi hám khiến Lục Châu xây xẩm mặt mày, nàng chống tay lên đầu gối, đầu óc nghĩ về bồn tắm ở hoàng cung Phi Thiên thành. Vô Phong thì cố kiềm chế nỗi háo hức đấm đá những thằng bỏ mẹ chây ì ở hàng đầu, còn Mai Hoa không ngừng vày vò ba đồng vàng, bàn tay gã liên tục phát ra những tiếng lách cách nóng ruột. Như thường lệ, kẻ duy nhất vẫn bình thản là Chiến Tử. Trừ lúc bước theo đoàn người hay đỡ lấy thân thể công chúa suýt đổ ập vì say nóng, gã cứ trơ trơ tựa bức tượng đá đang thi gan cùng sa mạc. Vô Phong dợm nghĩ cỗ máy “tiểu tiên nữ” của Hỏa Nghi còn giống người hơn gã này (*).
Chờ đợi trước Đại Lộ Đỏ thực là một món ăn mà Vô Phong không muốn thưởng thức lần hai. Hắn cảm giác tâm trí mình như miếng kẹo cao su bị kéo dài và khi dài quá mức, nó đứt đoạn rồi lôi hắn vào cơn mơ màng. Hắn không nhớ đã chờ bao lâu, đi bao nhiêu bước, chỉ biết bức tượng kỵ sĩ ngày càng phình to. Tới khi bức tượng vượt quá tầm nhìn, hắn chợt nhận ra mình đã ở trước cổng Đại Lộ. Giờ chỉ còn ba người nữa là tới nhóm công chúa. Tên tóc đỏ lập tức tỉnh ngủ, đầu nhích sang trái tìm xem cái quái gì đã làm hắn phải chờ gần ba tiếng đồng hồ. Câu trả lời nằm ở đám bảo vệ đứng trước Đại Lộ Đỏ. Họ gồm sáu người, năm trong số đó vận y phục màu cát, lưng đeo kiếm, súng trễ ngang hông và quàng khăn che mặt kín mít. Người thứ sáu không mang kiếm hay súng, cũng chẳng bịt mặt, y ngồi sau một chiếc bàn gỗ màu cánh gián cũ kỹ. Kẻ này được gọi là “quản lộ”. Có năm quản lộ đứng trước Đại Lộ Đỏ, ai muốn vào đều phải thông qua họ. Trên bàn của gã quản lộ có một máy chiếu ba chiều, một thùng sắt. Vô Phong để ý bên cạnh thùng sắt là cỗ máy lạ lùng hình ống cùng những nút bấm nhỏ. Hắn chưa từng thấy món gì tương tự vậy.
Phía trước nhóm công chúa là một cặp vợ chồng cùng đứa con nhỏ đang làm thủ tục vào Đại Lộ, song mọi việc chẳng dễ dàng cho họ. Người đàn ông chắp tay trước gã quản lộ, dáng vẻ gần như cầu xin:
-Xin ngài quản lộ! Chỉ thiếu một đồng vàng thôi, xin hãy cho chúng tôi vào! Chúng tôi sẽ làm việc trả nợ! Xin ngài, chúng tôi đã đi hơn năm trăm cây số rồi, chúng tôi không thể vào Vùng An Toàn nào cả. Xin hãy cho chúng tôi vào Đại Lộ!
Tay quản lộ chống thái dương, ánh mắt ơ hờ chẳng quan tâm nỗi khó khăn của gia đình nọ. Y mở máy chiếu ba chiều, tìm kiếm thông tin gì đấy trên màn hình ảo màu xanh dương, sau quay ra nở nụ cười khoe bộ răng vàng ố:
-Ở đây hết việc, thưa quý ngài. Chúng tôi có đủ người phục vụ, đủ người nấu ăn cho dân tị nạn, đủ người truyền tin… nói tóm lại là chẳng thiếu ai cả. Và nếu quý ngài không có đủ ba đồng vàng thì mời biến đi cho.
-Xin ngài! Chúng tôi chẳng còn nơi nào để đi nữa…
Tay quản lộ ngắt lời:
-Này! Này! Nhìn tôi này, thưa quý ngài! Ở đây có hàng vạn người chẳng còn nơi để đi, nhưng họ mang đủ ba đồng vàng. Luật là luật, nó đã tồn tại ở Đại Lộ Đỏ ba mươi năm. Vậy nên đừng mong tôi thông cảm hay phá luật vì cái gia cảnh khốn khổ của quý ngài. Quý ngài không còn nơi nào để đi nữa? Vậy tìm cái hố nào đấy, đâm đầu xuống đó và chết, tôi đếch quan tâm đâu! Biến đi trước khi tôi còn tử tế!
Người đàn ông vẫn chưa từ bỏ hy vọng. Ông ta quỳ xuống lạy lục van xin, hy vọng chút lòng thương nhỉ ra từ gương mặt đen đúa của tay quản lộ. Trông cảnh ấy, Lục Châu sinh lòng bất nhẫn, định bụng dúi vào tay người vợ một đồng vàng. Nhưng chưa kịp rút đồng vàng ra khỏi túi áo, Chiến Tử đã tóm lấy tay nàng, nói nhỏ:
-Không phải việc của chúng ta, công chúa.
-Anh không thể cản em như lúc ở Hồi Đằng Cô Mộ đâu. – Lục Châu đáp lời – Nếu không, em sẽ ghét anh thật đấy!
-Ghét bao nhiêu tùy cô, tôi không quan tâm. Nhiệm vụ của cô ở đây là Ác Lạc Điểu, không phải những con người này.
Bàn tay Chiến Tử như kìm sắt khiến Lục Châu không thể cục cựa. Dù chẳng ưa nhưng Vô Phong buộc phải thừa nhận Chiến Tử hành xử đúng đắn. Ban phát lòng tốt ở những nơi cạn kiệt tình người sẽ chỉ đem lại phiền toái. Hồi ở chợ rác, vì giúp một thằng ôn con chạy trốn mà không hề biết nó vừa chôm tiền của lũ băng đảng, tên tóc đỏ đã bị săn lùng cả tháng trời. Sau sự vụ nhớ đời ấy, hắn học được rằng lòng tốt là vô hạn nhưng cần được chi tiêu tiết kiệm vì mạng sống là hữu hạn.
Ký ức của Vô Phong bị ngắt quãng bởi những tiếng quát tháo xen lẫn chửi bới. Lúc này, gã quản lộ mất hết kiên nhẫn và đang dùng gậy vụt thật lực vào lưng người đàn ông khốn khổ đang quỳ mọp dưới đất. Trong khi đó người đàn bà cùng đứa con vội vàng ôm lấy người chồng, người cha của họ và kêu khóc thảm thiết. Tên quản lộ gào inh ỏi:
-Con bà chúng mày, cút! Chúng mày sống ở Âm Giới bao lâu mà không hiểu luật của Đại Lộ Đỏ? Ba đồng vàng, hiểu chưa? Biến mẹ chúng mày đi, lấy được một đồng vàng rồi hẵng quay về đây! Lấy đồng nguyên lành, sứt mẻ một chút cũng không được, hiểu chưa? Giờ thì cút! Cút! Cút ngay!
Y vung gậy đánh rồi lấy chân đạp túi bụi cả ba người. Sau cùng những gã bịt mặt đeo súng tiến đến và quẳng gia đình nọ ra khỏi hàng như vứt đi đống đồ hỏng hóc. Chẳng còn cách nào khác, ba con người phải dắt díu nhau quay lại đường cũ. Hàng ngàn cặp mắt dõi theo họ, cảm thông có, bàng quan có, tức giận có, nhưng rốt cục chẳng ai hảo tâm chìa ra một đồng vàng. Trước mặt gia đình khốn khổ ấy chỉ toàn cát và một đường chân trời xa xăm vô hạn định. Số phận họ ra sao, không ai biết, song kẻ lạc quan nhất cũng không dám khẳng định họ sẽ sống sót qua đêm nay. Nhìn gia đình nọ, Lục Châu tức giận vô cùng, nàng vùng vằng thoát khỏi bàn tay của Chiến Tử và ném cho gã cái nhìn đầy căm phẫn. Ngay cả với kẻ thù, công chúa cũng chưa bao giờ thể hiện ánh mắt như thế.
Đuổi được đám người phiền nhiễu, tay quản lộ trở về ghế ngồi. Y không thèm mở miệng mà vẫy tay gọi người tiếp theo. Không chút chậm trễ, Mai Hoa bước tới đặt tiền lên bàn. Tay quản lộ bỏ ba đồng vàng vào thùng sắt, quay mặt về phía màn hình ba chiều đoạn hỏi Mai Hoa:
-Mấy người?
Mai Hoa vừa nói vừa khoát tay về phía sau:
-Bốn.
Tay quản lộ nhập số liệu, hỏi tiếp:
-Ai bảo lãnh?
-Tôi.
-Ở đây mấy ngày?

-Tới tám giờ sáng mai.
-Có mua sa kết tuyến không?
-Chúng tôi có sẵn rồi, cảm ơn.
-Cần người dựng nhà không?
-Chúng tôi tự dựng được.
Tay quản lộ chau mà nhìn Mai Hoa rồi nhích đầu sang trái ngó bọn Vô Phong, đôi mắt dừng lại khá lâu ở công chúa. Mai Hoa khẽ nhếch miệng, gã bước sang ngang chắn tầm nhìn của tay quản lộ một cách vô tình nhưng đầy chủ đích:
-Vậy chúng tôi vào được chưa?
Tên quản lộ mím môi vì bị phá bĩnh. Y bực tức nói:
-Tới Phân Khu số 7, ở đấy còn nhiều chỗ trống cho các người. Tới 2 giờ chiều có suất ăn của Đại Lộ Đỏ, các người có thể ăn hoặc không, tùy! Nhà thổ, chợ, cửa hàng, vân vân… tất cả đều ở Phân Khu số 2 và số 3, các người có thể di chuyển bằng tàu điện hoặc đi bộ. Nếu cần thuê mấy con giác cầu thì tới Phân Khu số 10. Chớ có đánh lộn với ai và cũng đừng ngại khi có đứa đòi đánh lộn, đội an ninh Đại Lộ Đỏ sẽ xử lý hết. Còn thắc mắc gì không?
Mai Hoa lắc đầu. Tên quản lộ tiếp lời:
-Vậy thì “đóng dấu”! Khẩn trương lên, nhiều người khác đang chờ!
Nói xong, y kéo chiếc máy hình ống ra giữa bàn. Mai Hoa gật đầu hiểu ý, bèn vén áo luồn tay qua ống. Tên quản lộ bấm những nút nhỏ trên thân máy, tức thì cái ống thu nhỏ đường kính, ép chặt cẳng tay Mai Hoa, phát tiếng “ri ri” và xì khói qua những khe nhỏ. Lát sau, trên tay gã bốn mắt xuất hiện dấu xăm hình hai kỵ sĩ cưỡi quái thú mô phỏng hai bức tượng khổng lồ, đồng thời là biểu tượng của Đại Lộ Đỏ. Đây được gọi là “đóng dấu”. Dấu xăm giống tấm thẻ căn cước chứng minh quyền công dân và nếu ai không có, họ sẽ bị đuổi khỏi Đại Lộ. Nó tồn tại bao lâu tùy vào khoảng thời gian mà người ta lưu trú; như Mai Hoa và nhóm công chúa, tới tám giờ sáng mai, dấu xăm của họ sẽ biến mất. Họ có thể quay lại cổng Đại Lộ và đóng dấu thêm lần nữa nếu muốn ở lại lâu hơn. Chuyện này khiến Vô Phong cảm giác con người như miếng thịt cần được đóng dấu kiểm dịch trước khi nhập khẩu và đem ra bày bán.
Bốn người nhóm công chúa lần lượt thực hiện việc đóng dấu. Tới lượt Lục Châu, nàng đưa tay vào ống và chờ đợi. Bất quá tên quản lộ chưa vội bấm nút hẹn giờ mà mải mê ngắm nghía cánh tay cô gái. Mắt y mở to, nhãn cầu như lồi ra, lưng duỗi thẳng, cánh mũi phập phồng ngửi thấy hương thơm – thứ mùi vị lạ lẫm chưa từng xuất hiện trong cuộc đời y. Tên quản lộ nhổm người, điệu bộ tựa con thú sắp xé xác miếng thịt tươi. Nhìn gã, công chúa cả sợ, chân chùn bước. Ngay lúc đó Chiến Tử lần tay vào túi áo, sẵn sàng bổ thanh “thiết giáp hạm” thẳng đầu tên quản lộ nếu y dám đụng một ngón tay vào người công chúa. Nhưng tên quản lộ hoàn toàn bị hớp hồn bởi Lục Châu nên chẳng nhận ra mối nguy hiểm ấ nở nụ cười nhe hàm răng vàng ố với cô gái:
-Rõ ràng cô em không phải người ở đây. Đám đàn bà Âm Giới không thể có nước da và mùi thơm như vậy! Không thể nào! Không thể nào… Này, cô em! Chắc cô em biết phải người tầm cỡ thế ra sao mới được làm quản lộ cho Đại Lộ Đỏ chứ? Ta là quản lộ lâu năm nhất, ta có nhiều tiền, luôn có đồ ăn nóng sốt và có cả nước để tắm. Chỉ một đêm… ừm, chỉ cần trò chuyện tâm tình và cô em sẽ được hưởng tất cả những thứ tuyệt vời đó, thấy sao? Ngay tối nay nhé!
Tên tóc đỏ cúi đầu cố ngăn tràng cười xổ ruột. Đây có lẽ là những lời tán tỉnh thô thiển nhất mà hắn từng được nghe. Nhưng Mai Hoa lại thấy việc này chẳng đáng cười chút nào. Rốt cục sau mấy ngày nhịn tắm, Lục Châu không thể bốc mùi như gã muốn, và sẽ chẳng hay ho nếu tên quản lộ bị Chiến Tử chặt thành hai mảnh. Vì không muốn chuyện ấy xảy ra, Mai Hoa liền cất lời:
-Cô ấy đi cùng chúng tôi, chắc không có thời gian đâu.
-Tao đâu hỏi mày? – Tên quản lộ nổi xung – Con bé quyết định! Không phải mày! Một luật nữa ở Đại Lộ Đỏ: không được cắt lời tao, rõ chưa?
Y gào lớn, bản mặt Mai Hoa hứng chịu không ít nước miếng văng tung tóe từ cái miệng hôi hám của y. Nhưng gã cú vọ chẳng lấy làm phiền, chỉ từ tốn lau kính mắt rồi kín đáo dúi vào tay tên quản lộ một tờ tiền giấy, mệnh giá nửa thùng vàng. Tên quản lộ nhíu mày:
-Gì đây?
Mai Hoa cúi lưng, ghé miệng sát tai tên này rồi thì thầm nhỏ to:
-Một chút lòng thành, thưa ngài. Tôi biết vì Đại Lộ Đỏ, ngài phải vất vả, vậy nên cứ coi đây là món quà nhân ngày… sinh nhật chẳng hạn. Tuy nhiên, cô gái của chúng tôi không thích những thú vui của ngài. Cô ấy cần một nơi nghỉ ngơi, vậy thôi. Ngài biết đấy, con bé này… chưa đủ lông đủ cánh, không vui thú gì đâu! Hê hê!
Tên quản lộ đẩy đồng tiền về phía Mai Hoa và nở nụ cười đểu cáng:
-Nếu tao nói tao không thích tiền và muốn con bé này thì sao?
Gã cú vọ nhún vai cười:
-Vậy cứ làm như ngài muốn. Nhưng đây không phải lần đầu tôi tới đây, và tôi biết rõ ở Phân Khu số 3 có bộ phận nhận thư phản hồi. Tôi nghe đồn ông chủ Đại Lộ Đỏ đọc hết thư phản hồi và sẽ xử lý bất cứ ai có thái độ hách dịch hoặc lạm quyền. Nếu ngài không đổi ý, tôi sẽ gửi thư. Nếu ngài đổi ý, xin nhận chút quà mọn này.
Dứt lời, gã lại đẩy đồng tiền về chỗ cũ. Tên quản lộ mím môi chừng muốn xé xác thằng khốn đeo kính kia như xé giấy vụn. Nhưng rốt cục nỗi sợ hãi ông chủ Đại Lộ Đỏ khiến y phải bình tâm suy xét. Suy cho cùng, y chỉ là thằng gác cổng núp dưới chức danh “quản lộ” mỹ miều. Phận sự của y là nhận tiền, đóng dấu và hướng dẫn đường đi lối lại trong Đại Lộ Đỏ. Ngoài ra? Chẳng có thứ “ngoài ra” nào hết. Y chẳng có quyền ra lệnh cho ai hay được ai bảo vệ. Năm gã bịt mặt đeo súng bảo vệ Đại Lộ, không phải y. Tên quản lộ cùng lắm chỉ bắt nạt được đám dân thường thân cô thế cô chứ với kẻ có học thức như Mai Hoa, y chỉ là con chó canh nhà không hơn không kém.
Sau một hồi nấn ná, tên quản lộ đành phải đóng dấu cho Lục Châu. Y ấn nút thật chậm, đôi máu hau háu nhìn cánh tay cô gái trong tiếc nuối cùng cực, xong việc thì làu bàu:
-Tàu điện ở phía sau, biến đi!
Không đợi y làu bàu lần hai, bốn người nhóm công chúa khẩn trương rời đi. Vô Phong ngoái lại và thấy ánh mắt tên quản lộ đang nhìn chằm chặp một điểm nào đấy trên thân thể công chúa. Tên tóc đỏ chau mày rồi ngắm nghía Lục Châu. Vạn Thế ơi, chỉ toàn quần áo, có gì thú vị chứ? Thằng điên kia nhìn thấy cái chi vậy? – Hắn nghĩ bụng.
-Ở đây có dịch vụ tắm công cộng, nhưng tôi thành thật khuyên cô không nên dùng, thưa công chúa. – Mai Hoa nói – Sẽ còn nhiều kẻ khác như cái gã vừa rồi, lúc ấy nửa thùng vàng chẳng đủ giúp cô thoát khỏi rắc rối đâu.
Lục Châu lắc đầu nguầy nguậy, sau lại khẽ gật gật, thành thử chẳng ai biết nàng tán thành hay phản đối ý kiến của Mai Hoa. Rõ ràng công chúa đang đứng trước quyết định khó khăn. Nàng ước chi có bông hoa trong tay để chơi trò tắm hay không tắm. Tiếc thay Đại Lộ Đỏ chẳng có hoa.
Nhưng Đại Lộ Đỏ có nhiều điều thú vị hơn hoa. Kể từ lúc bước vào sa mạc Hồi Đằng, lần cuối cùng nhóm công chúa cảm thấy thích thú miền đất này là ở Hồi Đằng Cô Mộ.
Bắt đầu từ chân bức tượng kỵ sĩ khổng lồ, mặt đất dưới chân bốn người bớt nóng, bầu không khí đỡ oi ả hơn trước. Cũng từ đây xuất hiện vô số dải cát màu đỏ sậm – món “đặc sản” của Đại Lộ Đỏ. Có nhiều dải ngắn chỉ vài bước chân, có dải dài dằng dặc xuyên suốt Đại Lộ, lại có lắm dải xếp so le nhau như vằn hổ. Nhưng hàng ngàn người thường xuyên qua lại nơi đây nên chẳng còn nhiều những dải cát như vậy nữa mà thường là cát trắng trộn cát đỏ hoặc ngược lại. Vô Phong cúi xuống bốc nắm cát đỏ, cảm giác đang tiếp xúc một thứ mềm mịn như bột. Hắn xoa từng hạt cát bằng hai đầu ngón tay và thấy chúng tan thành nhiều hạt nhỏ hơn. Chợt nhớ truyền thuyết máu tưới Đại Lộ Đỏ, Vô Phong liền ghé mũi ngửi nắm cát xem có mùi tanh hay không. Nhưng truyền thuyết rốt cục vẫn chỉ là truyền thuyết, hắn chẳng nhận ra mùi khác lạ nào ở đám cát đỏ này.
Nhóm công chúa tiếp tục tiến sâu vào Đại Lộ. Theo lời tên quản lộ, nhóm công chúa cần đến Phân Khu số 7. Họ chẳng hiểu cái gọi là “Phân Khu”, trừ Mai Hoa. Gã bốn mắt chỉ về hai dãy núi phía sau các bức tượng kỵ sĩ đoạn giải thích:
-Thấy chúng chứ? Chúng dài khoảng ba mươi cây số, đồng thời là chiều dài của Đại Lộ Đỏ. Ba mươi cây số chia thành mười đoạn dài ngắn khác nhau, gọi là Phân Khu. Các Phân Khu số 1, 2, 3 đặt khu điều hành, chợ, nhà thổ, các dịch vụ công cộng, vân vân. Từ Phân Khu số 4 trở đi là nơi ở cho người dân.
Phía trước họ khoảng hai trăm mét là một hàng rào gỗ chắn ngang đường, bắt đầu từ chân dãy núi bên phải và kết thúc ở dãy núi bên trái, vừa bằng chiều rộng Đại Lộ. Hàng rào chia thành năm cửa và hàng ngàn người đang đổ về đây. Đằng sau cửa có nhà chờ tàu điện, nhưng mang tiếng nhà chờ chứ Vô Phong thấy nó gồm một mớ kim loại lắp ghép với nhau trông chẳng khác mấy giàn giáo xây dựng. Trên đỉnh nhà chờ, các tàu điện chạy trên hệ thống dây cáp xoay vòng hình chữ U, chúng hết đến lại đi, mang theo hàng chục người đến từng Phân Khu. Tuy nhiên, Vô Phong không thấy cái gọi là an toàn giao thông ở những tàu điện này. Chúng được mắc vào dây cáp lắt lẻo như mắc treo quần áo, thi thoảng rung rinh nhằm thử thách độ yếu tim của hành khách. Nếu có thông tin cho biết tai nạn thường xuyên diễn ra, hắn cũng chẳng lạ.
Nhóm công chúa vào cửa thứ hai. Họ mất gần năm phút để qua cổng vì phải đợi một đoàn thương nhân cùng lũ giác cầu bự con đi hết, lại mất mười lăm phút xếp hàng mới lên tới đỉnh nhà chờ. Khoảng 12 giờ, một con tàu điện đỗ xịch trước mặt họ. Cửa tàu mở, còn gã lái tàu nhoài người ra la hét oang oác:
-Lên tàu, từ từ thôi! Mấy thằng kia chen lấn làm gì thế? Chúng mày có biết vì chen lấn mà nhiều người ngã xuống không? Cút xuống hàng cuối! Muốn tao gọi đội an ninh tới hả? Cút!
Mọi người lần lượt bước lên theo sự chỉ đạo của gã lái tàu và chẳng ai dám xô đẩy hàng ngủ. Khi chứa đủ sáu mươi người, chiếc tàu điện bắt đầu chuyển động. Cảnh này khiến Vô Phong nhớ lại những chuyến tàu ở Phi Thiên thành, hắn vẫn thường ngồi gần cửa sổ và ngắm nhìn quận Trăng Khuyết lẫn sông Vành Đai Xanh. Nhưng ở đây, tàu điện chẳng có chỗ ngồi, cũng không có vị trí gần cửa sổ cho tên tóc đỏ. Tất cả những gì hắn có thể thấy là đầu người vì hành khách đứng chật như nêm cối. Trong không gian kín của tàu điện, mùi hôi cùng mùi cơ thể bốc lên nồng nặc khiến ai nấy khó thở. Với Lục Châu, nơi này quả thực tệ hơn cả những cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Công chúa cố gắng hô hấp càng ít càng tốt, bởi lẽ cơn buồn nôn đang lan tràn khắp bụng nàng.
-Tôi nghĩ chúng ta nên tách nhóm, thưa công chúa. – Mai Hoa nói – Cô và Chiến Tử hãy tới Phân Khu số 7 trước. Tôi và anh bạn tóc đỏ sẽ dừng lại ở Phân Khu số 2 và số 3. Chúng ta gần hết lương thực rồi.
Lục Châu gật đầu tán thành một cách khó khăn. Nhưng Vô Phong phản đối bởi hắn có nhiệm vụ giám sát Chiến Tử mọi lúc mọi nơi. Tên tóc đỏ nói:
-Nơi này nhiều nguy hiểm lắm, công chúa. Tốt nhất là chúng ta nên đi cùng nhau.
-Chiếm chỗ trước, không là tẹo nữa chúng ta phải ngủ trên dây cáp đấy, anh bạn! – Mai Hoa nhún vai – Với lại Đại Lộ cũng an toàn, đội an ninh tuần tra khắp nơi, chớ lo.
Vô Phong lắc đầu kiên quyết không chịu rời xa Lục Châu nửa bước. Sau cùng công chúa trấn an hắn:
-Tôi sẽ ổn thôi. Được rồi… tôi sẽ thức và đợi anh về, được chứ?
Công chúa đã nói đến thế, Vô Phong chỉ còn cách nghe theo. Nghĩ đi nghĩ lại, nếu quả thực Chiến Tử có ý đồ không tốt với công chúa, hắn nên chọn nơi nào vắng vẻ thay vì chốn đông người như Đại Lộ Đỏ. Mai Hoa vỗ vai hắn:
-Đừng lo, anh bạn! Chẳng có thằng nào dám làm chuyện bậy bạ ở đây đâu. Với lại cậu không nên bỏ lỡ thú vui đi chợ Đại Lộ Đỏ. Thú vị lắm!
-Cái gì thú vị? – Vô Phong nheo mắt
Mai Hoa nâng cặp kính đoạn nở nụ cười bí hiểm:
-Có thể cậu nghĩ tôi nói khoác, nhưng chợ của Đại Lộ Đỏ là cái chợ hay ho nhất thế giới!

(*) “Tiểu tiên nữ” là con người máy của Hỏa Nghi, xuất hiện trong suốt cuộc hành trình ở đất Lạc Việt, xem lại ở Quyển 2 – Chương 52
 
Quyển 3 - Chương 15: Dao, lược và kẹo cao su


Trên tàu điện, Vô Phong đứng cạnh một gia đình và loáng thoáng nghe họ trò chuyện. Thực tình hắn không nghĩ có thể gọi là “trò chuyện”, bởi nó chỉ gồm câu hỏi và sự im lặng của người được hỏi. Hắn nghe đứa bé trong gia đình ấy hỏi thế này:
-Cha ơi, tại sao lại có Đại Lộ Đỏ?
Đáp lại đứa nhỏ, cả người cha lẫn người mẹ lắc đầu và im lặng. Đứa trẻ hỏi thêm lần hai, lần ba rồi ngừng hẳn vì nó biết sẽ không bao giờ có câu trả lời trong sự im lặng dài lê thê đó. Cha mẹ đứa nhỏ không có lỗi, bởi lẽ ở miền đất đói nghèo và loạn lạc liên miên như Âm Giới, “lịch sử” là phạm trù vô cùng kỳ dị, vừa xa xăm mơ hồ lại vừa lố bịch.
Suốt năm mươi năm chiến tranh, ở Âm Giới tồn tại một vòng xoay: thế hệ cũ chết dần chết mòn, thế hệ mới lớn lên từ đống tro tàn của người chết, cứ thế lặp lại không biết bao lần và gần như bất tận. Người dân bây giờ chỉ quan tâm thức ăn, nước uống và chốn dung thân; lịch sử không phải thứ họ cần, hoặc sẽ từ chối tiếp nhận nếu ai đấy ngỏ ý cung cấp. Hầu hết bọn họ chẳng hay bộ mặt đất nước mình trước thời nội chiến ra sao, lại càng không rõ bề dày lịch sử của nó. Một đất nước không thành phố, không chính quyền mà chỉ toàn những Vùng An Toàn cùng binh lính nước ngoài, cái tên Âm Giới trong tâm trí người dân vì thế ngày càng xa xăm mơ hồ. Và lố bịch ở chỗ những người thông hiểu Âm Giới nhất lại là đám ngoại quốc, ví dụ như Mai Hoa.
Bằng giọng thì thầm to nhỏ, gã bốn mắt kể cho Vô Phong nghe lịch sử Đại Lộ Đỏ. Theo nhiều bằng chứng xác thực, nó xuất hiện từ thuở năm đế chế cổ đại. Sang thời phi cơ giới, dựa vào địa thế đặc biệt của Đại Lộ, các đế chế đã biến nó thành cửa khẩu vững chắc. Tuy nhiên, phi cơ giới là thời đại bị lãng quên, chẳng còn tài liệu nào cho biết nơi đây đã xảy ra bao nhiêu trận đánh hay sự kiện gì, chỉ còn lời đồn thổi về những cuộc chiến vô tận, máu tưới thấm đẫm cát và cái tên “Đại Lộ Đỏ” ra đời. Tất nhiên không ai tin vào truyền thuyết đáng sợ ấy. Năm mươi năm trước, chốn này vẫn là thắng cảnh thu hút khách du lịch.
Sự hỗn loạn lan khắp lục địa Kim Ngân, băng qua Âm Giới và gây nên cuộc nội chiến. Rồi kỷ nguyên Đầu Sói ra đời, những kẻ đầy tham vọng thành lập vô số băng đảng lớn nhỏ và lao vào cuộc tranh chấp lãnh thổ. Đại Lộ Đỏ trở thành miếng mồi béo bở đồng thời là võ đài giữa các Đầu Sói. Nhưng mãi tới ba mươi năm trước, nơi này mới chính thức có chủ. Nhiều lời đồn đại cho rằng vị chủ nhân này thuộc bảy người mạnh nhất thế giới. Rồi quy tắc ba đồng vàng được thiết lập, Đại Lộ Đỏ đón nhận mọi hạng người tại Kim Ngân. Trong mắt dân tị nạn, nó là Vùng An Toàn tránh chiến sự; trong mắt thương nhân, nó là chợ đen hoạt động công khai; còn với tội phạm bị truy nã, Đại Lộ là chỗ ẩn náu tuyệt vời. Chỉ cần trả đủ tiền, một tên tội phạm có thể sống ở đây suốt đời mà không lo bị tóm. Vô Phong nhíu mày, không nghĩ chuyện như vậy có thể xảy ra:
-Đùa tôi sao? Thằng nào cũng trốn được?!
-Bé mồm chứ! – Mai Hoa nhăn mặt – Phải, đã từng có một tên tội phạm trốn ở Đại Lộ Đỏ tới lúc chết. Để tôi nhớ xem… tên lão ta… à, Ma Xó! Lão ta tên là Ma Xó, tay đạo chích giỏi nhất mọi thời đại. Thời trẻ lão chôm chỉa quá nhiều, lúc già bị Đại Hội Đồng truy đuổi khắp nơi. Cuối cùng lão chạy về Đại Lộ Đỏ. Người ta truyền tai nhau rằng mỗi năm, Ma Xó biếu ông chủ Đại Lộ một thùng quang tố để xin chốn nương thân. Vậy là Đại Hội Đồng chẳng bao giờ sờ được gáy lão nữa. Từ ấy trở đi, tên tội phạm nào muốn sống ở Đại Lộ thì mỗi năm phải đóng một thùng quang tố. Tất nhiên chẳng mấy gã chịu nổi chi phí khủng khiếp đó.
Tên tóc đỏ ngạc nhiên:
-Đại Hội Đồng bó tay sao? Họ sợ ông chủ Đại Lộ thế cơ à?
-Có thể, tôi không dám chắc. Dù vậy, cậu nên biết danh xưng “bảy người mạnh nhất” không phải xướng lên cho vui. Không chỉ sở hữu kỹ năng chiến đấu bậc nhất, họ còn có nguồn tài chính hùng hậu và hàng ngàn con người sẵn sàng sống chết vì mình. Bất Vọng là trường hợp đặc biệt vì chẳng giàu sang hay có băng nhóm riêng. Nhưng tin tôi đi, hàng vạn gã kiếm sĩ sẵn sàng đi theo Bất Vọng nếu ông ta muốn. Bảo Đại Hội Đồng “sợ” họ là không đúng, mà nói Đại Hội Đồng “ngại” họ cũng không sai.
-Vậy ông chủ Đại Lộ là ai?
Mai Hoa nhún vai lắc đầu:
-Chịu! Ba mươi năm rồi mà chẳng người nào biết cả. Vả lại đừng tò mò quá mức, chúng ta còn nhiều việc cần quan tâm hơn. Tới nơi rồi, đi thôi!
Chiếc tàu điện chở bọn Vô Phong dừng lại trước Phân Khu số 3. Như đã bàn trước, Lục Châu và Chiến Tử tiếp tục đi tới Phân Khu số 7, còn Vô Phong và Mai Hoa xuống đây mua nhu yếu phẩm. Tên tóc đỏ cùng gã bốn mắt hòa vào dòng người rời tàu qua cửa sau. Cùng lúc ấy từ nhà chờ, hàng chục người nối gót nhau lên tàu bằng cửa trước. Nhà chờ Phân Khu số 3 luôn đông đúc chật chội hơn nơi khác do hành khách mang theo rất nhiều hàng hóa, đa phần mua ở chợ Đại Lộ Đỏ, thập cẩm bát vạn từ lương thực, quần áo, thuốc men, nước uống đến đao kiếm hay súng ống. Đại Lộ Đỏ cấm đánh lộn giết chóc nhưng không cấm bán đồ dành cho việc giết chóc đánh lộn. Vô Phong thấy người mua vũ khí ngoài đám áp tải hàng còn có dân thường. Cuộc sống đầy rẫy nguy hiểm bên ngoài Đại Lộ buộc nhiều người thiện lương thành kẻ tàn bạo. Cái ác vì thế cứ sinh sôi nảy nở khắp Âm Giới, chẳng cách nào ngăn cản nổi.
Hành khách lên xuống tàu điện khá đông nên hai người chen lấn mãi vẫn chưa ra khỏi nhà chờ. Trong lúc đợi dòng người di chuyển, Vô Phong dựa tay vào lan can sắt rồi phóng mắt ngắm nhìn quang cảnh Phân Khu số 3. Hắn thấy ngay trước cổng nhà chờ là con đường lớn tràn ngập người bộ hành lẫn đám quái thú giác cầu. Tính từ cổng vào, có năm con đường như vậy xuyên suốt Đại Lộ Đỏ nằm ngay bên dưới tuyến cáp treo. Chúng vốn dành cho bọn giác cầu nhưng nhiều người đi cùng lũ quái thú tới các Phân Khu thay vì kiên nhẫn chờ tàu điện. Giữa mỗi đường cái, hàng vạn lều bạt được dựng lên san sát nhau, tựa một đạo quân hùng hậu trải dài từ chân dải núi bên phải đến tận dải núi bên trái Đại Lộ. Giữa những lều bạt, vô vàn con đường nhỏ hơn tấp nập bước chân của kẻ mua người bán. Đây là khu chợ mà Mai Hoa đề cập đến, đồng thời là cái chợ duy nhất ở Đại Lộ Đỏ. Ai muốn mua hàng đều phải tới Phân Khu số 3, việc buôn bán ở Phân Khu khác bị cấm.
Bọn Vô Phong chen lấn hồi lâu mới thoát được nhà chờ chật ních người. Họ băng qua đường lớn thứ ba rồi bước vào chợ. Tên tóc đỏ chợt thấy khoảng năm sáu cái bóng chao liệng trên tầng không đang sà xuống. Chúng sở hữu sải cánh dài và rộng như cánh dơi nâng đỡ thân thể có lông trắng ngà, cổ ngắn phủ bờm trắng xóa, cái đầu hao hao đầu ngựa có mõm lớn và răng nanh hàm trên hơi lồi ra, hai lỗ mũi thở phì phì khói như đầu máy hơi nước cùng đôi mắt không tròng đỏ lừ. Mai Hoa cười:
-“Vân cước” đấy! Lũ quái thú cưỡi mây!
-Cưỡi mây là sao? – Vô Phong hỏi.
-Là chúng có thể đi bộ trên mây. Người ta nói loài vân cước được thánh thần nâng đỡ. Mấy gã nhà giàu khoái vân cước lắm, muốn chứng tỏ đẳng cấp mà! Nhưng chúng khá dữ nên phải mất thời gian thuần hóa, lúc bán ra ít nhất cũng vài trăm thùng vàng. Năm ngoái giới siêu giàu đấu giá một con vân cước lông đỏ, nghe đâu người mua nó đã trả bốn vạn thùng vàng.
Vô Phong mướt mồ hôi khi nghe số tiền khổng lồ, cảm giác từng thỏi vàng rớt bình bịch bên tai. Mai Hoa không khoác lác, loài vân cước thật sự biết cưỡi mây. Hiện chúng đang đậu trên nóc những gian hàng lợp vải bạt, điều lạ là các gian hàng không sập dù thân hình lũ vân cước to ngang cỡ con ngựa trưởng thành, chưa kể mỗi con đều mang người cưỡi trên lưng. Những người này bịt kín mặt, tay đeo băng đỏ, lưng đeo kiếm. Họ thuộc đội an ninh Đại Lộ, thường được biết đến nhiều hơn dưới cái tên “kỵ sĩ”. Phía xa, một gã kỵ sĩ bắc loa phóng thanh nói oang oang:
-Xắn tay áo lên! Chúng tôi không nói nhiều đâu! Anh kia, xắn tay áo lên! – Gã kỵ sĩ chỉ thẳng mặt Vô Phong – Chúng tôi nhận được tin vài gã vừa trốn “đóng dấu” và xâm nhập Đại Lộ. Chúng có thể là tội phạm hoặc quân trộm cắp. Vì sự an toàn của chính các vị, nếu gặp kẻ khả nghi, hãy thông báo ngay lập tức, chúng tôi rất vui lòng. Và chúng tôi cũng vui lòng xử lý những kẻ muốn che giấu chúng. Hãy nhớ, đừng phá luật!
Dứt lời, đám kỵ sĩ cưỡi vân cước bay đi và tiếp tục rảo quanh bầu trời. Vô Phong thấy họ chĩa ống nhòm xuống khu chợ. Xắn tay áo là chuyện bắt buộc, đồng thời là mốt ăn mặc tại Đại Lộ, nó giúp các kỵ sĩ phát hiện người không đóng dấu hoặc dùng hình xăm giả. Nhu cầu trú chân ở Đại Lộ quá lớn mà những kẻ nghèo kiết không đủ ba đồng vàng quá nhiều, dịch vụ đóng dấu xăm giả ra đời như sự tất yếu. Nhưng làm vậy chỉ giúp lừa gạt người thường chứ không thể qua mặt kỵ sĩ, bởi ống nhòm của họ tích hợp hệ thống dò tìm chỉ tương thích với dấu xăm thật.
Bọn Vô Phong tiếp tục tiến sâu hơn vào chợ. Tên tóc đỏ hết ngó sang phải rồi liếc sang trái, nhận ra các gian hàng kê san sát nhau và cùng bán một thứ: đồ may mặc, ngoài ra chẳng thấy dấu hiệu nào của thực phẩm hay bất cứ thứ gì khác. Theo lời Mai Hoa, chợ được chia thành nhiều khu riêng rẽ, mỗi nơi chỉ cung cấp duy nhất một loại mặt hàng. Kiểu sắp xếp này giúp đội an ninh Đại Lộ quản lý dễ dàng hơn, đồng thời tiện cho việc mua sắm một lần. Thương nhân, tội phạm, Đầu Sói… là những loại người thường “mua một lần”; họ đến chợ, vơ vét toàn bộ nhu yếu phẩm, nhanh chóng rời đi và không quay lại lần hai. Dân tị nạn đôi khi cũng “mua một lần” bởi rất nhiều người muốn đến Vùng An Toàn của liên quân, hoàn toàn không có ý định cư lâu dài ở Đại Lộ Đỏ.
Dân chúng Âm Giới vốn chẳng có nhu cầu trưng diện nhưng khu bán quần áo không hề vắng người qua lại. Dân tị nạn sống nay đây mai đó, y phục của họ vì vậy thường bẩn thỉu và rất nặng mùi, giặt giũ quá tốn công, chẳng thà mua hẳn bộ cánh mới. Mỗi đợt dân tị nạn vào Đại Lộ, khu buôn bán quần áo lại đông đúc khôn tả. Người mua chen chúc trước những gian hàng, tay xòe ngón trả giá món đồ, bao nhiêu ngón là bấy nhiêu đồng vàng. Trước hàng trăm con người, các chủ hàng – phần đông là nữ giới – đang vừa gói hàng, vừa mặc cả, lại kì kèo từng cắc bạc và luôn miệng cười nói lẫn chửi bới. Vô Phong không nghĩ họ có thể làm hàng trăm việc cùng một lúc như thế:
-Bộ này bốn đồng vàng! Không, chỉ bán bốn đồng thôi! Đồ của anh đây, xin cảm ơn! Mua gì nào? Bộ này á? Năm đồng vàng! Bốn đồng không bán đâu! Mấy? Bốn đồng rưỡi? Thôi được, hàng đây, cảm ơn! Cái gì? Đã bảo là bốn đồng vàng, không giảm nữa, không thích thì biến chỗ khác! Biến mẹ mày đi, thằng bủn xỉn! Xin lỗi, cô vừa nói gì nhỉ? À ở đây không có quần áo cho trẻ sơ sinh, đằng kia kìa, chỗ đấy có bán! Đó, đi thẳng là tới!
Tên tóc đỏ ngó thấy quần áo ở đây chủ yếu làm từ vải thô hoặc những chất liệu đơn giản, màu sắc đơn điệu như đen, đen xám hoặc nâu xám. Khách hàng cũng chẳng có nơi ướm thử đồ trước khi trả tiền, thành ra hầu hét đồ may mặc đều rộng thùng thình theo tiêu chí “thừa hơn thiếu”, hầu như không tồn tại tính chất nào gọi là “thời trang”. Dù vậy chúng khá bền và thích hợp cho chuyến đi dài ngày – một ưu điểm đáng kể.
Bọn Vô Phong đi theo hướng đông nam và nhắm tới khu buôn bán thực phẩm. Lúc gần rời khu bán quần áo, tên tóc đỏ chợt dừng lại trước một gian hàng bé xíu nằm lọt thỏm giữa hàng chục gian khác. Nó quả thực rất nhỏ, mặt tiền chỉ rộng hơn một sải chân, thấp lè tè và Vô Phong phải cúi người xuống mới có thể dòm vào trong. Hắn nhận ra kệ hàng bày nhiều món linh tinh như dây chuyền kết từ mảnh đạn pháo, vỏ đạn mài giũa thành hình hoa lá, vài chiếc lông vũ, dăm ba chiếc thẻ bài của binh lính tử trận hay đám đồ chơi hình nhân uốn từ sợi sa kết tuyến đã hết năng lực phép thuật. Đáng chú ý hơn cả là những chiếc khăn treo trên khung cửa, chúng được thêu bằng tay, hoa văn bắt mắt với họa tiết hình mây hoặc hình quái thú cách điệu. Tình hình kinh doanh của tiệm này chẳng mấy khá khẩm bởi rất ít người chú ý đến nó, họa chăng là mấy đứa trẻ song cha mẹ chúng sẽ chẳng chịu tốn xu nào để mua những thứ đồ chơi nọ.
Chủ tiệm là một bà già đang ngồi thêu khăn, vóc dáng nhỏ bé y hệt cửa tiệm, trông thấy Vô Phong thì ngừng thêu rồi chồm người về phía trước. Bà ta im lặng song gương mặt già nua đầy rạng rỡ như miền đất nứt nẻ đón cơn mưa đầu tiên sau bao năm khô cằn. Tên tóc đỏ cười:
-Bà làm tất cả những thứ này à?
Bà già gật đầu. Vô Phong bèn chỉ vào một chiếc khăn màu xanh dương thêu hình con cáo rồi hỏi:
-Cái này bao nhiêu?
Bà già giơ một ngón tay, Vô Phong hỏi lại:
-Một đồng vàng?
Bà chủ hàng gật gật đầu. Vô Phong bèn trả một đồng vàng. Bà ta nhận tiền rồi cười lớn, rõ ràng tên tóc đỏ là tia sáng rọi vào con đường kinh doanh tối tăm của bả. Tuy nhiên, tiếng cười bà già méo mó, tắc ứ phía sau hàm răng đen kịt cùng cái lưỡi bị cắt quá nửa. Tên tóc đỏ rùng mình kinh khiếp, cảm giác một vật nhọn hoắt vừa thọc vào cổ họng mình. Đến giờ Vô Phong mới biết bà chủ hàng bị câm. Hắn vội rời đi, tuyệt không muốn hỏi lý do gì mà bà ta bị cắt lưỡi.
Hai người rời khu bán quần áo rồi hướng đến đường lớn thứ ba. Vì gần khu buôn bán thực phẩm nên con đường này đông nghẹt người qua lại lẫn bọn giác cầu, hai người đành xếp hàng chờ đợi. Trên không trung, tàu điện chạy không ngừng nghỉ, đám kỵ sĩ cưỡi vân cước rảo quanh và liên tục nhắc nhở những người chưa xắn tay áo. Trong lúc chờ đợi, Mai Hoa trỏ vào chiếc khăn mà Vô Phong mới mua:
-Đẹp đấy chứ? Định tặng ai hả?
Vô Phong cau mày:
-Sao biết?
-Gã đàn ông nào mà thích loại khăn quàng màu sắc nữ tính vậy chứ? – Gã bốn mắt cười – Hình con cáo hả? Định tặng cho con “cáo nhỏ” nào đấy chăng?
Mai Hoa rốt cục vẫn là con cú vọ với kiểu ăn nói móc họng chẳng lẫn đi đâu được. Vài phút trước, Vô Phong còn thích thú Mai Hoa bởi sự hiểu biết của gã về lục địa Kim Ngân, nay vừa thấy gã mở sổ tay ghi ghi chép chép, sự thích thú đó liền bị giẫm đạp không thương tiếc. Tuy không rõ Mai Hoa viết cái gì nhưng tên tóc đỏ đoan chắc có mấy dòng liên quan giữa hắn và con “cáo nhỏ” kia. Thằng chết tiệt! – Hắn lẩm bẩm chửi.
Đợi đoàn người và giác cầu qua hết, bọn Vô Phong sang bên kia đường, sau đó tiếp tục băng qua nhà chờ tàu điện. Phía sau nhà chờ là khu chợ buôn bán thực phẩm. Ngay khi thấy những gian hàng phủ vải bạt, Vô Phong bất giác nhận ra một cơn sóng mùi vị khổng lồ ập tới, xô vào mọi giác quan. Hắn ngửi thấy mùi nồng đồ khô, mùi tanh đồ sống, mùi thơm từ các loại gia vị, mùi thịt chín ngăm vị khét do hơi quá lửa và hàng đống mùi tạp nham khác mà hắn không thể đoán được. Giữa bầu không khí đậm đặc ấy, hàng ngàn con người đang mua sắm, thanh toán, nấu nướng và giết mổ. Khu bán thực phẩm là cái siêu thị kiêm nhà bếp khổng lồ, cũng là chốn sôi động nhất Đại Lộ Đỏ. Mai Hoa nói rằng nhiều người tốn ba đồng vàng nhập cảnh chỉ để mua thực phẩm ở Đại Lộ, thậm chí gã sẽ không lạ nếu bắt gặp nhân vật máu mặt nào đấy, bởi lẽ khu chợ sở hữu nhiều thứ không thể tìm mua ở nơi nào khác.
-Ở Kim Ngân có một số người được gọi là “đạo chích không trung”. Bọn họ thường bắt những con quái vật trên tầng không và bán cho Đại Lộ Đỏ. – Mai Hoa nói – Một số loài dùng làm thú cưỡi như vân cước, một số thì làm thực phẩm. Thịt trên trời, giá cũng trên trời luôn. Đám thượng lưu khoái mấy món này lắm!
Chợ thực phẩm sôi động hơn so với những gì mà nó thể hiện bên ngoài. Không giống bên bán hàng may mặc, các sạp hàng thường quây thành vòng tròn, phía trong là khu chế biến đặt ngầm dưới lòng đất, bên cạnh đường ngầm có máy kéo ròng rọc đưa hàng lên hoặc chuyển hàng xuống. Theo lời Mai Hoa, hệ thống đường ngầm khá rộng, bao phủ toàn bộ Phân Khu số 2 và số 3. Nó được xây dựng từ thuở Đại Lộ Đỏ còn là tiền đồn biên giới, dùng để trữ vũ khí và nơi ở cho binh lính. Sau này các chủ tiệm tận dụng nó làm nhà kho, lò mổ, đồng thời vận chuyển hàng nhờ những con đường ngầm thông nhau. Vô Phong để ý phía sau sạp hàng có nhiều ống thông gió chĩa lên giúp người làm việc dưới hầm ngầm dễ thở hơn, nhưng cũng thải ra vô số mùi chẳng mấy dễ chịu. Chốc chốc, Vô Phong lại thấy máy kéo ròng rọc đưa người lên, ai nấy mồ hôi nhễ nhại, quần áo dính đầy máu tanh. Máu loài nào thì tên tóc đỏ không rõ nhưng hắn cá rằng những cái ống thông hơi chẳng giúp mấy gã đồ tể dễ chịu hơn, bởi gã nào gã nấy hằm hằm mặt như sắp xẻ thịt người thay vì động vật. Nhóm người này vừa đi, một nhóm khác liền thế chỗ và tiếp tục công việc.
Sạp hàng kể trên là một trong số ít sạp bán hàng tươi sống. Trong khu buôn thực phẩm, số gian bán đồ tươi chiếm chưa tới ba phần mười, còn lại thuộc về hàng bán đồ khô. Tại Âm Giới nói riêng và Kim Ngân nói chung, đại đa số người dân dùng đồ khô vì chúng có thể tích trữ lâu ngày. Nhưng nguyên nhân chủ yếu do thực phẩm tươi sống quá đắt đỏ, hầu như chỉ dành cho những kẻ giàu có. Thành thử khu đồ tươi như viện bảo tàng, thịt trên sạp như hiện vật, khách khứa đi qua chỉ dám ngó chứ không dám sờ. Nhưng dù đồ khô hay đồ tươi, cách thức bày bán của các sạp khá kinh dị. Từng con thú bị xẻ tanh banh được treo lên, đầu dính hờ với thân, từng miếng da bị lột hẵng còn ấm và chảy ròng ròng máu, những thùng bên cạnh sạp đựng đầy lòng mề phèo phổi bốc mùi tanh móc họng. Ở Đại Lộ, trừ con người, bất cứ thứ gì biết chuyển động đều có thể làm thức ăn và người ta sẽ không chừa bất cứ bộ phận gì của nó.
Bọn Vô Phong sang gian đồ khô, mua hàng đủ dùng cho bảy ngày tới, xong xuôi đâu đấy thì quay trở lại khu bán đồ tươi. Sau gần một tuần sống cùng thực phẩm đóng hộp, bụng dạ họ đông đặc như thể nội tạng dính lại với nhau, cổ họng quên sạch cảm giác được tận hưởng cái gọi là “ngon”. Giờ đây, một bữa ăn thịnh soạn nóng sốt sẽ giúp họ hồi phục sức lực và tinh thần. Nhưng hiện tại, những loại thực phẩm thông thường như thịt lợn hay thịt bò đã hết sạch, phần lớn do đoàn thương nhân mua. Đám kiếm sĩ Âm Giới bán mạng cho thương nhân cũng vì mong một bữa ăn có thịt tươi. Mai Hoa hỏi một gã chủ sạp to béo thì tên này cho biết 3 giờ chiều mới có lô hàng mới, hiện chỉ còn thịt cao cấp, giá bán không còn là đồng vàng nữa mà chuyển thành thùng vàng. Tuy vậy Mai Hoa chẳng ngán, gã ghé đầu hỏi khẽ:
-Thế có thịt gì?
Tên chủ sạp cũng thì thầm trả lời, thổ âm khá nặng:
-Thịt lũ “thiên tặc”. Hai mươi thùng “thàng” miếng lưng, năm mươi thùng… năm mươi miếng sườn, một trăm khúc đùi, hai trăm rưỡi đôi cánh. Lấy miếng nào?
Gã không đụng nhiều chữ “vàng” vì toàn nói thành “thàng”. Mai Hoa nói:
-Cho miếng sườn. Nhờ ướp giùm gia vị trước.
Gã chủ sạp to béo gật đầu đoạn dẫn bọn Vô Phong xuống đường ngầm . Tại đây, việc mua bán thịt cao cấp được tiến hành từ khâu giết mổ tới khi ra thành phẩm, khách hàng có quyền chứng kiến từ đầu đến cuối nhằm đảm bảo hàng thật giá thật. Vô Phong không nghĩ Mai Hoa dám bỏ ra ngần ấy tiền chỉ vì một miếng sườn. Đợi lúc xuống đường ngầm bằng thang kéo ròng rọc, tên tóc đỏ mới hỏi nhỏ gã bốn mắt:
-Mua thật à?
-Thật chứ! Hê hê, sẽ có người thanh toán toàn bộ chi phí chuyến đi nên tôi chẳng việc gì phải tiếc cả.
Mai Hoa nở nụ cười tinh quái. Vô Phong không nói gì thêm, trong lòng ghét gã hơn một chút. Sau vài giây, chiếc thang máy dừng hẳn, gã chủ sạp dẫn hai người vào sâu trong đường ngầm. Đợi gã này cách một quãng, Mai Hoa lại tiếp lời:
-Dù sao nó cũng tốt cho công chúa. Tôi bảo cô ta không tắm nhưng không thể ép cổ ăn mãi đồ hộp hay đồ khô được. Sức khỏe của công chúa quan trọng nhất, cổ mà mệnh hệ gì, lấy ai xử lý con Ác Lạc Điểu đây?
Tên tóc đỏ im lặng lần hai, trong lòng thấy Mai Hoa không đến nỗi tệ.
Theo chân gã chủ sạp, bọn Vô Phong bước vào lò mổ. Tại đây, từng con thiên tặc được nhốt trong lồng sắt chờ xẻ thịt. Chúng có đôi tai dài ngoẵng, bộ mặt bèn bẹt cùng chiếc mũi tẹt dí trông chẳng ăn nhập gì với đôi mắt to cộ màu đen nhưng lại rất hợp với bộ hàm rộng đầy răng sắc nhọn. Thấy người đi qua, chúng bấu vào thành lồng rồi rít lên những âm thanh chói tai. Thiên tặc có đôi cánh mỏng dính, thân dài, tứ chi mỏng mảnh sở hữu móng vuốt quặp. Với lớp da màu trắng, chúng thường ẩn mình trong mây và là tử địch của loài vân cước. Bề ngoài thiên tặc vừa đáng ghét vừa đáng sợ, nhưng thịt của chúng đắt đỏ thuộc loại nhất nhì. Ngay lúc này, một tay đồ tể đặt lên bàn một khúc thịt thiên tặc màu đỏ, gân mỡ nhỏ li ti đan xen ngang dọc, trông qua như cục hồng ngọc vân trắng. “Bảo sao nó đắt dữ vậy!” – Vô Phong thầm nghĩ.
Tay chủ sạp lựa một con thiên tặc đem qua cho đám đồ tể. Việc xử lý thiên tặc trông vậy cũng lắm công phu. Trước tiên là việc cắt tiết, con thú bị xích toàn thân, sau đó một đồ tể nhiều kinh nghiệm sẽ hạ nhát dao vào phần nách con thú sao cho nó chảy nhiều máu nhất và chết nhanh nhất. Sau đó lại cần hai người thực hiện công đoạn lột da, bắt đầu từ phần bụng con quái thú, hai lưỡi dao phải rạch cùng lúc và đường rạch phải tương xứng nhau. Vô Phong đánh giá cao thịt thiên tặc nhưng không thích cách người ta giết mổ nó. Trông vẻ mặt khó chịu của tên tóc đỏ, Mai Hoa bèn nói:
-Thịt con này cần xài chung với mấy loại rau củ, sao cậu không đi mua nhỉ? Chợ rau gần đây thôi, tiện thể tự mình khám phá Đại Lộ cũng hay hơn chứ?
-Sao không đi cùng tôi? – Vô Phong hỏi.
-Chúng ta bỏ ra năm mươi thùng vàng cho một miếng thịt đấy, bỏ đi nhỡ họ tráo hàng thì sao? Hãy là người tiêu dùng thông minh!
Dứt lời, gã bốn mắt liền viết những mặt hàng cần mua lên một mảnh giấy rồi đưa cho Vô Phong:
-Cẩn thận bị hớ nhé! Không cần lên đó đâu, đi bằng đường ngầm cho nhanh! Đi thẳng, thấy ngã ba thì rẽ phải, đi thẳng tiếp thấy một ngã tư rồi rẽ trái, đi tiếp, thấy một ngã ba thì tiếp tục rẽ phải, đi thêm đoạn nữa sẽ tới nơi.
Vô Phong méo mặt với khoản chỉ đường của Mai Hoa. Hắn rời khỏi lò mổ bằng cửa sau và bước vào đường ngầm. Những đường ngầm hình thành nhờ hệ thống khung và mái kim loại cố định cát, chúng nối liền các lò mổ, kho hàng, thông ra tận bên ngoài Đại Lộ. Ở đây chỉ có dấu chân của người vận chuyển và khách khứa mua thịt cao cấp. Cứ vài phút, Vô Phong lại thấy một đoàn vận chuyển khoảng bảy tám người từ phía sau đi lên, hàng hóa chất đầy trên những xe cút kít. Ít lâu sau, hắn bắt gặp một vị khách, tay xách món hàng bọc kín trong vải đen. Theo sau người này là vài gã vệ sĩ, tay thủ vào túi áo và sẵn sàng phản ứng nếu phát sinh biến sự. Tên tóc đỏ vội quay đi, không dám nhìn thêm nữa. Tại nơi đây, mọi cái nhìn lâu hơn năm giây đều bị coi là thái độ thù địch.
Đường ngầm không dễ đi như Vô Phong tưởng. Hắn đã vượt qua ngã ba đầu tiên song lại không thấy ngã tư tiếp theo mà là một ngã ba khác. Tên tóc đỏ tạm dừng bước, đợi một đoàn chuyển hàng đi qua thì hỏi đường tới chợ rau. Họ bảo hắn rẽ trái và cứ đâm thẳng tuốt là sẽ đến nơi. Nghe lời họ, tên tóc đỏ cứ theo lối ấy và sau mười phút thì tìm được cửa ra phía cuối đường ngầm, sau cửa tấp nập bóng người qua lại. Chợ rau đây rồi! – Hắn thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng ngay khi bước qua cửa, tên tóc đỏ nhận ra mình đã sai lầm. Trước mặt hắn không có rau củ nào mà là một căn nhà rộng, sực nức hương thơm ma mị của khói thuốc lẫn nước hoa. Tại sảnh lớn, những cô gái ăn vận hở hang đang lắc lư theo tiếng nhạc, uốn éo thân mình trên người những gã đàn ông hừng hực khát tình. Trên hai đường cầu thang dẫn lên tầng lửng, hàng chục cô nàng mặt hoa mày phấn dựa tay bên lan can đợi chờ khách. Phía cửa sổ, rèm treo đủ màu sắc diêm dúa bao lấy không gian mờ mờ tràn đầy thanh âm dục vọng. Bỏ mẹ tôi rồi, nhà chứa! – Vô Phong lẩm bẩm đoạn xoay gót, nhưng bỗng đâu một cô gái điếm chạy ra bá vai bá cổ hắn, đôi môi cong gợi tình phả vào tai tên tóc đỏ:
-Đi đâu thế chàng trai? Đến đây rồi phải vui chơi chứ? Đi với em không? Năm đồng vàng thôi, em sẽ cho chàng vui tới bến!
Vô Phong quay sang ngó cô ả. Nàng ta dáng cao, thân hình nảy nở dưới váy lụa mỏng hững hờ và Vô Phong thấy hết mọi thứ của cô nàng từ ngọn tới gốc. Làn da trắng cùng chiếc mũi cao cho thấy cô gái không phải người Âm Giới mà đến từ nơi nào đấy thuộc Hoa Thổ hoặc Băng Thổ. Nhìn lại dàn gái điếm, Vô Phong chợt nhận ra hầu hết họ là dân nước ngoài. Người Âm Giới thiếu ăn từ bao năm nay, sản sinh ra một cô gái đẹp không phải chuyện dễ, làm điếm lại càng không.
-Xin lỗi, tôi… tôi đang tìm đến chợ rau! – Vô Phong nói.
Nàng gái điếm cười lớn:
-Rau? Ở đây là chợ “rau” mà? Chàng không biết à?
-Ơ… thế ở đây người ta gọi là “rau” à?
Cô nàng ôm lấy mặt Vô Phong mà hôn lấy hôn để:
-Ừ, người ta gọi là “rau”. Vậy chàng muốn ăn “rau” nào đây?
Ả vừa nói vừa đưa tay sờ soạng khắp người Vô Phong. Họa là thánh mới chịu nổi trò khiêu khích của cô nàng. Vô Phong người trần mắt thịt, chẳng phải thánh. Hắn cảm giác thằng cu con dưới đũng quần sắp chui ra và ngỏng đầu hỏi “ê, có chuyện gì vui vậy mày?”. Lý trí nhắc nhở Vô Phong về nhiệm vụ, nhưng sẵn túi có tiền lại chưa hưởng mùi đàn bà bao giờ, hắn nửa muốn chuồn nửa muốn ở lại. Vạn Thế ơi, công chúa ơi, tôi phải làm gì đây?
Đương phân vân suy tính, Vô Phong bỗng nghe thấy tiếng đập phá náo động khắp nhà chứa. Toàn bộ gái điếm cùng khách hàng ngừng cuộc chơi, dồn toàn bộ ánh mắt về một căn phòng ở tầng lửng. Trong căn phòng ấy là vô số tiếng chửi bới cãi lộn, tiếng động chân động tay. Cánh cửa phòng chốc chốc lại rung bần bật và khi không thể chịu nổi hơn nữa, nó bật tung bản lề, đổ sập xuống. Ngay sau đó, một gã từ trong phòng lao ra, người trần như nhộng mặc độc chiếc quần đùi, hai tay ôm quần áo, cổ khoác đôi giày, miệng ngậm ví tiền. Trước sự xuất hiện của gã, nhà chứa hình thành hai thái cực đối lập: những nàng gái điếm nhìn gã mà trầm trồ thán phục, còn cánh đàn ông và lũ bảo kê tức nổ đom đóm mắt. Riêng Vô Phong chẳng hiểu mô tê gì, chỉ thấy thằng cha trần trùng trục kia nhảy xuống sảnh rồi hùng hục chạy về phía cửa. Lũ bảo kê hùa nhau chặn cửa, tay lăm lăm gậy gỗ, miệng chửi bới liên hồi:
-Con bà mày, trả tiền! Không thì nhừ xương!
Gã nọ giơ tay xin hàng:
-Bình tĩnh, các quý ông! Xin hãy bình tĩnh nào!
Gã cười cười nói nói, chân bước giật lùi về phía Vô Phong. Đợi gã xoay lưng lại, tên tóc đỏ mới nhìn rõ dung mạo của người này. Gã khá cao, tạng người không quá rắn chắc nhưng rất cân đối, giả như có thêm chút cơ bắp, cơ thể gã sẽ y hệt bức tượng đẽo tạc hoàn mỹ. Gương mặt gã vuông vức, tóc vàng dài ngang vai, râu quai nón màu vàng cam lún phún khắp cằm và mang tai, đôi mắt sâu tỏa làn mục quang như lốc xoáy hút hồn người đối diện. Duy một khiếm khuyết nhỏ là quanh mắt gã hằn nhiều nếp nhăn của kẻ đã qua tuổi bốn mươi. Bất quá khiếm điểm ấy chỉ khiến gã thêm phần hấp dẫn. Vô Phong dám cá số lượng cô gái qua tay gã này nhiều không đếm xuể. Liệu người phụ nữ nào từ chối một gã bốn mươi tuổi đầy phong độ như thế?
-Trả tiền đi, Đại Bác! Mày nợ quá nhiều rồi! – Một tay bảo kể chỉ thẳng vào gã trung niên tóc vàng – Hai trăm đồng vàng! Hai thùng vàng (*)! Mẹ kiếp, mày ngủ với bốn mươi con điếm của chúng tao mà không trả đồng nào! Còn tính nợ đến bao giờ? Này, hôm nay mà không trả thì bỏ lại đây một quả thận hoặc miếng gan, bán mấy thứ đó là đủ trả nợ đấy!
Vô Phong suýt phì cười trước danh xưng “Đại Bác” của thằng cha tóc vàng. Tuy nhiên gã này chẳng nao núng trước lời hăm dọa của đám bảo kê. Gã thả phịch quần áo xuống đất, diễu qua diễu lại sảnh nhà chứa với chiếc quần đùi và lớn giọng:
-Ê, ê! Cái này không tính nhé! Trả tiền thì được thôi, nhưng nếu người mua làm thỏa mãn người bán thì đâu cần phải trả chứ? Này các cô em, hầu như các cô ngủ với ta hết rồi nhỉ? Thấy thế nào, “vui” chứ hả?
Những cô gái điếm không nói gì, nhưng hết thảy họ đều mỉm cười nhìn gã. Trên tầng lửng, cô nàng từ căn phòng trật cửa nọ đến giờ mới chui ra, người cuốn tấm ga trải giường mỏng manh, gương mặt vẫn chưa hết thỏa mãn sau cuộc mây mưa. Vừa thấy gã Đại Bác, cô ả vịn tay lên lan can gọi tên gã:
-Đại Bác à… sao đã đi rồi? Em yêu chàng…
Đại Bác vỗ tay nhiệt liệt đón nhận nụ hôn gió của cô gái. Gã tiếp lời:
-Nào, thấy chưa? Cuộc sống này là trao tình yêu thương cho nhau, thưa các quý ông! Khi hai bên đều thỏa mãn, đâu cần tiền bạc nữa nhỉ? Có hai thùng vàng mà các quý ông đòi băm chặt người khác, tôi sợ đấy! Ô, cô em nào thế này, sao ta chưa từng nhìn thấy em nhỉ? Lại đây, nào lại đây! Ôi, em dùng nước hoa gì thơm vậy? Ta đoán nhé, “Hồ Hà – 56” đúng không? Ta ưng cưng rồi đó nha!
Gã ôm lấy một cô gái và nhẹ nhàng hôn lên má, cứ thế mà buông lời ong bướm tình tứ. Cô gái gần như chẳng có phản ứng, cứ mặc gã thích làm gì thì làm, gương mặt đỏ bừng như trái dâu chín. Phía đầu sảnh, một tên đàn ông không thể chịu được cảnh ả gái điếm ngồi trên bụng mình mà lại hướng toàn bộ sự tập trung về phía Đại Bác. Lòng tự tôn bốc cao, hắn tức giận hẩy cô ả sang bên cạnh rồi đứng dậy chỉ thẳng mặt gã trung niên tóc vàng:
-Con mẹ mày, bóc bánh trả tiền! Ở đây chẳng có cái luật mẹ nào cho mày miễn phí hết! Mày chỉ là thằng mồm mép dẻo quẹo lừa gái!
Đại Bác thở dài ngao ngán, gã phẩy phẩy tay như xua con chó sủa nhặng:
-Dẻo quẹo thì sao? Thằng nào trước mặt phụ nữ chẳng dẻo quẹo? Mà còn nhiều thứ nữa mới làm phụ nữ thỏa mãn cơ! Này ông anh, “súng” của ông anh bự bằng “súng” của tôi không? Không bằng thì miễn tiếp chuyện nha! Không tin hả, coi thử nè!
Nói xong, gã liền tụt quần xuống rồi xoay vòng vòng cho bàn dân thiên hạ coi xem “súng” của mình lớn cỡ nào. Vạn Thế ơi, có loại người mặt dày cỡ này à? – Vô Phong cười sằng sặc. Nhưng tiếng cười của gã lọt thỏm giữa không gian đầy náo loạn. Đám đàn ông điên tiết chửi bới loạn xạ, trong khi những cô gái điếm lại trầm trồ ngưỡng mộ, vài cô còn huýt sáo mời gọi Đại Bác. Một gã bảo kê gào lớn:
-Con bà nó, không nói nổi thằng này nữa rồi! Đánh chết nó đi!
Lũ bảo kê nhà chứa siết thành vòng vây bao chặt lấy Đại Bác. Gã tóc vàng kéo quần lên rồi móc ra một thứ như cán dao, dường như định chơi bài liều. Nhưng trái ngược suy nghĩ của đại đa số người, cái cán dao đó lại thòi lên… một chiếc lược. Đại Bác dùng lược chải tóc, ánh mắt không ngừng đong đưa với các cô gái và bọn họ cũng đáp trả gã bằng những cái tru môi gợi tình khêu gợi. Sau thấy bọn bảo kê chửi bới dữ quá, hắn liền xua tay:
-Từ từ, mấy anh giai, bình tĩnh nào! Được rồi, được rồi! Cho tôi một tuần nữa! Các vị biết tôi mà! Tôi là thương nhân, là người làm ăn Đại Lộ, sao phải làm dữ vậy? Mấy người từng thấy tôi bán hàng mà? Đúng không? Một tuần nữa trả, nhé?
Bọn bảo kê hét:
-Không! Trả hôm nay, hoặc bỏ quả thận của mày lại đây!
Đại Bác rõ ràng là kẻ mồm to lá gan nhỏ. Gã hết lục lọi quần áo, moi vài đồng lẻ từ ví tiền rỗng tuếch, lại tìm chút cơ may trong đôi giày. Nhưng xui cho gã là chẳng có thêm đồng vàng nào rớt ra. Ngay lập tức Đại Bác nhìn quanh nhà chứa, ánh mắt dừng lại trên người Vô Phong. Gã xổ tới, tay phải bá vai tên tóc đỏ:
-Này chú em đẹp trai, có hai thùng vàng không? Cho ta mượn!
Vô Phong ngớ mặt, đầu lắc lắc. Nhưng hắn cảm giác tư thế này có phần quen quen, bèn đưa tay thủ trước ngực thì bắt gặp tay trái của Đại Bác đang lần vào túi áo mình. Vô Phong đoán không sai, Đại Bác đang cố tình móc túi hắn. Hồi hành nghề chôm chỉa, hắn xài đi xài lại chiêu thức này hàng trăm lần, cố nhiên biết được trò mèo của Đại Bác. Gã tóc vàng ngạc nhiên:
-Ồ, ồ! Cũng biết sao? Nhưng mà xin lỗi nhé, cho ta mượn hai thùng vàng, anh bạn trẻ!
-Chúng ta đâu quen biết gì nhau? – Vô Phong nói.
-Không quen biết thì mới sinh ra từ “kết bạn”. Dù sao thì chúng ta cũng thành bạn rồi, cảm ơn vì hai thùng vàng nhé!
Vô Phong không hiểu Đại Bác nói gì, chợt nhìn sang bên phải thì thấy tay gã đã thó ví tiền từ bao giờ. Đại Bác nhăn răng cười toe, đoạn móc hai tờ giấy bạc đưa cho đám bảo kê rồi ném lại ví tiền cho Vô Phong. Tên tóc đỏ cấm khẩu không nói nổi câu nào. Từ hồi hành nghề chôm chỉa, hắn chưa từng gặp chuyện bị người khác chôm chỉa mà chẳng hề hay biết. Gã làm thế nào mà hay vậy? – Hắn tự hỏi.
-Cảm ơn vì hai thùng vàng! – Đại Bác nói với tên tóc đỏ – Ta là thương nhân, có vài món hàng nho nhỏ muốn trao đổi, coi như là trả ơn cậu. Được chứ?
Có một quy tắc ngầm được lưu truyền khắp Đại Lộ Đỏ: không tin tưởng bất cứ ai. Quả thực ở nơi tập trung mọi thành phần thượng vàng hạ cám của lục địa Kim Ngân, niềm tin là con dao hai lưỡi mà lưỡi ngược luôn dài hơn. Nhưng bản năng cho Vô Phong biết gã trung niên tóc vàng này có thể tin được. Hắn ngửi thấy trên người Đại Bác một thứ mùi gọi là “đồng loại”. Suy nghĩ chán, Vô Phong ưng thuận lời đề nghị. Gã Đại Bác nhìn tên tóc đỏ một lượt, tay xoa xoa chiếc cằm lún phún râu:
-Ta ưng cưng rồi đấy nha!
Tên tóc đỏ rùng mình. Đại Bác mặc quần áo, trước khi ra cửa không quên hôn gió từ biệt những cô gái điếm. Trông bản mặt tiếc rười rượi của từng cô, rõ ràng họ chẳng hề muốn gã ra đi. Vô Phong nghĩ tay Đại Bác này đã đạt đến cảnh giới tình trường mà bao gã đàn ông mong muốn. Nhưng nguyên nhân chính do đâu? “Súng” khủng chăng? – Hắn tự hỏi.
Theo chân Đại Bác, Vô Phong rời khỏi nhà chứa. Hắn nhanh chóng nhận ra mình đang ở khu vực phía bên kia đường lớn thứ tư, dãy núi bên trái Đại Lộ nằm ngay sau lưng, còn dãy núi bên phải giờ xa tít mù tắp. Chợ rau mà hắn đang tìm nằm cách đây năm trăm mét theo hướng tây nam, gần mạn đường lớn thứ ba. Tại Đại Lộ, nếu không hỏi kỹ, người được hỏi sẽ chỉ đường tới khu nhà thổ thay vì chợ bán rau củ quả. Do thường xuyên tiếp đón thương nhân và giới giàu có, khu nhà thổ kiêm luôn chức năng của chợ lao động mà thành phần chủ yếu là kiếm sĩ thất nghiệp. Trước cửa mỗi nhà chứa đều có đám người ngồi la liệt, kiếm chống trên đất treo bảng giá thuê. Việc vận chuyển hàng trên sa mạc Hồi Đằng khá nguy hiểm, người chết không phải ít, thế nên khu chợ trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho thương nhân. Bởi vậy suốt từ sáng đến đêm, khu nhà thổ luôn luôn “sôi động” cả trong lẫn ngoài.
Đồng hành cùng Đại Bác là một trải nghiệm khó quên với Vô Phong. Trên quãng đường nửa cây số, tay trung niên tóc vàng khi dừng bước để chải tóc, khi cà kê với mấy cô gái điếm, lúc chạy de kèn vì gặp bọn bảo kê đòi nợ, báo hại tên tóc đỏ suýt ăn đòn oan. Hầu như nhà chứa nào cũng biết mặt Đại Bác, bọn chủ chứa xua đuổi gã như đuổi hủi, đám gái điếm lại hâm mộ gã cuồng nhiệt. Sau cùng, gã dẫn Vô Phong tới bãi nghỉ chân của giác cầu cạnh đường lớn thứ tư. Tại đây, những con giác cầu cuộn tròn mình trên cát nằm san sát nhau, từ trên cao nhìn xuống trông như một ruộng dưa gang khổng lồ. Phía sau mỗi con giác cầu là xe chở hàng phủ vải bạt. Bảo vệ bãi nghỉ chân này là đội kỵ sĩ cưỡi vân cước, họ liên tục đảo qua đảo lại nhằm đề phòng quân ăn trộm.
Hai người tiếp tục đi sâu vào trong bãi. Tại xe của Đại Bác có một thằng nhóc đội mũ đang ngủ gục trên thành xe. Nghe tiếng bước chân, thằng nhóc bất thình lình tỉnh giấc. Nó vươn vai ngáp dài rồi nói:
-Ngài về muộn! Mà… ai đây? – Thằng nhóc chỉ vào Vô Phong.
Đại Bác cười ha hả:
-Ông bạn mới của ta! Ê nhóc, còn lá thiết mộc không? Pha giùm ly trà cho ta và ông bạn này nhé!
Vô Phong theo Đại Bác bước lên xe chở hàng. Nội thất chiếc xe trông như một căn phòng riêng có đủ chăn nệm, một chiếc bàn nhỏ chân thấp, một chiếc máy chiếu ba chiều chạy bằng năng lượng mặt trời, dăm ba quyển sách vứt chỏng chơ trên sàn, hai chiếc kệ lớn dựng ở hai bên thân xe đựng hàng mớ tạp phí lù chai lọ, xương động vật cùng vài chậu trồng những loài thực vật uốn éo một cách dị hợm. Đại Bác kéo chiếc bàn ra giữa rồi mời Vô Phong ngồi đối diện mình, đoạn lục lọi cái gì đó trong ngăn kệ:
-Đây là “nhà” của ta. Cậu biết đấy, thương nhân mà, hiếm khi ở một chỗ! Chờ tí… cái danh thiếp đâu nhỉ? Vu Cách, Vu Cách! Danh thiếp của ta đâu? – Gã gọi thằng nhóc.
-Ở ngăn thứ ba ấy! Ông không biết sắp xếp đồ đạc à? Bày bừa ra đấy, tốn công tôi đi dọn!
Đại Bác gào lớn:
-Im mồm đi mày! Ta đang tiếp khách!
-Kệ mẹ ông! Đồ bừa bãi!
Gã tóc vàng cười sặc, đoạn quay sang nháy mắt với Vô Phong:
-Thằng cu này tinh ranh lắm! Mấy tháng trước ta đến Bạch Tu quốc và nhận nuôi nó từ một cô nhi viện. Nó thường giúp ta đánh xe và dọn dẹp phòng. Giờ nó thông thạo mấy ngăn kệ này hơn cả ta nữa!
Lục lọi một hồi, rốt cục gã cũng tìm thấy tấm danh thiếp rồi đưa cho Vô Phong. Theo tấm danh thiếp, Đại Bác đang làm chủ một phi đội chuyên săn bắt quái vật trên trời, còn được biết đến với cái tên “đạo chích không trung” và có mối làm ăn với Đại Lộ Đỏ. Một phần lượng thịt cao cấp bán ở khu thực phẩm do đội bay của gã cung cấp. Tuy chưa biết thật hay giả nhưng nhìn vào cuộc sống cá nhân của Đại Bác, thật khó mà tin gã không có tiền thanh toán nợ cho bọn nhà chứa. Vô Phong hỏi:
-Có thật là ông không có tiền không?
Đại Bác mỉm cười, đoạn lôi ra một ngăn kệ đầy xấp giấy bạc. Gã cười:
-Ta thích tự tạo khó khăn cho mình. Nợ chỗ này một tí, chỗ kia một tí, nợ người này, nợ người kia, họ sẽ quấy rầy ta và làm cuộc sống thú vị hơn. Đôi khi ta đốt hết tiền để tự đẩy mình vào cảnh sống dở chết dở, vậy sẽ vui hơn.
Vô Phong nghệt mặt trước lời giải thích của gã. Vừa lúc ấy thằng nhóc Vu Cách mang trà lên. Đại Bác nhận lấy rồi đẩy ly nước trà cho Vô Phong, sau đó lại chìa ra bao thuốc:
-Cậu hút thuốc chứ?
-Không, tôi không hút. – Vô Phong lắc đầu.
Gã tóc vàng liền mở ngăn kệ, lấy ra một miếng dẻo hình chữ nhật màu đen, to cỡ lòng bàn tay, trên bề mặt có vô số hạt nhỏ li ti óng ánh:
-Vậy kẹo cao su thì sao?
Tên tóc đỏ không từ chối. Đại Bác liền rút cán dao nhưng lần này nó bật ra lưỡi dao thật thay vì cây lược. Gã cắt một miếng kẹo nhỏ rồi đưa cho Vô Phong. Tên tóc đỏ nhai miếng kẹo, cảm nhận vị mát lạnh thổi lên tận óc còn cổ họng tràn đầy vị ngọt lịm. Đại Bác cười:
-Được chứ?
-Được! – Vô Phong gật đầu.
-Nói tới đâu rồi nhỉ? À, nợ nần! Nợ nần sẽ khiến ta làm việc và có trách nhiệm hơn. Không phải vậy sao? Cuộc sống mà không nợ ai điều gì thì thằng đấy nên chết quách đi là vừa.
-Vậy sao ông không kinh doanh ở nơi khác mà phải tới lục địa Kim Ngân làm gì?
Đại Bác đáp lời:
-Vì ở đây có sự “tự do”.
-Tôi không hiểu?
Gã tóc vàng mỉm cười, sau giảng giải:
-Cậu biết tại sao Kim Ngân nguy hiểm như thế mà hàng năm vẫn có hàng vạn gã chiến binh tới đây không? Tất cả vì “tự do”. Thời đại chiến binh qua lâu rồi, những kẻ chỉ biết đánh đấm giết chóc sẽ chẳng có giá trị gì cho xã hội, cùng lắm là chức danh Hộ vệ thánh sứ. Nhưng một gã chiến binh sẽ không bó buộc đời mình vào chức danh Hộ vệ thánh sứ bởi nếu làm thế, gã sẽ không có tự do. Chiến binh sinh ra để chiến đấu, nếu không được chiến đấu, tự do nào cho gã? Thế nên vô số kiếm sĩ, pháp sư, kiếm thuật sư hay thậm chí thánh sứ đổ về cái nơi hoang tàn này và tranh đấu với nhau. Mạnh được yếu thua, chiến đấu để không trở thành nô lệ của kẻ khác, chiến đấu để có danh tiếng, để trở thành Đầu Sói hay xa hơn là “bảy người mạnh nhất. Đó là “tự do” của nơi này. Vậy nên Kim Ngân chưa bao giờ hết hỗn loạn.
Vô Phong nheo mắt:
-Hình như ông đến từ nơi khác, không phải người Kim Ngân.
-Phải! – Đại Bác gật đầu – Ta không thích cái xã hội mà những kẻ siêu giàu và quyền lực được tự do, còn dân thường thì không. Ở Kim Ngân, sức mạnh quyết định tất cả và không ai có thể phàn nàn trước kẻ mạnh hơn. Vì vậy ta mới đến đây.
-Vậy ông có tự do chưa?
Gã tóc vàng cười lớn:
-Có rồi! Giờ ta có kẹo cao su để ăn vặt, có lược chải tóc để mình bảnh giai hơn trước những cô gái và có dao…
Gã ngừng nói. Vô Phong chăm chú lắng nghe, trong lòng nghĩ “có dao để xỉa bất cứ thằng nào”. Nhưng Đại Bác không bao giờ suy nghĩ kiểu lối mòn mà luôn làm người khác đi từ ngạc nhiên này tới bất ngờ khác:
-Có dao để cắt kẹo cao su. Vậy đấy!
Đại Bác cười đoạn mời Vô Phong uống trà. Gã tiếp lời:
-Hôm nay ta chẳng bán hàng, nếu không đã tặng vài miếng thịt thiên tặc rồi. Nhưng ở đây cũng có mấy món giá trị lắm, như khúc xương kia! Đó, nó đó! Bán cho khu dược phẩm của Đại Lộ, cậu sẽ kiếm được khoảng hai mươi thùng vàng. Lấy chứ?
Vô Phong lắc đầu. Hắn chẳng ham hố chuyện Đại Bác trả ơn bởi ngay từ đầu hắn không có ý định giúp. Gã tóc vàng nheo mắt:
-Cậu không đùa đấy chứ? Này, bất cứ thằng nào nhìn thấy mấy kệ hàng này của ta cũng phát điên lên vì sung sướng đấy. Đừng nói hai thùng vàng, chúng sẵn sàng bỏ hai trăm thùng vàng chỉ để sở hữu một trong mấy món đồ này. Nghĩ lại đi!
Tên tóc đỏ xua tay:
-Thực sự là tôi không cần. Cảm ơn vì cốc trà và… kẹo cao su. Món kẹo ngon thật đấy!
Đại Bác ngẩn mặt nhìn tên tóc đỏ, vẻ như đây là lần đầu gặp thể loại người như Vô Phong. Gã tóc vàng chợt nhếch mép cười, tay chống lên bàn, người rướn về phía trước:
-Ta ưng cưng rồi đấy nha! Này anh bạn, cậu nghĩ sao nếu gia nhập cùng ta, trở thành “đạo chích không trung”?
Vô Phong gãi gãi đầu:
-Tôi thấy cái nghề đó chẳng khác gì không tặc cả.
-Tầm bậy tầm bạ, ai bảo cưng thế?! – Đại Bác lớn tiếng – Khác nhau hoàn toàn đấy nhé! Nghe nè, không tặc ăn cướp phi thuyền của người, đạo chích không trung ăn cướp những con quái thú của thần thánh. Biển có ngư dân đánh cá, trời có đạo chích săn bắt quái thú. Biển có thuyền, trời có phi thuyền. Biển có “ngư trường”, trời có “điểu phận”. Biển càng sâu càng lắm chuyện ma quỷ, trời càng cao càng lắm truyền thuyết. Kẻ chết ở biển vùi xác dưới sóng lớn, kẻ chết ở trời tan thây bởi gió xé trên chín tầng mây. Biển thử lòng người gan dạ, trời đón chào kẻ tự do. Nào anh bạn, muốn đi cùng ta không?
Tên tóc đỏ ngây ngốc nhìn Đại Bác. Thể xác hắn tuy ở đây nhưng thần hồn đã vượt qua cả tầng mây ô nhiễm đương bao phủ sa mạc Hồi Đằng. Vô Phong chợt nhớ ngày quyết định rời khỏi chợ rác, khi ấy hắn đã nhìn lên bầu trời và khao khát vì nó. Đạo chích không trung ư? Vậy ngoài bọn thiên tặc hay vân cước ra còn bao nhiêu con quái vật? Còn thứ gì ẩn sau những tầng mây vô tận kia? – Hắn không biết. Và bởi không biết nên hắn phấn khích vô cùng.
“Phong, đang ở đâu thế? Mua được đồ chưa? Nghe tôi nói gì không thế?”.
Chiếc tai nghe bộ đàm vang giọng Mai Hoa cắt ngang dòng suy nghĩ của Vô Phong. Tên tóc đỏ quên khuấy rằng còn một đống rau củ quả chưa mua, hắn bèn hớp nốt ly trà rồi nói:
-Xin lỗi! Tôi có việc phải đi! Đừng để ý hai thùng vàng nữa!
Đại Bác nhún vai:
-Vậy hả? Được rồi, cầm lấy miếng kẹo cao su này, coi như là quà tặng! Dù sao ta vẫn nợ cậu, nếu sau này gặp lại, hãy đưa ra một điều kiện gì đó. Ta không quên đâu! Hoặc nếu cần, cứ gọi điện thoại trên tấm danh thiếp!
Vô Phong không hứng thú với những món hàng đắt cắt ra vàng của Đại Bác song chẳng từ chối miếng kẹo cao su. Gã nhận lấy, cảm ơn lần nữa rồi chạy như bay về khu chợ rau. Gã tóc vàng Đại Bác nhìn theo rồi lắc đầu cười như thể đang tiếc nuối. Đợi khi cái bóng Vô Phong đi khuất rồi, gã mới chui vào trong xe và gọi thằng nhóc giúp việc:
-Ê nhóc, chúng ta khởi hành nào! Vào trong ngủ đi, để ta đánh xe!
Thằng nhóc Vu Cách ngạc nhiên:
-Thật hả? Ông tốt vậy hả?
-Ờ. Nhưng nếu ta bắt gặp cô em xinh đẹp nào đấy thì chú mày đánh xe giùm nhé. Vậy nên hãy cầu xin Vạn Thế là không có gái đẹp xuất hiện đi.
Vu Cách đem cho Đại Bác chiếc mũ rộng vành màu đen cùng một cọng cỏ dài. Thằng nhóc làu bàu:
-Nếu biết Đạn Đạo, một trong bảy người mạnh nhất là kẻ háu gái thế này, tôi thà ở quách cô nhi viện cho rồi! Mà ông là ông chủ Đại Lộ Đỏ cơ mà, sao cứ phải nợ nần mấy nhà chứa làm gì vậy?
Gã tóc vàng cười ngất, sau đội mũ lên đầu, miệng ngậm cọng cỏ, tay vung roi điện điều khiển giác cầu. Con quái thú rùng mình tỉnh giấc rồi kéo xe vào đường lớn thứ tư. Trên đường, người ta thấy một gã tóc vàng đội mũ rộng vành vừa đánh xe vừa nghêu ngao hát thế này:
Đi đi, con của gió
Rồi ngươi sẽ thấy mây
Đi đi, con của gió
Rồi ngươi sẽ thấy trời
Đi đi, con của gió
Rồi ngươi sẽ thấy mình
Ta tự do
Ta không sầu lo
Ta sống tới ngày thế giới rực một màu đỏ…
Và rồi người ta lại nghe thấy từ chiếc xe vang lên giọng của một thằng nhóc:
-Im đi lão già! Tôi không ngủ được!

nguồn: Tàng.Thư.Viện

(*) ở Tâm Mộng, một trăm thùng vàng được tính = một thùng vàng.
Vu Cách từng xuất hiện ở Quyển 2 – Chương 37
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom