Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Thanh Vân Đài

Chương 80


Ngự liễn dừng giữa đại lộ Chu Tước thênh thang.

Cấm vệ quân ở Điện Tiền Ti đi trước, dàn hàng hai bên đường, ngăn cản bách tính muốn đi tới chiêm ngưỡng thánh nhan. Thanh Duy đứng giữa đám đông, sắc trời còn âm u, xung quanh lại chen chúc ồn ào, nên cấm vệ quân cũng không phát hiện ra nàng.

Gần đấy có người gào giọng gọi “Quan gia”, Thanh Duy nhìn theo âm thanh, Triệu Sơ và Chương Nguyên Gia đã xuống ngự liễn.

Tạ Dung Dữ đi sau lưng họ, y mặc áo lông, đầu đội ngọc quan, dáng vẻ nghiêm túc ấy trông có phần lạnh lùng, nhưng dung mạo vẫn như ngọc như sương.

Không có quy định lễ chế lúc đi trên đại lộ, nhóm hoàng tộc lần lượt xuống kiệu, người hầu kéo xe đi theo. Thấy người hộ tống kiệu của Tạ Dung Dữ là Triêu Thiên, Thanh Duy siết hòn đá trong tay, nhân cơ hội Điện Tiền Ti không chú ý, nàng búng tay ném đi.

Hòn đá đập trúng trục bánh xe, vang lên tiếng *cạch* rất nhỏ.

Triêu Thiên ngạc nhiên, lập tức dừng chân. Ở phía trước, Tạ Dung Dữ khẽ chau mày, y cũng nhận ra âm thanh khác lạ giữa biển người tấp nập, nhìn về phía đám đông.

Chính là đây!

Thanh Duy giơ tay toan cởi mũ ra, nhưng đúng lúc này lại nghe thấy bên cạnh có người hô lớn: “Quan gia!”

Hơn mười cống sinh mặc lan sam tụ tập lại, “Xin hỏi Quan gia, tin đồn Hà gia đánh tráo gỗ Tiển Khâm Đài, tham ô bạc triều đình có phải là thật không ạ?”

“Có phải Hà thị là đầu sỏ khiến Tiển Khâm Đài sập không?!”

“Năm xưa có biết bao nhiêu người đã chết dưới Tiển Khâm Đài, bao giờ triều đình mới trị tội Hà thị?!”

Các cống sinh chất vấn dồn dập, dân chúng xung quanh cũng ùa lên phố, thấy bên này hỗn loạn, cấm vệ quân tập trung hết binh lực sang, tạo thành nhiều vách chặn giữa dân chúng và hoàng tộc. Thấy cảnh đó, thanh Duy buông tay xuống, mũ trùm vẫn còn đội trên đầu.

Cấm vệ quân cao to vạm vỡ, Thanh Duy bị đẩy lui sau, tầm mắt bị che khuất, chẳng thấy rõ đại lộ phố phường, nhưng nàng vẫn không rời đi mà đẩy đám đông ra, muốn chen tới chỗ ít người.

Bất thình lình, ở con hẻm phía sau có người lên tiếng: “Đã từng gặp người này chưa?”

“Mười chín tuổi, họ Ôn.”

Thanh Duy lập tức hoàn hồn, nàng ngoái đầu nhìn, ra là Tả Kiêu vệ đang cầm chân dung của nàng hỏi thăm.

Đúng rồi, sao nàng lại quên chứ?

Tả Kiêu vệ biết quan hệ của nàng với Tiểu Chiêu vương, hôm nay Tiểu Chiêu vương xuất hiện trên phố, Tả Kiêu vệ đoán kiểu gì nàng cũng sẽ đến, cho nên mới ôm cây đợi thỏ.

Ngày mà hộ buôn thuốc chết ở ngoại ô, rõ ràng đám người kia đã có ý bắt nàng trước mặt Tạ Dung Dữ.

Hôm nay trên đại lộ Chu Tước, có mặt hoàng tộc, triều thần cũng tới dự, thậm chí có cả những sĩ tử thương nhân bất bình bức xúc vì Tiển Khâm Đài, nếu nàng bị bắt, chỉ cần Tạ Dung Dữ bảo vệ nàng thì sẽ bị nghi ngờ tội bao che, nước bẩn đã vấy có rửa cũng chẳng sạch, nàng không dám nghĩ đến hậu quả phía sau.

Nghĩ tới đây, Thanh Duy hối hận vì bản thân đã kích động, nàng lập tức lùi bước, may thay Trương Viễn Tụ đứng gần đó, nàng lập tức trốn ra sau lưng y, tránh ánh mắt truy tìm của Tả Kiêu vệ, dần dà lùi về xe ngựa.

Thấy nàng đã về, Tiết Trường Hưng tức giận: “Cháu xem thường Tiết thúc của cháu bị què, không bắt kịp cháu đúng không! Nếu hôm nay cháu mà bị bắt, dù có chín cái mạng cũng không sống nổi!”

Thanh Duy biết mình đuối lý: “Xin lỗi, cháu…”

Nàng không biết phải giải thích thế nào, một lúc sau chỉ nói: “Đã gây thêm rắc rối cho Trương Nhị công tử rồi.”

Trương Viễn Tụ nhìn nàng, điềm đạm nói: “Vết thương của cô nương còn chưa lành, lúc nãy chen chúc trong đám đông, cô nương có bị thương lại không?”

Thanh Duy cụp mắt lắc đầu.

Trương Viễn Tụ không nói gì nữa, Thanh Duy nhảy xuống xe là muốn làm gì, vừa rồi khi đi theo y đã chứng kiến rõ ràng.

Y vén rèm lên, nhìn ra ngoài, sắp tới cổng thành rồi, “Tuy cô nương nói không cần gì, nhưng tại hạ vẫn chuẩn bị tay nải cho cô nương, đặt trên lưng ngựa ở ngoài thành, ngoài áo quần lộ phí ra thì còn có ít thuốc trị thương, lần này cô nương đi xa, điều quan trọng là nên chữa khỏi vết thương trên người,” Y dừng lại, thả rèm xuống, nhìn sang Thanh Duy, “Mong điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cô.”

Dạo gần đây trong thành giới nghiêm cao độ, ở cổng thành cũng tăng cường binh mã, không phải mọi cỗ xe kiệu hộ tống hoàng liễn đều được miễn kiểm tra, chỉ là cỗ xe của Trương Viễn Tụ treo lệnh bài của lão thái phó nên thủ vệ mới dễ dàng cho qa.

Chẳng bao lâu mọi người đã đến trạm dịch cách đó hai mươi dặm, Thôi Chi Vân và Cao Tử Du đang đứng đợi ngoài đường.

Thanh Duy chia tay Trương Viễn Tụ và Tiết Trường Hưng, đi đến trạm dịch, Thôi Chi Vân lập tức cất tiếng: “A tỉ.”

Cao Tử Du chắp tay với Thanh Duy: “Ngựa của biểu muội đang ở trong chuồng trong trạm dịch, tại hạ đã đánh tiếng với dịch thừa rồi, hắn sẽ không tiết lộ tung tích của biểu muội với người ngoài.”

Thanh Duy gật đầu: “Đa tạ.”

Cao Tử Du lắc đầu, nói với Thôi Chi Vân: “Ta lên xe ngựa chờ muội.” Rồi dời bước đi trước.

Thanh Duy nhìn theo bóng lưng hắn, quay sang nói với Thôi Chi Vân: “Xin lỗi muội, hiện tỉ đang là khâm phạm, muốn gặp muội chỉ có thể mượn danh nghĩa Cao Tử Du hẹn muội ở đây.”

Thôi Chi Vân mỉm cười: “… Lúc nãy biểu ca nói huynh ấy và Xa thị đã hủy hôn ước rồi. Huynh ấy nói, nửa năm qua Tích Sương giày vò quá đáng, còn lén lút… làm rất nhiều chuyện ghê tởm, bây giờ cả huynh ấy lẫn dì dượng đều rất ghét cô ta. Huynh ấy nói trong lòng huynh ấy chỉ có muội, vẫn mong muội có thể kết hôn với huynh ấy, huynh ấy sẽ để muội làm chính thê, đến khi Tích Sương sinh con xong, đứa bé đó cũng chỉ nhận muội làm mẹ.”

Thanh Duy nhìn Thôi Chi Vân.

Kể ra thì muội ấy nhỏ hơn nàng một tuổi, vẫn chưa đến tuổi mười tám.

“Nhưng muội từ chối rồi.” Thôi Chi Vân dừng lại, nói, “A tỉ à, thời gian qua muội ở Giang phủ chờ tỉ, nhìn rất rõ nhiều chuyện, muội biết tỉ là ai, biết Tiểu Chiêu vương là ai, vì sao cha muội lại bị định tội, bức thư cáo trạng Giang gia dâng lên ngự tiền năm ấy khiến khâm sai tới Nhạc Châu tróc nã phụ thân, thực chất cũng là để bảo vệ Thôi gia trước. Muội biết được nhiều khía cạnh tốt xấu trong từng chuyện, không phải bao giờ cũng như nhìn từ bề ngoài, mà muội lại bị tư tưởng ấy che mắt quá lâu, tưởng người khác hứa hẹn điều gì với mình cũng sẽ thành sự thật. Nếu như muội nhận lời biểu ca, làm vợ huynh ấy, có lẽ sẽ vui vẻ một hai năm đấy, nhưng ai biết được liệu sau này có Tích Sương thứ hai hay không? Muội xuất thân thấp bé, chỉ là con gái của một thương nhân, nếu mai sau biểu ca làm quan lớn, ai mà biết liệu có Xa thị thứ hai hay không?”

Sống ở Cao gia mấy tháng, với người khác có lẽ chẳng là gì, nhưng với Thôi Chi Vân đấy lại là khắc cốt ghi tâm.

“Muội không muốn quay lại những ngày tháng đó nữa. Muội muốn được như a tỉ, dù đi tới đâu cũng có thể tự lập đứng vững. Muội đã quyết định rồi, đợi vụ án kết thúc, muội sẽ theo cha về Nhạc Châu, học cách kinh doanh để quản lý cửa tiệm cùng cha, bao giờ muội có thể cáng đáng gia nghiệp thì tới lúc ấy tìm phu quân cũng chưa muộn.”

Nói đoạn, Thôi Chi Vân đưa tay vén tóc, nàng rất đẹp, vẫn chói lọi như hồi mới lên kinh, nhưng nay nhìn qua lại có gì đó khang khác, có lẽ sự yếu ớt vì được nuông chiều từ nhỏ đã bị gió sương trên quãng đường vừa qua thổi bay.

Con người trưởng thành như thế đấy.

Không ai là ngoại lệ.

“Trước đó muội rất sợ phải gặp biểu ca, muội thích huynh ấy mà, nên mới sợ nếu gặp thì sẽ dao động, không muốn về Nhạc Châu nữa. Nhưng hôm nay gặp huynh ấy, muội mới thấy sau nhẹ nhõm cũng không có gì gọi là khó từ bỏ cả, vì vậy muội muốn cám ơn a tỉ, cám ơn tỉ đã dẫn theo gánh nặng là muội lên kinh, còn thay muội đến Giang gia, cám ơn a tỉ đã dẫn muội rời khỏi Cao gia, để muội thấy vẻ mặt cuối cùng của Cao Tử Du, hiểu ra rằng mình cũng có thể mạnh mẽ được như thế.”

Thanh Duy nói: “Cám ơn tỉ làm gì, người cần cám ơn là chính muội kia kìa.”

Nghe nàng nói thế, Thôi Chi Vân mỉm cười: “Vâng, còn cả bản thân muội nữa.”

Thanh Duy nói: “Nếu muội đã cương quyết rời khỏi Cao gia như vậy, ngày trước khi tỉ đến Giang phủ, dì La có chuẩn bị cho tỉ một rương hồi môn, muội đem về trả lại đi. Tỉ chưa động đến chỗ rương ấy, nhưng trong rương có một chiếc hộp gỗ, bên trong có mấy bản vẽ, nó là đồ của tỉ, nhờ muội cất giữ giùm.”

Thôi Chi Vân gật đầu: “Vâng ạ.”

“Còn nữa,” Thanh Duy lấy ra một phong thư từ trong túi áo khoác, “Trong vụ án của Hà Hồng Vân có một nhân chứng tên Phù Đông, bao năm qua nàng ấy vẫn luôn đi tìm thầy dạy của mình, người ấy tên là Từ Thuật Bạch, về sau y mất tích, tỉ đã nhờ người nghe ngóng và viết rõ trong thư rồi, muội cất đi, mai mốt chuyển cho nàng ấy.”

Thôi Chi Vân nhận phong thư: “Muội phải giao bức thư này cho Huyền Ưng Ti hả?”

“Không phải Huyền Ưng Ti.” Thanh Duy nói, “Giao cho Tiểu Chiêu vương. Cả hộp gỗ kia nữa, bao giờ muội gặp Tiểu Chiêu vương thì cứ giao cho ngài ấy.”

“Và…” Thanh Duy im lặng một lúc lâu, tháo miếng ngọc bên hông ra, đưa cho Thôi Chi Vân, “Thêm cả miếng ngọc này.”

Màu ngọc bích rất đẹp, được Thanh Duy cẩn thận cầm giữa hai ngón tay, chạm vào hơi ấm.

Sóng gió trong cung biến hóa khôn lường, mỗi bước đi đầy rẫy hiêm nguy, một phong thư hay một hộp gỗ chưa chắc đã làm Tạ Dung Dữ tin tưởng, nhưng thêm miếng ngọc này, có lẽ là đủ rồi.

Y biết nàng thích nó, luôn mang theo bên mình.

“Muội nhắn với y là tỉ vẫn sống khỏe, nhớ tạm biệt giúp tỉ, nói với y là tỉ đi rồi.”

Thôi Chi Vân gật đầu, giơ tay nhận ngọc.

Ngọc rời tay, chỉ còn lại gợn gió giữa kẽ ngón.

Bất chợt hơi lạnh chạm vào má, Thanh Duy ngẩng đầu nhìn lên, tuyết lại rơi rồi.

Cứ vậy đi.

Nếu còn chần chừ nữa là tuyết sẽ càng rơi dày hơn, e rằng nàng sẽ không đến kịp trấn kế tiếp mất.

Thanh Duy đi vào chuồng tháo ngựa, dắt ngựa đi ra, cuối cùng nói với Thôi Chi Vân: “Tỉ đi đây, muội nhớ bảo trọng.”

“A tỉ.” Thôi Chi Vân dợm bước đuổi theo, “A tỉ, dù tỉ họ Thôi hay họ Ôn, tỉ mãi mãi là a tỉ của muội. Muội… muội chắc chắn sẽ trụ vững ở Nhạc Châu, Thôi trạch Nhạc Châu, vẫn là nhà của tỉ.”

Nghe lời ấy, Thanh Duy mỉm cười.

Nàng ngoái đầu nhìn lại, ánh mắt chuyển từ Thôi Chi Vân về tòa thành cách đó không xa.

Tuyết đột nhiên rơi nhiều, đô thành trong tuyết chỉ còn lại bóng hình mờ ảo.

Thanh Duy không nhìn rõ, bèn dắt ngựa đi về phía trước.

Nhà ư?

Với nàng mà nói, chữ “nhà” đã trở nên xa lạ.

Quê nhà Thần Dương là khung cảnh xa xưa trong giấc mơ, sau khi Tiển Khâm Đài sập, nó trở thành nơi nàng không bao giờ có thể quay trở lại.

Vừa rồi khi Chi Vân nhắc tới nhà, nơi đầu tiên nàng nghĩ đến chính là Giang phủ.

Nến đỏ bập bùng, y vén khăn voan…

“Nên thiếp qua cửa chính là nhờ Nguyệt lão trên cao đưa lối, nào còn đường khác để đi.”

“Hai chúng ta được Nguyệt lão đưa lối chỗ nào? Hai ta là bị Nguyệt lão dùng dây tiên trói chặt vào nhau, còn móc thêm 12 chiếc khóa nhân duyên, dù có mượn thanh đao Côn Ngô ở Bồng Lai cũng chém chẳng đứt… chỉ sợ khi xuống âm tào địa phủ, thập điện Diêm La sẽ viết tên hai ta lên đá tam sinh…”

Hư tình giả ý, đôi bên thăm dò, thế mà cuối cùng lại trở thành người để nàng nương tựa chốc lát trên quãng đường mưa gió.

Chỉ tiếc rằng những ngày tháng đó lại quá đỗi ngắn ngủi.

Nến đỏ đã tàn, y là vương gia ở tít trên cao, nàng là trọng phạm không được lộ diện, mãi mãi không thể đặt chân vào thâm cung nguy nga lộng lẫy, cũng như lúc này nàng bị đám đông ngăn cách cản trở, y đứng ở nơi xa cũng không thấy được nàng.

Đó mới là sự thực bị ánh nến che giấu.

Gió thổi vù vù, Thanh Duy tiến về phía trước.

Như bao lần nàng lang thang phiêu bạt trong quá khứ, một thân một mình, đội mũ che mặt, hướng về nơi xa xăm, không bao giờ ngoảnh lại.
 
Chương 81


Đêm đã khuya, trong điện Tuyên Thất vẫn sáng đèn.

Triệu Sơ dựa vào long ỷ, đưa tay day ấn đường: “Hà Hồng Vân nói thế nào?”

“Thần đã đọc tội trạng mà Đại Lý Tự vạch ra cho Hà Hồng Vân nghe rồi.” Thượng thư bộ Hình đáp, “Hà Hồng Vân không chối cãi, nhưng hắn vẫn không chấp nhận, đòi gặp Tiểu Chiêu vương. Thần cho người tới điện Chiêu Doãn hỏi ý rồi ạ, Chiêu vương điện hạ nói… không gặp. Thần cũng hết cách, đành ra lệnh ngục tốt dụng hình.”

Triệu Sơ thở dài: “Hắn là trọng phạm, chịu hình cũng đáng.” Chàng dừng lại, đoạn đứng dậy đi ra khỏi điện, “Chuyện đã tới nước này rồi, không cần cho Hà thị đãi ngộ gì nữa, cần làm thế nào thì cứ làm thế ấy.”

Sáng sớm trên đường dự đại điển Đông Tế, những câu truy hỏi của sĩ tử văng vẳng bên tai, Triệu Sơ quay về cung, lập tức thúc giục lục bộ tam ti gấp rút phá án, hiện các nha môn bận đầu tắt tối mặt, đã gần giờ Tý nhưng chưa mấy ai về.

Thấy Triệu Sơ đi ra khỏi điện, Chương Hạc Thư cùng vài quan viên lập tức đi theo, hạ giọng nói: “Quan gia, Hà đại nhân vẫn đang quỳ ngoài tuyết.”

Hà Thập Thanh đã quỳ ở đài Phất Y một ngày tròn. Chòm râu của ông bị tuyết phủ trắng, người như già đi chỉ sau một đêm, thấy Triệu Sơ đi xuống, ông ta cất cao giọng: “Quan gia, Quan gia! Xin nghe lão thần nói đôi lời! Lão thần biết khuyển tử phạm tội tày trời, không mong Quan gia tha thứ cho nó, nhưng cầu xin Quan gia nể tình những năm qua lão thần hết lòng phụ chính, cho dù lột da rút gân, cũng xin cho nó được giữ lại mạng sống!”

“Quan gia! Bệ hạ!” Thấy Triệu Sơ lại gần, Hà Thập Thanh lê đầu gối trong tuyết, khom lưng ôm gấu áo chàng, “Không thì, xin ngài nể mặt Thái hậu, Thái hậu và Quan gia là mẹ con, Quan gia biết mà, Niệm Tích là đứa cháu Thái hậu yêu thương nhất!”

Đôi mắt đục ngầu của Hà Thập Thanh giàn giụa nước mắt, “Niệm Tích nó bị tham lam che mắt, một bước sai dẫn đến vạn bước sai, nhưng mục đích của nó, tuyệt đối không phải khiến Tiển Khâm Đài sập, Quan gia bắt nó đi diễu phố hay dụng hình, lão thần cũng xin nhận, nhưng Hà gia đã trải qua bao triều đại, cũng từng lập công vì triều đình, sinh ra bao nhiêu văn thần lương tướng, chiến công nhiều như thế, lẽ nào trong mắt Quan gia lại chẳng đáng đồng nào?”

Triệu Sơ im lặng đứng trong tuyết, nghe tới đây, chàng cúi đầu nhìn Hà Thập Thanh.

Vị Trung Thư Lệnh đứng sừng sững trên triều bao nhiêu năm, nhưng giờ đây khi cởi quan bào, gỡ phát quan, thì cũng chỉ là một ông lão bình thường mà thôi.

“Thiên tử phạm pháp, tội như thứ dân.” Triệu Sơ nói, “Hai tay Hà Niệm Tích đã dính máu quá nhiều, phải lấy mạng đền mạng. Hà đại nhân mới luận công tích với trẫm, vậy phải biết, từ xưa đến nay công lao tội trạng không bù trừ nhau.”

Rồi chàng ra lệnh: “Người đâu, đài Phất Y không phải nơi để minh oan tội ác tày trời, mau mời Hà đại nhân xuống.”

Tiểu hoàng môn vâng lệnh tiến lên, đỡ Hà Thập Thanh dậy, đưa ông ra khỏi cửa cung.

Chương Hạc Thư nhìn bóng lưng ông ta trong màn tuyết, gọi nội thị đến châm đèn, đi tới cửa nách trong cung.

Màn đêm tĩnh lặng, gia nhân lái xe của Chương phủ đang chờ ngoài cửa, trong khoang xe thắp nến, Chương Hạc Thư nghỉ ngơi một lúc, sau đó châm đèn, mở sách đọc.

Đây là thói quen của ông, tuy Chương thị là danh môn vọng tộc nhưng Chương Hạc Thư đường hoàng thi đậu thăng quan, năm xưa miệt mài học hành, giờ đây đã là trọng thần nhưng vẫn không bỏ bê. Chương phủ cách xa hoàng thành, đi mất non nửa canh giờ, trong thời gian đó ông vẫn chú tâm đọc sách, tới lúc xe ngựa dừng bánh, gia nhân ngoài xe thấp giọng gọi: “Lão gia.” Chương Hạc Thư mới đóng sách lại.

Trời hôm khuya khoắt, ngoài phủ yên ắng, Chương Hạc Thư đi vòng qua bình phong đá, thấy chính đường vẫn sáng đèn.

“Lan Nhược về rồi à?” Chương Hạc Thư hỏi.

“Sao có thể ạ? Đại Lý Tự bận rộn công vụ, sáng sớm nay Đại thiếu gia còn cho người về báo là mấy ngày tới sẽ ở lại nha môn.” Lão bộc đáp, “Là Trương Nhị công tử ạ.”

“Vong Trần?” Chương Hạc Thư dừng bước, bình tĩnh cho lão bộc lui xuống.

Một mình ông bước vào đại sảnh, hơi lạnh trên người vẫn chưa tản, “Vong Trần, sao cậu lại đến đây?”

Trương Viễn Tụ đứng dậy chắp tay, “Hồi tối nghe nói tiên sinh có chuyện tìm tôi, đương rảnh nên ghé phủ, đêm lặng lắng nghe tuyết rơi, châm trà ngắm trăng tán gẫu, còn gì tuyệt vời bằng.”

Năm xưa trước khi Trương Viễn Tụ vào chốn quan trường, y từng được Chương Hạc Thư chỉ điểm văn chương, vì vậy y vẫn luôn gọi ông là tiên sinh.

Trong chính đường đốt lò sưởi, Chương hạc Thư cởi áo khoác ra, dù ông đã ngoài bốn mươi, tóc mai ngả trắng, nhưng thoạt nhìn lại chỉ như một thư sinh gầy gò, “Là có tin tốt muốn nói với cậu, về Tiển Khâm Đài, Quan gia đã ấn định được ngày tái khởi công rồi.”

Bàn tay gạt nắp trà của Trương Viễn Tụ khựng lại, “Thật sao?”

Chương Hạc Thư gật đầu: “Hiện đang là mùa đông nên chưa phải lúc, đợi đến tháng ba mùa xuân năm sau, Quan gia sẽ điều thợ mộc đến núi Bách Dương.”

Trương Viễn Tụ nhìn nước trà, một lúc lâu sau mới khoan thai nói: “Nếu được xây lại thì tốt quá.”

“Đúng vậy, nếu mà xây lại, coi như cậu không phí công.” Chương Hạc Thư nói, “Trăm cay ngàn đắng cứu Tiết Trường Hưng, còn lay chuyển được quan phủ Ninh Châu năm xưa lên kinh giải oan, yêu cầu điều tra bản án ôn dịch, Hà gia bị định tội nhanh như thế cũng nhờ các sĩ tử thương nhân đô thành và Ninh Châu dâng thư.”

Trương Viễn Tụ đứng dậy, lại chắp tay vái Chương hạc Thư, “Vong Trần thực sự không dám nghĩ triều đình có thể nhanh chóng quyết định tái xây dựng Tiển Khâm Đài, lần này còn phải đa tạ tiên sinh đã trù mưu.”

“Vong Trần khách khí làm gì?” Chương Hạc Thư nói, “Đây là chuyện hợp tình hợp lý, Tiển Khâm Đài vốn xây vì sĩ tử, tội ác tráo gỗ của Hà thị đã bị vạch trần, chắc chắn sĩ tử sẽ không cam lòng, để trấn an bọn họ, đương nhiên triều đình sẽ đồng ý xây lại đài.”

Rồi ông bật cười, “Năm xưa phụ thân cậu dẫn sĩ tử nhảy sông Thương Lãng, bây giờ xây đài, đời sau cũng sẽ nhớ tới hồn thiêng của bọn họ, cậu cũng được yên tâm rồi.”

Nhưng nghe lời ấy, Trương Viễn Tụ không khỏi im lặng.

Một lúc lâu sau, y mới ngước nhìn Chương Hạc Thư: “Có chuyện này, Vong Trần cứ không biết phải xử lý thế nào, chẳng hay tiên sinh có thể giải đáp được không.”

Y có làn da trắng trẻo, gương mặt điềm đạm, nhưng bất chợt nhìn chằm chằm vào người khác như thế chẳng khác gì hàn quang ẩn hiện trong ánh xuân hờ hững, làm lòng người nôn nao bất an.

Chương Hạc Thư lại chẳng để ý: “Cậu hỏi đi.”

“Mấy hôm trước, ở ngoại ô phía tây có vài thương nhân chết rất kỳ quặc, tiên sinh có biết… rốt cuộc ai đã làm chuyện này không?”

“Không biết.” Chương Hạc Thư dửng dưng nói, “Không phải triều đình đang điều tra à? Sao, cậu cảm thấy vụ án này lạ hả?”

Trương Viễn Tụ đáp: “Quá trùng hợp. Nếu nhà họ Chúc không chết, những hộ buôn bị Hà Hồng Vân uy hiếp chưa chắc đã đánh trống Đăng Văn, Đăng Văn không vang, tội của Hà gia chưa chắc đã bị bại lộ, cống sinh sĩ tử trong triều cũng sẽ không làm lớn chuyện, như thế triều đình sẽ không nhanh chóng quyết định xây lại Tiển Khâm Đài để trấn an bọn họ. Tôi lo chuyện này là do mình nên mới hỏi thế.”

Không đợi Chương Hạc Thư trả lời, y nói luôn, “Nhưng đó cũng chỉ là suy đoán của Vong Trần mà thôi, tiên sinh nghe vui rồi thôi, chớ xem là thật. Giờ đã muộn rồi, Vong Trần không tiện làm phiền thêm, xin phép được cáo từ.”

“Vong Trần gượm đã.”

Thấy Trương Viễn Tụ đã bước đến cửa, Chương Hạc Thư gọi lại.

“Dạo gần đây, Vong Trần có thấy nữ Ôn thị kia đâu không?”

Trương Viễn Tụ khẽ cau mày, xoay người lại: “Không gặp, sao tiên sinh lại hỏi thế?”

“Không có gì, chẳng qua nghĩ cậu đã ra tay cứu Tiết Trường Hưng, thì việc bảo vệ nữ Ôn thị cũng không khó. Lão phái phó coi cậu như con ruột, ngay cả xe ngựa của phủ thái phó cũng cho cậu dùng, xe ngựa ấy, có kẻ nào dám đi lục soát? Cậu nói phải không?”

Trương Viễn Tụ đáp: “Tiên sinh nghĩ nhiều rồi, nữ Ôn thị là khâm phạm bị triều đình ráo riết truy nã, cho Vong Trần một trăm lá gan cũng không dám bảo vệ cô ta.”

Nói đoạn, y lại chắp tay vái lần nữa rồi đẩy mở cửa, bước thẳng ra ngoài.
 
Chương 82


Tuyết vừa ngừng rơi, sương mù đã giăng khắp lối, tờ mờ sáng chậm rãi ló dạng, Tạ Dung Dữ vén màn sương lạnh lẽo, vội vã đi tới chính điện.

Thôi Chi Vân đang chờ trong điện, thấy Tạ Dung Dữ đến, nàng rụt rè gọi: “Tỉ phu.”

Lần đầu vào cung khiến nàng thấp thỏm bồn chồn, vừa dứt lời đã nhận ra mình gọi sai, đang định sửa thì Tạ Dung Dữ đã đáp một tiếng. Y ra hiệu cho nàng ngồi, nhẹ nhàng nói: “Dạo gần đây Giang phủ thế nào?”

Thôi Chi Vân nói: “Nhờ có tỉ phu, Giang gia vẫn chăm sóc muội rất tốt.”

Nàng do dự, “Tỉ phu, tối hôm qua… muội có đi gặp a tỉ.”

Tạ Dung Dữ cũng không bất ngờ.

Y và Thôi Chi Vân không quá quen thân, Thôi Chi Vân có thể vào cung gặp y đơn giản là vì Thanh Duy.

“… Nàng ấy có khỏe không?”

“A tỉ vẫn ổn ạ, tuy bị thương nhưng có vẻ đã khỏe hơn nhiều rồi, chỉ là, kinh thành đầy rẫy nguy cơ, a tỉ không thể nán lại lâu được nữa.”

Tạ Dung Dữ đáp một tiếng, thật lâu sau mới hỏi: “Nàng ấy đi rồi à?”

Thôi Chi Vân gật đầu.

Nàng giơ túi vải trong tay ra, “A tỉ có đồ muốn nhờ muội chuyển cho tỉ phu.”

Mở túi vải ra, đập vào mắt là một miếng ngọc với màu nước trong veo, Tạ Dung Dữ khựng lại, “Nàng ấy… không chuyển lời gì đến ta à?”

“A tỉ chỉ nói, bao giờ gặp tỉ phu thì thay mặt tỉ ấy tạm biệt ạ.” Thôi Chi Vân đáp, “Trong vụ án của Hà gia có một nhân chứng tên Phù Đông, a tỉ đã viết vào thư tung tích của vị Từ tiên sinh mà nàng ấy nhờ nghe ngóng rồi, a tỉ dặn muội giao phong thư, bản vẽ trong hộp gỗ và cả miếng ngọc này cho tỉ phu.”

Tạ Dung Dữ nói: “Đa tạ.”

Thâm điện lặng thinh, Thôi Chi Vân đã làm xong chuyện Thanh Duy giao phó, nàng cảm thấy bứt rứt không yên, bèn vội vàng chào từ biệt. Tạ Dung Dữ không giữ nàng lại, sai người đưa nàng về Giang phủ.

Nắng dương xuyên qua màn sương chiếu rọi vào điện, Tạ Dung Dữ ngồi yên trước bàn một lúc rất lâu, đoạn cầm miếng ngọc lên, chậm rãi nắm trong lòng bàn tay.

Kinh thành đổ tuyết lớn, truy binh gắt gao, có lẽ nàng đã đi một mình.

Lúc này rời đi là quyết định rất chính xác, Ôn Tiểu Dã bôn tẩu bao nhiêu năm, mỗi lần gặp chuyện luôn quả quyết dứt khoát.

Nên y không hỏi là nàng đã đi đâu.

Có lẽ đến bản thân nàng cũng không biết, chẳng phải những năm qua  vẫn thế đấy sao.

Tạ Dung Dữ nhìn bản vẽ Tiển Khâm Đài, đoạn cất vào hộp gỗ, cầm lấy bức thư.

Bức thư Thanh Duy viết gửi Phù Đông, chỉ là những lời vu vơ như đang nói chuyện bình thường:

“Phù Đông, ta có vài manh mối về tung tích của Từ tiên sinh đây. Ta có một người chú họ Tiết, bao năm qua ông ấy vẫn luôn điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài sập, ông ấy đối chiếu danh sách sĩ tử mất mạng, âm thầm viếng thăm rất nhiều nhà, cây trâm ngọc song phi yến của Từ tiên sinh được ông ấy tìm thấy tại nhà một cặp vợ chồng già họ Phùng ở phủ Khánh Minh.

Đôi vợ chồng này có một người con trai thi đậu cử nhân, năm năm trước được chọn lên Tiển Khâm Đài, sau khi Tiển Khâm Đài sập, bọn họ nghe tin dữ nên đã chạy tới Lăng Xuyên. Trên đường đi, hai người họ gặp được một thư sinh. Thư sinh này tự xưng họ Từ, có lẽ chính là Từ Thuật Bạch. Y nghe nói đôi vợ chồng ấy có người thân mất mạng dưới Tiển Khâm Đài, bèn bảo chuyến này mình lên kinh là cáo ngự trạng, y muốn tố giác chân tướng xây dựng Tiển Khâm Đài, phơi bày sự thật cho toàn thiên hạ. Từ Thuật Bạch nói, chuyến này mình đi vô cùng nguy hiểm, chỉ sợ gặp bất trắc, trong người không có vật quý báu nào gửi gắm, hy vọng hai ông bà thay mặt giữ tạm cây trâm song phi yến, là thứ mà về sau Tiết thúc đã tìm đượcở nhà bọn họ.

Theo lời của cặp vợ chồng già, nơi cuối cùng Từ tiên sinh xuất hiện ở gần kinh thành, cũng trùng khớp với lời của Phù Đông cô nương ngày trước. Có thể thấy chưa chắc Từ tiên sinh đã chết dưới Tiển Khâm Đài, y không có tên trong danh sách sĩ tử mất mạng dưới đài, chắc chắn có kẻ cố ý làm giả.

Những năm qua Tiết thúc dốc lòng điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài sập, biết có lẽ Từ tiên sinh đã đoán được nội tình, ông ấy lại khổ sở truy tìm tung tích của y, tiếc thay không có thu hoạch. Sau đó ông ấy đến Lăng Xuyên, hỏi thăm mãi mới biết Từ tiên sinh và cô nương quen nhau, lần theo tung tích của cô nương, mấy tháng trước mới tìm được lên kinh, lúc ấy vì để tiếp cận Hà Hồng Vân nên cô nương mới mở Chiết Chi Cưở ngõ Lưu Thủy. Về sau Tiết thúc gặp nạn, buộc phải che giấu tung tích, vì thế đã giao trâm ngọc song phi yến cho ta, đó là lý do ta tìm được cô nương nhờ cây trâm ngọc.

Thực xin lỗi, đó là toàn bộ tung tích về Từ tiên sinh mà ta nghe ngóng được, xin thứ ta nói thẳng, đã mấy năm rồi, chỉ sợ tiên sinh lành ít dữ nhiều. Mong cô không lún sâu vào quá khứ, con đường phía trước còn dài, xin hãy trân trọng. Chớ nên nghĩ nhiều.

Thanh Duy – ngày hai mươi tám tháng Mười một năm Gia Ninh thứ ba.”

Tạ Dung Dữ đọc thư xong, im lặng một lúc rồi gọi Đức Vinh tới, dặn: “Đưa phong thư này tới Huyền Ưng Ti, giao cho Phù Đông.”

Đức Vinh vâng dạ, nhận lấy thư toan rời đi, nhưng đột nhiên Tạ Dung Dữ gọi giật lại: “Đợi đã.”

Trông y có vẻ đã nghĩ đến chi tiết mấu chốt nào đó, đứng dậy rời bàn, cầm lấy bức thư trong tay Đức Vinh, nhìn đi nhìn lại một đoạn trong đó:

“Thư sinh này tự xưng mình họ Từ, có lẽ chính là Từ Thuật Bạch… Bèn bảo chuyến này mình lên kinh là cáo ngự trạng, y muốn tố giác chân tướng xây dựng Tiển Khâm Đài, phơi bày sự thật cho toàn thiên hạ.”

Tố giác chân tướng xây dựng Tiển Khâm Đài, phơi bày sự thật cho toàn thiên hạ.

Chân tướng xây dựng… là cái gì?

Từ Đồ bán gỗ thứ phẩm, Hà Hồng Vân ủ mưu kiếm lời, khiến Tiển Khâm Đài sập.

Phải là chân tướng Tiển Khâm Đài sập mới đúng chứ?

Xây dựng Tiển Khâm Đài là đề nghị của Chiêu Hóa đế, triều đình ban bố mệnh lệnh rõ ràng, là quyết sách mà thần công sĩ tử thậm chí là người toàn thiên hạ ủng hộ, rốt cuộc trong này có chân tướng gì?

Chuyện xây dựng nhắc trước, vụ sập đài nằm sau, chỉ le que vài chữ, có khi Thanh Duy viết nhầm cũng nên, hoặc có thể đôi vợ chồng già hay Tiết Trường Hưng nhầm lẫn lúc thuật lại, nhưng chẳng hiểu vì sao, Tạ Dung Dữ có trực giác những con chữ nhìn như nhầm lẫn đó lại là sự việc trọng đại.

Y siết chặt bức thư, hỏi Đức Vinh: “Tới nay Hà Hồng Vân đã nhận tội chưa?”

Đức Vinh đáp: “Bẩm công tử, ngục tốt đã dụng hình rồi, nhưng hắn vẫn không chịu nhận tội, đòi gặp điện hạ bằng được, hôm qua bộ Hình còn tới điện Chiêu Doãn xin ý chỉ, nhưng điện hạ từ chối rồi còn gì.”

Tạ Dung Dữ nghĩ tới một khả năng.

Nếu… Giả dụ là nếu, Từ Thuật Bạch lên kinh cáo ngự trạng không phải nhằm vào Hà gia?

Từ Thuật Bạch là cháu của Từ Đồ, Từ Đồ là kẻ đã buôn gỗ thứ phẩm, nên đương nhiên mọi người đều nghĩ theo chiều hướng: Từ Thuật Bạch lên kinh cáo ngự trạng để tố giác tội ác treo đầu dê bán thịt chó của Hà Hồng Vân.

Nhưng Từ Thuật Bạch quyết định lên kinh từ trước khi Tiển Khâm Đài hoàn thành, nếu vào lúc đó anh ta biết lô gỗ đã được đánh tráo, như vậy vẫn kịp thời ngăn cản sĩ tử lên đài, tại sao anh ta không làm?

Hay là anh ta có chuyện quan trọng khác, cần phải gấp gáp lên kinh?

Mạch suy nghĩ ập tới, Tạ Dung Dữ bỗng nhớ lại khi Từ Thuật Bạch sắp lên kinh, anh ta đã nói với Phù Đông:

“Tiển Khâm Đài này, không lên cũng được!”

“Ta lên kinh chính là vì Tiển Khâm Đài! Muốn đánh trống Đăng Văn cáo ngự trạng!”

Tiển Khâm Đài xây dựng vì sĩ tử, trong lòng sĩ tử, nó tượng trưng cho sự tôn vinh, dù Từ Đồ tráo gỗ thì Từ Thuật Bạch cũng nên hận Từ Đồ, hận Hà Hồng Vân đã lợi dụng Tiển Khâm Đài để thăng quan tiến chức, chứ không phải hận chính Tiển Khâm Đài, nhưng khi anh ta nói ra câu “không cần lên Tiển Khâm Đài”, rõ ràng có sự thù ghét với nó.

Từ Thuật Bạch là một nhân sĩ, vì sao lại căm ghét Tiển Khâm Đài?

Anh ta lên kinh cáo ngự trạng, rốt cuộc kiện Hà gia hay là người khác?

Cuối cùng y nói với đôi vợ chồng họ Phùng đó rằng, tố giác chân tướng xây dựng Tiển Khâm Đài, hai chữ “xây dựng” là ám chỉ số gỗ bị tráo, hay nguyên nhân xây đài?

Tiển Khâm Đài cất phong thư, xăm xăm đi tới thiên lao: “Bảo bộ Hình đưa sổ án tái thẩm Tiển Khâm Đài cho bổn vương, bổn vương muốn gặp Hà Hồng Vân, nhanh!”

Nếu… Nếu năm ấy Từ Thuật Bạch lên kinh không phải vì cáo trạng Hà gia, như thế Hà gia giết Từ Thuật Bạch rồi có thể lấy cớ là anh ta sợ tội mất tích, cần gì ngụy tạo anh ta đã chết dưới Tiển Khâm Đài?

Hay là, năm ấy không phải Hà gia đã giết Từ Thuật Bạch?

Từ Thuật Bạch mất tích không liên quan đến Hà gia?

Khi tam ti định tội, yêu cầu phải đọc từng tội danh cho nghi phạm nghe, Hà Hồng Vân mãi không nhận tội là vì Từ Thuật Bạch? Hắn muốn gặp y, là vì đã nhận ra sự thực nào đó đã bị chôn vùi qua cái tên ấy?

“Điều tất cả binh mã của Huyền Ưng Ti đến thiên lao bộ Hình ngay!”

“Rất có thể Hà Hồng Vân đang gặp nguy hiểm!”

Trên đường đi tuyết đóng lớp dày, sương mù dần tan trong ánh nắng, Tạ Dung Dữ xuyên qua hành lang, chạy từ điện Chiêu Doãn đến bộ Hình, y đi rất nhanh, mà Huyền Ưng Ti hành động cũng rất nhanh, lúc Tạ Dung Dữ tới nơi thì Vệ Quyết Chương Lộc Chi cũng đã dẫn Hiêu bộ chạy đến.

Chỉ là… vẫn đến trễ.

Thượng thư bộ Hình tái mặt đứng trước thiên lao, thấy Tạ Dung Dữ, ông ta sợ hãi hô lên: “Điện hạ.”

Ngoài thiên lao còn có rất nhiều cấm vệ quân, nhưng tuyệt nhiên không ai lên tiếng.

Tim Tạ Dung Dữ đập nhanh, lòng lạnh đi: “.. Hắn chết rồi?”

“Chết nửa khắc trước ạ.” Thượng thư bộ Hình nuốt nước bọt, “Không biết đã có chuyện gì, Hà Hồng Vân là trọng phạm, rõ ràng nơi này… nơi này có cấm vệ quân canh chừng nghiêm ngặt, lão phu…” Ông ta cởi mũ quan xuống, run run ôm trước ngực, “Lão phu sẽ dập đầu nhận tội với Quan gia.”

Chết nửa khắc trước, là sau khi y quyết định tới thiên lao.

Vừa rồi ở trên đường chạy đến đây, Tạ Dung Dữ hận mình vì sao đêm qua lại không gặp Hà Hồng Vân.

Hắn ta biết chân tướng bị chôn vùi không đơn giản là thay đổi vài cọc gỗ.

Nhưng vào lúc này Tạ Dung Dữ chợt nhận ra, có lẽ ngay từ ban đầu, khi triều đình quyết định tái điều tra vụ án Tiển Khâm Đài, hay thậm chí là sớm hơn nữa, lúc Chiêu Hóa đế băng hà, Triệu Gia Ninh kế vị, thì đã có kẻ luôn nấp trong bóng tối.

Bọn chúng âm thầm chờ đợi cơ hội, im lặng theo dõi biến đổi, cho tới khi Hà Hồng Vân sa lưới, thì dù y có đến gặp hắn lúc nào đi chăng nữa, hắn cũng sẽ chết trong thiên lao sớm hơn nửa khắc như lần này.

“Ta… vào trong xem hắn.” Tạ Dung Dữ nói.

Trọng phạm đã không còn, thiên lao u ám được những ngọn đuốc thắp sáng như ban ngày, tư lại dẫn Tạ Dung Dữ đi tới phòng gian trong cùng, thi thể của Hà Hồng Vân nằm dưới đất.

Hắn bị một tên lính ép dùng thuốc độc, trên người có vết roi do dụng hình, ở trong tù chịu khổ mấy ngày, gương mặt tuấn tú vẫn chẳng thay đổi nhiều, thậm chí khóe miệng còn nhếch lên nụ cười giễu cợt.

Chẳng hay hắn đang cười nhạo điều gì.

Là đang cười bản thân một đời sáng suốt, nhưng cuối cùng lại rơi vào kết quả hoang đường này?

Hay đang cười nhạo thế nhân bị mù, bị khói sương che lấp chân tướng?

Tạ Dung Dữ hỏi: “Các ngươi đã lục soát phòng giam này chưa?”

“Lục soát rồi ạ.” Lang quan bộ Hình đứng bên ngoài đáp, “Lính canh rót độc cũng đã tự vẫn, không để lại bất cứ vật nào ngoài một bản tội trạng do Tiểu Hà đại nhân tự sao chép.”

“Bản tội trạng?”

“Vâng ạ, Tiểu Hà đại nhân xem danh sách tội trạng của Đại Lý Tự thì không nhận tội, nói muốn chép lại bản tội trạng, đợi cân nhắc kỹ lưỡng rồi mới quyết định. Thượng thư đại nhân… niệm tình hắn là người Hà thị nên đã đồng ý, Tiểu Hà đại nhân nhét bản tội trạng đã chép trong kẽ tường sau chiếu rơm, hạ quan cũng mới tìm được lúc nãy.”

Nói xong, lang quan lập tức trình bản tội trạng lên cho Tạ Dung Dữ.

Bản tội trạng được chép rất cẩn thận, ngoại trừ vài giọt máu thì có thể nói là vô cùng ngay ngắn.

Hà Hồng Vân bị thương do dụng hình, trong bản tội trạng có máu cũng bình thường.

Sau mỗi một tội trạng là tên của người bị hại.

Và những giọt máu tưởng chừng như vô tình ấy lại nhỏ xuống đúng ba chữ “Từ Thuật Bạch”, nhuộm đỏ cái tên một cách đáng sợ.
 
Chương 83


Trọng phạm chết trong thiên lao là tội rất nặng, thượng thư bộ Hình đã đến điện Tuyên Thất nhận tội.

Lang quan đứng bên cạnh lại nhìn Tạ Dung Dữ, nghĩ bụng Quan gia và Tiểu Chiêu vương là huynh đệ, ý của Tiểu Chiêu vương cũng là ý của Quan gia.

Lang quan bèn hỏi: “Bẩm điện hạ, nguyên nhân cái chết của Hà Hồng Vân đã được nghiệm rõ, bây giờ có cần sắp xếp dọn xác không?”

Tạ Dung Dữ không lên tiếng.

Trong nhà lao âm u lạnh lẽo, không hiểu sao y lại nghĩ đến một chuyện không liên quan.

Hồi còn là Giang Từ Chu, y cũng từng giao du với Hà Hồng Vân, có một lần hai người đi nhậu, rượu quá tam tuần, Hà Hồng Vân cầm cốc rượu, thờ ơ nói:

“Con cháu thế gia như chúng ta cũng có cái khổ của mình, có quá nhiều người cùng thế hệ, muốn nổi bật xuất chúng thì phải biết hy sinh.”

Tạ Dung Dữ mới hỏi, hy sinh cái gì?

Hà Hồng Vân cười, nhìn rượu sóng sánh trong cốc, “Tử Lăng à, hồi nhỏ đệ đã bao giờ lén uống rượu chưa? Còn nhớ mùi vị lúc ấy không?”

Mùi vị ấy, vừa nồng vừa cay, vừa xuống họng lại như lửa thiêu.

“Nhưng mà rượu ấy, nhấp một hớp thấy ngọt, uống nhiều sẽ thành nghiện, sống càng lâu càng uống ngàn chén, thành ra mất ngon.” Hà Hồng Vân cười nhạt, “Những chuyện khác cũng vậy.”

Hắn là công tử hàng thứ tư ở Hà gia, mẫu thân là bình thê, nên hắn vừa không phải trưởng tử và cũng chẳng phải đích tôn, nhưng cuối cùng hắn lại trở thành đứa con Hà Thập Thanh đắc ý nhất, rốt cuộc đã hy sinh điều gì?

Đó là lần duy nhất Hà Hồng Vân thật lòng với Tạ Dung Dữ.

Giết người liên tục đã khiến trái tim hắn thêm chai lì ác độc, có thể lần đầu giết người còn thấy sợ, nhưng dần dà khi chứng kiến quá nhiều máu chảy, tới lúc đó sẽ chẳng còn cảm giác gì, đúng như lời hắn đã nói.

Hắn rất tỉnh táo, nhận thức được bản thân coi mạng người như cỏ rác.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Sao phải dọn xác?”

Dù từ tù chết oan thì cũng là chết trong ngục, thi thể của hắn đáng bị ném ra bãi tha ma, châm đuốc thiêu đốt.

Lang quan đáp: “Theo lý không nên dọn, nhưng vì Tiểu Hà đại nhân mà lão Trung Thư Lệnh đã quỳ ở đài Phất Y một ngày một đêm, xét cho cùng Hà Hồng Vân cũng họ Hà…”

“Họ Hà thì sao?” Tạ Dung Dữ hỏi.

Thuyền lớn ra khơi rồi cũng có ngày lật, cây sống ngàn năm cũng tới lúc khô héo. Hà Thập Thanh quỳ ở đài Phất Y là vì Hà Hồng Vân ư? Ông ta quỳ là vì chính mình, vì Hà thị đồ sộ to lớn.

Tạ Dung Dữ nói, “Không cần dọn xác, ném ra bãi tha ma đi.”

Tạ Dung Dữ rời khỏi thiên lao.

Hà Hồng Vân đã chết, cuối cùng chỉ để lại một bản tội trạng cùng cái tên “Từ Thuật Bạch” bị nhuốm máu.

Hắn là kẻ đã đánh mất lòng trắc ẩn, đòi gặp Tạ Dung Dữ chưa chắc là để tìm hiểu chân tướng hay nhắc nhở thiện ý, hắn chỉ muốn mượn cái tên này cùng manh mối sau đó để nắm lấy cơ hội cho bản thân và Hà thị mà thôi.

Hắn không đáng để được thương xót.

Tiếc thay manh mối lại bị đứt đoạn ở đây.

Thấy Vệ Quyết, Chương Lộc Chi cùng các Huyền Ưng vệ đang chờ ngoài thiên lao, Tạ Dung Dữ nói: “Các ngươi về nha môn đi, ở đây không còn chuyện gì nữa rồi.”

Nhưng hai người Vệ Chương lại không nghe lệnh, đi theo Tạ Dung Dữ đến ngoài hành lang bộ Hình, cả hai chắp tay vái: “Điện hạ, thuộc hạ có chuyện muốn bẩm báo.”

“Dám hỏi điện hạ, có phải ngài đang điều tra một tú tài tên là Từ Thuật Bạch không? Manh mối mà điện hạ muốn… có lẽ Huyền Ưng Ti biết.”

Tạ Dung Dữ xoay phắt người lại.

Y nhìn Vệ Quyết và Chương Lộc Chi chằm chặp, đoạn đưa mắt nhìn Huyền Ưng vệ đi theo phía sau, Huyền Ưng vệ hiểu ý, lập tức canh giữ ở cửa ra vào.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Các ngươi biết Từ Thuật Bạch?”

Vệ Quyết đáp: “Biết ạ, hắn ta là cháu trai của Từ Đồ, một thương nhân buôn gỗ ở Lăng Xuyên, xuất thân tú tài, trước khi Tiển Khâm Đài hoàn thành, hắn là một trong các sĩ tử được chọn lên đài, về sau Tiển Khâm Đài sập, hắn… mất tích trên đường lên kinh.”

Tạ Dung Dữ nhíu mày.

Xuất thân quê quán của Từ Thuật Bạch không khó để điều tra, nhưng chuyện hắn lên kinh là bí mật, tại sao Huyền Ưng Ti biết được?

Tạ Dung Dữ thong thả ngồi xuống ghế: “Nói tiếp đi.”

“Vâng.” Vệ Quyết chắp tay, “Hẳn là điện hạ vẫn còn nhớ, ban đầu Tiển Khâm Đài chỉ là đền Tiển Khâm, về sau đổi thành đài là do tiên đế quyết định, ngày mồng chín tháng Bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba, tuyển chọn học trò lên đài để kỷ niệm các sĩ tử đã nhảy sông Thương Lãng.

Thánh lệnh xây đài được ban bố, Ngu hầu đến Thần Dương mời thợ mộc Ôn rời núi làm tổng đốc công, bảy tháng sau, tức tháng hai năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Huyền Ưng Ti nhận được điều lệnh, do Chỉ huy sứ cùng Đô kiểm điểm dẫn theo Chuẩn bộ đến Lăng Xuyên chấp hành nhiệm vụ hộ vệ.”

Tạ Dung Dữ gật đầu: “Bổn vương vẫn còn nhớ những chuyện này.”

“Huyền Ưng Ti đến Lăng Xuyên là vào tháng ba năm Chiêu Hóa thứ mười ba, gần bốn tháng sau đó, ngoài mấy ngày cuối mưa to như trút, Ôn đốc công tri hô đình công thì mọi chuyện vẫn suôn sẻ bình thường. Nhưng vào mồng tám tháng Bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba, tức một ngày trước khi Tiển Khâm Đài hoàn thành thì đã xảy ra chuyện bất ngờ.”

“Bất ngờ gì?”

“Có một thư sinh đến núi Bách Dương.”

Lúc ấy Tiển Khâm Đài đã sắp sửa hoàn thành, ngày hôm sau sĩ tử sẽ lên đài, có thư sinh tới núi Bách Dương cũng rất bình thường, thậm chí có người muốn thấy cảnh lên đài tế bậc tiên liệt mà đã đến huyện Sùng Dương chờ từ tháng Năm.

Nhưng thư sinh này chẳng phải ai lạ, mà chính là Từ Thuật Bạch.

“Chỉ huy sứ đại nhân phụ trách hộ vệ quanh Tiển Khâm Đài, nên nhân sĩ đến núi Bách Dương được Đô kiểm điểm tiếp đãi. Từ Thuật Bạch đến nơi, hắn nói thẳng muốn gặp Ôn đốc công, nhưng vì lúc đó mưa to nhiều ngày liền, Ôn đốc công đang bận kiểm tra kênh dẫn nước nên Kiểm điểm đại nhân đã từ chối hắn, nói với hắn để mai lên đài gặp cũng được, không ngờ Từ Thuật Bạch lại nói mình không lên đài, có chuyện quan trọng cần phải lên kinh, lại hỏi có thể cầu kiến Tiểu Chiêu vương không.

Bây giờ ngẫm lại, có lẽ chính thỉnh cầu muốn gặp điện hạ đã khiến Kiểm điểm đại nhân nghi ngờ, ngài ấy nói với Từ Thuật Bạch là điện hạ đã đi kiểm tra kênh mương cùng Ôn đốc công rồi, còn bảo, ‘nếu cậu có chuyện quan trọng thì viết thư đi, đợi Ôn đốc công về, ta nhất định sẽ chuyển giúp’, Từ Thuật Bạch là người đơn giản nên đã tin Kiểm điểm đại nhân, hắn vội vã viết thư rồi nhanh chóng lên đường.

Kiểm điểm đại nhân nhận thư, nhưng có lẽ do lão Chưởng sứ của Chuẩn bộ và các Hiệu úy đang có mặt nên ông ấy không mở ra xem ngay, mãi tới ban đêm khi Ôn đốc công quay về, Huyền Ưng Ti thay ca, lão Chưởng sứ cho các Hiệu úy rút lui thì ông ấy mới giao thư cho Ôn đốc công.

Chuyện về sau điện hạ cũng biết rồi đấy, Ôn đốc công bị Kiểm điểm đại nhân giam lỏng một đêm, sáng sớm ngày mồng chín tháng Bảy, mưa to như thác đổ, sĩ tử đứng dưới Tiển Khâm Đài chờ đi lên, nhưng ông ấy không hề xuất hiện.”

Tới khi sĩ tử leo lên đài, lão Chưởng sứ Chuẩn bộ cùng hội Vệ Quyết Chương Lộc Chi mới tìm được Ôn Thiên ở trong phòng của Đô Kiểm điểm, nghe tin sĩ tử đã lên đài, mặt ông trắng bệch đi, không giải thích nhiều mà run run nói: “Không được lên đài, sẽ sập… sẽ sập đấy!” Rồi chạy thẳng tới Tiển Khâm Đài.

Nhưng hỡi ôi vẫn đến muộn rồi, ngẩng đầu nhìn lên, trời đất vần vũ, khói bụi sỏi đá rơi theo tiếng mưa xào xạc, dội thẳng xuống mặt.

Nghe đến đây, Tạ Dung Dữ vẫn im lặng.

Một lúc sau y mới hỏi: “Vì sao Đô kiểm điểm của các ngươi lại giam lỏng Ôn đốc công?”

Về sau Huyền Ưng Ti bị luận tội, đương nhiên là do Huyền Ưng Ti không làm tròn trách nhiệm hộ vệ, khiến đông đảo sĩ tử bách tính mất mạng dưới đài, về chuyện Kiểm điểm giam lỏng Ôn Thiên, vì cả hai người đều đã chết dưới Tiển Khâm Đài nên không thể truy cứu được nữa, còn lão Chưởng sứ và đám Vệ Chương biết được nội tình lại quá kín miệng, nói với bên ngoài là không biết gì.

Chương Lộc Chi đáp: “Bẩm điện hạ, lúc ấy quả thật chúng thuộc hạ không biết, chỉ suy đoán có liên quan tới phong thư Từ Thuật Bạch để lại. Mãi đến sau này khi triều đình điều tra được nguyên nhân đài sập, phát hiện lô gỗ có vấn đề, chém đầu Ngụy Thăng và Hà Trung Lương, thì chúng thuộc hạ mới liên hệ được Từ Thuật Bạch là cháu của Từ Đồ, có lẽ phong thư hắn để lại cho Ôn Thiên hòng tố giác chuyện tráo gỗ.”

Trước khi Tiển Khâm Đài được xây xong, vì mưa lớn nhiều ngày liền, phải gấp rút chuẩn bị công tác phòng chống lũ lụt, Ôn Thiên đề nghị đình công không dưới một lần, nếu ngay từ đầu ông ấy biết số gỗ dùng để chống đài là thứ phẩm, chắc chắn sẽ ngăn cản sĩ tử lên đài bằng mọi giá.

“Có lẽ Kiểm điểm hy vọng các sĩ tử sẽ lên đài đúng vào ngày mồng chín tháng Bảy, trong khi Ôn đốc công lại có ý ngăn cản, có thể đó là nguyên nhân khiến Kiểm điểm đại nhân giam lỏng Ôn Thiên. Còn vì sao ông ấy phải làm như vậy thì chúng thuộc hạ vẫn chưa điều tra được.”

“Các ngươi chưa điều tra ra nhiều thứ lắm.” Tạ Dung Dữ nói, “Nếu Từ Thuật Bạch đã viết thư báo cho Ôn đốc công biết chuyện tráo gỗ một ngày trước khi Tiển Khâm Đài hoàn thành, vậy tại sao anh ta còn phải gấp gáp lên kinh?”

Nếu anh ta chỉ muốn tố giác tội ác của Hà gia thì có thể ở lại núi Bách Dương, đợi Ôn Thiên và Tiểu Chiêu vương về để cùng điều tra vật liệu gỗ, lấy được bằng chứng rồi tiếp tục lên kinh, nhưng anh ta không làm như thế, thậm chí anh ta còn không hề qua đêm ở lại núi Bách Dương.

Lời của Vệ Quyết và Chương Lộc Chi đã xác thực suy đoán lúc trước của Tạ Dung Dữ.

Người Từ Thuật Bạch lên kinh để cáo trạng không phải là Hà gia, mà là một người khác với một vụ án khác.

“Bẩm điện hạ, đấy chính là chuyện quan trọng mà thuộc hạ muốn bẩm báo.” Vệ Quyết nói, “Sau khi Tiển Khâm Đài sập, lão Chưởng sứ cũng có nghi ngờ giống vậy, nếu lá thư Từ Thuật Bạch để lại là tố giác Từ Đồ tráo gỗ, vậy hắn còn lên kinh làm gì? Mấy hôm sau Ngụy Thăng và Hà Trung Lương bị chém đầu, lão Chưởng sứ đã bảo lãnh cho thuộc hạ cùng Lộc Chi được bình an thoát tội, lệnh chúng thuộc hạ lập tức lần theo tung tích của Từ Thuật Bạch truy đuổi lên kinh.”

“Các ngươi… Có tìm được hắn không?”

Vệ Quyết và Chương Lộc Chi im lặng một hồi: “Tìm được rồi… Nhưng cũng có thể nói là không tìm được.”

“Từ Thuật Bạch đã biến mất trên đường lên kinh. Về sau… chúng thuộc hạ ráo riết hỏi thăm, nghe được một vụ án thiêu xác ở gần phủ Khánh Minh, nạn nhân là một thư sinh trẻ tuổi, hình như muốn vào kinh trước khi chết, mọi manh mối đều cho thấy người đó có lẽ là Từ Thuật Bạch.”

Tuy cũng đã sớm lường trước điều ấy, nhưng nghe đến đây Tạ Dung Dữ vẫn thấy lạnh lòng: “Từ Thuật Bạch chết thật rồi.”

Vệ Quyết đáp phải, “Có quá nhiều người mất mạng dưới Tiển Khâm Đài, Huyền Ưng Ti không làm tròn trách nhiệm đã bị đẩy lên đầu ngọn gió, tiên đế ra lệnh điều tra Huyền Ưng Ti, Đô kiểm điểm cũng đã chết dưới đài, lão Chỉ huy sứ chứng kiến thảm cảnh địa ngục trần gian thì vô cùng áy náy, cam lòng bêu đầu tạ tội, lão Chưởng sứ gỡ tội cho thuộc hạ và Lộc Chi bị xử trượng hình, từ đó trở đi Huyền Ưng Ti lùi về ngủ đông. Nên thuộc hạ và Lộc Chi không thể ở bên ngoài quá lâu, phải nhanh chóng quay lại kinh thành. Ai ngờ…”

“Ai ngờ nửa năm sau, Tiển Khâm Đài đã khép án, thuộc hạ và Vệ Chưởng sứ lại đến phủ Khánh Minh lần nữa, vụ án thiêu xác lúc trước đã bị xóa khỏi tập án của quan phủ, không để lại bất cứ dấu vết nào, còn anh chàng Từ Thuật Bạch này lại xuất hiện trong danh sách sĩ tử mất mạng dưới Tiển Khâm Đài.” Chương Lộc Chi tiếp lời, siết chặt nắm đấm, “Thuộc hạ không cam tâm, vốn dĩ muốn bẩm báo lên triều đình ngay lúc đó, nhưng Vệ Chưởng sứ đã ngăn cản thuộc hạ, nói là không có bằng chứng, nếu để lộ thông tin thì sẽ càng khiến đối phương cảnh giác. Nhưng cũng từ đó trở đi, chúng thuộc hạ biết Từ Thuật Bạch có rất nhiều bí ẩn.

Một tú tài ngây thơ như hắn, có điều tra cũng không thêm được manh mối. Nên chúng thuộc hạ mới bắt tay điều tra từ Từ Đồ, lão là kẻ nịnh cao khinh dưới, ton hót nịnh bợ, nói thật, lão cũng chẳng có gì để điều tra, nhưng có một điểm khả nghi.”

“Là gì?”

“Xưa nay Từ Đồ chỉ toàn qua lại với giới giàu sang, nhưng vào năm xây dựng Tiển Khâm Đài, lão ta thường xuyên giao du với một toán sơn tặc ở Lăng Xuyên. Nhưng đây cũng không phải chuyện lạ, có thể là sơn trại muốn sửa nhà nên mua gỗ của lão ta? Sở dĩ thuộc hạ và Vệ Chưởng sứ nghi ngờ là vì, không lâu sau khi Tiển Khâm Đài sập, sơn trại này bỗng bị quan phủ tiêu diệt.”

Tạ Dung Dữ nói: “Tiển Khâm Đài sập khiến lòng dân bất an, thổ phỉ cướp bóc diễn ra liên miên, một ổ sơn trại bị tiêu diệt cũng bình thường.”

Chương Lộc Chi nói: “Đúng thế, nhưng sơn tặc ngụ cư trong núi, dù binh mã triều đình tới thì kiểu gì cũng sẽ có cá lọt lưới. Vậy mà sơn trại này lại bị tiêu diệt vô cùng sạch sẽ, thuộc hạ và Vệ Chưởng sứ muốn điều tra tiếp nhưng chẳng tìm nổi một người còn sống. Sau đó chúng thuộc hạ về kinh, báo chuyện này lại với lão Chưởng sứ, định dẫn binh mã tới Lăng Xuyên, nhưng lão Chưởng sứ đã ngăn cản.”

Vệ Quyết cụp mắt nói: “Lão Chưởng sứ bảo, vụ án này liên đới quá rộng, chúng thuộc hạ không nên điều tra nữa, cho dù tra được chân tướng cũng chưa chắc đã thay đổi được càn khôn, trái lại còn rước họa sát thân. Lão Chưởng sứ nói, ông ấy hy vọng chúng thuộc hạ giữ kín những gì mình biết, không cần thiết phải nói ra, cứ để Tiển Khâm Đài đã sập trở về với cát bụi.

Hồi ấy tiên đế bệnh nặng, triều chính bất ổn, vì bị dụng hình mà lão Chưởng sứ phải nghỉ dưỡng một năm, bệnh tình nguy kịch, chúng thuộc hạ không nỡ khiến ông ấy lo lắng nên đành tuân lời, không nhắc đến những việc xoay quanh Tiển Khâm Đài với bất cứ ai.”
 
Chương 84


Gió lùa qua hành lang, Tạ Dung Dữ im lặng, nhớ đến ba chữ “Từ Thuật Bạch” bị nhuốm máu trên bản tội chứng của Hà Hồng Vân, y hỏi: “Ngoài ta ra, các ngươi có đề cập manh mối Từ Thuật Bạch với người nào nữa không?”

Vệ Quyết và Chương Lộc Chi nhìn nhau, “Bẩm điện hạ, không có ạ. Chỉ là lúc trước Quan gia hỏi về Tiển Khâm Đài, chúng thuộc hạ không dám giấu giếm, nên có nhắc đến Từ Thuật Bạch với Quan gia.”

“Quan gia?” Tạ Dung Dữ nhíu mày, “Lúc nào?”

“Hồi đầu năm Chương đại nhân đề xuất muốn tái xây dựng Tiển Khâm Đài, trong triều có người nói, xây dựng cũng được, nhưng phải điều tra tất tần tật những điểm khả nghi khiến Tiển Khâm Đài sập, tránh giẫm vào vết xe đổ. Lúc ấy Quan gia từng triệu kiến riêng Huyền Ưng Ti, hỏi chúng thuộc hạ có gợi ý gì không. Vì lão Chưởng sứ đã dặn nên chúng thuộc hạ không nói rõ vụ việc Từ Thuật Bạch, chỉ nói triều đình có thể điều tra từ các sĩ tử được chọn lên đài năm đó, Tiển Khâm Đài sập quá đột ngột, có rất nhiều thi thể của sĩ tử chưa được tìm thấy, trong đó có một người tên Từ Thuật Bạch, hình như hôm ấy không lên đài. Nhưng Quan gia không tiếp nhận ý kiến của chúng thuộc hạ, chỉ nhắc nhở chúng thuộc hạ tạm thời đừng đề cập người này với bất cứ ai, không lâu sau, vì chư thần trong triều đề nghị, cuối cùng Quan gia vẫn quyết định điều tra từ các thợ mộc lọt lưới và những người khả nghi năm xưa, phái khâm sai đi khắp nơi thẩm tra đám Thôi Hoằng Nghĩa một lần nữa.”

Nghe xong lời ấy, Tạ Dung Dữ không khỏi ngạc nhiên.

Nói cách khác, từ hồi đầu năm khi quyết định tái thẩm vụ án Tiển Khâm Đài, Triệu Sơ đã có hai lựa chọn: một là trực tiếp điều tra từ các sĩ tử, thậm chí là Từ Thuật Bạch; hai là dựa theo hướng ngày trước, vẫn điều tra thợ mộc cùng những người liên quan tới vật liệu gỗ như Thôi Hoằng Nghĩa.

Và chàng ta đã lựa chọn vế sau.

Chọn vế sau không có gì đáng trách, Triệu Sơ cũng biết chuyện Vương Nguyên Thưởng viết thư gửi vào cung, tố giác Hà Hồng Vân tích trữ Dạ Giao Đằng, chàng ta biết tội ác của Hà Hồng Vân có liên quan đến Tiển Khâm Đài, muốn bắt được thủ phạm đầu sỏ thì làm thế cũng bình thường.

Nhưng tại sao khi Tạ Dung Dữ và Thanh Duy tìm được manh mối Từ Thuật Bạch, vị hoàng đế trẻ tuổi này vẫn không hề nhắc đến nửa chữ, thậm chí không hề hỏi Huyền Ưng Ti rốt cuộc Từ Thuật Bạch đã đi đâu, thậm chí cũng không phái một hai ám vệ đi tìm tung tích của sĩ tử này, trái lại còn điều động toàn bộ Huyền Ưng Ti điều tra Hà gia?

Tạ Dung Dữ im lặng một hồi, đoạn nói: “Ta biết rồi, các ngươi về nha môn đi.”

Đợi tất cả Huyền Ưng vệ đã rời đi, Tạ Dung Dữ ngồi lặng rất lâu trong hành lang, bất thình lình đứng bật dậy, sải bước đi tới điện Tuyên Thất.

Tuy hôm nay không có buổi chầu nhưng chính vụ vẫn rất nhiều, hạ thần liên tục cầu kiến gặp vua, khi Tạ Dung Dữ đến, vừa lúc gặp Thượng thư bộ Hình khom lưng rời khỏi điện.

Trọng phạm đột ngột chết trong thiên lao là tội nặng, song có vẻ Triệu Sơ không trách tội vị lão Thượng thư này, trong mắt Thượng thư bộ Hình vẫn còn sự xấu hổ, nhưng ông đã đội mũ quan vào, trông thấy Tạ Dung Dữ, ông chắp tay: “Điện hạ.”

Tạ Dung Dữ không đáp, phất tay áo đi thẳng vào điện Tuyên Thất.

Triệu Sơ đang hỏi Hàn Lâm Viện chuyện cống sinh gây náo loạn, thấy Tạ Dung Dữ sa sầm đi vào, chàng khựng lại, vẫy tay cho mọi người trong điện lui ra ngoài.

Triệu Sơ nói: “Biểu huynh từ bộ Hình đến à?”

“Thần từ đâu tới, lẽ nào Quan gia không biết?” Tạ Dung Dữ lạnh lùng cất tiếng, “Quan gia không trị tội bộ Hình vì ngài đã lường được việc Hà Hồng Vân sẽ chết, có đúng không?”

Triệu Sơ không đáp.

“Trong danh sách sĩ tử mất mạng dưới Tiển Khâm Đài có một thư sinh tên Từ Thuật Bạch, Quan gia sớm biết cái chết của y có điểm kỳ lạ, nhưng khi thần điều tra tới Từ Thuật Bạch, chẳng những Quan gia không cho thần biết ẩn tình phía sau mà còn lệnh Huyền Ưng Ti giữ kín manh mối.”

Tạ Dung Dữ nói, “Để thần đoán thử.”

“Hà gia đứng trên cao quá lâu, có người trong triều từ lâu đã chướng mắt bọn họ. Ngay khi Chương Hạc Thư nhắc đến chuyện xây dựng Tiển Khâm Đài, dù chỉ là một cơ hội thì Quan gia vẫn nắm bắt nó, nhân tiện đưa ra một quyết sách có lẽ có thể đối phó được Hà gia, đấy là mượn án ôn dịch để tái điều tra vấn đề vật liệu gỗ. Biện pháp này, trời biết đất biết, Quan gia biết, bởi dù sao cũng chỉ có ngài biết đến phong thư tố giác Hà Hồng Vân tích trữ đầu cơ thuốc, ngay từ đầu, chúng triều thần bao gồm cả Hà gia đều không cảnh giác. Mà thù lao cho cái nhân tiện đó là Quan gia đổi lấy sự ủng hộ của vài đại thần, nhân cơ hội phục dụng Huyền Ưng Ti.”

Triệu Sơ dựa vào long ỷ, “Không phải biểu huynh đã sớm đoán được điều này rồi sao? Bằng không nửa năm qua, biểu huynh có thèm vào cung gặp trẫm trừ phi cần thiết đâu. Hồi đầu Thu huynh vào cung dưỡng bệnh, trẫm vốn muốn đến điện Chiêu Doãn thăm, nhưng huynh vừa khỏe đã vội vã rời đi, chẳng phải là vì tránh không gặp trẫm sao.”

Đến ngày Thanh Duy bị trọng thương bỏ trốn, bệnh cũ của Tạ Dung Dữ tái phát, Chương Nguyên Gia đề nghị Triệu Sơ đi thăm nhưng chàng cứ do dự chần chừ, có thật là vì xấu hổ vì không bảo vệ được Ôn Tiểu Dã? Chàng biết thực chất biểu huynh cũng không muốn gặp mình.

“Thần đoán được, nhưng thần không ngờ Quan gia có thể thực hiện giao dịch đó triệt để đến vậy. Quan gia không hề hé lời nào về cái chết của Từ Thuật Bạch, chẳng phải vì muốn Huyền Ưng Ti dốc toàn lực điều tra án ôn dịch để nhổ tận gốc Hà thị ư? Điều Quan gia muốn đâu chỉ là phục dụng Huyền Ưng Ti? Thứ Quan gia muốn là một triều đình không có Hà gia! Cây lớn mục rữa lại thành dinh dưỡng nuôi đất, ở vùng hoang dã mới nuôi được máng trống màu mỡ, Hà gia không còn, Trâu gia cũng không, thế là những chức vụ phụ thuộc vào Hà gia đã để trống, Quan gia hoàn toàn có thể bổ khuyết bằng người của mình, nay Hà Hồng Vân đã chết, đó chẳng phải là kết quả Quan gia mong muốn ư, Quan gia hài lòng chưa?”

Tạ Dung Dữ nhìn Triệu Sơ, giọng thấm lạnh, “Nhưng khi làm như vậy, Quan gia có từng nghĩ cho những thương nhân vô tội chết oan mấy ngày trước không? Nếu Quan gia không giấu nhẹm manh mối này, chí ít thần còn biết có kẻ khác đứng đằng sau cái chết của Từ Thuật Bạch, chí ít vào lúc bọn họ chết, chúng thần đã không bị động đến muộn!”

Nghe thấy Tạ Dung Dữ nhắc đến hộ buôn thuốc, hốc mắt Triệu Sơ từ từ đỏ hoe, giọng khản đặc: “Ba năm, ba năm… Trẫm ngồi ngai vàng trên cao, nhưng bên dưới hoàn toàn trống rỗng, long ỷ này… đâu phải trẫm ngồi lên, mà trẫm bị ép phải ngồi vào. Tay chân bó buộc gông cùm, cất tiếng không ai nghe, cũng chẳng một ai thật lòng. Khó khăn lắm mới chờ được cơ hội này, trẫm… không thể không hành động, trẫm chưa hề lường đến cái chết của những thương nhân ấy, những ngày qua cứ day dứt nghĩ đến cái chết của bọn họ, đêm nào cũng gặp ác mộng, biểu huynh cảm thấy thủ đoạn này bẩn thỉu lắm sao, trẫm cũng thấy bẩn, nhưng trẫm… hết cách rồi…”

“Không phải thần ghét thủ đoạn.” Tạ Dung Dữ nhìn Triệu Sơ, “Thủ đoạn không phải thứ xa lạ ở chốn triều chính, thần lớn lên trong thâm cung, tư cách nào mà nói ghét bỏ?”

Y mặc bào phục thân vương thuần sắc đen, đứng thẳng giữa đại điện rộng lớn, bao gió sương như thấm đẫm vào người.

“Qua gia muốn thần nói thật?” Tạ Dung Dữ cất giọng ráo hoảnh, “Tiển Khâm Đài được xây vì những liệt sĩ nhảy sông, chết trận biên cương, vốn dĩ nó không nên bị lấm bẩn. Vì thế…”

Tạ Dung Dữ cười gằn, “Tất cả những người lợi dụng Tiển Khâm Đài để giở trò, đều không tốt đẹp gì.”

“Hà Hồng Vân không phải kẻ tốt đẹp, Chương Hạc Thư cũng chẳng phải hạng tốt lành, mà nay xem ra,” Tạ Dung Dữ nhìn Triệu Sơ, “Cả Quan gia cũng thế.”

Nghe lời ấy, Triệu Sơ ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn Tạ Dung Dữ.

Y nhếch mép khinh thường, đuôi mắt nhướn lên, trong mắt là lửa giận không cách nào kìm nén.

Nhìn y lúc này không giống Tạ Dung Dữ, mà như quay trở lại là Giang Từ Chu chưa từng tháo mặt nạ.

Nhưng Tạ Dung Dữ thực sự là người thế nào?

Chỉ có Triệu Sơ vẫn nhớ trước khi sĩ tử nhảy sông, người anh họ thường xuyên bầu bạn cùng mình vốn thong dong tự tại thế nào, cũng giống như phụ thân của huynh ấy, người uống say rồi viết xuống lan can câu ca “ngồi thuyền trôi dọc bờ sông, ta tiêu diêu thảnh thơi”.

Đáng tiếc sau khi Tạ Trinh qua đời, Tạ Dung Dữ được đón vào cung, từ đấy trở đi hai vai vác gánh nặng, phải lớn lên trong sự khao khát kỳ vọng của tất cả mọi người.

Sau khi đeo mặt nạ, Tạ Dung Dữ đóng giả Giang Từ Chu rất đạt, người của điện Chiêu Doãn đều than rằng tâm bệnh của Tiểu Chiêu vương chưa khỏi, nhưng Triệu Sơ lại cảm thấy, có lẽ đó mới là dáng vẻ thực của Tạ Dung Dữ, lỡ vào thâm cung mà phải giấu đi bản tính tự tại trời sinh, nên khi gặp kiếp nạn rơi xuống vực sâu, chỉ khi quay về là chính mình thì mới thực sự chữa được tâm bệnh.

Người tháo mặt nạ không phải y, đeo mặt nạ mới là y.

Giọng điệu móc mỉa của Tạ Dung Dữ bỗng kéo Triệu Sơ quay về thuở hai huynh đệ thường gây gổ, chàng không kìm được nói: “Biểu huynh nói không muốn lợi dụng Tiển Khâm Đài, còn trẫm vẫn muốn lợi dụng! Không chỉ là gút mắc trong lòng biểu huynh, Tiển Khâm Đài còn là gút mắc của phụ hoàng và của cả trẫm! Nhưng trẫm biết làm gì nữa, trẫm không thể yếu đuối mãi được, ngoài là hoàng đế, trẫm cũng là một người bình thường, ngoài thiên hạ chúng sinh, trẫm cũng có tâm nguyện muốn hoàn thành, có lời hứa cần thực hiện, có sơ tâm cần giữ, có người cần bảo vệ…”

Chàng chợt đứng bật dậy, sắc mặt tái nhợt, nhìn thẳng vào Tạ Dung Dữ, gằn từng chữ một: “Tấm lòng của trẫm, có trời đất chứng giám.”

Tạ Dung Dữ nhìn Triệu Sơ, đoạn cụp mắt nói: “Không phải thần không hiểu Quan gia, có lẽ thần chỉ…”

Có lẽ y luôn trông gà hóa cuốc về Tiển Khâm Đài.

Y bật cười, thấp giọng nói: “Có chuyện này Quan gia không cảm thấy lạ sao? Thần không phải họ Triệu, thần họ Tạ, thâm cung vốn là nơi đế vương ở, nhưng một vị vương gia khác họ như thần lại sống trong cung ngót nghét hai mươi năm.”

Thoạt nghe cứ tưởng chỉ là câu cảm thán, nhưng nếu đào sâu mà nghĩ, ẩn ý đằng sau lại khiến người ta không khỏi run bắn.

Triệu Sơ sửng sốt: “Trẫm không thấy có gì lạ cả, cũng chưa từng nghi ngờ hay nghĩ nhiều, huynh đệ ta lớn lên cùng nhau, đối với trẫm, mọi suy đoán đều là vô căn cứ.”

Tạ Dung Dữ nói: “Thần biết Quan gia chưa bao giờ nghi ngờ, nhưng…”

Đoạn y dừng lại không nói gì thêm, chắp tay vái Triệu Sơ rồi rời khỏi đại điện.

Triệu Sơ đuổi theo hai bước, “Biểu huynh nói như vậy là không muốn điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài nữa à?”

Tạ Dung Dữ khựng bước, “Tra chứ, sao lại không điều tra? Phải tra cho thật rõ.”

Tòa tháp ấy, có người muốn xây, có người muốn hủy, có người lao tâm khổ tứ dưới khói lửa, có người đứng giữa hối hả một mình nhìn sóng gió.

Tạ Dung Dữ nói: “Nửa năm qua, thần đã hiểu ra một điều, trong tai nạn ấy không ai có thể lo cho thân mình, mỗi người đều có mục đích riêng, và đương nhiên thần cũng có. Thần vẫn mong đến một ngày, Quan gia có thể đồng ý với thỉnh cầu của thần.”

“Thỉnh cầu của biểu huynh là gì?”

Nhưng Tạ Dung Dữ không đáp, y chỉ mỉm cười, đối diện với ánh nắng nhẹ nhàng, xoay người rời khỏi điện: “Đợi chân tướng rõ ràng rồi thần lại nói.”

Sau khi Tạ Dung Dữ rời đi, Triệu Sơ ngồi một mình trong điện Tuyên Thất rất lâu, rồi chàng đứng dậy bước ra khỏi điện.

Đã quá chính ngọ, tuyết ngừng rơi và sương mù đã tan, nắng ngày đông rực rỡ chói mắt, Tào Côn Đức cầm phất trần tiến lên đón: “Quan gia.”

Nhưng Triệu Sơ khoát tay, “Ngươi lui ra đi, trẫm đi một mình.”

Chàng đi tới hậu cung, song lại dừng bước ở lối đi dẫn đến điện Hội Ninh, một lúc sau, chàng xoay gót rẽ sang lối bên kia, băng qua trường lang, đi dọc đường mòn gần như bỏ hoang trong vườn ngự uyển, tới trước một cung điện.

Cung điện này tên là Thính Xuân, năm xưa là nơi ở của một Quý nhân thời Chiêu Hóa đế, Quý nhân đã mất từ lâu, cung điện bỏ trống nhiều năm không người quét dọn.

Nhưng khi vị hoàng đế trẻ tuổi đẩy cửa cung ra, trong khoảng sân hoang liêu lại có cấm vệ quân mặc giáp đứng thẳng, thấy Triệu Sơ, bọn họ đồng loạt cúi người: “Quan gia.”

Triệu Sơ ừ một tiếng, hạ lệnh: “Mở cửa ra.”

Thực chất cửa cung Thính Xuân không khóa, có lẽ người sống bên trong đã quen ở một mình, dù ngày lẫn đêm đều luôn kéo rèm.

Cấm vệ quân nghe lệnh đi tới, đẩy cửa ra, một mùi rượu cay nồng bao trùm cung điện hoang vắng.

Là Thiêu Đao Tử.

Khoảng trời rực sáng, thấy được cả hạt bụi lơ lửng giữa không trung, Triệu Sơ không bước vào, chàng đứng ngoài cửa, nói với người say khướt bên trong: “Ôn Tiểu Dã đã bình an rời thành, tiền bối có thể yên tâm.”

Người kia mải mê uống rượu, nghe lời ấy cũng chỉ ậm ờ đáp lại.

Triệu Sơ nói tiếp: “Nếu tiền bối muốn đi, trẫm cũng có thể thu xếp.”

Người bên trong nghe thế, bật cười hỏi: “Quan gia đã cầm quyền rồi à?”

Triệu Sơ cụp mắt, ừ một tiếng, “Để nhổ bỏ Hà gia, trẫm đã khiến cả triều chung một mối thù, giữ kín một manh mối, tạm thời đẩy hết lỗi lầm của Tiển Khâm Đài lên đầu Hà gia, Hà gia đã ngã, trẫm có thể… có thể nắm chút quyền rồi.”

“Quan gia làm như vậy, chỉ sợ có ngày, người gần gũi bên cạnh cũng sẽ hận ngài thôi.”

Triệu Sơ lặng thinh, một lúc lâu sau mới đáp: “Trẫm biết, nhưng trẫm còn có lời hứa cần thực hiện, có chân tướng muốn truy tìm.”

“Trẫm luôn ghi nhớ lời thề trước giường bệnh của phụ hoàng, sẽ luôn nhớ vì sao mình lại lên ngôi. Tấm lòng của trẫm, không cần chứng minh với bất cứ ai…”

Chàng xoay người, đưa mắt nhìn thiên địa bao la ngoài kia.

Gió đã ngừng thổi tuyết cũng ngừng rơi, chỉ là đằng xa lại có đám mây ùa về, dường như mây mù đang gần tích tụ ở phía chân trời, nhưng có quan trọng không?

Đợi ngày xuân đến tuyết tự khắc tan, gió cũng sẽ lặng.

Triệu Sơ lẩm bẩm: “Tấm lòng của trẫm, có trời đất chứng giám.”

– HẾT QUYỂN 1 –
 
Chương 85


QUYỂN 2

Năm tháng sau.

Buổi hoàng hôn sấm rền gió giật, đường núi phía trước nhòe đi trong cơn mưa tầm tã, mặt trời chỉ vừa khuất bóng mà xung quanh đã tối om om.

Tú Tú xua cỗ xe lừa, lừ đừ đi sau đám đông. Đường núi vốn toàn đất đá, bình thường đi chẳng thấy vấn đề gì, nhưng bây giờ đi bước nông là đến bước sâu, còn bất thình lình giẫm trúng vũng nước. Loáng thoáng nghe thấy tiếng quát tháo, nàng đưa mắt nhìn, dường như có rất nhiều quân lính tụ tập quanh trạm dịch trên núi, trong buổi chiều tà, ánh sáng từ ngọn đuốc chiếu dài mấy trượng, lại bị cơn mưa xối dập.

“Bộ có chuyện gì rồi sao?”

“Ừ đấy, sao lại có nhiều quan sai thế nhỉ?”

Đám đông bắt đầu xì xào.

“Dù gì cũng dừng nghỉ,” Thấy thế, người đàn ông mặc đồ đen đi trước dẫn đường nói, “Để tôi đi hỏi xem sao.”

Những người chung đường lên núi lần này đều là dân Thượng Khê huyện Lăng Xuyên. Lăng Xuyên núi non trập trùng liên miên, mà nhiều nhất là ở Thượng Khê, nằm giữa các quần sơn, thế cô lập đã định số phận bần cùng nghèo khó cho người dân nơi đây. Nhất là thời kỳ Hàm Hòa loạn lạc, người dân Thượng Khê gần như vào rừng làm cướp, về sau Chiêu Hóa đế kế vị, mạnh tay trị giặc cướp, lúc ấy Thượng Khê mới có ruộng có dân, nên dáng vẻ của một thị trấn. Đáng tiếc nạn thổ phỉ năm xưa vẫn chưa được trị tận gốc, sáu năm trước khi Tiển Khâm Đài sập, người Lăng Xuyên sống trong nỗi bàng hoàng kinh sợ, sơn tặc ở Thượng Khê nhân cơ hội hoành hành, xuống núi cướp bóc các hộ dân, từ đó triều đình mới rút kinh nghiệm xương máu, cử quân tiêu diệt thổ phỉ.

Thời điểm ấy giặc cướp chết nhiều không đếm xuể, nghe kể sơn trại bị lửa thiêu ba ngày ba đêm mới tàn, máu chảy thấm sâu vào núi, về sau trong thị trấn còn râm ran chuyện ma cỏ một thời gian, khiến người dân bất an lo sợ. Từ đó trở đi dân Thượng Khê có một thói quen là, dù xuống núi hay lên núi thì cứ đứng chờ dưới chân núi, đợi đủ mười người rồi mới cùng nhau lên đường – đông người vượng dương khí, không sợ ma quỷ nữa.

Nhóm của Tú Tú là dân Thượng Khê lên núi về nhà.

Một lát sau, người đàn ông mặc đồ đen đi nghe ngóng đã quay về, sắc mặt khác thường, nói với mọi người: “Quan gia phong tỏa đường rồi, không đi qua chỗ này được, ở trạm dịch cũng chật lắm rồi, chúng ta quay lại đi, đến miếu cũ cách đây mười dặm ở lại qua đêm, đợi tới sáng mai hẵng về trạm dịch.”

Có người hỏi: “Xảy ra chuyện gì mà phải chặn đường thế?”

Người đàn ông do dự, chỉ ậm ờ: “Hình như có án mạng, liên quan tới sơn tặc.”

Nghe nói là sơn tặc, mọi người lập tức biến sắc, không một ai dám ho he lên tiếng, đồng loạt quay đầu đi về tòa miếu.

Tú Tú cũng vội vã quay xe, song lừa đã kéo xe một ngày rồi, chưa được ăn uống lại còn mắc mưa, bây giờ nó ì ra không chịu nghe lệnh. Nhưng ngồi trên xe là người ông chân què của Tú Tú, bị lừa dẫn đi vòng vòng suýt thì ngã, ông cầm gậy than ôi: “Thôi thôi, tự ông xuống đi tiếp.”

Người đàn ông áo đen kia thấy bọn họ không bắt kịp, lập tức vòng trở lại.

Hắn nhận cây roi từ trong tay Tú Tú, chỉ ba roi đã khiến lừa quy phục, nói: “Tú muội, muội lên xe ngồi đi, để ta đánh xe cho.”

Tú Tú nói: “Cám ơn huynh Lưu đại ca, nhưng trời đang mưa lớn, mọi người còn chờ người dẫn đường đấy, tự muội đánh lừa được, vả lại muội còn có a tỉ mà.”

Nghe thấy thế, Lưu Đại Xuyên đưa mắt nhìn cô gái đang dìu Diệp lão bá cạnh xe lừa.

Gió thổi mưa rơi, cô gái ấy mặc đồ đen từ đầu tới chân, còn đội cả mũ đen che mặt, gần như hòa làm một với màn đêm.

Vì cùng là dân Thượng Khê, dẫu chỉ đồng hành vài ba hôm nhưng mọi người vẫn nhiệt tình giúp đỡ lẫn nhau, chỉ có cô gái này là luôn tách biệt – tuy Tú Tú nói a tỉ của muội ấy mang bệnh trong người, bình thường không được ra gió, song đâu đến nỗi phải im thin thít suốt cả chặng đường.

Lưu Đại Xuyên chần chừ, hắn vẫn muốn đánh xe lừa giúp Tú Tú, nhưng ngẩng đầu lên, thấy nhóm người đằng trước đang dừng bước chờ mình dẫn đường, hắn đành nói: “Đi thôi.”

May là miếu cũ không xa, đi theo đường núi bảy tám dặm, rẽ vào đường mòn ở ngã rẽ là đến nơi.

Cả tòa miếu chỉ có độc một gian, do nằm trong núi sâu nên chẳng mấy ai đến dâng hương khói, hòa thượng giữ miếu cũng đã bỏ đi từ đời nào. Gạch ngói cột xà đã nhiều năm không được tu sửa, có chỗ còn bị dột. Miếu nát thế này, ban đêm vào ở cũng ớn lạnh rùng mình. Nhưng nhóm Lưu Đại Xuyên không sợ, bọn họ đông người – ước chừng lên đến hai mươi, đủ dương khí rồi.

Vào miếu, Lưu Đại Xuyên nhanh chóng giúp ba người Tú Tú tìm chỗ khô ráo, trải chiếu ra, những người còn lại hoặc nhóm lửa, hoặc thu xếp hành trang, bọn họ đều đem theo lương khô nên không cần tìm đồ ăn. Đợi lửa cháy lớn, tất cả quây quần quanh đống lửa, có người hỏi, “Lưu đại ca, lúc nãy huynh nói ngọn núi bị phong tỏa vì án mạng, rốt cuộc là án mạng gì vậy?”

“Đúng thế, còn bảo là liên quan đến sơn tặc, chẳng phải sơn tặc ở Thượng Khê đã bị giết sạch từ năm sáu năm trước rồi à? Sao bây giờ lại còn giặc cướp nữa?”

Lưu Đại Xuyên cắn một góc bánh bắp, nuốt cái ực rồi đáp, “Thực ra… không hẳn là sơn tặc.”

“Không phải sơn tặc thì là gì?”

Lưu Đại Xuyên do dự, một lúc lâu sau mới nói: “… Là ma. Chuyện tà ma.”

Toàn miếu lập tức rơi vào im lặng.

Trong chốc lát, mọi người chỉ nghe thấy mỗi gió núi rít gào.

“Chừng mười ngày trước, nghe bảo trong núi xuất hiện bóng ma, không lâu sau dưới chân núi có người chết. Ai chết thì các quan gia không nói với tôi, chỉ… nói là bị ma giết. Quan sai ráo riết lùng sục, vì thế mới lập trạm kiểm soát ở trên núi, không phải không cho người đi qua mà là ra vào phải kiểm tra kỹ lưỡng, ban đêm cấm đi lại, nói là đợi phá án xong rồi tính tiếp.”

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, lúc lâu sau, một người rụt rè nói: “Sao tự dưng… lại có chuyện ma quỷ vậy?”

Bọn họ đều ngầm hiểu chữ “lại” này – sáu năm trước triều đình cử quân diệt phỉ, nhưng vì chết chóc quá nhiều, trên núi từng xôn xao chuyện ma quỷ một thời gian, có điều chưa quá nửa năm thì mọi thứ đã chìm xuống. Người Thượng Khê nói là do quỷ đầu thai chuyển thế rồi, không ngờ bây giờ lại xảy ra án hồn ma giết người.

Người nào người sợ hãi tột độ, vây quanh đống lửa, không còn tâm trạng nói chuyện nữa.

Hầu hết bọn họ đều là hộ vệ người hầu nhà phú hộ. Tuy Thượng Khê tách biệt trong núi nhưng không phải không có nhà giàu, có vài món đồ không mua được ở Thượng Khê, chủ nhân mới sai người hầu xuống phủ thành mua đồ. Cho dù gặp chuyện hay rơi vào loạn lạc, tôi tớ bọn họ phải tự giải quyết, giờ nghe nói núi Thượng Khê có ma quỷ lộng hành, còn lo mình chưa nổi thì nói gì lo cho người ngoài.

Đi đường một ngày trời khiến mọi người thấm mệt, nếu không nói chuyện nữa thì đi ngủ vậy.

Tú Tú thu xếp cho Diệp lão bá, lại nhìn quanh mà không thấy a tỉ đâu, nàng nhẹ nhàng đứng lên, rón rén đi ra ngoài miếu.

Cô gái đội mũ mạng đang dựa vào tường dưới mái hiên, Tú Tú thấy nàng, nhỏ giọng cất tiếng: “A tỉ.”

Cô gái đội mũ quay sang nhìn nàng, đặt tay lên môi ra hiệu chớ lên tiếng, dẫn nàng đến hành lang ngoài miếu, hỏi: “Có chuyện gì?”

Giọng nàng trẻ hơn dự đoán, có vẻ cũng không lớn hơn Tú Tú là bao.

Tú Tú nhanh chóng đổi xưng hô, nói: “Giang cô nương, ông bảo tôi hỏi ý cô là có muốn ngủ lại miếu tối nay, đợi sáng mai theo đoàn của Lưu đại ca lên núi vào Thượng Khê không, hay là… là chịu vất vả, tới đường tắt gần đây đi vòng lên Thượng Khê?”

Cô gái đội ngũ nghe thế, im lặng một lúc mới đáp: “Tôi không rành đường xá Thượng Khê, ý của cô là?”

Nghe cách hai người nói chuyện hẵng còn xa lạ, dường như chỉ mới làm quen chứ chẳng phải chị em gì cả.

Và đúng vậy, cô gái mũ đen chẳng phải ai khác, chính là Thanh Duy.

Sau khi rời kinh, Thanh Duy trèo đèo lội suối tìm đường đến Lăng Xuyên. Mấy hôm trước ở phủ Đông An, thấy Diệp Tú nhi bị một công tử nhà giàu chòng ghẹo, nàng bèn ra tay cứu giúp.

Sau đó để che giấu thanh phận, Thanh Duy nói dối mình họ Giang tên Duy, là người huyện Sùng Dương Lăng Xuyên. Nàng nói mình bị trong nhà ép gả cho một tay nhà giàu ở Đông An, nhưng gã thiếu gia đó lại là kẻ ăn chơi trác táng, nàng buộc phải đào hôn, muốn lên Thượng Khê tách biệt trong núi trốn một thời gian.

Vừa hay Diệp Tú nhi cũng là người Thượng Khê, nàng được Thanh Duy giúp đỡ nên quyết định tạm giả làm chị em, giúp Thanh Duy che giấu thân phận, trốn khỏi sự truy lùng của “người chồng”.

Diệp Tú nhi đưa mắt nhìn màn mưa chằng chịt, nói: “Tôi với ông cảm thấy tốt nhất vẫn nên đi đường tắt vòng lên Thượng Khê, thứ nhất Giang cô nương cũng nói chồng mình quen biết quan phủ, lỡ đâu hành tung của cô bị quan phủ phát hiện, không chừng sẽ báo lại cho chồng cô biết; thứ hai…” Diệp Tú nhi do dự, “Ma quỷ vốn chỉ là tin đồn lung tung, tôi và ông không tin, bây giờ trạm dịch trên núi có nhiều quan sai canh gác quá, vào ra núi đều phải kiểm tra nghiêm ngặt, không biết sẽ kéo dài đến lúc nào. Chuyến này tôi đi mua son phấn giúp nữ chủ nhân trong nhà, mà cô chủ nóng tính lắm, nếu bị bắt phải chờ lâu thì dễ chì chiết tôi lắm.”

Thanh Duy nhìn nàng, một lúc sau mới gật đầu nói: “Được rồi, cô quay về ngủ đi, sau nửa đêm, đợi mọi người ngủ say rồi chúng ta lên đường.”

Diệp Tú nhi hỏi: “Giang cô nương không ngủ à?”

Thanh Duy lắc đầu.

Nàng là trọng phạm trên văn thư truy nã của triều đình, nửa năm qua, dẫu chân dung của nàng chưa đến mức dán bố cáo thiên hạ, nhưng nếu Tả Kiêu vệ không bắt được nàng, chắc chắn văn thư bao gồm chân dung của nàng sẽ được đưa đến khắp nha môn mọi ngóc ngách. Một mình lang bạt xuất hành, quan sai lại còn sát rạt bên cạnh, so với việc mất mạng thì việc đi ngủ trở nên quá xa xỉ, chỉ cần dựa tường nhắm mắt chừng nửa đêm là đủ.

Thanh Duy dựa vào chân tường chờ đến tận nửa đêm, sau khi chắc chắn mọi người trong miếu đã ngủ say, nàng lặng lẽ đi vào miếu, lay Diệp Tú nhi và Diệp lão bá dậy, nhỏ giọng nói: “Chúng ta đi thôi.”
 
Chương 86


Người qua lại giẫm đạp thành đường mòn trong núi, nhưng vì không phải đường chính nên đi lại khó khăn, cũng may sau nửa đêm cơn mưa dần tạnh, ba người đã đi được một canh giờ, nhìn thấy đốm sáng ở cách đó không xa là biết đã tới huyện thành.

Diệp Tú nhi đánh xe lừa toan đi về hướng sáng, nhưng Thanh Duy lại cảm thấy không ổn, hiện đã quá giờ Tý, sao huyện trấn giáp núi lại thắp nhiều đuốc như thế.

Đêm tối như hũ nút, mưa rơi tựa sương giăng, nàng cố nhìn kỹ, nhóm người cầm đuốc tới lui đó đều mặc khôi giáp, ở phía xa còn có một túp lều dựng tạm – chắc chắn là một trạm kiểm soát khác!

Nhìn quân lính nghiêm chỉnh có tổ chức, khác hoàn toàn với lính lệ địa phương ở trạm dịch trên núi, hình như là quân do triều đình cử tới.

Sao triều đình lại điều binh đến nơi thế này?

Trực giác Thanh Duy mách bảo có sự chẳng lành, định quay đầu vào núi trốn thì đúng lúc này, sau lưng vọng đến tiếng bước chân lạo xạo, là nhóm người của Lưu Đại Xuyên.

Diệp Tú nhi sững sờ: “Lưu đại ca, sao mọi… mọi người, lại đến đây?”

Lưu Đại Xuyên trách: “Nửa đêm tỉnh dậy mà không thấy Diệp lão bá với chị em hai người đâu, hại mọi người đi tìm nãy giờ.”

May mà hắn rành đường đi trong núi nên mới lần theo dấu vết xe lừa, bây giờ đã tìm được người, cuối cùng cũng có thể yên tâm.

Đương lúc nói chuyện, vài quân lính ở trạm kiểm soát đã đi tới, Thanh Duy thấy rõ khuôn mặt của một người trong đó, lập tức nấp ra sau lưng hội Lưu Đại Xuyên. Bình thường Thanh Duy không quen biết quân lính trong kinh, nhưng nàng vẫn nhớ Tả Kiêu vệ đã truy lùng nàng hôm nào, nhất là vũ vệ đi theo gã Trung lang tướng họ Tôn kia.

Mà kẻ đang ở ngay trước mắt chính là tên vũ vệ của Trung lang tướng!

Vũ vệ giơ cao ngọn đuốc, nhìn mọi người một lượt, lạnh lùng hỏi: “Các ngươi là dân Thượng Khê về nhà? Sao lại đi đường này?”

Trong cả nhóm chỉ có mỗi Lưu Đại Xuyên hay đi khắp Lăng Xuyên, ngày xưa còn từng lên kinh một lần, cũng coi như trải đời, thấy vũ vệ trước mắt có phong thái phi phàm, hắn chắp tay bảo: “Bẩm quan gia, chúng tôi đúng là người Thượng Khê, nhưng vì trạm dịch trên núi đã chặn đường, mà chúng tôi đang vội về nhà nên phải đi đường tắt về Thượng Khê.” Đoạn hắn dừng lại, “Xin hỏi quan gia, nghe giọng thì hình như các ngài từ kinh thành tới? Thượng Khê… đã xảy ra chuyện rồi ư, tại sao lại điều động quân lính trong kinh đến?”

Vốn dĩ tên vũ vệ chẳng muốn trả lời, nhưng thấy hắn ta khom lưng cung kính như vậy, nghĩ một lúc rồi lời ít ý nhiều bảo: “Thượng Khê lại có cường đạo cướp bóc, bọn ta đi đường vòng đến kiểm tra.”

Nghe vũ vệ nói thế, Thanh Duy bừng hiểu.

Tháng giêng năm nay đã bắt đầu khởi công tái xây dựng Tiển Khâm Đài, vì là đại sự nên triều đình đã điều binh từ các ti đến huyện Sùng Dương Lăng Xuyên tạm trú, đường vòng mà tên vũ vệ nói không phải đường vòng từ trong kinh, mà là vòng từ huyện Sùng Dương đến Thượng Khê. Bởi nhẽ nạn thổ phỉ xảy ra ở Thượng Khê năm nào là do Tiển Khâm Đài sập, sau đó cũng là triều đình xuất binh dẹp loạn.

Nhưng trong số quân lính được cử tới Lăng Xuyên lại có người của Tả Kiêu vệ, không rõ có phải là trùng hợp hay không.

Đường tắt về Thượng Khê không phải bí mật, nhìn quân lính phòng thủ chặt chẽ đầu đường, có vẻ không muốn để sót bất cứ người khả nghi nào ra vào núi.

Bây giờ có bỏ đi cũng không còn kịp, Thanh Duy đành theo đám đông, để vũ vệ lúc nãy dẫn đến chỗ trạm gác xác nhận thân phận.

“Họ tên?”

“Họ Giang… Giang thị, nhà không đặt tên.”

“Quê quán?”

“Huyện Sùng Dương Lăng Xuyên.”

“Người huyện Sùng Dương?” Dưới túp lều, binh lính cầm bút không khỏi ngước mắt nhìn Thanh Duy, Tiển Khâm Đài được xây ở huyện Sùng Dương, “Người xứ khác đến Thượng Khê làm gì?”

Đúng lúc này, Diệp Tú nhi ở bên cạnh nói: “Bẩm quan gia, tỉ ấy là biểu tỉ của dân nữ, đến Thượng Khê nhờ cậy dân nữ và ông nội.”

Binh lính gật đầu, chỉ vào mũ trùm của Thanh Duy, “Cởi ra nhận diện.”

Dưới lụa đen, tuy Thanh Duy có dịch dung nhưng không thể vẽ vết bớt lên mắt trái như trước nữa, nàng chỉ có thể bôi vàng mặt, trát thêm chút bụi bẩn, người mới nhìn qua chân dung của nàng chưa chắc đã biết, nhưng nếu là Tả Kiêu vệ đã trực tiếp gặp nàng thì chắc chắn sẽ nhận ra nàng.

Mà hiện tại, gã vũ vệ của Tả Kiêu vệ đang đứng ngay sau lưng lính tuần, đôi mắt như ưng nhìn nàng chòng chọc.

Thanh Duy hạ giọng đáp: “Được.” Rồi làm như chẳng lưu tâm, nàng nâng cổ tay trái lên.

Nhuyễn ngọc kiếm quấn quanh túi vải ở cổ tay trái đã tích đủ sức mạnh.

Hôm nay đã khác xưa, nàng không còn là nữ Ôn thị đã “chết” trên công văn truy nã, mà nàng là trọng phạm triều đình truy bắt, lần nào lộ mặt là lần đấy cận kề nguy hiểm sống chết.

Tới nước này rồi, đành đánh liều một trận vậy. Thanh Duy chưa vội dùng nhuyễn ngọc kiếm, ánh mắt dừng lại ở bội đao bên hông gã lính, nhưng đúng lúc đang định ra tay thì nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa vọng đến, một nha sai nhảy xuống ngựa, bẩm báo với vũ vệ của Tả Kiêu vệ: “Hiệu úy đại nhân, người của nha huyện đã phát hiện ‘bóng ma’ trong lúc tuần núi, mời ngài khẩn trương đến kiểm tra!”

Vũ vệ  lập tức biến sắc, quẳng lại một câu: “Đến khách xá mời Khúc Hiệu úy tới trạm gác.” rồi vội vã nhảy lên ngựa, phi ngựa chạy đi.

Vũ vệ của Tả Kiêu vệ rời đi, Thanh Duy thở phào, binh lính kiểm tra mặt nàng, có vẻ không thấy gì khác thường nên nhanh chóng cho qua.

***

Tuy nói Thượng Khê là huyện thành, nhưng do diện tích rộng mà nhà cửa thưa thớt nên trông giống thị trấn lớn hơn. Lưu Đại Xuyên ra khỏi trạm kiểm soát, nghe bảo nhà của Diệp Tú nhi nằm ở phía tây thì có ý muốn tiễn mọi người về, nhưng lại bị Diệp Tú nhi khéo léo từ chối.

Diệp Tú nhi đánh xe lừa chậm rãi đi trong đêm, đến khi mọi người ai đã về nhà nấy, nàng mới nói với Thanh Duy: “Giang cô nương, thật ra lúc trước có chuyện tôi đã không nói thật.”

Nàng ngập ngừng, “Hôm đó tôi nói mình và ông là người hầu của một phú hộ đúng không? Thực ra không phải, chúng tôi hầu hạ ở trang viên thành tây, người ở trang viên đó… chính là… tiểu phu nhân của Huyện lệnh đại nhân.”

Thanh Duy ngớ người: “Tiểu phu nhân?”

Tiểu phu nhân mà nàng lần cuối nàng nghe thấy có người gọi chính là nha hoàn Tích Sương ở Cao gia tại kinh thành.

Nhưng vừa mở miệng, Thanh Duy đã lập tức hiểu ra, đây là nơi Huyện lệnh nuôi phòng ngoài.

“Giang cô nương có ơn với tôi và ông, lẽ ra chúng tôi nên tìm chỗ khác cho cô, nhưng…” Xét cho cùng tiểu phu nhân ở trang viên không thể lộ diện công khai, Diệp Tú nhi khó mở lời, “Tạm thời chưa tìm được chỗ, mong Giang cô nương chịu đựng.”

Thanh Duy lại cảm thấy trang viên này cũng hay.

Trước mắt Thượng Khê đang bị ma quỷ lộng hành, lại còn xảy ra án mạng, quan binh lùng sục khắp nơi, nàng đến khách điếm ở chưa chắc đã an toàn, nếu có thể náu mình trong trang viên của tiểu phu nhân nhà Huyện lệnh thì đỡ được rất nhiều rắc rối.

“Không sao, là tôi làm phiền cô mới phải.” Thanh Duy nói.

***

Về đến trang viên thì đã là giờ Sửu*, là thời điểm tối nhất trong ngày, vậy mà trang viên vẫn còn thắp đèn, xem ra mọi người vẫn chưa nghỉ. Xe lừa của Diệp Tú nhi dừng ở ngoài cửa, chẳng mấy chốc có người đi ra mở cửa, xưng là thím Ngô, trông thấy Diệp Tú nhi, bà mắng: “Nửa đêm canh ba mới về, cẩn thận kinh động đến tiểu phu nhân.” Nói đoạn, bà đưa mắt nhìn Thanh Duy.

(*Giờ Sửu: 1 đến 3 giờ sáng.)

Diệp Tú nhi nói: “Đây là biểu tỉ nhà tôi, gặp ở Đông An, tỉ ấy đến nhờ vả, muốn tìm công việc ở trang viên, chẳng phải phu nhân phàn nàn ít người hầu đấy sao.” Nàng hỏi, “Phu nhân đã ngủ chưa?”

Nhưng nàng vừa dứt lời thì thím Ngô lại im lặng nhìn, chỉ nói một câu: “Có chuyện rồi, tự cô đến nhà chính mà xem.”

Nhà chính vẫn sáng đèn, Thanh Duy đi theo Diệp Tu nhi, thấy trong phòng có bảy tám người hầu đứng thành vòng, chính giữa là một cô gái mặc đồ lụa thêu hoa, tay cầm khăn ôm ngực đi qua đi lại, dường như vẫn chưa hoàn hồn.

Nàng ta rất đẹp, mày như trăng non, trong đôi mắt phượng ẩn chứa sự tức giận, chỉ tiếc phấn trên mặt phải dày chừng nửa tấc, màu môi quá đậm, y hệt đào kép trên sân khấu.

Thấy Diệp Tú nhi, Dư Hạm rảo bước đi tới, giơ tay xỉa vào trán cô nàng: “A đầu chết tiết, nửa đêm rồi còn gõ cửa, không sợ dọa bà cô nhà ngươi hả!”

Đoạn, nàng ta quay sang quan sát Thanh Duy, thấy mặt nàng vàng khè lấm bẩn như có bệnh, *chậc* một tiếng chê bai, “Đứa nào đây, sao ai cũng dẫn về trang viên thế hả?”
 
Chương 87


“Đây là biểu tỉ của em, họ Giang, đến từ huyện Sùng Dương. Chẳng phải phu nhân chê ít người hầu còn gì, em gặp tỉ ấy ở Đông An, mãi mới rủ được tỉ ấy đến trang viên.” Diệp Tú nhi đã quen phục vụ vị phu nhân này nên rất hiểu tính nàng ta, dừng một lúc rồi tiếp, “Phu nhân à, biểu tỉ của em vừa biết võ công mà thân phận cũng sạch sẽ, phu nhân có thể cho người đi điều tra.”

Dư Hạm lườm nàng ta, phất khăn tay rồi lắc mông đi về nhà chính, “Điều tra cái gì, bộ ta rảnh đến mức đấy hả? Thôi, người em dẫn về thì ta tin.” Nàng ta ngồi xuống ghế chủ, “Chỉ cần còn thở là được, cho trang viên này thêm chút dương khí.” Nàng ta nói, cơn giận vì bị tiếng gõ cửa làm phiền đã vơi đi, nhưng vẫn chưa hết sợ hãi, nàng ta vội lệnh người hầu khép cửa nhà chính, cài then thật chặt.

Diệp Tú nhi đi tới, xách ấm rót trà cho Dư Hạm, “Có chuyện gì hả phu nhân, sao khuya rồi mà phu nhân vẫn chưa ngủ?”

Dư Hạm không nhận, đưa mắt ra hiệu Diệp Tú nhi đặt cốc trà xuống bàn, rồi nàng ta nắm chặt cổ tay Diệp Tú nhi, kéo người lại gần, “Ta nói em biết, lúc nãy ta mới… gặp ma!”

“Gặp ma?” Diệp Tú nhi ngạc nhiên, “Ở trang viên?”

“Không ở trang viên thì ở đâu nữa!” Dư Hạm hất tay nàng ra, “Con ma đó giết người đấy!”

Dư Hạm xuất thân từ phường đào kép, được Huyện lệnh lão gia nhìn trúng nên mới làm chủ trang viên. Nhưng chủ tử như nàng ta chỉ có sự kiêu căng khi được săn đón vây quanh, mà không có tính tự giác của người bề trên. Trong số hạ nhân ở trang viên, người nàng ta tin tưởng nhất chính là Diệp Tú nhi, tuy cô gái này còn trẻ, tướng mạo bình thường, song được cái lanh lợi thông minh, nên hễ nàng ta có chuyện gì cũng thích giao cho cô nàng làm, có lời gì cũng thích nói với cô nàng.

Diệp Tú nhi khuyên nhủ: “Phu nhân đừng sợ, mấy năm nay thỉnh thoảng ở Thượng Khê lại có ma quỷ lộng hành, nhưng chưa nghe nói ma giết người bao giờ, tối nay mưa to gió lớn, có khi phu nhân nhìn nhầm, tưởng bóng cây thành bóng quỷ.”

“Không giết người là thế nào? Ngươi có biết vì sao dạo này lại phong tỏa núi không, là vì ma giết người đấy!” Dư Hạm rít lên, “Em có biết ai chết không? Là Trù Trù ở phủ nhà mình! Đại a hoàn của tiểu thư nhà em đấy, giết luôn người ở chỗ Huyện lão gia rồi!”

Nhà mà Dư Hạm nói không phải là trang viên này, mà là nhà của Huyện lệnh huyện Thượng Khê.

Huyện lệnh phu nhân không muốn gặp nàng, không cho phép nàng vào cửa, nhưng việc đó đâu thể ngăn nàng gọi phủ huyện lệnh là nhà mình.

“Chết thảm lắm! Bụng bị mổ xẻ, ruột bị moi ra, mắt bị khoét đi, không phải ma làm thì là gì!” Dư Hạm nói, “Con ma này chân trước chạy tới nhà, chân sau thò trang viên, rốt cuộc là có chuyện gì mà nó lại chòng chọc nhà người ta vậy? Ta biết gọi ai bây giờ!”

Trong mắt Dư Hạm ánh lên sự sợ hãi, nàng ta đã thức đến tận nửa đêm, đầu óc nặng trịch mà vẫn không dám ngủ, cầm tách trà lên uống một hơi, lại bảo Diệp Tú nhi rót thêm.

Diệp Tú nhi khuyên: “Phu nhân đi ngủ đi, không lẽ định ngồi như vậy đến sáng?”

“Ngồi đến sáng thì sao? Ta đang có ý chờ đến sáng mai đây, trong kịch cũng hát thế còn gì, ‘mặt trời nhô, xương khô tan biến, hồng trần táng hoàng tuyền’, ma quỷ sợ trời sáng, bình minh lên là nó sẽ biến mất.”

Nói rồi, Dư Hạm lại nhìn Diệp Tú nhi, “Thôi, em đã đi đường mấy ngày rồi, vào ngủ trước đi, dẫn biểu tỉ của em đi xuống đi.” Nàng ta nhìn vào Thanh Duy, “Ta nói ngươi biết, vào trang viên là cấm có làm biếng. Ngươi biết võ công đúng không, hôm nay nghỉ ngơi đi, tối mai ngươi phải trực đêm gác ma!”

***

Trang viên có rất nhiều phòng trống, Diệp Tú nhi tìm cho Thanh Duy một gian cạnh vườn rau sau nhà chính, bảo là người hầu trong trang viên đều ở xung quanh khu vườn.

Đến sân sau, Thanh Duy mới phát hiện không thể gọi chỗ này là trang viên được, nhưng cũng chẳng thể nói đây là trạch viện, phòng ốc phân bố rải rác, luống rau sân vườn ở giữa cũng rất lộn xộn. Xem ra ngày trước chỗ này là nơi ở của hộ dân dưới chân núi, về sau người bỏ đi, được Huyện lão gia mua lại, dỡ bỏ hàng rào rồi xây thêm tường bao quanh bên ngoài tạm thành trang viên.

Thanh Duy đội mưa đi đường suốt nửa đêm, thực sự đã quá mệt.

Nàng rửa mặt, khép áo nằm trên giường, thế mà chẳng ngủ nổi.

Thượng Khê có ma quỷ lộng hành, ngoài núi có quan binh triều đình canh gác, và những người hoang mang sợ hãi ở trang viên, tất cả đều khiến Thanh Duy cảm thấy quái gở.

Mà đúng vậy, không phải vì điều quái gở này thì nàng đã chẳng đến Thượng Khê.

Nói lại mấy tháng trước, sau khi rời kinh, Thanh Duy định đến Trung Châu phồn hoa tấp nập tạm lánh một thời gian, cũng đã đi được nửa đường rồi, nhưng đột nhiên nàng lại quay đầu đến Lăng Xuyên, nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì nàng cũng nghĩ đến việc Từ Thuật Bạch lên kinh cáo ngự trạng có lý do khác.

Đến Lăng Xuyên, đầu tiên Thanh Duy đi lại giữa hai nơi Sùng Dương và Đông An, hỏi thăm về Từ Thuật Bạch và Từ Đồ. Từ Thuật Bạch là thư sinh trong sạch, không có gì để điều tra, nhưng Từ Đồ lại có một điểm khả nghi – trước khi Tiển Khâm Đài hoàn thành, trong số những kẻ thường xuyên tiếp xúc với Từ Đồ có một sơn tặc, mà sơn tặc này lại là Đại đương gia trên núi Trúc Cố huyện Thượng Khê.

Với người ngoài có lẽ đấy là chuyện rất bình thường, Từ Đồ là thương nhân mà, thượng vàng hạ cám gì cũng có thể kết giao. Nhưng chỉ khi đến Lăng Xuyên, đích thân trải nghiệm sự cô lập của Thượng Khê mới hiểu được cái điểm lạ trong đó. Hơn nữa sau khi Tiển Khâm Đài sập, sơn tặc ở núi Trúc Cố lập tức bị tiêu diệt, không một ai còn sống, vì vậy Thanh Duy mới đến Đông An.

Nhưng nàng là trọng phạm, hành tẩu phải rất cẩn thận, nhất là khi nghe Thượng Khê có ma quỷ quậy phá, quan binh chặn chốt, nàng càng không dám đi đây đi đó.

Nàng đành ở lại Đông An vài hôm, ra vào các cửa hàng có người Thượng Khê, lúc bấy giờ mới tiếp cận Diệp Tú nhi và Diệp lão bá.

Còn vì sao lại chọn hai người đó, thứ nhất có công tử nhà giàu trêu chọc Diệp Tú nhi, tiện cho nàng ra tay tương trợ; thứ hai, rõ ràng Diệp Tú nhi đi mua son phấn giúp chủ tử, nhưng mua hàng xong nàng ta chưa về ngay mà nhiều lần lén lút ra vào các tiệm thuốc, chứng tỏ nàng ta có chuyện giấu chủ mình. Người như vậy hành động sẽ rất cẩn thận, hơn nữa nếu xảy ra chuyện, dù bị bại lộ hành tung thì Thanh Duy vẫn nắm được thóp của người ta, không sợ bị lật tẩy.

Ngặt nỗi… Điều khiến Thanh Duy cảm thấy bất an lúc này không phải Diệp Tú nhi, cũng chẳng phải Dư Hạm, thậm chí không phải quan binh triều đình đang phong tỏa Thượng Khê.

Thanh Duy không tin ma quỷ, đối với nàng đó chỉ là chuyện bịa đặt không đâu, nhưng từ khi bước chân vào Thượng Khê, xung quanh đâu đâu cũng ngập bầu không khí quỷ quái – ai cũng cảm thấy nơi này thực sự có ma, ai cũng cho rằng ma giết người, là ma quỷ làm điều ác.

Điểm này quá kỳ lạ.

Thanh Duy nhắm mắt, trong cơn chập chờn, bất thình lình ngoài nhà vọng đến tiếng thét chói tai.

Nàng trở mình ngồi bật dậy, men theo tiếng hét đi vòng qua khu vườn, thấy ngoài hiên nhà chính, Dư Hạm khiếp hồn khiếp vía được ba bốn người hầu dìu, liên tục vuốt ngực, mà các người hầu cũng trắng bệch mặt. Xa bên vườn là hội Diệp Tú nhi cùng Diệp lão bá, Diệp Tú nhi tóc tai rối bời, đèn lồng nàng ta cầm chỉ sáng le lói, không thấy rõ vẻ mặt mà chỉ nghe được hơi thở dồn dập.

“Sao thế?” Thanh Duy hỏi.

“… Ma.” Phải một lúc lâu sau, tiểu a hoàn của Dư Hạm mới đáp, “Con ma kia lại đến nữa…”

“Đâu chỉ lại đến!” Dư Hạm dậm chân, “Nó còn muốn giết người, muốn giết Tú nhi!”

Thanh Duy lại gần Diệp Tú nhi, “Cô thấy con ma kia rồi à?”

Diệp Tú nhi tái mặt, không nói nổi thành lời, thím Ngô đứng bên mới đáp, “Phu nhân muốn ở trong nhà chính chờ tới sáng, Tú nhi bèn đi lấy chăn đệm giúp phu nhân, rồi phu nhân đổi ý đòi về phòng ngủ, nhưng vừa đi tới hành lang thì con ma kia lại đến nữa, nó định bóp cổ Tú nhi.”

Thanh Duy lập tức nhìn vào cổ Diệp Tú nhi, quả nhiên có một vòng đỏ.

Nàng lại nhìn quanh, “Ma đâu?”

Dư Hạm nhấc tay, chỉ hướng mấy gian phòng sau viện hoang, “Đi, đi bên kia rồi…”

Như để chứng thực lời của nàng ta, đúng lúc này, ở viện hoang bỗng truyền tới tiếng “xào xạc”.

Mưa đã tạnh hạt, gió cũng chẳng nổi, trong màn đêm tĩnh lặng, tiếng “xào xạc” vô hình khiến tất cả mọi người đang có mặt phải rợn tóc gáy.

Vào lúc này, cho dù Thanh Duy không tin ma quỷ thì vẫn cảm thấy căng thẳng.

Dư Hạm nhìn nàng: “Không phải ngươi… biết võ công à? Thế ngươi có biết… bắt ma không?”

Thanh Duy liếc nàng ta.

Hồi ấy sau khi sơn tặc bị vây quét, Thượng Khê cũng ồn ào chuyện ma quỷ quấy phá, lúc đó ai cũng kháo nhau là oan hồn sơn tặc biến thành. Thanh Duy đến Thượng Khê chính là để điều tra toán sơn tặc này, điều tra gã Đại đương gia núi Trúc Cố từng qua lại với Từ Đồ.

Bây giờ ở Thượng Khê đang có quan binh triều đình, Thanh Duy không thể nán lại quá lâu, nàng phải nhanh chóng xác định xem rốt cuộc sơn tặc hồi ấy có liên quan gì tới Tiển Khâm Đài không.

Nghĩa là cho dù cả Thượng Khê có chìm trong bầu không khí quỷ quái, “oan hồn” sơn tặc lại xuất hiện thì nàng cũng không thể bỏ qua manh mối này.

Thanh Duy không đáp, nàng vươn tay cầm lấy đèn lồng từ người hầu, đi thẳng ra sau viện hoang.

***

Người trong trang viên vốn dĩ rất ít, cộng cả tạp dịch mà cũng chỉ có bảy tám người, giờ đều đang tập trung ở ngoài nhà chính không dám đi theo, mà sân viện này đã bỏ hoang nhiều năm không ai chăm sóc, trong màn đêm, cỏ cây um tùm như bóng ma giương nanh múa vuốt, chẳng hề có lấy chút gì gọi là dương khí.

Thanh Duy cầm đèn đi quanh sân, tiếng “xào xạc” lúc nãy đã biến mất.

Bốn bề vắng lặng không một hơi thở, quầng sáng mấy thước phát ra từ lồng đèn như đẩy nàng trở thành tâm điểm của trăm ngàn mắt quỷ.

Thanh Duy xiết cán gỗ, nghĩ một lúc, cuối cùng vẫn không ném đèn lồng.

Nàng nín thở, bước từng bước tới chỗ sâu hơn, tính toán khoảng cách giữa mình với hàng rào, nhà và vườn rau, tiện bề ẩn nấp nếu xảy ra sự cố.

Nhưng đúng lúc này, cây hòe cao to bên cạnh lại phát ra tiếng động.

Thanh Duy lập tức cầm đèn lồng đi tới, một bóng đen xẹt qua, không có gì ngoại trừ cỏ cây.

Thanh Duy dừng bước, nàng tin vào nhãn lực của mình, chắc chắn không nhìn nhầm.

Nàng xách lồng đèn, đuổi theo hướng chiếc bóng.

Trong vòng nửa trượng chỉ toàn cỏ hoang.

Nhưng khi nàng giơ cao đèn lồng, tới gần bức tường…

Trong ánh sáng mờ mờ, có một “bóng ma” mặc áo choàng xám, tóc dài che nửa khuôn mặt, đứng lặng lẽ, đôi mắt ẩn hiện dưới mái tóc nhìn nàng chòng chọc.
 
Chương 88


Vừa thấy Thanh Duy nhìn sang, “con ma” kia gần như biến mất ngay lập tức.

Thanh Duy sửng sốt.

Dù vừa rồi chỉ là một chớp mắt rất ngắn ngủi, nhưng nàng chắc chắn đã nhìn thấy bóng dáng con ma ấy.

Không phải ma, mà là người!

Một khắc sau, Thanh Duy tức tốc đuổi theo hướng bóng ma lẩn trốn.

Mưa đã ngừng rơi, trăng sáng vằng vặc, ma leo tường nhảy ra, chạy trốn với tốc độ cực nhanh, gần như ngang ngửa với Thanh Duy có công phu cao cường. Lúc đầu Thanh Duy còn theo sát nút, nhưng vì không quen đường xá Thượng Khê nên dần dà bị tụt lại một quãng.

Thượng Khê nói lớn cũng lớn mà nói nhỏ cũng nhỏ, vì bốn bề toàn núi là núi, cả thành trấn cộng lại chỉ nhỏ được chừng này. Không biết con ma kia dè chừng cái gì mà cũng không dám vào núi, thấy không cắt đuôi được Thanh Duy, nó cắn răng, cuối cùng chạy thục mạng trên đường tắt dẫn ra khỏi thành. Có vẻ nó không biết ở đầu đường có chốt cặn, đợi tới khi thấy đằng trước có ánh sáng lờ mờ, hắn mới dừng chân chậm lại.

Thời cơ đến rồi, Thanh Duy đang định tiến lên bắt ma thì ai ngờ đúng lúc này, sau lưng vang lên tiếng vó ngựa, nàng lập tức ẩn mình trong bóng tối, ngoái đầu nhìn ra sau, một cỗ xe ngựa đang chạy về phía này.

Cùng lúc ấy, con ma phóng mình sang bên kia đường, chạy lên đường núi.

Nhưng nó vẫn chậm một bước, ánh sáng từ xe ngựa đã bắt được bóng nó vụt qua.

“Kẻ nào!” Người trước xe quát lớn.

Lặng thinh không tiếng động, Thanh Duy không dám nhúc nhích, và có vẻ con ma kia cũng không dám động đậy.

Mượn đèn lồng trước xe, Thanh Duy thấy rõ người quát mặc áo giáp – là quân lính của triều đình.

Người lính dừng xe, xách lồng đèn chiếu về phía bên này, nhưng mà chẳng thấy ai. Hắn xuống xe, toan lại gần tìm kiếm thì bỗng có người vén rèm xe lên, mất kiên nhẫn nói: “Làm gì đấy, sao còn chưa đi?”

Thanh Duy ngẩn người, giọng nói này… sao nghe quen thế.

Nàng nhìn về phía xe ngựa, dưới ánh sáng đèn lồng, người vén rèm có khuôn mặt tròn và mắt cũng tròn nốt, dáng dấp của một công tử nhà giàu, còn ai ngoài Khúc Mậu.

Trước đó khi đi qua trạm kiểm soát, nàng có nghe Tả Kiêu vệ kia dặn là đi gọi Khúc Hiệu úy đến thay ca trực, không ngờ Khúc Hiệu úy này lại là Khúc Mậu thật.

Người lính đáp: “Hồi bẩm Hiệu úy đại nhân, lúc nãy thuộc hạ thấy một cái bóng lướt qua núi, rất có thể nó là ác ma quan phủ muốn bắt, nên định đi kiểm tra.”

“Ác… ác ma?” Khúc Mậu nghe vậy, run giọng nói, “Nhưng, nhưng không phải lúc nãy các ngươi bảo, con ma kia chỉ xuất hiện ở núi Trúc Cố sao?”

Núi Trúc Cố nằm ở phía tây, cách nơi này hai hai đến ba mươi dặm, sao con ma này lúc thì ở trên núi, lúc lại ở ngoài núi như vậy, lẽ nào Thượng Khê có đến hai con ma?

“Chính vì không chắc nên thuộc hạ mới muốn đi kiểm tra.”

Binh lính đang nói chuyện Khúc Mậu là người của Tạ Kiểu vệ, ngoài hắn ra, đi theo sau xe ngựa toàn là hộ vệ của Khúc Mậu.

Rừng sâu núi thẳm có ma quỷ quấy nhiễu thị trấn, Khúc Mậu không muốn thiếu bất cứ một ai bảo vệ, nhưng hắn biết phải làm gì đây, hắn với gã Hiệu úy họ Ngũ của tên Tả Kiêu vệ kia bị điều đến đây để bắt ma, bắt sớm ngày nào thì hắn mới có thể thoát thân sớm ngày ấy.

Mà tại sao cái công việc xui xẻo này lại rơi xuống đầu hắn? Cha hắn cũng không buồn nói giúp câu nào.

Khúc Mậu nuốt nước bọt: “Vậy… vậy ngươi đi xem đi.”

“Nè…” Nhưng người lính vừa đi được vài bước thì đã bị Khúc Mậu gọi lại, “Chốt trạm kia, có phải nằm ngay trước mặt không?”

“Vâng, đi theo con đường này đến nơi có ánh sáng đằng trước, Ngũ Hiệu úy vừa mới rời đi, có lẽ Huyện lệnh đại nhân đã đến trạm thay ca.”

Khúc Mậu “ồ” một tiếng, gọi một hộ vệ đến, “Ngươi hãy đến chốt trạm tìm Huyện lão gia, bảo ông ấy phái thêm binh lính đến đón ta.”



Người lính dần dần tới gần, dừng lại ở chỗ chiếc bóng biến mất.

Nếu nhìn ban ngày sẽ thấy ở hai bên hắn ta đều có người.

Thanh Duy nấp sau đống cỏ khô bên trái, con ma kia cuộn mình giữa cỏ cây trên con đường núi bên phải.

Nhưng vị trí của con ma không hề ổn ổn, chỉ cần khẽ nhúc nhích là cành cây dưới chân sẽ phát ra tiếng động, nên nó không dám di chuyển dù chỉ là nửa bước.

Người lính vẫn nhớ nơi chiếc bóng biến mất, hắn lập tức tìm kiếm từ cỏ cây bên đường.

Khoảnh khắc sau, một bóng xám bất thình lình xông đến, nó giang rộng hai tay, dùng móng vuốt tấn công vào cổ người lính, người lính giật thót tim, lập tức rút lui, nhưng hành động của con ma quá mạnh, trong chốc lát đã khiến người lính ngã phịch xuống đất.

Hộ vệ của Khúc Mậu nhanh chóng chạy tới tương trợ, nhưng sau khi tấn công người lính, con ma lập tức bỏ chạy vào rừng.

Không lâu sau, Huyện lệnh hay tin bên này xảy ra tình hình khác thường, lập tức dẫn quan sai chạy đến.

Thoạt nhìn Huyện lệnh chưa quá tuổi tứ tuần, người khá gầy, để râu cá trê, đi theo bên cạnh là một sư gia nom khá hiền.

Sư gia kiểm tra vết thương của người lính, không nặng lắm, ông ta nhanh chóng cho quan sai đi cùng đuổi theo con ma đang trốn trong núi, còn Huyện lệnh vén bào đi tới trước xe ngựa, chắp tay nói: “Chắc là Ngũ gia giật mình lắm.”

Đúng là Khúc Mậu rất kinh hãi.

Hắn co quắp trước xe ngựa, mồ hôi trên trán chảy ròng ròng, mở miệng mấy lần nhưng không nói ra được một câu hoàn chỉnh: “Tìm, tìm người… bảo vệ ta. Chỗ, chỗ này của các ngươi, toàn là ma. Ta… không canh giữ, trạm kiểm soát nữa… về nhà trọ.”

“Chuyện này…” Huyện lệnh do dự.

Trạm kiểm soát ngoài núi chỗ này do Ngũ Hiệu úy của Tả Kiêu vệ đích thân thiết lập, vì mấy ngày trước có người đi theo đường tắt đến Thượng Khê, sau đó vào thành rồi biến mất không tăm hơi. Có vẻ Ngũ Hiệu úy không tin người trong huyện, hắn hạ lệnh rất rõ, nói trạm kiểm soát này chỉ được hắn và Khúc Hiệu úy luân phiên canh giữ.

Nhưng ai mà chẳng biết, tuy quan chức của Khúc Mậu không cao nhưng cha hắn là Hầu gia tam phẩm trên triều, Huyện lệnh nào dám đắc tội, bèn nói: “Khúc Hiệu úy đã bị kinh động, đúng là nên về nghỉ ngơi, chi bằng để tại hạ canh giữ trạm kiểm soát này thay Hiệu úy.”

Nói đoạn, ông ta cho người đưa Khúc Mậu về nhà trọ.

***

Khi Thanh Duy quay về trang viên thì trời đã hửng sáng.

Lúc này cơn buồn ngủ của Dư Hạm cũng đã qua, nghe có người gõ cửa, nàng ta bảo a hoàn người hầu ra đón, lại thấy một mình Thanh Duy đi tới nhà chính.

Dư Hạm ngạc nhiên, cầm khăn tay chỉ vào nàng: “Cô… cô không bị ma hại chết à?”

Thanh Duy không đáp, đi vào nhà rồi ngồi xuống ghế dưới, “Có nước không?”

Dư Hạm gật đầu, vội bảo Tú nhi rót nước cho Thanh Duy.

Thanh Duy uống liền hai cốc, nói: “Ta đuổi con ma kia đi rồi.”

Nàng vừa dứt lời, mọi người trong phòng trố mắt nhìn nhau.

Tối qua bọn họ nghe thấy động tĩnh khác thường trong viện hoang, tuy biết Thanh Duy gặp “ma” nhưng không ai dám đi hỗ trợ. Sáng nay mới lấy hết can đảm đi ra viện hoang xem, chỉ thấy đèn của Thanh Duy rơi dưới đất, người biến mất không tung tích, còn tưởng nàng bị ma bắt mất rồi. Ai dè, không phải ma bắt nàng mà là nàng đã đuổi ma đi.

Người thường thấy ma thì chạy, có ai dám đuổi theo?

Đúng là không thể nhìn mặt mà bắt hình dong, cô gái này to gan quá!

Dư Hạm cúi người nhìn Thanh Duy, hỏi: “Cô thấy con ma kia thật hả?”

Thanh Duy gật đầu, cầm tách trà trong tay, “Áo xám, tóc dài, nhìn không rõ mặt, nhưng chắc là nam, có điều không cao lắm, cỡ bằng ta thôi.”

Dư Hạm sửng sốt, đoạn vỗ tay cái đốp: “Đúng rồi đúng rồi, là nó đấy, mấy ngày nay ta gặp ở trang viên chính là con ma già này!”

Nghe thấy hai chữ “ma già”, Thanh Duy chợt nhớ lại tối qua Khúc Mậu nói có bóng ma khác xuất hiện trên núi, bèn hỏi: “Có phải Thượng Khê các cô không chỉ có một con ma không?”

Ngoài “ma già” ra, còn có “ma mới”.

“Đúng thế.” Dư Hạm nói, “Ban đầu chỉ có một con thôi, chính là con tối qua cô thấy. Nhưng không hiểu sao mà dạo này lại xuất hiện những ba con ma, một con mặc áo xám tối qua; một con gần đây hay xuất hiện trong núi, mặc áo đỏ; khoảng chừng mấy ngày trước, trong thành còn xuất hiện một ‘công tử ma’ nữa. Lời đồn ác lắm, giờ chẳng ai dám thò mặt ra ngoài ban đêm cả.” Dư Hạm nói, đoạn hối hận, “Không ra khỏi cửa mà ma vẫn tìm tới nơi! Cô nói xem vì sao tối qua tìm tới cửa là con ma áo xám chứ, nếu là ‘công tử ma’ đến, ta sẵn sàng chết trong tay hắn!”

***
 
Chương 89


Nghe Dư Hạm nói như vậy, Thanh Duy lấy làm hoang mang.

Sao lại lắm ma thế?

Nàng hỏi: “Vậy rốt cuộc chuyện ma giết người là như thế nào?”

Dư Hạm là người chỉ theo ý mình, mấy năm nay còn được Huyện lão gia chiều hư, đâu phải ai hỏi gì nàng ta cũng trả lời. Nhưng Thanh Duy thì khác, nàng ấy dám đuổi theo cả ma cơ mà, Dư Hạm phục!

Dư Hạm híp mắt cười, “Dưới bếp có mứt hoa quả, cô ăn không, ta sai người đem lên nhé?”

Thanh Duy lắc đầu.

Dư Hạm bèn dặn: “Tú nhi, đem mứt lên đây.” Nàng liếc Thanh Duy, giũ khăn lụa, xoay người rời khỏi nhà chính, “Đi theo ta, ta sẽ kể cô nghe đầu đuôi câu chuyện.”

***

“Chuyện này nhé, phải nói từ đầu cơ.”

Vào phòng mình, Dư Hạm ngồi xuống trước gương, kéo dài con chữ như đang hát.

“Thượng Khê này ấy, núi đã nhiều lại còn bị cô lập, hồi trước nghèo lắm, người dân ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, rơi vào đường cùng thì phải làm sao đây? Lên rừng làm cướp thôi. Lúc ấy Thượng Khê đã xuất hiện một người như vậy, hắn tên là Cảnh Thường. Cha mẹ mất sớm, ngày trẻ sống nhờ ăn cắp ăn trộm. Triều đại Hàm Hòa thế đạo loạn lạc, hắn mới nói với dân chúng Thượng Khê lầm than rằng, chỉ cần mọi người bằng lòng theo hắn lên núi, hắn đảm bảo sau này mọi người sẽ không còn đói nghèo nữa.”

Lúc ấy thực sự có không ít người đã tin hắn, đi theo hắn, đầu tiên là chiếm đoạt từng sơn trại lẻ tẻ ở núi Trúc Cố, kế đó lên núi dựng trại của riêng mình, một thời gian sau cũng dần dà nên hồn.

“Cảnh Thường này có cái danh cướp của giàu chia cho người nghèo. Mà vào thời điểm nghèo khổ, cướp của giàu chia cho người nghèo là gì? Chính là cướp của hộ dư thừa lương thực. Có điều hắn có một điểm tốt, đó là tuy cướp của người ta nhưng vẫn để lại ít lương thực, hơn nữa hắn rất có đầu óc, sang triều đại Chiêu Hóa, cuộc sống ngày một tốt đẹp đi lên, hắn không làm công việc đó nữa, từ cướp người biến thành cướp đường.”

Núi Trúc Cố nằm ở vị trí rất tốt, dưới chân núi có đoạn đường mà thương gia tiêu cục thường lui tới. Cảnh Thường dẫn người chặn đường cướp của nhưng vẫn có chừng mực

, ban đầu là cướp hàng hóa, quen với thương nhân thì thu ít bạc lộ phí, đến lúc thân thiết hơn là thỉnh thoảng hắn lại vung tay cho miễn lộ phí.

Dư Hạm bảo: “Con người ấy, hèn lắm! Ban đầu hắn cướp hàng hóa của anh, anh hận hắn nghiến răng nghiến lợi, về sau hắn không cướp hàng của anh nữa, nói tạo thuận lợi cho anh, chỉ thu chút lộ phí, anh lại cảm thấy hắn cũng không đến nỗi đáng ghét, sau đó hắn không thu tiền của anh nữa, còn nói gì mà ‘lộ phí lần này, coi như ta cho các ngươi mua rượu’, hoặc là ‘kinh thương cũng chẳng dễ dàng, coi như hôm nay ta không thấy các ngươi đi qua con đường này’, lúc đó anh lại thấy hắn không những không xấu mà còn là người tốt!”

Hơn nữa Cảnh Thường có tính hào sảng, kết bạn với ai cũng rất ăn ý, dần dà, hắn chẳng những không bị các thương nhân qua đường căm hận mà còn kết giao tình với không ít thương nhân vùng Lăng Xuyên.

Nạn cướp bóc ở Lăng Xuyên đã tồn tại từ lâu, nay diệt được phía Đông Sơn thì mai lại nhảy ra Tây Sơn, không khác gì cỏ dại mọc trên núi, lửa rừng thiêu chẳng đặng, gió thổi mầm đến lại sinh sôi.

Cảnh Thường của núi Trúc Cố cũng giống như thế, quan phủ cũng nhắm một mắt mở một mắt.

Triều đình thực sự hạ lệnh tiêu diệt thổ phỉ là vào lúc nào?

Là năm Chiêu Hóa thứ mười hai.

Đầu năm Chiêu Hóa thứ mười hai, triều đình quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài. Vì Chiêu Hóa đế rất coi trọng công trình đó, gần như là ưu tiên hàng đầu của cả vương triều lúc bấy giờ. Tiển Khâm Đài được xây tại Lăng Xuyên, đương nhiên triều đình sẽ tiêu diệt thổ phỉ địa phương.

Nói là tiêu diệt song không có nghĩa là tàn sát.

Chiêu Hóa đế là vị quân vương chăm lo việc nước, mạnh tay với giặc, nhưng mềm mỏng trong việc trị thế.

Nên triều đình vẫn chủ trương thuyết phục quy hàng.

“Nhưng thuyết phục thì có tác dụng gì?” Dư Hạm vừa soi gương vừa tháo bông tai, đoạn xoay lại nhìn Thanh Duy, “Huyện lão gia chỗ bọn ta khá thân với Cảnh Thường núi Trúc Cố, cái hồi ta chưa làm lẽ của oan gia, có mấy lần gánh hát bọn ta được mời lên núi biểu diễn, ta còn thấy ông ấy đến uống rượu mà. Bảo lão khuyên Cảnh Thường á? Khéo chỉ hai ba ly rượu là Cảnh Thường đã chặn được lão rồi.”

Thanh Duy hỏi: “Huyện lệnh núi Trúc Cố hồi ấy là người bây giờ à?”

“Đương nhiên rồi.” Dư Hạm nói, “Có ai thèm đến làm quan ở cái chốn khỉ ho cò gáy này đâu? Chỉ có oan gia của ta thôi.”

Chuyện sau đó xảy ra lúc nào?

Dư Hạm không nhớ rõ lắm, chỉ nhớ sau khi Tiển Khâm Đài sập, cả Lăng Xuyên rơi vào hoang mang loạn lạc, đại quân triều đình kéo tới, nạn cướp bóc hoành hành tứ phía, chỉ trong một thời gian ngắn mà như quay về thời Hàm Hòa loạn lạc, thậm chí tới cả Thượng Khê cô lập cũng bàng hoàng.

“Thượng Khê dù nghèo nhưng cũng có thương hộ kiếm sống nhờ núi rừng. Một hôm nọ, có một thương nhân họ Tưởng hốt hoảng chạy đến nha huyện tố cáo – nhà bọn họ kinh doanh cái gì thì ta quên rồi – nói chung khai là bọn họ chở hơn hai mươi rương hàng đến Đông An, vừa tới chân núi Trúc Cố thì bị Cảnh Thường dẫn người cướp sạch, không những cướp của mà còn giết người!”

Nghe đến đây, Thanh Duy cau mày nói: “Chẳng phải cô bảo Cảnh Thường này ra tay có chừng mực, không làm hại tính mạng người ta cơ mà?”

“Lại thế, nên mới bảo là ly kỳ.” Dư Hạm nói, “Nhưng chuyện gì cũng có ngoại lệ, sơn tặc là cướp, lẽ nào cô còn trông mong bọn họ giống Nhạc thị núi Bách Dương? Cướp muốn sống thì kiểu gì cũng phải hại người, hồi ấy loạn dữ lắm, giết vài người cũng dễ hiểu.”

“Quan phủ nửa tin nửa ngờ, đang định điều tra thì,” Dư Hạm xòe hai tay, “Lại xảy ra chuyện.”

Cảnh Thường có một người anh em kết nghĩa tên là Khấu Hoán Sơn, là Nhị đương gia núi Trúc cố. Thương nhân họ Tưởng báo quan chưa đến một ngày, gã Khấu Hoán Sơn đã dẫn mười mấy sơn tặc xuống núi, cướp liền ba nhà, còn giết người nữa.

Chuyện như thế tái diễn, quan phủ không thể khoanh tay ngồi yên được nữa, thêm cả triều đình đã muốn dẹp loạn từ lâu, trong thời gian xây dựng Tiển Khâm Đài có cả quân lính đóng quân ngoài núi. Huyện lão gia thấy có người chết, sợ lại xảy ra loạn, lập tức thúc ngựa chiến đến bản doanh cách đó mấy chục dặm, báo cáo sự việc với tướng lĩnh.

Thế là tướng lĩnh dẫn quân hộc tốc chạy về ngay trong đêm, lên núi trừ loạn.

“Giết người tàn nhẫn lắm! Nửa đêm rồi mà vẫn nghe thấy tiếng gào khóc thảm thiết, có người ở gần to gan, ló đầu ra ngoài cửa sổ nhìn, nói cả ngọn núi Trúc Cố đỏ loét, máu nhuộm đỏ lòm!”

Tuy Cảnh Thường rất được chào đón trên núi Trúc Cố, nhưng thuộc hạ của hắn cũng chỉ khoảng chừng mấy trăm người, toàn là tặc khấu, nào đấu nổi quân lính triều đình được huấn luyện bài bản.

Từ khi thương nhân họ Tưởng báo quan cho tới lúc Nhị đương gia xuống núi cướp bóc, rồi nha huyện đến bản doanh báo án, cuối cùng quân đội chạy tới, tổng cộng chỉ mất một ngày.

Sau ngày hôm đó, trời sáng choang, trên núi Trúc Cố không còn sơn tặc nữa.

“Người bị giết sạch, thi thể chất đống, bị thiêu đốt cùng sơn trại.” Dư Hạm nói, “Chuyện diễn ra quá mức đột ngột, ai ai cũng bàng hoàng, thậm chí có người còn thương xót cho toán sơn tặc ấy. Nhưng quan phủ bảo là, sơn tặc đáng thương, vậy những người bị sơn tặc giết thì không đáng thương ư? Bọn chúng đã phạm tội giết người, chắc chắn về sau sẽ còn hành động liều lĩnh hơn, trong huyện có biết bao nhiêu người, không lẽ sau này muốn ngày ngày sống trong lo lắng đề phòng, chực chờ bị bọn sơn tặc hung ác giết chết? Không phải quan phủ chưa cho bọn chúng cơ hội. Ngẫm nghĩ lời ấy, ta cảm thấy quan phủ nói cũng có lý.”

“Nhưng ta thấy có lý chưa chắc người khác đã thấy vậy. Không lâu sau khi lính triều đình rút lui, núi Trúc Cố có ma ám. Cái con mặc áo xám mà tối qua cô đuổi theo đó, người trong huyện đồn rằng nó là oan hồn của sơn tặc núi Trúc Cố đã chết, còn có người bảo…” Nói đến đây, Dư Hạm hạ giọng, đưa tay che miệng thì thầm với Thanh Duy, “Có người nói, thực ra cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố có liên quan đến Tiển Khâm Đài.”

Thanh Duy giật mình, “Sao lại nói thế?”

“Không biết nữa. Nhưng ta đoán nhé…” Dư Hạm thần bí nói, “Tại người chết dưới Tiển Khâm Đài oan quá, muốn hồi hồn thì phải kéo hồn sống ở dương gian tới thế vào, nên triều đình giết toán cướp là muốn Diêm vương sửa lại sổ sinh tử, lấy mạng đổi mạng, cho những người chết dưới Tiển Khâm Đài được quay về dương gian.”

Thanh Duy: “…”

Thôi bỏ đi, xem ra nàng ta không biết thật.

“Ơ kia, cô không biết à?” Dư Hạm vui vẻ nói, “Ta có thể được gả cho Huyện lão gia làm lẽ là nhờ triều đình tiêu diệt đám sơn tặc này đấy. Không còn sơn tặc, gánh hát kinh doanh ế ẩm, không nuôi nổi nhiều người, ông chủ mới bán ta đi. Kết quả cô đoán xem? Ngay từ hồi Cảnh Thường mời gánh hát lên núi biểu diễn, Huyện lão gia đã nhắm trúng ta rồi. Oan gia này nghe tin ta bị bán, tức tốc cầm tiền đến chuộc ta. Phu nhân ông ấy khinh ta, không cho ta vào cửa, thế là ông ấy tìm cho ta ngôi nhà này, còn phái Tú nhi đến phục vụ ta nữa.”

Nói đoạn, nàng ta vỗ trán bảo: “Ây da, nói tận đẩu tận đâu rồi. Con người ta ngoài biểu diễn thì chỉ thích tán dóc thôi, chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ? À, ma giết người. Sao cô không nhắc ta?”

Thanh Duy nói: “Không sao, cô nói tiếp đi.”

“Lúc nãy nói đến đâu rồi? À, trong huyện có ma quỷ lộng hành. Vì con ma mặc áo xám quấy nhiễu, quan phủ chắc chắn phải đi bắt, nhưng mà á, không bắt được.”

Thanh Duy khẽ nhíu mày, “Không bắt được?” Rõ ràng con ma kia là người, cớ gì lại không bắt được?

“Nó biến mất rồi. Quan binh tìm kiếm tất cả mọi nơi từ trên đỉnh xuống dưới chân núi, nhưng vẫn tìm không thấy.” Dư Hạm nói, “Ma mà, có phải người tự do đâu, toàn là tay sai của Diêm Vương thôi, không chừng Diêm Vương có công chuyện nên đã gọi bọn chúng về rồi, đợi xong chuyện là bọn chúng sẽ lại ngoi lên đi loanh quanh thôi. Nên mấy năm qua ma quỷ có biến mất hoàn toàn đâu, từng xuất hiện mấy lần, lần nào cũng tụ tập xung quanh mộ phần, cô xem cái bóng xám kia đi, chẳng phải biến mất ngay lập tức à.”

Thanh Duy nói: “Nếu mấy năm qua chỉ có một con ma áo xám đó, vậy tại sao bây giờ ở Thượng Khê lại có nhiều ma đến thế?”

“Ta chịu thôi. Có thể âm phủ đã đổi thời, Diêm Vương hiện tại chỉ là một kẻ tầm thường, không thích làm chính sự nên cho tháng cô hồn tới sớm hơn chăng?” Dư Hạm nói, “Tháng cô hồn đến sớm, ma quỷ đều ra ngoài hết còn gì. Thượng Khê là chốn tụ tập nhiều oan hồn, là đất “thiêng” gọi ma tới, nửa tháng trước có mấy người đến quan phủ báo án, nói gặp ma trong núi, con ma mặc đồ đỏ toàn thân, dáng vẻ ghê rợn đáng sợ, không tới một ngày thì trong huyện có người chết, tử trạng thảm lắm, ai cũng bảo là ma giết. Rồi cả công tử ma kia nữa…”

Dư Hạm dịch lại gần, nhỏ giọng hỏi: “Ta nghe Tú nhi nói, mọi người đi đường tắt trong núi để về Thượng Khê phải không? Cô có biết tại sao có trạm kiểm soát ở con đường đó không?”

Thanh Duy không đáp, đợi nàng ta nói tiếp.

“Chuyện là mấy hôm trước, có người Thượng Khê lên núi về nhà, người đó mới đi đường tắt cho nhanh, giữa chừng gặp được một vị công tử, hỏi người đó đường vào Thượng Khê. Vị công tử ấy, nói thế nào nhỉ? Cho dù đã đã mũ mạng che mặt, nhưng nghe bảo chỉ cần nhìn dáng nghe giọng, chắc chắn đó là tiên nhân hạ phàm, cả thế gian này tìm không ra người thứ hai. Hắn cho người dân ít tiền, nhờ người kia dẫn mình vào Thượng Khê, người kia đồng ý ngay, ai dè vừa ra khỏi đường tắt, vừa xoay người lại thì không thấy bóng dáng vị công tử đó đâu nữa, người kia tìm hoài không ra, cô nói xem chuyện này có ly kỳ không? Người dân đó cũng ngạc nhiên lắm! Hắn ta về đến nhà, nghe nói gần đây có ma quỷ xuất hiện ở Thượng Khê, càng nghĩ càng bất an, hôm sau bèn đến quan phủ báo án, nói giữa đêm gặp được một công tử ma trên núi, đảo mắt cái đã biến mất. Quan phủ tiếp nhận vụ án này, cho nên mới thiết trạm kiểm soát ở đầu đường.”

Thanh Duy hỏi: “Sao cô biết được chuyện này?”

Dư Hạm đắc ý: “Oan gia nhà ta nói cho ta biết. Phu nhân của oan gia nhà ta là con cọp cái, ở phủ chịu đựng dữ lắm, nên có chuyện gì cũng thích kể ta nghe.”

Nói đến đây, Dư Hạm lấy làm tiếc rẻ: “Sao tối qua không phải là công tử ma tìm đến cửa kia chứ? Cô nói đi, có khi nào hắn ta không phải ma mà là hồ yêu biến thân không, nếu không việc gì phải che kín mặt? Nghe kể đồng tử của hồ yêu khác người thường, nhìn vào là thấy dị dạng, mà nhìn lâu còn bị hớp hồn phách, bị mê hoặc cám dỗ. Nếu thực sự là công tử ma, ta chắc chắn sẽ đá bay oan gia nhà ta đi, tối nay mở rộng cửa phòng, vén rèm giường chờ hắn đến!”
 
Chương 90


Nghe Dư Hạm kể xong, Thanh Duy đăm chiêu.

Xem ra mấy năm qua chỉ có một con ma lộng hành ở Thượng Khê, còn ma áo đỏ hay công tử ma đều chỉ mới xuất hiện một tháng sau này.

Nhất là con ma áo đỏ kia, hắn vừa xuất hiện thì quan binh kéo đến, phong tỏa vùng núi Trúc Cố.

Toàn bộ sự việc cứ như cố ý tạo dựng vậy.

Nếu muốn truy tìm chân tướng, ắt hẳn mấu chốt nằm ở con ma áo xám nàng gặp tối qua.

Thanh Duy cảm thấy mình cần phải gặp nó thêm một lần nữa.

Từ Tiển Khâm Đài sập cho đến khi sơn tặc bị tiêu diệt, rồi tới lúc con ma xuất hiện, chắc chắn trong này có nguyên nhân.

Bấy giờ là đầu giờ Thìn, Thanh Duy cúi đầu trầm ngâm, Dư Hạm ngồi bên cạnh tò mò nhìn nàng. Dưới ánh ban mai rực rỡ, tuy nước da Thanh Duy ngả vàng nhưng làn da lại rất đẹp, trơn bóng láng mịn, ngũ quan như tranh họa, tú lệ xinh xắn, mà nếu quan sát kỹ sẽ thấy được ẩn ý trong từng nét vẽ, nhất là đôi mắt kia – trong veo như được rửa bằng nước xuân.

Dư Hạm bèn nói: “Sao hôm qua ta không thấy là cô rất đẹp nhỉ.” Nàng lại hỏi, “Nè, cô đã thành thân chưa? Te nghe Tú nhi nói cô đã hứa hôn rồi, tiếc là không môn đăng hộ đối, chồng không tốt với cô nên cô mới trốn đi?”

Thanh Duy không đáp.

Chân dung truy nã của nàng còn đang nằm ở quan phủ, nên nàng không thích bị người khác nhìn chằm chặp.

Nàng đứng bật dậy: “Phu nhân đã thức trắng một đêm, chắc giờ đã mệt rồi, ta cũng đi nghỉ đây, nghỉ ngơi đủ để tối còn phòng ma giúp phu nhân.”

Nghe nói thế, Dư Hạm cảm thấy buồn ngủ thật, bèn phất tay: “Đi đi đi đi.”

***

Thanh Duy rửa mặt về phòng, ngồi xuống trước giường.

Nàng thực sự đã rất mệt, ấy thế mà vẫn chưa thể ngủ được, không hiểu sao lại nhớ đến câu hỏi của Dư Hạm lúc nãy.

“Nè, cô đã thành thân chưa?”

“Te nghe Tú nhi nói cô đã hứa hôn rồi, tiếc là không môn đăng hộ đối, chồng không tốt với cô nên cô mới trốn đi.”

Con gái Lăng Xuyên cưới chồng từ khi còn trẻ, nếu nàng bảo mình chưa hứa hôn thì rất khó tin, vì vậy lúc gặp Tú nhi nàng mới giả vờ bảo mình đào hôn, cho nên Tú nhi thuật lại với Dư Hạm cũng bình thường.

Huống hồ nàng đâu hẳn nói dối người ta.

Nàng cũng là… người đã hứa gả.

Thân phận đôi bên khác biệt trời vực, đúng là không môn đăng hộ đối.

Đó là sự thật, ngoại trừ điểm ‘không tốt với nàng’.

Sau khi rời khỏi đô thành, Thanh Duy cũng từng hỏi thăm chuyện trên kinh. Hà Hồng Vân đã chết trong ngục, Hà gia nhanh chóng bị định tội, tuy Hà Thập Thanh vẫn là Trung Thư Lệnh nhưng rất ít khi lên triều. Án ôn dịch được giải quyết, triều đình thẳng tay công bố chân tướng vụ tráo gỗ cho toàn thiên hạ, học trò sĩ tử xôn xao bất mãn. Đến mùa xuân đầu năm nay, triều đình ra lệnh trùng kiến Tiển Khâm Đài, triệu tập thợ mộc, cũng phái Trương Viễn Tụ và Chương Đình đi trước đốc công, lúc bấy giờ mới xoa dịu được cơn giận của dân chúng.

Trong nhiều thông tin đó lại chỉ có một thông tin liên quan đến Tiểu Chiêu vương, rằng vì điều tra tội trạng của Hà thị mà y chẳng ngại vất vả, khiến bệnh cũ tái phát, từ đầu mùa xuân cho đến bây giờ phải ở trong cung dưỡng bệnh.

Thanh Duy biết y bị bệnh, hồi mùa đông nàng xông vào thâm cung gặp y, trông y đã rõ ốm đau.

Từ ngày rời kinh, có một thời gian dài Thanh Duy trằn trọc không ngủ nổi, cứ nhớ mãi quãng thời gian ngắn ngủi ở Giang gia, trừ những hôm đầu đôi bên thăm dò nhau, những ngày còn lại nàng luôn ngủ ngon giấc, thậm chí sau đó còn không nằm mơ về Thần Dương nữa. Và giờ đây khi phải phiêu bạt trốn chạy lần thứ hai, ngày nào cũng sống trong cảnh giác cao độ.

Càng rời xa đô thành, khoảng thời gian ở Giang gia dần biến thành một gấc mơ như quê nhà Thần Dương, nàng nhanh chóng thích ứng với cuộc sống dễ đến dễ đi lần hai, hành tẩu nhanh gọn.

***

Thanh Duy bị đánh thức bởi tiếng bước chân dồn dập.

Ngoài nhà trời sáng choang, đã gần giữa trưa rồi, người hầu lũ lượt chạy tới tiền viện, dường như có người đến nhà chính nên cần sang hầu hạ.

Đang sống nhờ ở trang viên nên Thanh Duy không dám thất lễ, nàng vội vã ngồi dậy, chạy đến nơi, còn chưa bước chân vào nhà đã nghe thấy giọng trách móc vọng ra: “Đúng là oan gia mà!”

Ở trong nhà chính, ngoài Dư Hạm ra còn có một người đàn ông mặc quan bào, râu cá trê ngồi trên ghế chủ, chính là Huyện lệnh Tôn Nghị Niên mà Thanh Duy mới gặp tối qua.

Thanh Duy dừng chân trước cửa, nàng chưa từng hầu hạ ai bao giờ, thấy Diệp Tú nhi đã đứng trong nhà phục vụ, nàng không biết có nên vào hay không, may đúng lúc này Dư Hạm trông thấy nàng, ngoắt tay gọi: “Ấy, cô vào đây.”

Dư Hạm đắc chí nói với Tôn Nghi Niên: “Người này thiếp mới nhận vào hôm qua, còn biết võ công nữa đấy, chàng nhìn xem có vừa ý không?”

Tôn Nghi Niên nhìn lướt qua Thanh Duy, chẳng mấy để ý. Lớn lên trong đoàn hát, cuộc sống của Dư Hạm bao giờ cũng sôi nổi náo nhiệt, nên khi đến trang viên này, nàng chê ít người, luôn tìm cách tuyển thêm, ngoài ông cháu Diệp Tú nhi và thím Ngô ra, những người khác đều do nàng ta tự mướn.

Thấy Tôn Nghi Niên không tiếp lời, Dư Hạm nhấc ấm rót trà cho ông ta, õng ẹo nói, “Đến cũng đã đến rồi, hay chàng ở lại ăn trưa luôn đi, mấy hôm trước bọn họ bắt được con cá to lắm, thiếp cho nuôi trong chum nước, chỉ chờ chàng đến thôi.”

Tôn Nghị Niên khoát tay: “Nàng giữ cá lại mà ăn, nha môn bận lắm, ta không ở lại lâu được.”

Dư Hạm cụt hứng. Nàng ta xoay người ngồi xuống ghế bên, “Chẳng  phải bình thường có chuyện lão gia đều giao cho Tần sư gia giải quyết sao? Khó khăn lắm mới đến được một chuyến, lại bảo nha môn bận rộn đề về, rõ ràng là thờ ơ người ta!”

Tôn Nghị Niên nói: “Bình thường là bình thường, gần đây có thể so được với bình thường hả? Tên Khúc…”

Nhưng chưa nói xong, ông ta chợt ý thức được điều gì đấy, khoát tay nói với người hầu, “Các ngươi lui xuống đi.”

Thanh Duy rời khỏi nhà chính, song vẫn chưa bỏ đi.

“Khúc” mà Tôn Nghị Niên mới nhắc đến có thể chính là Khúc Mậu. Chuyện quan binh đến Thượng Khê quá kỳ lạ, nếu có manh mối, nàng tuyệt đối không thể bỏ qua.

Nhân lúc không ai chú ý, nàng nhảy lên nóc nhà, mượn đại thụ sau nhà che giấu thân hình, lặng lẽ nhấc một miếng ngói lên.

“… Nàng không biết tên Khúc Ngũ gia này khó hầu đến mức nào đâu. Lúc hắn mới đến, ta thu xếp cho hắn ở trong phủ, nhưng ở được mấy ngày thì hắn bỗng không chịu nữa, nói trong phủ ta có người chết, hắn sợ, nằng nặc đòi dọn đến khách điếm. Bộ Trù Trù chết ở nhà hả? Rõ ràng nó chết ở ngoài! Hắn ở khách điếm phía đông không vừa ý, đòi dọn sang phía tây, ở được hai hôm lại ầm ĩ đòi bao Vân Khứ Lâu trong thành. Cả Vân Khứ Lâu to đùng mà chỉ có một mình hắn ở, ở sung sướng cực. Nhưng trong thành đang có ma quỷ nhiễu loạn đấy! Quan phủ muốn bắt ma nên hai ngày nay bố trí giăng bẫy, nàng bảo ta có việc gì hả? Ta phải đến Vân Khứ Lâu một chuyến, khuyên hắn tối mai phải chuyển ra khỏi khách điếm!” Tôn Nghị Niên chắp tay, đi qua đi lại phàn nàn.

Dư Hạm bảo: “Lạ thế, hắn ở khách điếm của hắn, quan phủ bắt ma của quan phủ, việc gì bắt hắn chuyển ra?”

Tôn Nghị Niên nói: “Đó là chuyện của nha môn, không liên quan đến nàng.”

Dư Hạm mới nghĩ, sao lại không liên quan, tối qua con ma áo xám kia còn xuất hiện trong trang viên của nàng mà.

Nàng đã kể chuyện này với ông rồi, nhưng có vẻ ông ấy cảm thấy đó chỉ là sự cố bất ngờ, coi như gió thổi bên tai.

Thế là nàng ta nói chuyện khác: “Thiếp nghe bảo Khúc Ngũ gia ấy là quý công tử trong kinh, cha là quan quân đương triều, còn quen biết cả quan phủ!”

Tôn Nghị Niên nhận ra ám chỉ trong lời nàng, hừ lạnh nói: “Đúng là có quen biết, nhưng thế thì sao? Nàng cứ gặp hắn là rõ ngay, chỉ là thằng phàm phu tục tử!”

Nói đoạn, ông ta cảm thấy mình ở lại đủ rồi, đứng dậy đi ra ngoài: “Không phải nàng nói tối qua gặp ma ở trang viên hả? Ta có dẫn theo nha sai đến gác đây. Ngoài kia đang bắt ma, hai ngày tới nàng và hạ nhân trong phủ đừng quan tâm nghe ngóng gì cả, cũng không được phép ra ngoài.”

Nghe thấy thế, Dư Hạm lập tức chặn Tôn Nghị Niên lại, “Chàng có ý gì? Chàng muốn cấm túc thiếp à?”

Giọng nàng vốn rất khó chịu, nhưng khi thấy vẻ mặt hằm hằm của Tôn Nghị Niên thì đoán được ông ghen vì cái câu “quý công tử”, thế là sắc mặt thay đổi y như thời tiết, mới đấy âm u nhưng lập tức quang đãng. Nàng ta cầm khăn, xỉa tay vào ngực ông ta, ỏn ẻn nói: “Oan gia này, chàng cấm túc thiếp như thế, ít nhiều gì cũng phải có đãi ngộ chứ? Thiếp vất vả chờ chàng đến, thế mà chàng chẳng chịu ở lại.”

Tôn Nghị Niên dính kế, xương cốt lập tức mềm ra ba phần, quay vào nhà ngồi xuống bảo: “Cám túc nàng là vì nghĩ cho nàng, đợi tới lúc bắt được ma, ai biết được ngoài kia loạn thế nào?” Ông thở dài, “Đúng là cũng đã mấy ngày chưa gặp nàng, thôi được rồi, ta ở lại một lúc nữa vậy.”

Dư Hạm vui vẻ nhướn mày. Cửa phòng đã đóng, trong phòng không có người ngoài, nàng ta xoay người ngồi xuống đùi ông, đá rớt hài, đưa vớ cọ vào ông, thì thầm vào bên tai: “Một lúc là bao lâu hả?”

Tôn Nghị Niên nào chịu nổi, bất thình lình vén vạt áo nàng ta lên, áp nàng vào sát mình.

Dư Hạm bị chòm râu ông cọ ngứa, cười nói: “Lúc nãy còn nói đi mà, sao thế, oan gia không đi nữa hả?”

Tôn Nghị Niên bất chấp: “Trong nha môn còn có Tần sư gia, để hắn đối phó với họ Khúc kia vậy! Dù gì hắn cũng quen việc ở nha môn hơn ta.”

Dư Hạm cười rộ lên: “Việc nặng nhọc gì chàng cũng giao cho hắn, không sợ hắn mệt chết à!” Nói đoạn, nàng bỗng đẩy Tôn Nghị Niên ra, “Thiếp biết rồi, chàng biết thiếp thích đàn ông tuấn tú, mấy ngày tới bận bắt ma, chàng cho nha sai canh chừng trang viên là lo thiếp và công tử ma kia cấu kết với nhau đúng không?”

Nàng nhìn Tôn Nghị Niên, bật cười sang sảng, sóng mắt như nước dập dìu, mắng: “Oan gia này, trong lòng thiếp chỉ có chàng thôi!”

Khoảnh khắc ấy, Tôn Nghị Niên cảm thấy thế tục loạn lạc gì cũng có thể vứt bỏ, chỉ mong chìm đắm trong biển tình, thở dốc lao đến.

Thanh Duy nằm sấp trên nóc nhà, định nghe tiếp xem quan phủ tính bắt con ma áo xám như thế nào, nhưng cuối cùng trong phòng chỉ có tiếng thở dốc dồn dập, nàng đành che mái ngói lại, nhảy xuống hiên.

***

Điên loan đảo phượng một hồi, lại ôm mỹ nhân ngủ một giấc, Tôn Nghị Niên thỏa mãn thắt chặt đai lưng, sảng khoái bước ra ngoài.

Hoàng hôn đã buông, vừa ra đến cửa trang viên, Tôn Nghị Niên thấy một người cao gầy mặc trường bào, chính là Tần sư gia.

Đương thời điểm cuối xuân vào hạ, tuy chập tối nhưng trời vẫn còn nóng, có vẻ Tần sư gia cũng vừa mới đến, đang cầm khăn lau mồ hôi trên trán, Tôn Nghị Niên thấy vậy, áy náy “khụ” một tiếng, “Đến rồi đấy à?”

Tần sư gia nghe tiếng, lật đật đi tới, xấu hổ bảo, “Đại nhân, Cảnh Sơn không khuyên được Khúc Hiệu úy, Hiệu úy khăng khăng đòi ở lại Vân Khứ Lâu.”

“Sao lại không khuyên được?” Tôn Nghị Niên nói.

Tối qua ở trên núi, rõ ràng Khúc Mậu đã bị con ma áo xám kia làm cho hồn bay phách tán kia mà, sao bây giờ lại thành không sợ trời không sợ đất rồi?

Toàn thị trấn đâu đâu cũng có ma quỷ làm càn, lẽ nào Vân Khứ Lâu được phật quang phổ chiếu?

Tôn Nghị Niên lên xe ngựa: “Để ta đi xem sao.”

Tuy trang viên của Dư Hạm nằm ở ngoại ô, nhưng cả Thượng Khê chỉ rộng có chừng ấy, đi vào thành cũng nhanh, chẳng mấy chốc Tôn Nghị Niên đã đến Vân Khứ Lâu, quân lính canh gác bên ngoài thấy Huyện lệnh tới thì không ngăn cản.

Toàn bộ Vân Khứ Lâu đã được Khúc Mậu bao trọn, quân lính ở tầng một, một mình hắn độc chiếm tầng hai. Ngoài cửa phòng trên tầng hai còn có lính gác trước cửa.

Khúc Mậu mới đuổi Tần sư gia đi, không biết Tôn Huyện lệnh lại hộc tốc đến nên chẳng kịp đề phòng.

Hắn đi qua đi lại, nói với người ngồi trước bàn: “Ta nói cậu biết, Thượng Khê này thực sự rất lạ, ta thấy vẫn nên nghe theo lời bọn họ chuyển đến phủ Huyện lệnh đi, cậu không biết đấy thôi, tối qua ở trên núi…”

Không đợi hắn nói hết câu, người trước bàn đã đặt tay lên môi ra hiệu im lặng, đuôi mắt chợt động, liếc ra ngoài cửa phòng.

Một chốc sau, quả nhiên ngoài phòng vang lên tiếng bước chân, Huyện lệnh vừa lên lầu vừa gọi: “Khúc Hiệu úy, Khúc Hiệu úy?”
 
Chương 91


Tôn Nghị Niên vừa đi tới chỗ ngoặt cầu thang thì bị hộ vệ ở trước phòng Khúc Mậu ngăn cản, “Huyện lệnh đại nhân đợi đã.”

Một lúc sau, giọng Khúc Mậu ở trong phòng vọng ra: “Lại có chuyện gì nữa?”

Tôn Nghị Niên khách khí nói: “Là thế này, tệ nhân nghe nói Khúc Hiệu úy không muốn chuyển ra khỏi Vân Khứ Lâu nên đến hỏi lý do ạ.”

Vì cách nửa cầu thang và một cánh cửa nên ông ta phải rướn giọng mà nói, một lúc lâu sau mới nghe thấy trong phòng “à” một tiếng.

Cửa mở ra, Khúc Mậu đứng trước cửa vuốt tà áo, đi xuống tầng một, “Xuống dưới rồi nói.”

***

“Tại hạ đã lệnh cho Tần sư gia quay về nha môn mời Ngũ Hiệu úy và Khưu hộ vệ đến rồi ạ.” Xuống đến tầng một, Tôn Nghị Niên châm trà cho Khúc Mậu, cẩn thận quan sát mặt hắn, “Kế hoạch bắt ma lần này do hai người bọn họ vạch ra, để bọn họ giải thích cho Khúc Hiệu úy sẽ rõ hơn.”

Vì trước đó Tần sư gia đã đến làm thuyết khách một chuyến, Tôn Nghị Niên sợ nếu lại đến nữa sẽ khiến Khúc Mậu không vui, ai dè cậu công tử này chẳng những không trách mà còn rất kiên nhẫn.

Một lúc sau, Tần sư gia đã mời Ngũ Hiệu úy và Khưu hộ vệ đến.

Ngũ Hiệu úy là Hiệu úy của Tả Kiêu vệ.

Triều đình hạ lệnh tái xây dựng Tiển Khâm Đài, đồng thời điều bách nhân vệ đội từ các bản doanh nha môn đến Lăng Xuyên. Bách nhân đội của Tả Kiêu vệ do Ngũ Thông chỉ huy, còn Tuần Kiểm Ti do Khúc Mậu phụ trách.

Gộp các vệ đội lại với nhau thì tổng cộng hơn năm nghìn người, binh lực quá thừa so với Tiển Khâm Đài, vừa hay chỗ Thượng Khê đang thiếu người bắt “ma”, thế là đội của Khúc Mậu và Tả Kiêu vệ được cắt cử sang.

Khúc Mậu là quý công tử chây lười, nửa năm qua chẳng có lấy chút tiến bộ, Khúc Bất Duy lo con trai hành sự chiếu lệ nên đã điều một thuộc hạ năng lực đi theo hắn, chính là Khưu Minh đây. Mà Khúc Mậu thực sự không hổ với cái danh “công tử nhà giàu”, vừa đến Thượng Khê là xòe hai tay, chỉ lâu lâu mới đến trạm kiểm soát trực, còn toàn bộ chuyện bắt ma đều giao cả cho Khưu Minh.

Mọi người đã có mặt đông đủ, Ngũ Hiệu úy mở lời trước: “Tại hạ nghe Tần sư gia nói Khúc Hiệu úy muốn biết kế hoạch bắt ma tối mai?”

Khúc Mậu gật đầu, nhớ lại lời mà người trong phòng đã dạy mình: “Các ngươi bảo ta chuyển đi thì ít nhất cũng phải giải thích rõ ràng, lúc nãy Tôn đại nhân có nói muốn bắt ma gần Vân Khứ Lâu, rốt cuộc bắt ma như thế nào, ai bắt, lẽ nào không có quy trình?”

Hiếm khi hắn quan tâm công chuyện như thế, mọi người không khỏi trố mắt nhìn nhau.

Ngũ Hiệu úy trải bản đồ huyện Thượng Khê lên bàn, trên bản đồ có ba vòng đen, Khúc Mậu nhìn kỹ, những nơi đánh dấu đều là hiệu thuốc.

“Hiện tại ma đã vào thành, ma bóng đỏ, ma bóng xám qua lại thường xuyên nhất, nếu Khúc Hiệu úy còn nhớ thì hai chỗ này,” Ngũ Hiệu úy chỉ vào hai hiệu thuốc trên bản đồ, “Chính là nơi mà con ma bóng xám đã xuất hiện. Mấy hôm rồi tại hạ với Khưu hộ vệ và Tôn đại nhân đã kiểm tra lui tới, phát hiện được một vấn đề khả nghi – con ma bóng xám toàn xuất hiện vào sau một ngày khi hiệu thuốc thu mua dược liệu, tại hạ cả gan suy đoán, con ma bóng xám này hoặc muốn tìm một vị thuốc nào đó, hoặc nó bị một mùi thuốc nào đó thu hút.”

Ngón tay của Ngũ Hiệu úy di chuyển trên bản đồ, chuyển đến hiệu thuốc Nguyệt Hòa ở gần Vân Khứ Lâu, gõ vào rồi nói, “Nếu tại hạ đoán không nhầm, nếu hiệu thuốc này cũng thu mua cùng loại dược liệu, thì có thể sẽ là nơi tiếp theo mà con ma bóng xám xuất hiện.”

Khúc Mậu nói: “Ta hiểu rồi, có phải các ngươi định để hiệu thuốc này mua cùng loại dược liệu hòng dụ ma?”

“Khúc Hiệu úy nói rất chính xác.” Ngũ Hiệu úy gật đầu, “Nhưng dụ ma không khó, bắt ma mới khó. Thứ nhất chúng ta chỉ là phàm phu tục tử, chưa ai bắt ma bao giờ, phải nhờ cậy đạo sĩ; thứ hai, cái con mà chúng ta bắt chỉ là ma bóng xám, còn ma bóng đỏ vẫn chưa bắt được, trong thị trấn đã xuất hiện chuyện ‘ma giết người’, có câu thỉnh thần dễ dàng tiễn thần nan giải, không ai biết ta dụ ma đến là chuyện tốt hay xấu.”

“Đó cũng là lý do tệ nhân mời Hiệu úy quay về tệ phủ ở.” Tôn Nghị Niên tiếp lời Ngũ Hiệu úy, khuyên Khúc Mậu, “Hiệu thuốc Nguyệt Hòa nằm sát Vân Khứ Lâu, nếu đến lúc đó gọi ma tới thật, chỉ sợ vài mống hộ vệ khó giữ được an nguy cho Hiệu úy, đấy là thứ nhất; thứ hai, hiệu thuốc Nguyệt Hòa chỉ là một trong số những nơi bắt ma, để đề phòng ma tẩu thoát, các con đường lân cận đều có quân lính mai phục, trước mắt nha huyện muốn trưng dụng Vân Khứ Lâu để tiện bề điều động, nhưng nếu Khúc Hiệu úy vẫn ở đây…” Tôn Nghị Niên do dự, “E không thuận lợi cho lắm…”

Nghe hai người họ nói xong, Khúc Mậu nuốt nước bọt.

Thực ra lúc sáng khi Tần sư gia đến khuyên thì hắn đã dao động.

Xét cho cùng Vân Khứ Lâu chỉ là khách điếm, vắng tanh vắng ngắt, nào vượng nhân khí bằng phủ Huyện lệnh; phủ Huyện lệnh gì cũng tốt, mỗi tội không giấu được người.

Khúc Mậu nhìn lướt lên tầng hai, cuối cùng vẫn không đồng ý, “Không được, đến chỗ ngươi làm gì, ta đây đường đường là Hiệu úy thất phẩm đương triều, ha, các ngươi cùng đi bắt ma làm anh hùng, thế mà lại bảo ta trốn ở nhà ngươi, lý lẽ gì đây hả? Ta… Ta sẽ ở Vân Khứ Lâu.”

“Nếu…” Đúng lúc này, Tần sư gia đứng bên cất tiếng, “Khúc Hiệu úy thật sự không muốn đến phủ của Tôn đại nhân, vậy tới nha huyện có được không?”

Đó là đối sách thỏa hiệp mà mọi người đã bàn bạc từ trước.

“Nha huyện?” Khúc Mậu phân vân.

Sau khi đến Thượng Khê hắn có ghé nha huyện một lần, có binh lính nha sai canh gác, đúng là tốt hơn Vân Khứ Lâu nhiều, chỉ là, vẫn khó để giấu người.

Tần sư gia bảo: “Hiệu úy đại nhân đến nha huyện, tối mai bắt ma, lỡ có điều động tạm thời thì người bên dưới cũng tiện xin phép đại nhân. Hơn nữa nha huyện cách hiệu thuốc Nguyệt Hòa hai con phố, nếu trong lúc bắt ma xảy ra sự cố, Hiệu úy đại nhân cũng sẽ không bị liên lụy, lòng quân vẫn vững. Thứ ba nữa, sau nha huyện là miếu Thành hoàng, có miếu Thành hoàng trấn giữ, ma quỷ sẽ không dám chạy tới khu vực ấy đâu, nói đâu xa, đạo sĩ bắt ma tối mai cũng được nha huyện mời đến mà.”

Tôn Nghị Niên tiếp lời: “Tuy không thoải mái bằng Vân Khứ Lâu, song nha huyện đã là nơi an toàn nhất rồi.”

Khưu hộ vệ cũng khuyên: “Ngũ gia à, hay cứ theo lời Ngũ Hiệu úy và Tôn đại nhân, chuyển đến nha huyện ở đi.”

Khúc Mậu do dự, “Vậy… các ngươi cứ về nha môn trước, để ta suy nghĩ đã.”

***

Khúc Mậu quay về phòng cũng là lúc trời đã tối sầm. Hai bên phòng chữ Thiên ở tầng hai có gian ngăn cách, bấy giờ cửa gian để mở, ở bên trong, ngoại trừ người áo xanh trước đó thì có thêm hai người mặc đồ đen. Khúc Mậu chẳng giật mình, đứng trước cửa sổ nhìn xuống, đợi hội Tôn Nghị Niên Ngũ Thông đi xa rồi mới quành vào phòng: “Điện hạ ơi, tổ tông ơi, con lạy ngài chuyển ra ngoài đi!”

Người áo xanh ngồi trong phòng chính là Tạ Dung Dữ.

Mà Khúc Mậu cũng không lạ gì hai người mặc đồ đen đứng hầu bên cạnh, một người là Triêu Thiên, người còn lại là Hiệu úy bộ Hiêu của Huyền Ưng Ti – Chương Lộc Chi.

Tạ Dung Dữ không ý kiến, cầm quạt chậm rãi gõ vào lòng bàn tay: “Bọn họ nói sao? Định bắt ma thật à?”
 
Chương 92


“Bắt chứ! Sao lại không bắt!” Khúc Mậu nói.

Chỉ trong thời gian đi lên lầu, hắn đã tính toán xong tất thảy.

“Ma quỷ nhiễu loạn thành thị như thế, nếu mà không bắt, khéo còn nhiều người chết hơn! Tổ tông ơi, coi như con lạy ngài, cho con chuyển ra ngoài đi! Nếu cậu cảm thấy không trốn được ở phủ Huyện lệnh thì để ta chuyển đến nha huyện đi. Lúc nãy ta đã hỏi rõ rồi, sau nha huyện là miếu Thành hoàng, cậu có thể trốn ở đó cùng Triêu Thiên Lộc Chi!”

Khúc Mậu cũng chẳng hiểu vì lý do gì mà Tạ Dung Dữ lại đến Thượng Khê.

Mấy hôm trước hắn còn đang thỏa mãn sung sướng ở phủ Tôn Nghị Niên, nhưng có một đêm, y bất thình lình xuất hiện trong phòng.

Y nói mình đến để tra án, nhờ Khúc Mậu hỗ trợ che giấu.

Nếu không vì thế thì còn lâu Khúc Mậu mới đến cái khách điếm rách nát này, Vân Khứ Lâu khó coi chết đi được, sao sánh bằng Đông Lai Thuận hay Hội Vân Lư trong kinh!

“Đạo sĩ bắt ma được nha huyện mời từ miếu Thành hoàng tới, tối mai đạo sĩ sẽ ra ngoài, như vậy các cậu cũng dễ lẻn vào. Tổ tông ơi, cậu đến miếu ở tạm một đêm có được không? Đợi bọn họ bắt ma xong, sáng sớm hôm sau ta sẽ lập tức đến đón cậu ngay, tới khi ấy cả Thượng Khê này, cậu thích ở đâu ta sẽ dẫn cậu đi ở, bao giờ về kinh, Ngũ gia sẽ tới điện Chiêu Doãn phục vụ cậu!”

Đợi Khúc Mậu nói xong, Tạ Dung Dữ mới bảo: “Ta chưa đến miếu Thành hoàng đó bao giờ, có trốn được hay không, khó nói lắm.”

Khúc Mậu thấy y đã dao động, lập tức nhấc ấm trà lên: “Được, để Ngũ gia đi trước kiểm tra giúp cậu!”

***

Đợi Khúc Mậu rời đi, Chương Lộc Chi mới hỏi: “Ngu hầu, tối mai nha huyện sẽ giăng thiên la địa võng bắt ma bóng xám, chúng ta có cần nghĩ cách bắt nó trước không?”

Tạ Dung Dữ nghĩ ngợi: “Không cần, đuổi nó đi là được.”

“Sao không bắt?” Chương Lộc Chi nói, “Không phải chúng ta đến Thượng Khê là vì nó sao?”

Gần nửa năm qua, cả Huyền Ưng Ti lẫn Tạ Dung Dữ không có lấy một khắc rảnh rỗi.

Bọn họ bắt tay điều tra từ sơn tặc núi Trúc Cố qua lại với Từ Đồ năm xưa, phát hiện ra một manh mối vô cùng quan trọng:

Cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố rất có khả năng liên quan đến Tiển Khâm Đài, và con ma bóng xám quanh quẩn ở Thượng Khê mấy năm nay cũng rất có thể là người duy nhất ở sơn trại đó may mắn còn sống sót.

Thấy Tạ Dung Dữ không lên tiếng, Chương Lộc Chi không kìm được nói: “Chúng ta phí biết bao công sức, hết ma bóng đỏ lại đến công tử ma, ngụy trang đủ mọi cách, mất trăm phương nghìn kế mới ép được con ma xám này xuất hiện, bây giờ nha huyện lẫn quan binh đều muốn truy bắt nó, nếu chúng ta không bắt thì khác gì dâng mỡ tận miệng mèo? Năm ấy sơn tặc bị giết quá sạch, chắc chắn là đã bị diệt khẩu, nếu đám ác nhân đó biết có người còn sống, kiểu gì cũng lại tìm cách diệt khẩu! Nếu chúng ta chậm thua chúng một bước, e rằng người duy nhất biết được sự việc…”

Nhưng vừa nói đến đây, Chương Lộc Chi nhận ra điều gì đó, chợt dừng lại.

Tạ Dung Dữ nhìn hắn: “Ngươi cũng nói đấy thôi, nếu đám ác nhân đó biết sơn tặc có người còn sống, nhất định sẽ tìm cách diệt khẩu. Vậy ta hỏi ngươi, tất cả những người muốn bắt ma ở Thượng Khê lần này có thực sự chỉ vì bắt ma?”

“Chuyện này…” Chương Lộc Chi ngập ngừng đáp, “Dĩ nhiên là không ạ.”

Ma bóng xám xuất hiện, đồng nghĩa với việc nội tình cái chết của sơn tặc năm xưa có khả năng bị bại lộ, vậy Thượng Khê bây giờ…

Chương Lộc Chi nói: “Chắc chắn có kẻ đến không phải để bắt ma, mà là diệt khẩu.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, mở nắp cốc trà ra, cầm quạt gõ vào, “Chúng ta sẽ gọi kẻ này là ‘sát thủ’.”

“Điểm lại xem gần đây quan phủ Thượng Khê đã làm gì.” Tạ Dung Dữ nói tiếp, nhúng tay vào nước trà rồi vẽ một vòng tròn lên bàn, “Phong tỏa núi, giới nghiêm ban đêm, dựng trạm kiểm soát, điều tra người ra vào, còn bày thiên la địa võng ở hiệu thuốc Nguyệt Hòa để bắt ma. Khoan nói tới chuyện phong tỏa toàn bộ thị trấn vì ma ám, mà bản thân hành động đó liệu có hợp lý không? Nhìn quyết định của quan phủ mà xem, có phải đều đúng với ý đồ của ‘sát thủ’ không?”

Chương Lộc Chi nhìn vòng tròn trên bàn.

Đúng thế, hành động của quan phủ lúc này chính là thu nhỏ phạm vi, muốn nhốt con ma xám ở Thượng Khê!

Quỷ thần là vật cõi ngoài, những nơi khác bị ma ám chỉ mong chúng mau mau rời đi, làm gì có chuyện vây bắt ma?

Chương Lộc Chi hiểu ra, ngước mắt nhìn Tạ Dung Dữ: “Nên…”

Đuôi mắt Tạ Dung Dữ nhướn lên, mớm lời: “Nên?”

“Nên chắc chắn tên sát thủ muốn diệt khẩu con ma xám là người của quan phủ!” Triêu Thiên đưa ra kết luận.

“Không chỉ là người của quan phủ, mà còn là người có thể ảnh hưởng đến quyết định của quan phủ.” Chương Lộc Chi bừng hiểu, “Đây là lý do Ngu hầu muốn Khúc Ngũ gia ở lại Vân Khứ Lâu, để người của quan phủ phải tới khuyên nhủ?”

Tạ Dung Dữ gật đầu, y lấy ra bốn cốc trà, di chuyển từng cốc một vào trong vòng tròn nước, “Lúc nãy Đình Lam xuống lầu thương lượng với bọn chúng, các ngươi cũng thấy rõ rồi đấy, Tôn Huyện lệnh, Tần sư gia, Ngũ hiệu úy và Khưu hộ vệ, bốn người bọn họ chính là người ra lệnh bắt ma cũng như phong tỏa núi, nói cách khác, trong bốn người này…” Tạ Dung Dữ cầm nắp đậy lên một chiếc cốc trong đó, “Ắt hẳn có ‘sát thủ’ thực sự.”

Triêu Thiên hỏi: “Ý công tử là muốn tìm ra tên sát thủ?”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, đã sáu năm từ khi Tiển Khâm Đài sập, rất nhiều bằng chứng đã biến mất trong khói bụi thời gian, bây giờ khó khăn lắm mới tìm được manh mối, nhất định phải tận dụng hết mức.

Ma bóng xám chỉ là kẻ may mắn sống sót, năm xưa trên núi Trúc Cố có đến mấy trăm tên sơn tặc, dù bọn họ có thực sự tìm được con ma đấy thì hắn có thể biết được bao nhiêu? Kẻ thực sự nắm giữ tin tức giá trị chính là ‘sát thủ’ đến diệt khẩu con ma xám.

Dù mạo hiểm, song Tạ Dung Dữ muốn một mũi tên trúng hai đích.

Chương Lộc Chi hỏi: “Nhưng làm thế nào chúng ta mới tìm được ‘sát thủ’ này?”

“Lợi dụng miếu Thành hoàng.” Tạ Dung Dữ nói.

“Miếu Thành hoàng?”

Nha huyện tìm đủ cách để Khúc Mậu chuyển ra khỏi Vân Khứ Lâu, có thực sự đơn giản là lo cho an nguy của hắn không?

Hay có kẻ biết công tử ma đang trốn trong lầu?

“Sát thủ” không ngốc, đã chừng ấy thời gian, ắt hẳn biết ma bóng đỏ và công tử ma lần lượt xuất hiện là vì Tiển Khâm Đài.

Để giết con ma bóng xám mà hắn phải phong tỏa cả ngọn núi, chứng tỏ muốn giải quyết sạch sẽ, vậy thì sao hắn có thể để hai “con ma” muốn điều tra manh mối Tiển Khâm Đài được sống?

Cho nên, kẻ để trống Vân Khứ Lâu nhằm dụ Khúc Mậu rời khỏi nha huyện, kẻ để trống miếu Hoàng thành hòng       đợi người vào tròng chính là sát thủ thực sự.

Nói đến đây, Tạ Dung Dữ thôi giải thích, chỉ ra lệnh: “Triêu Thiên, tối mai sau khi nha huyện sắp xếp ở hiệu thuốc Nguyệt Hòa xong, ngươi nhất định phải gây náo loạn gần trước khi con ma xám tới, dụ binh lính rời đi. Phải nhớ ma bóng xám là nhân chứng chúng ta muốn tìm, nếu hắn không bỏ trốn mà vẫn mạo hiểm thì phải bảo vệ hắn.”

“Vâng.”

“Chương Lộc Chi, đợi Triêu Thiên dụ lính rời đi, ngươi hãy mai phục ở gần nha huyện, xem xem trong bốn người hôm nay rốt cuộc ai là kẻ quay về chỉ huy điều động, báo cho ta biết rồi theo ta đến miếu Thành hoàng.”

“Vâng.”

***

Chiều tối hôm sau, ở trang viên ngoại ô.

“Thế nào rồi, đã tìm được chưa?”

Dư Hạm đi qua đi lại trong nhà chính, vừa thấy thím Ngô đi vào thì lập tức hỏi.

Thím Ngô nói: “Chưa tìm được ạ, sân trước lẫn sân sau, cũng tìm khắp các phòng nhưng vẫn chẳng thấy bóng người đâu.”

Dư Hạm siết chặt khăn tay, giậm chân thật mạnh: “Cái con bé Tú nhi này, sao đúng lúc quan trọng lại biến mất thế này! Dù muốn mua phấn cũng cần gì phải đi hôm nay, có phải ngày nào oan gia cũng đến đâu, ta một ngày không bôi trét cũng có gì quan trọng!”

Sáng hôm nay Diệp Tú nhi hầu Dư Hạm ngủ dậy, vô tình làm rơi bể hộp phấn của nàng ta, Tú nhi áy náy, nói muốn ra ngoài mua hộp khác đền, tuy Dư Hạm không vui nhưng cũng không so đo với nàng, ai ngờ Tú nhi lại bướng bỉnh, lén chạy ra ngoài.

Tối nay bắt ma, bên ngoài rất loạn, ngoài trang viên còn có lính gác kia kìa!

Một lúc sau, Thanh Duy từ viện hoang đi tới, đưa cho Dư Hạm chiếc vòng cổ vỏ sò, “Ta nhặt được dưới gốc hòe già, có thể Tú nhi đã chui lỗ chó ra ngoài.”

Lỗ chó kia rất nhỏ, cũng chỉ có người gầy như Diệp Tú nhi mới chui ra được.

Dư Hạm nhìn chuỗi vòng, còn là của ai ngoài Tú nhi nữa? Nàng ta càng thêm bồn chồn, đứng ngồi không yên: “Thôi! Để ta ra nói với lính gác ngoài cửa, bảo bọn họ đi báo với lão gia, nhờ lão gia cử người bắt a đầu chết tiệt kia về!”

Diệp lão bá nghe thế, chống gậy đi tới ngăn Dư Hạm lại: “Được rồi, phu nhân báo với lính làm gì, cẩn thận lão gia biết chuyện sẽ không cho Tú nhi phục vụ phu nhân nữa đâu.”

Nhưng Dư Hạm lại nổi cáu, siết khăn tay chỉ vào ông: “Đó là cháu ruột của ông đấy, tối nay ở bên ngoài có ma quỷ lộng hành, đến ta còn cuống cuồng tìm nó, sao ông chẳng lo tí gì thế hả! Ta nói ông hay, nếu nó mà gặp chuyện, đừng hòng ta thèm nhặt xác!”
 
Chương 93


Trong phòng không có người ngoài, Dư Hạm và Diệp lão bá lời qua tiếng lại, Thanh Duy nhìn sắc trời, mới đấy thôi mà thái dương sắp lặn rồi.

Thực chất ngay từ tối qua, Thanh Duy đã cảm nhận được sự kỳ lạ của Diệp Tú nhi.

Ngày hôm qua sau khi Tôn Nghị Niên rời đi, Tú nhi đã liên tục hỏi nha sai ngoài cửa là có thể ra khỏi trang viên không, rồi sáng nay làm rớt hộp phấn của Dư Hạm, dễ có khi là cố ý.

Mà bên ngoài đang sắp bắt ma.

Thật ra lúc này Thanh Duy đang rất bất an. Kể từ lúc Dư Hạm nói nàng biết chuyện của Cảnh Thường núi Trúc Cố, nàng vô cùng nghi ngờ cái chết của sơn tặc năm ấy có liên quan đến việc Tiển Khâm Đài sập, và con ma bóng xám xuất hiện ở Thượng Khê mấy năm nay… có lẽ chính là sơn tặc duy nhất may mắn sống sót.

Thanh Duy rất muốn ra ngoài kiểm chứng thực hư, nhưng thứ nhất nàng không biết kế hoạch của quan phủ, sợ trúng bẫy rập; thứ hai, nàng là đào phạm, trừ phi chắc chắn có thể lấy được manh mối, còn không việc nàng lộ mặt chính là nước cờ sinh tử.

Dư Hạm độc miệng, cãi qua cãi lại cuối cùng cũng khiến Diệp lão bá nổi xung, ông gõ gậy liên tục, “Chỉ là một tiểu a đầu chuồn đi chơi, thế mà tiểu phu nhân đã rủa nó chết, còn nói lão không thương nó!” Diệp lão bá thở hắt một hơi, đi về cửa phòng, “Thôi, lão nô tự ra ngoài tìm, đợi tìm con bé về, đến lúc đó tiểu phu nhân muốn đánh muốn phạt thì tùy!”

“Ông đi đi! Đi nhanh đi!” Dư Hạm thé giọng quát, “Ta nói ông biết, ma trên ngọn núi đó toàn là oan hồn! Oan hồn xuống nhân gian là để lấy mạng con người, tối qua Tú nhi mới bị con ma áo xám bóp cổ, các ngươi không nhớ hả! Giờ hay lắm, tự đi mà nộp mạng đi, đi nhanh đi, cùng lắm ta chuẩn bị hai cỗ quan tài!”

Diệp lão bá ngoái đầu: “Oan hồn lấy mạng cái gì! Tiểu phu nhân muốn rủa ông cháu lão thì cứ nói thẳng!”

Dư Hạm chống nạnh, lạnh lùng nói: “Ta nói thế không phải rủa các ngươi, tin tức thực sự chỉ có ta biết mà thôi! Ma là oan hồn, chết uổng mạng, vụ sơn tặc núi Trúc Cố bị giết năm xưa còn có nội tình! Máu chảy ở Thượng Khê đã ngấm xuống tám tầng địa ngục, điện Diêm La chật ních oan hồn, bây giờ ông mà ra ngoài tức phải lội qua dòng máu đó, thần tiên hạ phàm cũng không cứu nổi ông đâu!”

Nàng ta xuất thân từ đoàn hát nên khi cao giọng nói chuyện ma quỷ, từng tiếng gằn lạnh thấu xương, ngoài kia hoàng hôn dần buông, người trong phòng nghe nàng nói thế thì im bặt, ngay đến Diệp lão bá cũng không dám di chuyển.

Một lúc lâu sau, Thanh Duy lên tiếng hỏi: “Nội tình gì?”

Lúc trước khi nhắc đến sơn tặc núi Trúc Cố, Dư Hạm không hề nói bọn họ bị oan.

Dư Hạm chợt nhận ra mình đã lỡ miệng, vung khăn ngồi xuống ghế, “Các ngươi cứ kệ đi, dù gì, cũng là oan gia nhà ta nói ta biết.”

Nhưng điều đó không đủ để trấn an mọi người trong phòng.

Với người ngoài, cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố chỉ là một lần triều đình diệt phỉ, nhưng với người dân Thượng Khê mà nói, có người thân bạn cũ của họ đã chết trong lần đó.

Phòng lặng ngắt, tất cả đang chờ Dư Hạm nói tiếp.

Dư Hạm cũng không nhịn nổi, nàng nhìn quanh phòng, a hoàn hầu hạ, thím Ngô, Diệp lão bá, ngoài Thanh Duy ra thì toàn là người trong nhà, mà Thanh Duy là biểu tỉ của Tú nhi, coi như nửa người trong nhà.

Thôi, cũng chẳng phải bí mật gì to tát.

Dư Hạm không định giấu giếm, “Không phải từ đầu ta đã nói với mọi người rồi à, người chết dưới Tiển Khâm Đài là bị oan, nên triều đình giết sơn tặc hòng lấy mạng đổi mạng, mời Diêm vương sửa lại sổ sinh tử, để các sĩ tử ở Tiển Khâm Đài quay về dương gian đấy thôi.”

Thanh Duy gật đầu, nàng vẫn nhớ chuyện này.

“Đó chẳng phải là tin đồn đâu, oan gia đã nói cho ta biết từ lâu rồi.” Dư Hạm bảo, “Không phải hôm qua oan gia đến thăm ta sao? Ta nghe nói bên ngoài sắp bắt ma nên buột miệng hỏi chuyện này, kết quả mọi người có đoán được không!”

Kỳ thực Dư Hạm hỏi thế chỉ đơn giản là xuất phát từ tính tò mò, nhưng lúc ấy Tôn Nghị Niên đã rơi vào bể tình, nào còn quan tâm trời đất sao trăng, vừa nghe Dư Hạm hỏi, ông ta lập tức tiết lộ.

Dư Hạm hỏi: “Mọi người có biết hồi xây Tiển Khâm Đài, triều đình đã lựa sĩ tử ở nhiều nơi để lên đài không?”

Không ai là không biết chuyện này.

Dư Hạm hỏi tiếp: “Vậy có lẽ mọi người cũng biết, Thượng Khê ta cũng có học trò được chọn lên đài đúng không?”

Nàng ta vừa dứt lời, mọi người quay mặt sang nhìn nhau, một lúc sau, thím Ngô mới lên tiếng: “Hình như tôi có nghe chuyện này, có phải là… con trai của một thương nhân không?”

“Chính xác!” Dư Hạm vỗ tay cái độp, “Lên Tiển Khâm Đài là vinh quang lớn nhường nào? Mỗi địa phương chỉ có vài suất ít ỏi, nếu trong nhà có người được chọn lên đài thì đúng là mộ tổ bốc khói xanh*, phải khua chiêng gióng trống mở tiệc ăn mừng chứ! Nhưng Thượng Khê chúng ta lại quá im lìm, mọi người nói xem có kỳ lạ không? Mà có chuyện kỳ hơn nữa cơ! Thử đoán xem sĩ tử ấy họ gì, hắn họ Tưởng đấy!”

(*Người Trung Quốc tin rằng nếu phần mộ tổ bốc ra khói xanh tức là tổ tiên hiển linh đem lại phú quý cho gia đình.)

Thanh Duy nghe thấy họ Tưởng, đầu óc ù lên.

Nàng vẫn còn nhớ chuyện sơn tặc núi Trúc Cố mà Dư Hạm đã kể – năm ấy khi Tiển Khâm Đài sập, người đầu tiên bẩm báo chuyện sơn tặc với quan phủ chính là thương gia họ Tưởng.

Thím Ngô cũng đã nhớ ra, “Phía đông thành có nhà họ Tưởng làm kinh doanh, mấy năm trước con cả nhà họ qua đời, từ đó trở đi không thấy qua lại với ai nữa. Té ra cậu con cả chết dưới Tiển Khâm Đài à?”

Thanh Duy nói: “Người họ Tưởng này chính là người năm đó đã báo tin sơn tặc với quan phủ?”

Dư Hạm cầm khăn chỉ thẳng vào nàng: “Cô hỏi đúng trọng tâm rồi đấy! Hôm qua lão gia nhắc đến việc này, ta cũng đã hỏi như vậy.”

Khi ấy Tôn Nghị Niên vừa xuống khỏi người Dư Hạm, phanh áo thỏa mãn nằm trên giường, nghe Dư Hạm hỏi, ông nhìn thẳng xà nhà, hừ lạnh bảo: “Ai biết Tưởng gia đó có nói thật hay không? Cảnh Thường thích giao du kết bạn, là người nghĩa khí, có thương gia nào qua lại dưới chân núi Trúc Cố mà không kết bái huynh đệ với hắn? Trước lúc Tiển Khâm Đài sập, Tưởng lão gia còn từng lên núi nhậu với hắn mấy bận kia mà, kết quả Tiển Khâm Đài vừa sập, người họ Tưởng trở mặt, quay đầu bẩm báo Cảnh Thường với quan phủ. Hắn nói Cảnh Thường cướp hàng của hắn, giết gia đinh hắn, thực ra quan phủ cũng không tìm được bằng chứng rõ ràng. Có điều con trai nhà hắn đúng là đã chết dưới Tiển Khâm Đài. Tiển Khâm Đài sập nào khác gì trời sập, ngay cả tiên đế còn đích thân tới Lăng Xuyên, nên quan phủ khó tránh khỏi thiên vị gia đình có học trò tử vong, vả lại sau đó Nhị đương gia núi Trúc Cố cũng xuống núi làm loạn là thật, nên nha huyện mới bẩm báo với bản doanh quân ở gần đó…”

Nói đến đây, giọng Tôn Nghị Niên dần trở nên mơ hồ, “Nhưng đâu phải nhờ sát phạt, thật, chỉ là nhờ bọn họ để ý giúp mà thôi. Ai mà ngờ, chỉ một đêm quân lính đã tới, tới giờ ta vẫn còn nhớ đôi mắt mở lớn đến chết của Cảnh Thường lúc ấy, như muốn nói cho ta biết, hắn bị oan…”



Nghe Dư Hạm kể xong, lòng Thanh Duy càng thêm nặng nề.

Con trai nhà họ Tưởng được chọn lên Tiển Khâm Đài; năm ấy Từ Thuật Bạch cũng được chọn lên Tiển Khâm Đài.

Trước khi Tiển Khâm Đài hoàn thành, nhà họ Tưởng thường lên núi Trúc Cố uống rượu; hồi Từ Đồ còn sống, ông ta cũng qua lại thân thiết với Cảnh Thường.

Tuy Thanh Duy không rõ những manh mối này ám chỉ điều gì, song nàng biết, điểm chung giữa hai người Tưởng Từ này tuyệt đối không thể là trùng hợp.

Hiện nàng đã có thể xác định, cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố thực sự liên quan đến Tiển Khâm Đài sập.

Nàng đến Thượng Khê là đúng nơi rồi.

Dư Hạm bảo: “Giờ mọi người biết rồi đấy, ma mà tối nay quan phủ muốn là oan hồn lệ quỷ, nếu Tú nhi mà gặp phải chúng, may mắn còn sống là nhờ gặp Bồ Tát trên đường, nhưng đêm hôm khuya khoắt, đâu ra lắm Bồ Tát thế! Thôi không nói nữa, thím Ngô, thím mau báo chuyện Tú nhi mất tích cho nha sai biết đi, kêu bọn họ đi tìm, đợi về lão gia sẽ phạt…” Dư Hạm nghiến răng, “Nó đáng bị ăn đòn lắm!”

Thím Ngô “a” lên, nhưng chưa đi tới cửa thì Thanh Duy đã nói: “Để ta ra ngoài tìm cô ấy.”

Dư Hạm ngạc nhiên: “Cô nói gì?”

Thanh Duy rất bình tĩnh, “Lúc nãy ta đã kiểm tra kỹ xung quanh viện hoang rồi, dấu chân còn rất mới, hẳn cô ấy chỉ mới rời đi, cước bộ ta rất nhanh, ta ra ngoài tìm cô ấy, trong vòng một canh giờ nhất định có thể đưa người về.”

Nói xong, chẳng đợi Dư Hạm đồng ý, nàng đi thẳng ra khỏi nhà chính, quay về phòng mình ở sân sau.

Dư Hạm và những người trong phòng trố mắt nhìn, rồi kéo nhau chạy tới trước phòng Thanh Duy: “Cô tìm nó? Trời tối thế này, cô tìm nó kiểu gì?”

Thanh Duy bước ra khỏi phòng, nàng đã đổi sang nam trang, tóc dài túm thành búi, mũ đen treo trên cổ tay, “Ta có cách của mình.”

Không phải Dư Hạm không tin nàng, hôm con ma bóng xám xuất hiện, Giang Duy này không những đuổi theo mà sáng hôm sau còn bình an trở về, chứng tỏ là người có bản lĩnh. Nàng ta đi tìm Tú nhi là hay nhất rồi, nếu tìm được về, Tú nhi không những không bị phạt mà một khi lệnh phong tỏa núi được dỡ bỏ, mà còn có thể lập tức đến phủ Đông An chọn mua gấm vóc và trang sức cho mình, nàng rất tin vào mắt nhìn của Tú nhi.

Dư Hạm lại hỏi: “Quan sai trấn giữ ở cửa, cô định ra ngoài thế nào?”

Thanh Duy khoác áo chùng lên người, không có vũ khí vừa tay nên tháo cây kiếm gỗ treo trước cửa xuống, đè thấp vành mũ đi ra sau viện hoang, chỉ nói một câu: “Trèo tường.”

***

Trời vẫn chưa tối nhưng hoàng hôn đã nồng.

Nương ánh sáng đèn lồng, Thanh Duy lần theo dấu chân của Diệp Tú nhi trên đường.

Thực ra nàng ra ngoài không phải vì Diệp Tú nhi, mà là vì con ma bóng xám ấy.

Quan phủ bày thiên la địa võng muốn bắt hắn, Thanh Duy không biết liệu hắn có trốn được không, nếu hắn bị bắt rồi thậm chí là bị giết, như vậy manh mối nàng vất vả lắm mới tìm được sẽ bị gián đoạn.

Thanh Duy không hi vọng tối nay có thể moi được chân tướng cái chết của sơn tặc từ miệng con ma đó, chỉ muốn ngăn cản quan phủ bắt hắn, sau đó có thể bàn bạc kỹ hơn.

Tuy mạo hiểm nhưng đáng để liều.

Chỉ có một đường núi sau trang viên, vẫn có thể lần theo dấu chân của Tú nhi. Ngoài núi rừng bao quanh, cả Thượng Khê chỉ to có chừng ấy, Thanh Duy lần theo tung tích của Diệp Tú nhi, chẳng mấy chốc đã vào thành.

Gần đây Thượng Khê cấm đi lại ban đêm, vào giờ này đã có rất nhiều cửa tiệm đóng cửa, đường sá vắng lặng, Thanh Duy sợ bị lính tuần tra phát hiện nên ném đèn đi, nhảy lên nóc nhà nhìn quanh.

Đây là nơi nằm chếch phía tây trong thành, nha huyện ở ngay bên cạnh.

Trước khi Diệp Tú nhi trốn ra ngoài, nàng ta có nói là làm vỡ hộp son của Dư Hạm nên áy náy, phải mua son đền bằng được.

Thanh Duy nhanh chóng tìm đến tiệm bán son, nhảy xuống hiên, chưa đến gần, quả nhiên thấy Diệp Tú nhi đeo giỏ tre bước ra từ cửa tiệm..

Thanh Duy nghĩ ngợi, đoạn không tiến lên mà lẳng lặng bám theo.
 
Chương 94


Trời tối tăm mù mịt, mây giăng khắp trời, tiệm son phấn đóng cửa, trên đường lại bớt đi một ánh đèn.

Đèn lồng của Diệp Tú nhi le lói trong đêm, nàng ta không trở về trang viên mà đi theo hướng ngược lại.

Đây là khu vực nội thành Thượng Khê, lúc nãy đứng trên cao Thanh Duy đã quan sát, nha huyện ở phía tây, đi về phía đông là nơi nhà cửa tập trung san sát, khách điếm hay các tiệm lớn trong Thượng Khê đều nằm nơi đó.

Diệp Tú nhi dừng bước trước gốc hòe già ở đầu phố.

Nàng ta nhìn quanh, thấy không có ai bèn cúi người nhặt một hòn đá, khắc mấy đường lên thân cây.

Nhìn nàng ta rất kỳ lạ, cứ như thể đang bị ma ám.

Nhưng sự kỳ lạ của Diệp Tú nhi không phải chỉ mới tối nay. Lúc trước ở Đông An, nếu không phải nàng ta và Diệp lão bá thường lén lút lui tới mấy tiệm thuốc sau khi mua hàng, thì Thanh Duy đã không lựa chọn đi theo hai người họ đến Thượng Khê.

Diệp Tú nhi khắc dấu xong, lấy ra túi hương ở trong giỏ rồi treo lên cành cây, Có vẻ nàng ta muốn treo nó lên cao, nhưng vì người thấp, nhảy tại chỗ mấy lần mới với thấu một cành.

Đúng lúc này có tiếng mõ vang, tuần tra đã đến gần, Diệp Tú nhi vội vàng thắt túi hương, nhấc giỏ lên, nhưng vừa dợm bước thì sau lưng đã có người lên tiếng: “Đứng lại.”

Hai người lính cầm đuốc lại gần: “Ngươi ở nhà nào, sao giờ này rồi mà còn lảng vảng trên đường, không biết thời gian này trong thành cấm đi đêm hả?”

Diệp Tú nhi ái ngại: “Quan gia, thảo dân là hạ nhân ở trang viên thành tây, nữ chủ tử trong nhà họ Dư, sáng nay hộp phấn của chủ tử bị bể nên sai thảo dân ra ngoài mua.” Nói đoạn, như muốn chứng minh lời mình nói, nàng ta lấy hộp phấn trong giỏ ra cho quan sai xem.

Trang viên thành tây, nữ chủ tử họ Dư, còn ai ngoài vị ngoại thất của Tôn Huyện lệnh?

Hai quan sai nhìn nhau, đuổi Diệp Tú nhi đi: “Lấy lòng chớ lề mề, đi nhanh về nhanh, không biết độ này trong thành có ma quỷ hả?”

Diệp Tú nhi vâng dạ liên thanh, nhanh chóng rời khỏi đầu phố.

***

Đợi Tú nhi và quan sai rời đi, Thanh Duy mới bước ra từ trong ngõ tối, đi tới trước cây hòe, cẩn thận quan sát ấn ký mà Diệp Tú nhi mới khắc.

Ấn ký không phải chữ cũng chẳng phải hình, hai nét ngang và một nét gấp, giống như chỉ hướng hơn.

Đứng dưới cây hòe, Thanh Duy ngửi được một mùi thơm, nàng nhíu mày, vươn tay giật túi hương thắt trên cành xuống, quả nhiên mùi thơm phát ra từ chiếc túi này.

Thanh Duy ngờ vực, nghĩ ngợi một lúc rồi thắt túi hương về chỗ cũ.

Mây ở chân trời vẫn chưa tẩn, màn đêm âm u, Thanh Duy không biết phải đi đâu tìm con ma bóng xám kia, nghĩ rồi nghĩ, cuối cùng vẫn nhảy lên mái nhà gần đó, quyết định nấp trên cao quan sát tình hình.

Không lâu sau, chung quanh tối om, ngòai quan sai tuần tra như mọi khi, nơi duy nhất có động tĩnh chính là hai con đường ngoài tiệm thuốc.

Hình như tiệm thuốc kia mới nhập dược liệu về, chủ tiệm đứng bên cầm khăn lau mồ hôi, vừa sai người hầu nâng từng giỏ thuốc đi vào kho.

Nơi Thanh Duy đang nấp bị giới hạn tầm nhìn, chỉ thấy người hầu khiêng giỏ thuốc đi vào từ cửa nách, còn nhà kho ở sân sau bị nhà cao che khuất nên không thấy rõ.

Trực giác mách bảo Thanh Duy tiệm thuốc này có gì đó rất lạ, một suy nghĩ đang dần dần thành hình, chợt một cơn gió lạnh lướt qua sau lưng.

Nàng lập tức ngoái đầu, thấy một cái bóng xám bất thình lình xuất hiện trên cây hòe già. Tứ chi hắn không khác gì thú, chống trên cành như thể sẵn sàng tấn công bất cứ lúc nào, đồng tử khuất sau mái tóc nhìn nàng chòng chọc đầy địch ý.

Chính là con ma bóng xám!

Thanh Duy sửng sốt, nàng không biết nó xuất hiện thế nào, nhưng đột nhiên phải đối diện với nó, dù nàng có to gan đến đâu cũng cảm thấy ớn lạnh.

Gió đêm đưa tới mùi thơm lạ lùng, Thanh Duy nhìn xuống tay trái con ma, thứ nó cầm trong tay chẳng phải là túi hương Tú nhi để lại sao?

Thanh Duy bừng tỉnh, đang định lên tiếng thì đúng lúc này, ở tiệm thuốc gần đó bỗng có người thét lớn: “Ma!”

“Ma, ma đến rồi!”

Giỏ thuốc quăng xuống đất, gia nhân đang chuyển thuốc cuống cuồng bỏ chạy.

Tiếng thét chói tai như mũi tên xé toạc bầu trời, chỉ trong chớp mắt, xung quanh hiệu thuốc Nguyệt Hòa sáng rực lên, quân lính tuần tra trên phố lập tức chạy đến, nhà dân gần đó cũng có người choàng tỉnh.

Thanh Duy giật mình, rõ ràng con ma bóng xám đang nấp dưới cây hòe, vậy con ma xuất hiện ở tiệm thuốc kia là ai?

Song, không cho nàng thời gian suy nghĩ, ngay lập tức con ma bóng xám cũng nhận thấy sự nguy hiểm phía trước, hắn phi thân xuống gốc cây, bỏ chạy theo hướng ngược lại.

Tối nay Thanh Duy ra ngoài là để tìm con ma này, thấy hắn chạy trốn, nàng tức khắc đuổi theo.

***

Lần trước hai người đã rượt đuổi một lần, Thanh Duy không bắt kịp hắn không phải vì tốc độ của hắn quá nhanh, mà do hắn quen thuộc Thượng Khê hơn.

Còn lần này cả hai đều bị dồn trong nội thành, Thanh Duy mượn khinh công nhảy lên mái nhà, chẳng mấy chốc đã bắt kịp.

Con ma bóng xám chỉ có thể chạy trốn về phía nha huyện, có điều nha huyện chẳng phải nơi an toàn, phố bên cạnh đang bắt ma, trong nha huyện đèn đuốc sáng trưng, Thanh Duy đứng trên cao, thậm chí có thể thấy được quân lính tuần tra ở gần đó.

Nhưng nếu lách qua ngõ tắt, thì dường như miếu Hoàng thành sau lưng nha huyện có thể ẩn thân.

Có vẻ con ma bóng xám cũng có cùng suy nghĩ, hắn lắc mình chạy vào lối nhỏ.

Ngay khi Thanh Duy đang định đuổi theo vào ngõ, đúng lúc này, nàng chợt nghe thấy tiếng tuấn mã. Nàng ngoái đầu nhìn, lạ thật, bên tiệm thuốc đang bắt ma, hiện quan binh đều tập trung ở tiệm thuốc, thế mà Ngũ Thông của Tả Kiêu vệ lại dẫn một toán quân lao thẳng đến miếu Thành hoàng.

Trong thành chỉ có vài ngõ hẻm, đi bộ sẽ mất một lúc thời gian, song nếu cưỡi ngựa, chẳng mấy chốc đã đến.

Tả Kiêu vệ lập tức tới nơi, con ma bóng xám chưa kịp định thần, nó vừa chạy ra khỏi ngõ thì đã bị đuốc lửa của Tả Kiêu vệ bao vây, Ngũ Thông cao giọng quát: “Kẻ nào?!”

Con ma lập tức lùi về trong ngõ.

Nhưng ngõ tắt đã không an toàn như vừa rồi nữa, nghe thấy tiếng quát của Ngũ Thông, chẳng mấy chốc quân lính từ nha huyện đã đổ về phía con ngõ.

Thanh Duy nấp ở trên cao thấy rõ mồn một, nếu con ma xám càng đi về phía trước sẽ càng tiến thoái lưỡng nan.

Nàng lập tức nhảy xuống từ mái nhà, chụp vào vai con ma: “Đi theo ta!”

***

Cùng lúc ấy, ở một nơi khác.

Sau nha huyện ầm ĩ huyên náo, có một cỗ xe ngựa đang lặng lẽ đậu ngoài cửa hông, tựa như phân tranh ngoài kia chẳng liên quan gì đến nó.

Rồi một nha dịch xuất hiện ở đầu hẻm, hắn ta nhìn quanh, vội vàng đi tới trước xe ngựa, hạ giọng nói: “Bẩm Ngu hầu, nguy rồi.”

Người này chính là Chương Lộc Chi cải trang thành nha dịch.

Trong xe ngựa không có hồi đáp, Chương Lộc Chi nói tiếp: “Không hiểu sao mà vừa rồi, Triêu Thiên còn chưa dụ quan sai ở tiệm thuốc đi thì con ma bóng xám đã xông đến nha huyện, hắn bị Tả Kiêu vệ phát hiện, sau đó đột ngột biến mất trong ngõ.”

Nghe thấy thế, Tạ Dung Dữ cầm quạt vén rèm xe lên, “Biến mất? Biến mất thế nào?”

“Không rõ ạ. Rõ ràng vừa nãy Tạ Kiêu vệ thấy hắn chạy vào ngõ, nhưng bây giờ nha sai và Tả Kiêu vệ đã lục soát khắp ngõ mà vẫn không tìm ra.” Chương Lộc Chi nói, “Cả Tả Kiêu vệ nữa, việc bọn họ xuất hiện cũng quá kỳ lạ, Triêu Thiên giả ma ở đầu tiệm thuốc, lẽ ra Tả Kiêu vệ nên bị Triêu Thiên dụ đi mới phải, ai dè tên Ngũ Thông bỗng nhận được tin là người trong phủ Huyện lệnh xuất hiện ở ngoài đường, thế là lập tức dẫn người chạy sang đây.”

Tạ Dung Dữ nhớ lại tối qua Khúc Mậu cũng có nói, hình như Ngũ Thông muốn điều tra ai đó trong nhà Tôn Huyện lệnh.

Xem ra Ngũ Thông tới không hẳn vì bắt ma, mà là bắt người.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Hiện có bao nhiêu người của Tả Kiêu vệ?”

“Chừng ba bốn mươi người, cộng thêm lính ở nha huyện thì cả thảy có gần một trăm người, nhiều hơn rất nhiều so với Huyền Ưng Ti.” Trong miếu Thành hoàng chỉ có khoảng mười Huyền Ưng vệ, Chương Lộc Chi nói, “Ngu hầu, dù Ngũ Thông kia không phải tới vì con ma xám, nhưng hắn đã gặp con ma đó rồi, kiểu gì cũng muốn bắt bằng được, giờ chúng ta phải làm thế nào đây?”

Nhân số Huyền Ưng Ti đang mai phục ở Thượng Khê quá ít, tung tích của con ma xám đã bị bại lộ, tám chín phần mười sẽ bị bắt. Sơn tặc núi Trúc Cố năm xưa đã bị diệt khẩu, ắt hẳn ở Thượng Khê bây giờ có không ít kẻ muốn diệt khẩu con ma đó, nếu nó bị bắt, nhất định Tạ Dung Dữ phải là người duy nhất bắt được nó, bằng không mọi kế hoạch của y sẽ thất bại trong gang tấc.

Y đã nhìn qua con ngõ sau lưng nha huyện, nhà cửa dựng san sát, thế mà chỉ trong chốc lát, quân lính gần như tăng gấp đôi, đuốc lửa sáng rực như ban ngày. Dưới sự lùng sục gắt gao, cho dù con ma xám có bản lĩnh thoát ra khỏi ngõ đi chăng nữa, rồi cũng sẽ rơi vào thiên la địa võng giăng tứ phía.

Ắt hẳn hắn chỉ ở quanh đây thôi, không thoát đâu xa được.

Tạ Dung Dữ nhanh chóng quyết định: “Ngươi hãy lập tức bắn tín hiệu cho Triêu Thiên, để hắn dụ binh về phía bên này.”

Mục đích của mỗi bên không giống nhau, nếu va chạm, ắt sẽ hỗn loạn.

Bọn họ ít người, phải đục nước béo cò mới có phần thắng.

Chương Lộc Chi lập tức đáp: “Vâng.”
 
Chương 95


Thanh Duy kéo con ma nấp dưới nhà lá, nhìn ra bên ngoài qua khe cửa, quân lính còn đang lùng sục tìm kiếm.

Đây là chuồng ngựa phía sau nha huyện, nơi nguy hiểm nhất luôn là chốn an toàn nhất Vừa nãy Thanh Duy thấy con ma xám sắp bị bắt, trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc, nàng cắp hắn xông vào chuồng ngựa qua cửa sau nha huyện.

Hiềm một nỗi số lính ngoài kia đột ngột tăng gấp đôi, đuốc lửa thắp sáng màn đêm như ban ngày, nàng không thể lại lên nóc nhà được nữa, mà trước mắt cũng chẳng thể lên nơi đó.

Ngựa trong chuồng đã bị dắt đi hết, bên cạnh truyền đến tiếng thở dốc nặng nề. Con ma đang sợ, hình như hắn rất kháng cự phải tiếp xúc với người sống, bị Thanh Duy chế ngự mà toàn cơ thể căng cứng cả lên.

Thanh Duy mượn ánh lửa hắt vào qua khe cửa, bấy giờ mới phát hiện con ma xám này nào đáng sợ, đó chỉ là một thiếu niên trẻ tuổi gầy gò.

Nàng thấp giọng hỏi: “Ngươi là sơn tặc núi Trúc Cố?”

Con ma xám vốn chẳng đếm xỉa đến Thanh Duy, nhưng vừa nghe câu hỏi ấy, hắn lập tức nhìn nàng chòng chọc, họng phát ra tiếng *xì xì* như thể khắc sau sẽ tấn công nàng.

Thanh Duy lạnh lùng nhắc nhở: “Dụ lính tới là cả ta lẫn ngươi sẽ chết đấy!”

Có vẻ con ma xám hiểu được tiếng người, Thanh Duy vừa dứt lời, hắn do dự rồi ngậm miệng im bặt, song ánh mắt vẫn hung dữ cảnh giác.

Vốn Thanh Duy muốn hỏi hắn về chân tướng cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố, nhưng rõ ràng đêm nay không phải dịp, vậy là nàng không để ý đến con ma nữa, tìm cách chạy thoát.

Thượng Khê có một nhược điểm là quá khép kín, bị nhốt ở cái chốn chỉ to chừng lòng bàn tay, xung quanh chỗ nào cũng có binh lính, đúng là kêu trời trời không nghe, gọi đất đất chẳng đáp.

Dĩ nhiên nàng cũng có thể tháo chạy trước để dụ quân lính, nhưng đám lính đó không biết nàng ở đây, dù có thấy nàng thì chưa chắc đã ngừng lục soát.

Làm cách gì mới có thể khiến quân lính dừng tìm con ma xám đây?

Đúng lúc này, ngoài chuồng ngựa có người lên tiếng: “Đã lục soát nha huyện lần nữa chưa?”

“Vẫn chưa?”

“Sao lại chưa? Mau phái người lục soát đi, con ma xám kia rất giảo hoạt, có khi nó trốn trong đó đấy. Phòng chứa củi, chuồng ngựa, không được bỏ sót bất cứ nơi nào!”

Tim Thanh Duy đập rộn lên.

Tình hình thay đổi rồi, cố thủ nơi này đã thu hẹp phạm vi, nếu bị Tả Kiêu vệ phát hiện, con ma xám không nói, chỉ sợ trọng phạm là nàng sẽ là kẻ đầu tiên phải nộp mạng.

Tiếng bước chân của quân lính vang lên ngoài vành gỗ, ánh mắt Thanh Duy dừng trên người con ma xám, chợt một suy nghĩ lóe lên!

Đúng rồi, nàng và con ma xám cao gần bằng nhau, thân hình cũng không khác biệt lắm, hơn nữa để đề phòng bị quân lính nhận ra nên tối nay nàng đã mặc nam trang, dưới áo chùng là bộ đồ vải thô, nếu trét bùn đất lên người thì đến tám phần giống chiếc áo xám trên người con ma.

Dù gì… một người gặp nạn cũng còn hơn cả hai cùng chết!

Nghĩ đến đây, Thanh Duy quyết định thật nhanh, nàng xõa búi tóc ra, chải mấy sợi rơi xuống má, nhét mũ trùm và thanh kiếm gỗ vào tay con ma, lạnh lùng nói: “Nhớ, ngươi nợ ta một ân huệ.”

Nói đoạn, nàng lao ra khỏi chuồng ngựa trong chớp mắt, ép sát cánh cửa, ngay khoảnh khắc toán lính đẩy cửa vào, nàng lập tức xông thẳng ra ngoài.

***

Ban đêm ánh lửa sáng rực, quân lính truy đuổi bốn phương tám hướng.

Phá vòng vây không khó, khó là hiện tại nàng không thể tung hết võ công, bởi nếu nàng để lộ thân thủ thì chắc chắn chúng sẽ phát hiện nàng giả ma, quay đầu về nha huyện, tới lúc đó nàng mới thật sự tiền mất tật mang.

Cũng may nàng bị quân lính truy đuổi chẳng phải lần một lần hai, quá quen với việc chạy thoát thân, mấy tháng trước nàng còn bị hơn trăm tinh binh của Tả Kiêu vệ vây bắt cơ mà, tình huống còn nguy cấp hơn lúc này gấp trăm lần.

Đang trong hiểm cảnh nhưng Thanh Duy không hề mất bình tĩnh, ra khỏi nha huyện, nàng nhanh chóng phân tích tình hình. Thượng Khê là sơn thành, vì vậy ắt hẳn ngựa ở đây rất ít, số ngựa trong chuồng đã bị dắt đi gần hết, nên có lẽ số ngựa mà Tả Kiêu vệ đang cưỡi là toàn bộ ngựa ở Thượng Khê này.

Không gì có thể nhanh bằng ngựa, chỉ cần nàng cướp được ngựa là có thể chạy trốn trước khi quân lính bắn tên.

Nghĩ đến đây, Thanh Duy bèn xông về phía một tên lính ở gần nàng. Nàng tăng tốc đến cực điểm, gần như tạo thành một bóng ma, lao nhanh tới nỗi tên lính kia chưa kịp phản ứng thì đã bị Thanh Duy rút lấy thanh đao bên hông. Có được đao, Thanh Duy ngay lập tức quay sang đánh về phía Tả Kiêu vệ khinh kỵ đang lại gần.

Cả toán truy binh bị lối chạy trốn của nàng đẩy vào sương mù, thậm chí ngay đến Ngũ Thông cũng dừng ra lệnh.

Thực ra mục đích của Thanh Duy rất đơn giản, đấy là cướp vũ khí đoạt ngựa.

Người cướp ngựa cũng dễ hiểu, song lúc này Thanh Duy đang là ma, ma mà cướp ngựa mới ly kỳ.

Nhưng Thanh Duy còn chưa đến gần Tả Kiêu vệ khinh kỵ thì đã nghe thấy một tiếng nổ đùng vang lên, ngay khắc sau, bầu trời đêm rực sáng lấp lánh.

Nói thì chậm nhưng diễn ra rất nhanh, nhân lúc Tả Kiêu vệ phân tâm, Thanh Duy lập tức lao đến, bổ đao xuống giật lấy dây cương từ tay hắn, leo lên ngựa rồi thúc ngựa phi như bay.

Không biết ai bắn pháo, nhưng tiếng pháo đó đã nhắc nhở Thanh Duy – ở Thượng Khê bây giờ không phải mỗi nha huyện lộn xộn, mà mấy con phố bên ngoài tiệm thuốc cũng có quân lính bắt ma.

Thượng Khê có cả thảy ba con ma.

Hiện con ma xám là nàng, như vậy phía quân lính truy đuổi không phải ma đỏ thì cũng là công tử ma.

Thanh Duy nhanh chóng đưa ra quyết định, kẹp hai chân vào bụng ngựa, chạy về phía tiệm thuốc.

Nếu quan binh chỉ muốn bắt ma, ma đỏ ma xám, bắt con nào mà chẳng như nhau? Hiện tại nàng có ngựa còn ma đỏ thì không, dụ binh lính đến chỗ con ma đỏ, đợi bọn họ bắt được nó, nàng lập tức đổi ngược hướng chạy lên núi Trúc Cố.

Còn chưa đến gần tiệm thuốc, Thanh Duy đã thấy một chiếc bóng đỏ vụt qua vụt lại trên phố.

Chính là con ma đỏ kia.

Thanh Duy ngạc nhiên, định thần nhìn lại, thấy con ma đỏ này cũng xõa tóc che hai má, trên trán thắt một dải băng màu huyết, nhìn qua chẳng có gì gọi là tà ma kinh dị, mà dưới ánh lửa còn trông khá cao to.

Truy binh ở ngay sau lưng đôi bên, Thanh Duy không để ý đến con ma đỏ đó nữa, thúc ngựa đi vòng qua hắn toan chạy trốn, ai ngờ con ma đỏ không định bỏ qua nàng, ngay lúc nàng lướt qua người hắn, hắn vươn tay chụp lấy bờm ngựa, xoay mình nhảy lên ngựa của nàng.

Thanh Duy phản ứng rất nhanh, con ma đỏ vừa đi lên, tay trái nàng vẫn nắm cương, còn cơ thể nhẹ tựa lông chim gần như bay bổng lên trời, mượn lực khi con ma đỏ trèo lên để đá mạnh hắn xuống ngựa.

Con ma đỏ cũng rất linh hoạt, dù bị Thanh Duy đá xuống ngựa nhưng vẫn nắm chặt bờm, mũi chân điểm xuống đất rồi lần nữa phi thân lên.

Hai bên giao đấu dây dưa trên ngựa, khiến quân lính truy đuổi có chỗ trống chen vào, chẳng mấy chốc Tả Kiêu vệ khinh kỵ đã đến, nha sai cầm đao tấn công.

Thanh Duy và con ma áo đỏ rất cẩn thận, đồng thời đẩy lùi nha sai, cứ tưởng đã hóa giải nguy cơ thì một khắc sau, nàng bỗng nghe thấy tiếng giương cung dựng nỏ.

Hóa ra để ép nàng xuống ngựa, Tả Kiêu vệ khinh kỵ đã điều động cả trường cung trong kho vũ khí ở nha huyện.

Thấy tình hình không ổn, Thanh Duy cắn răng, đành phải ra tay độc với con ma đỏ đang cướp ngựa của nàng.

Cổ tay cầm trường đao run lên, lưỡi đao rời vỏ vạch sáng như ánh trăng, đánh xuống cổ con ma áo đỏ, con ma sửng sốt, lắc mình né tránh, Thanh Duy lập tức nhân đó gập cổ tay phải đang giữ hắn lại, nhấc chân đá hắn xuống ngựa lần nữa.

Ngồi trên lưng ngựa đã trở thành mục tiêu rõ ràng, vả lại Tả Kiêu vệ còn được huấn luyện bài bản, muốn lấy mạng nàng dễ như bỡn.

Tuy con ma đỏ bị Thanh Duy đá xuống ngựa, nhưng bây giờ không thể cưỡi ngựa được nữa.

Cũng may trạm kiểm soát núi Trúc Cố ở ngay trước mắt, tối nay trong thành bắt ma, thành ra bên này thiếu người canh gác.

Ngay khoảnh khắc tên rời cung, Thanh Duy xoay ngựa lại rồi nhảy xuống, trường đao trong tay đâm mạnh xuống lưng ngựa, để con ngựa lao như điên về phía Tả Kiêu vệ khinh kỵ.

***

Khinh kỵ bị con ngựa nổi điên chặn đường, nhưng con ma áo đỏ bị Thanh Duy đá xuống ngựa đã rơi vào vòng vây của quân lính, song đúng lúc này, một cỗ xe ngựa ở hẻm đối diện lao đến, người ngồi trong xe vén rèm lên, chìa tay với con ma đỏ: “Lên!”

Ma áo đỏ mượn lực nhảy vào xe ngựa, gọi người trong xe: “Công tử.”

Con ma áo đỏ này chẳng phải ai khác, chính là Triêu Thiên.

Tạ Dung Dữ mượn sắc lửa ngoài xe nhìn hắn, thấy khóe miệng hắn bị trầy, ở cổ tay cũng bị thương: “Đã có chuyện gì?”

“Bẩm công tử, thuộc hạ vô năng, không bắt được con ma xám đó, con ma này quá lợi hại, đánh thuộc hạ một trận rồi còn đá xuống ngựa, thuộc hạ còn không kịp thương lượng với hắn!”

Tạ Dung Dữ ngẩn người: “Cả ngươi mà không phải đối thủ của hắn?”

“Thuộc hạ cũng không rõ, nói chung hắn ra tay rất mạnh, công tử nói muốn bắt sống hắn nên thuộc hạ không dám ăn miếng trả miếng, cứ đánh qua đánh lại thành ra bị thiệt.”

Tạ Dung Dữ không nói thêm, y nhìn ra sau, Tả Kiêu vệ bị con ngựa chặn đường đã lần nữa đuổi theo.

Lần này y dùng xe ngựa của Khúc Mậu, nửa canh giờ trước, Chương Lộc Chi đã dùng danh nghĩa của Huyền Ưng Ti đến nha huyện mời Khúc Mậu tới đây, nhưng chỉ dựa vào một Khúc Mậu chưa chắc đã ngăn được toán lính có mục đích khác, nếu để quân lính đuổi theo, cùng nhau bắt giữ con ma xám thì càng không ổn, y không thể để nhân chứng quan trọng như vậy rơi vào tay bất cứ kẻ nào ngoài mình.

Hơn nữa, con ma tối nay… Không rõ vì sao, Tạ Dung Dữ cứ cảm thấy là lạ chỗ nào.

Tạ Dung Dữ nói với Triêu Thiên: “Ngươi xuống xe đợi Khúc Mậu đến, không cần che giấu thân phận, nhờ hắn dụ binh lính đi.”

“Thế còn con ma xám…”

Tạ Dung Dữ nói: “Ta sẽ đuổi theo.”

***

Thanh Duy nhanh chóng phá vòng vây ở trạm gác núi Trúc Cố, chạy hộc tốc lên núi.

Nhưng chưa đến giữa sườn núi thì đã nghe thấy tiếng ngựa cà lộc vang lên sau lưng, nàng ngoái đầu nhìn lại, trước cỗ xe treo đèn lồng, trên đèn có chữ “Khúc”.

Là xe ngựa của Khúc Mậu.

Thanh Duy bực bội.

Vẫn chưa xong sao? Quân lính nha huyện bắt nàng, Tả Kiêu vệ bắt nàng, con ma đỏ cũng bắt nàng, sao đến cả kẻ vô tích sự như Khúc Mậu cũng phái người bắt nàng?

Hai chân đâu nhanh bằng bốn vó, chẳng rõ đến lúc trời sáng có còn truy binh hay không, núi Trúc Cố sâu thăm thẳm, không biết trốn đâu mới an toàn, nàng phải giữ thể lực.

Nếu đã vậy, nàng không khách khí nữa.

Nghe thấy tiếng xe ngựa ở sát ngay sau lưng, Thanh Duy chợt dừng bước, xoay người nhảy vọt lên xe, đá bay tên Huyền Ưng vệ xuống đường trước khi hắn kịp phản ứng, sau đó vén rèm.

Núi sâu tối om om, đèn lồng lay lắt không đủ soi sáng, rèm xe vừa hạ, cả khoang xe như bị bóng đêm bủa vây.

Thanh Duy bổ một phát chưởng hòng đẩy người trong xe xuống ngựa, nhưng người này phản ứng rất nhanh, ngay khi Thanh Duy vừa tấn công, hắn đã giơ tay chặn chiêu thức của nàng lại.
 
Chương 96


Chiêu đầu bất thành, Thanh Duy lập tức đổi động tác. Nàng không có vũ khí nào khác ngoài nhuyễn ngọc kiếm, thế là khum tay thành móng vuốt, đánh úp vào cổ của người nọ.

Buồng xe tối mù không một ánh sáng, không có Huyền Ưng vệ lái xe, tuấn mã chẳng phân rõ phương hướng, cứ chạy lung tung trong núi hoang.

Người kia có thân pháp hệt như gió, chỉ một cú né đã có thể lấy bốn lạng địch ngàn cân, tránh được chiêu tiếp theo của Thanh Duy. Rèm xe lay động, ánh trăng bên ngoài lọt vào, nương ánh trăng, Thanh Duy thấy người kia đội mũ, áo xanh khoan thai, dáng người tựa ngọc.

Thanh Duy sửng sốt, Khúc Mậu có được thuộc hạ giỏi như thế từ khi nào vậy?

Người trong xe có vẻ do dự sau khi đỡ mấy chiêu của nàng, thu lại sát cơ, đổi sang thăm dò.

Thanh Duy phát hiện đối phương không còn địch ý với mình nữa, đang định thương lượng thì bất thình lình, trong rừng sâu núi thẳm vang lên tiếng ngựa phi rầm rập, loáng thoáng nhìn thấy ánh lửa ở xa – truy binh sắp đến rồi!

Thanh Duy không dám chần chừ khắc nào, tháo túi vải quấn quanh cổ tay, nhuyễn ngọc kiếm ngay tức khắc tấn công vào cổ của người kia, dừng lại nửa tấc trước hầu kết của hắn, đầu gối Thanh Duy đè lên hai chân chế ngự, gằn giọng nói: “Dám phản kháng, cẩn thận tính mạng!”

Người trong xe vốn không định đả thương nàng, nhưng nàng vừa dứt lời, hắn lập tức sửng sốt.

Thanh Duy cảm thấy phản ứng của hắn rất lạ, toan mở miệng thì đúng lúc này, ngoài xe bỗng truyền tới tiếng xé gió.

Mười mấy mũi tên rạch tinh không bay đến, Thanh Duy cúi người tránh, thế mà đối phương còn phản ứng nhanh hơn nàng, gạt nhuyễn ngọc kiếm kề trước cổ ra, nhanh chóng bảo vệ nàng dưới người.

Một khắc sau, hai mũi tên xuyên qua cửa sổ, ghim thẳng lên vách xe.

Vừa tránh được một phen đoạt mạng, ngoài xe lại có mũi tên tiếp tục tấn công, đâm thẳng vào tuấn mã trước xe. Con ngựa vốn đã không biết hướng nay còn chịu kinh động, nó lập tức nhấc bổng vó lên trước dốc núi, định hất hai người trong xe ra ngoài.

Người trong xe như đã có chuẩn bị từ trước, trong chớp mắt xe nghiêng xuống dốc, y ôm Thanh Duy lao ra, lăn xuống theo đồi, chống trên người nàng mà nhìn.

Đụn mây che lấp bầu trời đã tản tự bao giờ, ánh trăng bàng bạc xuyên qua kẽ lá chiếu xuống.

Giữa hai người cách một lớp lụa, ngược hướng ánh sáng nên Thanh Duy không nhìn rõ mặt, nhưng nàng còn lạ gì ánh mắt ấy.

Cũng như đêm tân hôn, như biển đêm tĩnh lặng.

Tim Thanh Duy hẫng một nhịp, nàng bỗng vươn tay vén tấm lụa lên, thậm chí còn chưa thấy mặt đã bật thốt: “Quan nhân?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng.

Ánh trăng dừng ở đuôi mắt y tựa một lớp sương mỏng, tròng mắt trong veo quện lẫn với bóng đêm lấp lánh nhìn nàng.

Một lúc sau, y nhoẻn môi cười, giọng trầm đi: “Ừm, nương tử.”

Nghe tiếng “nương tử”, Thanh Duy mới ngớ ra mình vừa gọi nhầm.

Thời gian làm vợ chồng giả giữa bọn họ đã kết thúc, y quay về thâm cung làm vị vương gia trên cao, nàng cũng trở lại cuộc sống bốn biển là nhà.

Nàng há miệng, muốn giải thích không phải mình cố ý gọi y là “quan nhân”, chỉ vì… vì từ khi quen nhau cho đến nay, nàng toàn gọi y như vậy, chỉ là quen miệng mà thôi.

Tạ Dung Dữ vuốt tóc nàng ra sau tai, bình tĩnh nhìn nàng.

Tuy đã dịch dung nhưng vẫn có thể nhận ra nàng tiều tụy hẳn đi, sắc mặt chẳng tươi tỉnh, không biết nửa năm qua nàng tự chăm sóc thế nào, cơ thể ôm trong lòng cũng gầy hẳn hơn trước.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Sao lại thành ra thế này?”

Thanh Duy ngẩn người, tưởng y đang nói mình trét đất giả ma khiến mặt bẩn, bèn đưa tay lau sạch mặt, “Sạch hơn chưa?”

Tạ Dung Dữ mỉm cười.

Dưới ánh trăng, đôi mắt nàng hệt như dòng suối mát.

Nàng bẩn chỗ nào cơ chứ?

Rất sạch.

Sạch đến mức khiến y luôn hối hận vì đã từ biệt vội vàng, không bảo vệ được nàng.

Giọng y khàn khàn: “Sau khi nàng rời kinh, ta đã cho người tìm nàng khắp nơi, lâu như thế, rốt cuộc nàng đã đi đâu?”

Thanh Duy ngẩn ngơ, nàng có thể đi đâu đây? Đào phạm như nàng đi đến đâu tính đến đấy thôi. Về sau điều tra được sự kỳ lạ của sơn tặc núi Trúc Cố, lại nghe bảo Thượng Khê có ma quỷ lộng hành nên nàng mới tới xem sao.

Bây giờ nàng vẫn cảm thấy thật trùng hợp, vì sao nàng vừa định điều tra sơn tặc trên núi thì Thượng Khê liên tục xảy ra chuyện ma quỷ? Nghĩ đến đây, nàng chợt hiểu ra: “Có phải chính ngài tung tin ma quái trong thành không?”

Tạ Dung Dữ định trả lời thì chợt trên núi vọng đến tiếng bước chân lục soát.

Quân lính đã đuổi tới nơi rồi, bọn họ lăn xuống con dốc chỉ có thể trốn được một lúc mà thôi. Dấu vết mà ngựa để lại rất dễ tìm, chẳng mấy chốc trên đường núi đã sáng rực.

Tạ Dung Dữ lập tức kéo Thanh Duy dậy, nhìn quanh khắp nơi, con ngựa bị thương đang nằm rạp gần đấy, xe ngựa đằng sau vẫn còn dùng được, y bèn kéo Thanh Duy đi tới, để nàng trốn trong khoang xe rồi nói: “Nấp kỹ vào, đừng đi đâu cả, cứ giao nơi này cho ta.”

Thanh Duy “ừm” một tiếng.

Tạ Dung Dữ buông rèm, nhưng vừa đi được hai bước đã quay người lại, vén rèm lên.

Sắc lửa và ánh trăng giao thoa sau lưng y, y đứng ngược với ánh sáng nên Thanh Duy không thấy được vẻ mặt, chỉ thấy y đứng trước xe, im lặng một lúc rồi gọi nàng: “Tiểu Dã.”

Y nói: “Đừng rời đi nữa.”

Thanh Duy giật mình, không hiểu vì sao y lại dặn dò cùng một điều đến hai lần, chỉ biết gật đầu: “Được.”

***

Khu rừng dưới dốc núi khá thưa, chẳng mấy chốc quân lính đã tìm đến nơi, đuốc lửa thắp sáng như ban ngày.

Hội Ngũ Thông và Chương Lộc Chi dẫn binh đi trước, khi thấy rõ người đứng dưới sườn, cả hai đi tới bái lạy: “Chiêu vương điện hạ.”

Tôn Nghị Niên đi theo sau, nghe thấy tiếng “Chiêu vương điện hạ” thì giật mình đến nỗi nhảy dựng lên, ngã khuỵu xuống dốc, còn chưa kịp đứng dậy đã quỳ xuống trước Tạ Dung Dữ: “Chiêu, Chiêu vương điện hạ, hạ quan không biết điện hạ đích thân đến Thượng Khê, tiếp đãi không chu đáo, xin điện hạ không trách tội.”

Ông ta đâu chỉ tiếp đãi không chu đáo?

Trước ngày hôm nay, ông ta không biết Tạ Dung Dữ ở Thượng Khê đã đành, nhưng lúc nãy để chặn đường truy binh, Khúc Mậu đã nói với ông ta là xe ngựa của Tiểu Chiêu vương đang truy đuổi con ma xám, thế mà ông ta vẫn không tin, thậm chí còn không thèm phái người đến các trạm kiểm soát trên núi thông báo.

Nghe nói lúc nãy có kẻ bắn tên trên núi để chặn đường xe ngựa, Tôn Nghị Niên thực sự chỉ muốn dập bể đầu trước Tạ Dung Dữ. Chuyện bắn tên nói nhỏ thì nhỏ mà nói to cũng to, chỉ cần chút sơ sẩy sẽ rơi vào tội mưu hại thân vương, dù có lấy mạng của cả nhà ông ta cũng không đền nổi.

Tạ Dung Dữ lại không so đo với ông ta chuyện bắn tên, chỉ nói: “Không biết không trách tội, Tôn đại nhân đứng dậy đi.”

Tôn Nghị Niên được Tần sư gia dìu đứng lên, giơ tay lau mồ hôi trên trán, “Không biết điện hạ đến Thượng Khê là vì chuyện gì, nếu có chuyện hạ quan có thể dốc sức, xin điện hạ ra lệnh.”

Tôn Nghị Niên nói như vậy cũng chỉ xuất phát từ lễ nghĩa cấp bậc mà thôi, ông ta nghĩ, một Huyện lệnh như mình sao có chuyện được Tiểu Chiêu vương xem trọng?

Ai ngờ Tạ Dung Dữ lại nói: “Bổn vương thực sự có việc muốn giao cho Tôn đại nhân đây.” Y dừng lại, “Nhưng chư vị đã bắt ma cả một đêm, ắt hẳn bây giờ đang rất mệt, để sau nói cũng không muộn.”

Đoạn, y liếc nhìn xe ngựa, gọi: “Chương Lộc Chi.”

Chương Lộc Chi hiểu ý, đang định đi tới đổi ngựa với con ngựa bị thương thì Tả Kiêu vệ Ngũ Thông cất tiếng: “Gượm đã.”

Ngũ Thông chắp tay với Tạ Dung Dữ: “Điện hạ, mạt tướng nghe nói ngài đến ngọn núi này là để truy bắt ma xám, dám hỏi điện hạ, ma đâu rồi?”

Tạ Dung Dữ nói: “Không đuổi kịp, hắn chạy vào rừng thoát rồi.”

Ngũ Thông không nhân nhượng, núi Trúc Cố rừng sâu sâu thẳm, lập trạm kiểm soát khắp nơi để bắt giữ lệ quỷ, mà tối nay sau khi trải qua một phen triền đấu, hắn nhận ra con ma xám kia thực chất là người chứ không phải ma, hơn nữa… rất có thể là một khâm phạm lẩn trốn mà hắn biết.

Có rất ít kẻ có thể phá được vòng vây trùng trùng đến vậy, lúc trước hắn đã giao thủ với một người như thế ở trong kinh.

Đã là người thì hai chân không nhanh bằng bốn vó, tuyệt đối không thể chạy thoát khỏi phạm vi lùng bắt của họ.

Ngũ Thông nhìn khắp nơi, trên đường hắn đến đây đã được lục soát mọi ngóc ngách, nếu nói có nơi nào chưa tìm kiếm thì…

Ánh mắt Ngũ Thông dừng lại ở cỗ xe ngựa treo đèn lồng chữ “Khúc”, “Không biết điện hạ có thể cho phép mạt tướng kiểm tra xe ngựa được không?”
 
Chương 97


Câu nói đó nghe khá là vô lễ.

Nhưng Tả Kiêu vệ phụng thánh lệnh đến Thượng Khê bắt ma, hay nói cách khác, bọn họ mang danh khâm sai trong người, bây giờ ma đã tẩu thoát, kiểm tra xe ngựa cũng chỉ là để xác định tung tích của nó mà thôi.

Nói đoạn, Ngũ Thông định ra lệnh cho Tả Kiêu vệ đi lên kiểm tra xe ngựa, nhưng Tạ Dung Dữ lập tức sầm mặt: “Sao, Ngũ hiệu úy đang nghi ngờ bổn vương?”

Ngũ Thông vội chắp tay: “Mạt tướng không dám, mạt tướng chỉ đang làm tròn chức trách…”

“Chức trách của các ngươi là cùng quan phủ Thượng Khê lùng bắt ác quỷ đang lộng hành càn quấy, chứ không phải tự ý làm bậy. Bổn vương hỏi ngươi, nếu con ma xám kia thực sự ở trong xe ngựa của bổn vương thì ngươi định làm gì? Lập tức tróc nã tấu lên triều đình coi như xong?”

“Chuyện này…” Ngũ Thông chần chừ, “Nếu có thể bắt được nó, dĩ nhiên sẽ tấu lên triều đình.”

“Còn nếu không bắt được? Ma không ở trong xe ngựa? Hay ngươi muốn bổn vương phải phái Huyền Ưng vệ lục soát cả quả núi cho ngươi?” Tạ Dung Dữ phất tay, vẻ mặt lạnh lùng, “Nếu đến bổn vương phải bắt ma giúp ngươi thì triều đình nuôi ngươi làm cái gì? Tới chút chuyện cỏn con này cũng không làm xong, còn dám oang oang tận chức? Chi bằng sớm sớm tháo giáp trả đao, ở lại Thượng Khê làm gì nữa!”

Tiểu Chiêu vương sống trong thâm cung hơn hai mươi năm, cực ít khi nghiêm nghị đến vậy, y vừa dứt lời, mọi người có mặt không khỏi run bắn lên, Tôn Nghị Niên đang định đứng dậy lại lập tức quỳ sụp xuống.

Thực ra Ngũ Thông nào có ý muốn nhờ Tiểu Chiêu vương giải quyết công chuyện, nhưng hắn nhớ lại, tối nay khi chạy lên núi, chuyện đầu tiên hỏi Tạ Dung Dữ lại là tung tích về con ma xám, biết ma xám chạy thoát thì lập tức đòi lục soát xe ngựa của y, hành động đó tuy phù hợp với quy trình, nhưng đúng là có ý “nhờ vả”, ngồi không hưởng lộc.

Bị chụp cái danh ấy, Ngũ Thông không dám lục soát xe ngựa nữa, lập tức quỳ xuống đất thỉnh tội: “Xin điện hạ thứ tội, tối nay con ma xám chạy thoát là do mạt tướng vô năng, mạt tướng sẽ tăng cường binh lính truy lùng. Điện hạ từ xa đại giá Thượng Khê ắt có công chuyện quan trọng, mạt tướng không dám vượt quyền, vừa rồi lời lẽ lỗ mãng, mong điện hạ chớ trách.”

Tạ Dung Dữ chẳng buồn nhìn hắn, để Chương Lộc Chi đổi ngựa rồi bước lên xe, hạ rèm xuống: “Quay về Vân Khứ Lâu.”

***

Ngày trước Vân Khứ Lâu được Khúc Mậu bao trọn, còn bây giờ Tạ Dung Dữ đã xuất hiện, người ở nha huyện dù ngốc đến đâu cũng đoán được người thực sự muốn ở Vân Khứ Lâu không phải là Khúc Hiệu úy, mà là Tiểu Chiêu vương.

Có hơn mười Huyền Ưng vệ mai phục ở Thượng Khê, người nào người nấy đều là tinh anh, quá đủ để trấn thủ một Vân Khứ Lâu, cho nên vừa về tới Thượng Khê, Tôn Nghị Niên rất nhanh trí rút lui nha sai, sau đó cùng hội Ngũ Thông, Khưu Minh quay về nha môn, đợi Tiểu Chiêu vương truyền gọi.

Thanh Duy theo Tạ Dung Dữ quay về phòng chữ Thiên, Triêu Thiên và Chương Lộc Chi đã chờ bên trong.

Trông thấy Thanh Duy, Triêu Thiên vui vẻ tiến lên đón: “Đúng là thiếu phu nhân thật rồi!”

Lúc này Thanh Duy mới định thần, “Hóa ra con ma áo đỏ cướp ngựa với ta tối qua là ngươi?” Nàng ngồi xuống bên bàn, nghĩ một lúc rồi giải thích, “Sao ngươi không nói gì? Nếu biết là ngươi thì ta đã không ra tay nặng rồi, con ngựa kia không được chăm sóc tốt, đường trên núi cũng chẳng dễ đi, đám người ở nha môn lại sống chết đuổi theo ta bằng được, ta sợ ngựa chở hai người chạy không nhanh nên mới hất ngươi xuống. Nhưng xem ra trong nửa năm qua, công phu của ngươi tiến bộ không tệ đấy.”

Nàng đã chạy suốt một đêm, miệng lưỡi khô ran nên giọng cũng khàn khàn, Tạ Dung Dữ nhìn nàng, rót cho nàng một cốc nước.

Thanh Duy uống được nửa, lại hỏi Triêu Thiên, “Sao chỉ có mỗi ngươi ở đây vậy, Đức Vinh đâu?”

Triêu Thiên được Thanh Duy khen thì lấy làm phấn chấn, hồi còn ở Giang gia, hắn từng nhờ Thanh Duy chỉ điểm võ công, lúc ấy Thanh Duy nói thân thủ của hắn quá cứng, dễ chịu thiệt, nửa năm qua hắn khổ luyện không nghỉ, nay có được lời khen đó, hắn cảm thấy không gì xứng đáng hơn nữa. Hắn đáp: “Đức Vinh đi Trung Châu để tìm thiếu phu nhân đấy, bây giờ tìm được thiếu phu nhân rồi, có thể hắn sẽ tới Lăng Xuyên sớm thôi.”

Triêu Thiên và Đức Vinh đều là trẻ mồ côi trong trận chiến sông Trường Độ, về sau được một thương nhân Trung Châu tên Cố Phùng Âm nhận nuôi, Tạ Dung Dữ đã từng đề cập chuyện này với Thanh Duy.

Tạ Dung Dữ không thể công khai tìm Thanh Duy, để Đức Vinh đến Trung Châu ắt có lẽ là muốn sử dụng quan hệ thương lộ của Cố Phùng Âm.

Chỉ là Thanh Duy không ngờ y lại phái Đức Vinh đi làm việc này.

Nàng nói: “Thực ra ta cũng định đến Trung Châu, nhưng đi được nửa đường lại có cảm giác không ổn, cứ cảm thấy Từ Thuật Bạch lên kinh không phải để kiện Hà gia, nên giữa chừng đổi sang Lăng Xuyên, định điều tra thêm về Từ Đồ, mấy người đến Lăng Xuyên cũng là vì chuyện này à?”

Vốn Thanh Duy đâu ưa nói nhiều, nhưng hôm nay gặp lại Tạ Dung Dữ và Triêu Thiên thì thật sự rất vui, bao năm lang bạt một mình, đây là lần đầu tiên nàng cảm nhận được niềm vui khi gặp cố nhân nơi đất khách.

Triêu Thiên cũng rất hứng khởi, mấy năm sống ở Giang phủ, tuy công tử không nói ra nhưng lần nào cũng tự dằn vặt, cho tới lúc thiếu phu nhân được gả vào, công tử mới thả lỏng đi rất nhiều, không còn như trước nữa.

Mà khi thiếu phu nhân rời đi, những người bên cạnh công tử như bọn họ còn mong nàng quay về nhiều hơn ai khác.

Triêu Thiên nói: “Công tử đọc thư của thiếu phu nhân, cũng nghĩ ngay đến chỗ kỳ lạ trong việc Từ Thuật Bạch cáo trạng, chạy đến nhà lao tính tra hỏi Hà Hồng Vân, đáng tiếc vẫn chậm một bước, nhưng may là hồi trước Huyền Ưng Ti từng điều tra về Từ Thuật Bạch, trong tay có manh mối, thiếu phu nhân có thể hỏi Chương huynh đệ.”

Chương Lộc Chi nhìn Tạ Dung Dữ, thấy y không có ý ngăn cản bèn tiếp lời của Triêu Thiên: “Thiếu phu nhân đã đến Thượng Khê một thời gian, vậy có nghe nói về thương hộ họ Tưởng không?”

Thanh Duy gật đầu: “Họ Tưởng này có một người con trai, năm xưa chết dưới Tiển Khâm Đài. Về sau sơn tặc núi Trúc Cố bị tiêu diệt cũng là vì người nhà này kiện bọn họ lên quan phủ.”

Nếu không phải cảm thấy chuyện đó kỳ quặc thì tối qua nàng đã không mạo hiểm để đi cứu con ma xám kia làm gì.

Chương Lộc Chi nói: “Đúng thế. Có điều hồi xưa lão gia họ Tưởng từng ở rể, con trai cả của ông ta không mang họ Tưởng mà họ Phương, tên Phương Lưu.”

Về sau vợ lớn qua đời, Tưởng lão gia lập cơ ngơi khác, nhưng họ tên và hộ tịch của Phương Lưu vẫn không thay đổi, đó cũng là lý do vì sao rõ ràng năm ấy Huyền Ưng Ti đã phát hiện được điểm khác thường về sơn tặc núi Trúc Cố, song lại không thể phát hiện Tưởng lão gia đã kiện sơn tặc chính là cha của một sĩ tử lên đài.

“Cũng may Ngu hầu làm việc kỹ lưỡng, tìm được danh sách sĩ tử thương vong ở trong kho án Đại Lý Tự, lại lấy được gia phả từ bộ Hộ và quan phủ địa phương, kiểm tra từng người một mới tìm được manh mối này.”

Sau khi tìm ra manh mối, Tạ Dung Dữ lập tức điều hai Huyền Ưng vệ đến Thượng Khê, cải trang thành thương nhân âm thầm nghe ngóng Tưởng gia.

Nhưng bọn họ cũng không điều tra thêm được gì, khi đang định quay về thì vô tình phát hiện có người theo dõi.

Cả hai cẩn thận nhớ lại, chắc chắn không để lộ bất cứ manh mối nào khi giao tiếp với nhà họ Tưởng. Nếu nói bắt đầu có người theo dõi từ khi nào, thì có lẽ là từ lúc hỏi nhà họ Tưởng về chuyện ma quỷ hoành hành ở núi Trúc Cố vào năm năm trước.

Lúc ấy Tiển Khâm Đài đã bắt đầu được xây dựng, triều đình điều quân đội nha môn đến Lăng Xuyên. Hai người sợ bứt dây động rừng nên lập tức hồi kinh, báo cáo với Tạ Dung Dữ về manh mối điều tra được ở Thượng Khê, Tạ Dung Dữ cảm thấy ma quỷ càn quấy ở Thượng Khê năm xưa có điểm đáng ngờ, bèn nhân cơ hội này điều hơn mười tinh anh ở Huyền Ưng Ti đến Thượng Khê mai phục, sau đó lệnh Triêu Thiên cải trang thành con ma áo đỏ, lẻn vào núi Trúc Cố thử dụ rắn ra khỏi hang.

“Địa phương nào mà chẳng có vài chuyện ly kỳ, yêu ma quỷ quái cũng đâu phải việc lạ, ban đầu chúng tôi không có ý lợi dụng chuyện ma quỷ lộng hành, nhưng ai bảo đám người kia có tật giật mình, kẻ khác chỉ mới điều tra một con ma mà đã để lộ manh mối.” Chương Lộc Chi nói, “Ngày thứ hai sau khi Triêu Thiên cải trang làm ma áo đỏ, đột nhiên trong huyện có người chết, sau đó nha huyện phong tỏa ngọn núi, con ma xám năm xưa lập tức xuất hiện. Chúng tôi có cảm giác mấu chốt nằm ở con ma xám đó, vốn nhân lúc nha huyện bắt ma để mà bắt hắn trước, không ngờ lại dẫn thiếu phu nhân đến.”

Nghe Chương Lộc Chi nói như vậy, Thanh Duy đã hiểu ra.

Mùa đông năm ngoái, nàng và Tạ Dung Dữ lần lượt phát hiện sự kỳ quặc trong việc Từ Thuật Bạch lên kinh cáo ngự trạng, có điều Tạ Dung Dữ nhanh hơn nàng một bước, đã phái người đến Thượng Khê kiểm chứng.

Y mượn chuyện ma quỷ lộng hành để giăng bẫy ở Thượng Khê, còn nàng là người bị cái bẫy này dụ đến.

Triêu Thiên đắc chí, một suy nghĩ vụt lên trong đầu, “Nếu tối qua thiếu phu nhân đã cải trang làm con ma xám kia, liệu có phải đã…”

Nhưng hắn chưa nói hết câu, Tạ Dung Dữ đã đặt cốc trà xuống bàn cái *cạch*.

Tuy Chương Lộc Chi nóng tính song vẫn biết nhìn sắc mặt, hắn lập tức chắp tay: “Ngu hầu đã bôn ba một đêm dài, có lẽ bây giờ đã mệt rồi, chúng thuộc hạ không làm phiền nữa.”

Nói đoạn, hắn lôi Triêu Thiên ra ngoài, khép cửa lại.

Dù Triêu Thiên chưa nói xong nhưng Thanh Duy biết hắn muốn hỏi gì, thực là đã nhắc nhở nàng.

Thanh Duy đứng dậy đẩy cửa sổ ra nhìn quanh, định quay đầu dặn Tạ Dung Dữ thì y đã khép cửa lại, “Nàng muốn làm gì?”

Thanh Duy nói: “Có vẻ như tiểu a đầu ở chỗ ta đang ở biết con ma xám kia, ta phải nhanh chóng trở về, mượn tay cô ấy dụ ma mới được.”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng: “Lát nữa nàng hẵng về, có khi cô ta chạy rồi không chừng.”
 
Chương 98


Thanh Duy nghĩ hoài chẳng ra.

Làm gì có chuyện bỏ chạy được, toàn bộ Thượng Khê đã bị phong tỏa, ngay đến nàng còn khó chạy thoát huống hồ là Diệp Tú nhi.

Có điều nàng là người nóng tính, nghĩ tới chuyện gì là phải làm ngay, sợ chậm trễ sẽ bỏ lỡ thời cơ.

Thanh Duy nói: “Ta quay về sớm thì chúng ta cũng sớm điều tra ra điểm kỳ lạ ở núi Trúc Cố mà?”

Tạ Dung Dữ nói: “Quan phủ vừa mới bắt ma nên đang siết chặt tin tức bên ngoài, hẳn tiểu cô nương kia sẽ rất đề phòng, nàng có làm gì chưa chắc cô ta đã mắc lừa.”

Thanh Duy cảm thấy y nói có lý, Tú nhi là một a đầu lanh lợi, đêm qua ra ngoài đã lỗ mãng lắm rồi, để tránh bị nghi ngờ, chắc chắn hôm nay nàng ta sẽ ngoan ngoãn ở lại trang viên.

Chi bằng đợi thêm vài hôm, đợi tình hình qua đi rồi lại nghĩ cách dụ con ma xám ra.

Tạ Dung Dữ nhìn bầu trời, chỉ một canh giờ nữa mặt trời sẽ mọc, “Có đói bụng không?”

Thanh Duy ngẩn người, nãy giờ chẳng cảm thấy gì, giờ y hỏi vậy mới sực nhớ mình hơn nửa ngày trời chưa ăn uống, lập tức bụng réo ùng ục.

Thấy nàng gật đầu, Tạ Dung Dữ hỏi tiếp: “Muốn ăn gì?”

Thanh Duy đáp: “Gì cũng được, ta không kén ăn.”

Bao năm lang bạt nàng chưa bao giờ chú trọng ăn uống, chỉ cần no bụng.

Nhưng thực chất xuất thân của Thanh Duy không tới nỗi đói nghèo, thậm chí trong nhà còn rất khá giả, ông nội nàng là tướng quân Nhạc Xung, cha là đệ nhất thợ mộc buổi đương triều, vài thói quen ngày bé đã ăn sâu vào trong nàng mà có thể đến chính nàng còn không để ý, nhưng hồi ở Giang gia, Tạ Dung Dữ từng quan sát cẩn thận. Nàng không thích đồ mặn, chỉ thích đồ tươi, tuy Ngư Lai Tiên ở Đông lai Thuận không ngon bằng Chúc Ninh Trang nhưng bù lại nguyên liệu còn tươi, vì thế nàng có thể uống đến ba bát canh; nàng cũng không thích ngọt, canh hạt sen Lưu Phương làm là số một, nhưng nếu thêm mật là nàng chỉ miễn cưỡng ăn nửa bát nhỏ, về sau Trú Vân cất hũ mật đi, thay vào đó là cánh hoa quế ngâm mật, buổi sáng nàng ăn một bát rồi, đến tối nếu đem lên nữa thì nàng vẫn có thể ăn tiếp. Có chuyện này Thanh Duy không biết, vào cuối mùa thu năm ngoái, hoa quế trong kinh héo rất nhanh, nửa đêm canh ba Đức Vinh nhận lệnh của công tử nhà mình, lái xe ngựa chạy khắp thành thu mua toàn bộ cánh hoa quế.

Tạ Dung Dữ đẩy cửa ra, dặn Triêu Thiên: “Bảo phòng bếp chuẩn bị cơm đi, cá hấp, canh tiềm đào, rau mùa, ngươi nhớ phải tự chọn nguyên liệu tươi mới, cá cũng là cá sống, không có cá sống thì đổi món khác.”

Triêu Thiên đáp vâng, nhưng lại do dự chưa đi ngay.

Buổi sáng ngày cùng công tử đến Lăng Xuyên, Đức Vinh đã dặn hắn phải học cách quan sát sắc mặt công tử, “Gõ quạt trong tay tức là đang trầm ngâm, đặt cốc trà xuống tức là đã cạn kiên nhẫn, việc gì cũng chờ công tử mở miệng thì ngươi không giữ được đao của mình đâu.”

Đức Vinh nói: “Đi xa khó mà đổi đao, nếu thực sự chọc giận công tử thì tìm cách bù đắp chuộc tội, nghĩ xem công tử quan tâm gì nhất.”

Được gặp lại Thanh Duy khiến Triêu Thiên vui quên trời đất, mải lo nói chuyện cùng nàng ấy, tới khi công tử đặt cốc xuống hắn mới ngờ ngợ lui ra.

Tạ Dung Dữ thấy Triêu Thiên vẫn chưa đi, “Còn ngớ ra đó làm gì?”

Triêu Thiên dè dặt che thanh đao lại.

May là bây giờ dù hắn có mù cũng biết công tử quan tâm gì nhất.

“Công tử, chuẩn bị cơm nước xong, thuộc hạ đến phòng chứa củi đun nước tắm cho thiếu phu nhân nhé?”

Tạ Dung Dữ nhướn mày, bất ngờ nhìn hắn, “ừ” một tiếng.

***

Phòng bếp ở Vân Khứ Lâu được Khúc Mậu lựa chọn soi mói đến mấy ngày, nên khâu chuẩn bị đồ ăn vừa nhanh chóng lại đảm bảo chất lượng, chỉ chốc lát sau thức ăn đã được dọn lên. Thanh Duy nhìn thức ăn đầy bàn, không ngờ đồ ăn ở huyện thành miền núi lại hợp khẩu vị nàng đến vậy.

Bôn ba một đêm dài khiến Thanh Duy vừa mệt vừa đói, nàng không nói nhiều nữa, lập tức động đũa.

Có cơm lấp bụng, tâm trạng căng thẳng cũng dần dà thả lỏng, tối qua Diệp Tú nhi tự tiện rời trang viên, dù hôm nay không bị Tôn Huyện lệnh cấm túc thì cũng sẽ bị Dư Hạm phạt mà thôi, bây giờ nàng có quay về cũng không làm được gì, chi bằng nán lại Vân Khứ Lâu nghỉ ngơi nửa ngày để hồi sức, từ lúc đến Thượng Khê nàng chưa có lấy một giấc tử tế.

Nghĩ đến đây, Thanh Duy không sốt ruột nữa, túc tắc ăn hết bữa cơm, nàng nhìn xung quanh, chậu gỗ kê trên giá đựng đầy nước sạch, nhưng hình như trong phòng không có gương.

Tạ Dung Dữ sai Triêu Thiên thu dọn bát đũa, nghe thấy tiếng động ở gian bên thì xoay người lại nhìn, “Nàng tìm gì à?”

“Tìm gương soi để lau phấn vàng trên mặt.” Thanh Duy nói. Vì sợ bị nhận diện nên nàng chưa hề tẩy trang kể từ lúc vào Thượng Khê, mà chất liệu phấn vàng không bằng loại phấn nàng dùng ngày trước, không thể để trên da quá lâu.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng.

Gương mặt bôi phấn vàng ngả tối, những chấm tàn nhang vẽ hai bên cánh mũi thêm phần hoạt bát, vì không cần phải giả ma nên nàng túm gọn mái tóc thành đuôi ngựa, rõ ràng nàng dịch dung làm xấu đi, thế mà y vẫn cảm thấy nàng đẹp làm sao.

“Rửa lớp phấn đó thế nào?” Tạ Dung Dữ hỏi.

“Bột tạo bọt là được rồi.”

Trong hộp gỗ kê trên chậu có bột tạo bọt.

Tạ Dung Dữ cầm vải nhúng bột, ngâm nước vắt khô, ngồi xuống băng ghế trước chậu, “Chỗ ta không có gương, lại đây, để ta lau giúp nàng.”

Thanh Duy hồn nhiên ngồi xuống ghế đối diện.

Y nhìn nàng, ngón tay dính nước giữ cằm nàng, nghiêng người lại gần.

Căn phòng trở nên yên ắng, sắc trời mờ mờ, đến ngọn đèn cầy cũng cháy leo lắt, Thanh Duy nghe được tiếng thở rất nhẹ của y, y đang nghiêm túc lau phấn cho nàng, bỗng dưng nàng cảm thấy kỳ lạ.

Lạ đến mức khiến bàn tay nàng đổ mồ hôi.

Tạ Dung Dữ bất thình lình mở miệng, giọng trầm khàn: “Tới Thượng Khê bao lâu rồi?”

“Ba ngày. Từ buổi tối ba ngày trước.”

“Vết thương trên người đã lành chưa?”

Thanh Duy ngẩn ra, đang không biết là vết thương gì, nhưng lúc sau mới sực nhớ, y đang hỏi vết thương khi nàng nị Tả Kiêu vệ truy đuổi trước khi rời thành.

“Đã lành rồi, vết thương của ta trông nặng thế thôi chứ không đụng đến chỗ hiểm, chưa hết mùa đông là lành cả rồi.” Thanh Duy nói, đôi môi mím nhẹ, “Trước khi rời kinh, ta muốn đi tìm ngài, nhưng Giang phủ bị canh chừng, còn thâm cung… Ta không vào được, sau đó ta còn…”

Nàng định nói, sau đó khi y theo thánh giá đến chùa Đại Từ Ân tế trời, nàng còn định đến đại lộ Chu Tước tạm biệt y.

Nhưng không hiểu sao, cứ nhớ tới cảnh trên phố ngày hôm ấy: lớp lớp binh mã đám đông ngăn cách giữa hai người, nàng dắt ngựa rời kinh, ngoái đầu nhìn thâm cung qua màn tuyết phất phơ, chợt trong lòng cảm thấy buồn tênh.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Sau đó thì sao?”

“Sau đó thấy ngài không về Giang phủ, ta bèn rời đi.”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, đã lau xong một bên má, y nhúng khăn vào nước vắt khô, giữ cằm nàng, dừng một lúc rồi dịu dàng nói: “Thực ra ta cũng không ở lại điện Chiêu Doãn quá lâu.”

Thậm chí còn chưa hết mùa đông, bệnh tình vừa mới đỡ là y lập tức quay về Giang phủ.

Cứ cảm thấy…

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy.

Cảm thấy không chừng ngủ một giấc dậy, nàng sẽ trở về.

Ban đêm đi ngủ cũng giữ cửa mở.

Thanh Duy không nhận ra ý nửa vế sau trong lời ý, hỏi: “Tại sao không ở lâu? Có phải trong cung lớn quá, quạnh quẽ quá nên không quen?”

Tạ Dung Dữ mỉm cười: “Ừ, đúng là không quen thật.”

Thanh Duy bảo: “Ta cũng cảm thấy chỗ đó lạnh lẽo.”

Tạ Dung Dữ lại nhìn nàng, hạ giọng nhắc nhở: “Nhắm mắt lại nào, cẩn thận bọt vào mắt.”

Lạ một điều, rõ ràng y chưa làm chuyện này bao giờ, thế mà lau mặt còn tỉ mỉ hơn nàng rất nhiều, đầu tiên là lau sạch hai má, sau đó đến mắt rồi cuối cùng là khóe môi, lực tay nhẹ nhàng vừa phải, có thể bẩm sinh y là người cẩn thận như thế.

Lực bên đuôi mắt biến mất, con tim Thanh Duy chợt rung động, không khỏi ngước mắt nhìn y.

Sau nửa năm dưỡng bệnh, sắc mặt y đã khá hơn so với hồi trước rất nhiều. Kỳ thực Tạ Dung Dữ không hẳn có vẻ dịu dàng ấm áp, ở y có nét thanh cao lạnh lùng, nhất là đuôi mắt dài xếch nhẹ, lúc không cười trông rất nghiêm nghị, sống mũi cao ráo cực kỳ tuấn tú, nếu mặc khôi giáp vào thì khéo tám phần trở thành tướng quân trẻ tuổi, nhưng y lại chẳng phải người tập võ thực thụ, phụ thân y là nhân sĩ trí thức, là tài tử xuất chúng, là Trạng nguyên lang danh chấn kinh thành thuở bấy giờ, mắt chứa đầy tuyết, tiếng cười đơm sương.

Như thể cảm nhận được cái nhìn của Thanh Duy, Tạ Dung Dữ ngước lên, tầm mắt hai người chạm vào nhau.

Đôi mắt như chứa nước của y nhìn nàng chăm chú, con ngươi trong veo sáng ngời, càng nhìn kỹ càng lún sâu vào trong.

Không hiểu vì sao Thanh Duy lại bị ánh mắt đó hớp hồn, muốn chạm thấu nơi sâu nhất, nhưng nghe thấy hơi thở dần trở nên nặng nề của y trong màn đêm yên tĩnh.

Ngón tay ẩm ướt giữ cằm nàng bỗng trở nên nóng hổi.

Như có thứ gì dội thẳng vào lòng Thanh Duy, đương lúng túng thì đúng lúc này, chợt có tiếng gõ cửa vang lên:

“Công tử?”

Là Triêu Thiên.

“Bẩm công tử, đã chuẩn bị nước tắm xong rồi ạ.”
 
Chương 99


Tạ Dung Dữ im lặng rất lâu, đoạn đứng dậy, không nói không rằng kéo cửa ra.

Triêu Thiên ân cần xách mấy xô nước nóng đi vào, đổ đầy thùng nước tắm, trước khi lui ra còn nói: “Công tử, thuộc hạ chờ ngoài hành lang, cần việc gì cứ gọi ạ.”

Phòng chữ Thiên ở Vân Khứ Lâu có bố cục không khác phòng ngủ ở Giang gia là bao, gian phụ nằm hai bên và phòng chính được nối thông nhau, Khưu Mậu đi rồi, Tạ Dung Dữ cũng không khách khí mà biến gian phụ thành phòng tắm.

Nước tắm ấm áp dễ chịu, tối hôm qua Thanh Duy chạy trối chết suốt đêm, mồ hôi nhễ nhại nhớp nháp làm nàng chỉ muốn được tắm ngay, nhưng vừa đặt chân vào phòng tắm thì nàng bỗng ý thức được một điều, kéo cửa phòng tắm ra.

Tạ Dung Dữ đang xem bản đồ núi Trúc Cố, nghe thấy tiếng động bèn xoay mặt lại: “Sao thế?”

“Ta…” Thanh Duy do dự, “Ta không có đồ thay.”

Nàng nói xong, Tạ Dung Dữ cũng ngẩn người.

Một lúc sau, y đi tới tủ lấy trung y của mình ra, vắt lên kệ trúc trong phòng tắm: “Mặc của ta đi.”

***

Bấy giờ đã gần giờ Mão, mây trời dần hửng sáng, Thanh Duy tắm xong bước ra, cứ cảm thấy là lạ chỗ nào đó.

Kế hoạch của nàng là nghỉ ở Vân Khứ Lâu đến giờ Thìn, bàn bạc với Tạ Dung Dữ cách dụ ma xám xuất hiện, đợi tới khi trời sáng, quân lính tuần tra trên đường rút bớt thì nàng sẽ về trang viên làm theo kế hoạch.

Kế hoạch rất tốt, chỉ là…

Thanh Duy nhìn bộ trung y của Tạ Dung Dữ trên người mình, lại nhìn chiếc giường đã được dọn dẹp trước mắt, cuối cùng cũng ý thức được điểm bất ổn.

Sao nàng lại nán lại đây như thể chuyện đương nhiên vậy?

Hai người là cố nhân, là người quen cũ, nàng ở lại một lúc, dùng một bữa cơm cũng bình thường, nhưng bọn họ đã không còn là vợ chồng nữa rồi, nàng mặc đồ của y, ngủ giường của y, lại còn dùng bể tắm của y, như thế là thế nào?

Tạ Dung Dữ thấy Thanh Duy ngơ ngác ngồi trên giường, nghiêng người tới đắp chăn cho nàng rồi ngồi xuống một bên: “Đang nghĩ gì vậy?”

Thanh Duy nhìn y.

Nàng đã quen sống chung với y như thế rồi, chỉ vì cuộc hội ngộ bất ngờ mà xém quên phải đối xử với y như người ngoài.

Y cũng thật là, sao lại không nhắc nàng? Đừng bảo là cũng quen rồi nhé.

Chiếc giường khá lớn, Thanh Duy nhìn chỗ trống bên cạnh, hỏi thử: “Ngài… không ngủ à?”

Tạ Dung Dữ dừng lại, nhìn nàng: “Muốn ta ở bên nàng?”

Thanh Duy vội vàng lắc đầu.

Chẳng hiểu sao nàng lại sợ có y ở bên cạnh, nhưng đó không hẳn là tâm lý sợ hãi, bởi lẽ nàng không kháng cự, chỉ là tim nàng đập rất mạnh, giống như vừa rồi khi y đột nhiên tới gần đắp chăn cho nàng, ngửi thấy hơi thở thơm mát trên người y, con tim nàng suýt đập trễ một nhịp.

Thanh Duy cảm thấy, nếu y mà nằm ngủ bên cạnh, khéo cả đêm ấy nàng sẽ thức trắng mất.

Lạ thật, năm ngoái ở Giang gia, hai người từng ngủ chung giường nhưng nàng chưa bao giờ có cảm giác đó, hồi ấy nàng cũng đâu thực sự xem y là phu quân của mình. Còn bây giờ khi đối diện nhau bằng thân phận thật, tại sao nàng lại không thích ứng được thế này?

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy: “Vậy nói chuyện đi.”

“… Nói gì?”

Tạ Dung Dữ mỉm cười, chỉ cho rằng nàng đã quá mệt, hạ giọng nhắc nhở: “Không phải nàng nói tiểu a đầu ở chỗ mình đang ở có khả năng quen biết con ma xám ấy à. Sao nàng lại gặp được cô ta?”

Thanh Duy nghe thế, nhớ đến Diệp Tú nhi, con tim treo cao cũng thả lỏng, “Gặp ở phủ Đông An.”

“Ta đến Lăng Xuyên, nghe nói Từ Đồ quen biết sơn tặc núi Trúc Cố nên định đi thẳng đến Thượng Khê luôn, nhưng lúc đó Thượng Khê đã bị phong tỏa vì chuyện ma quái. Ta mới đợi ở phủ Đông An vài hôm, tính tìm vài người Thượng Khê dẫn ta đi đường tắt vào Thượng Khê, tránh trạm dịch kiểm tra.

Rồi cứ thế mà gặp Diệp Tú nhi và Diệp lão bá thôi, chủ nhân bọn họ phục vụ tên Dư Hạm, là phòng ngoài được Tôn Huyện lệnh nuôi ở trang viên thành tây, bọn họ đến phủ Đông An để mua son phấn, nhưng mua xong không về mà cứ luẩn quẩn ở tiệm thuốc mấy ngày.

Thực ra ban đầu ta cũng không nghi ngờ gì đâu, có điều về sau chuyện trùng hợp quá, ngay cái đêm ta vừa đến Thượng Khê thì con ma xám xuất hiện trong trang viên, tìm Diệp Tú nhi đầu tiên. Cả tối hôm qua nữa, rõ ràng trong thành đang bắt ma, nhưng Diệp Tú nhi lại lén rời khỏi trang viên, còn thắt túi thơm lên cây hòe già trong thành, khắc ký hiệu. Tối qua ta đụng đầu với con ma xám ngay lúc nó ngồi xổm trên cây. Ta ngờ rằng mùi hương lạ trong túi thơm đó dùng để thu hút con ma, ký hiệu khắc trên thân cây là muốn báo nó mau chạy đi, Diệp Tú nhi và Diệp lão bá biết con ma xám này không phải ngày một ngày hai, khéo có khi năm năm qua chính bọn họ đã giúp con ma xám ẩn nấp, chứ một thiếu niên tâm trí chưa toàn diện như hắn thì không thể trốn giỏi đến vậy được.”

Nghe Thanh Duy kể xong, Tạ Dung Dữ trầm ngâm, “Ông cháu Diệp gia quen biết con ma xám, nàng chắc chắn bao nhiêu phần?”

Thanh Duy suy nghĩ: “Chín phần. Ta không tin trùng hợp, con ma xám liên tục xuất hiện vì Diệp Tú nhi, ắt hẳn trong này có nguyên nhân. Còn một điểm quan trọng nữa, tối qua quan phủ giăng bẫy ở tiệm thuốc để bắt ma, mà lúc trước ở Đông An, Diệp Tú nhi và Diệp lão bá cũng thường xuyên tìm mua một vị thuốc. Ta đoán thực chất người muốn mua dược liệu không phải ông cháu Diệp gia mà là con ma xám, ông cháu họ chỉ đang giúp hắn mà thôi.”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Nàng có biết bọn họ đang tìm mua dược liệu gì không?”

Thanh Duy lắc đầu.

Hồi ở Đông An, nàng chỉ muốn Diệp Tú nhi và Diệp lão bá dẫn mình vào Thượng Khê, để tránh bị nghi ngờ nên nàng không hỏi nhiều chuyện của bọn họ. Nếu sớm biết dược liệu là nhân tố quan trọng thì nàng đã hỏi rồi.

Nghe Thanh Duy nói xong, Tạ Dung Dữ trầm ngâm suy tư.

Tuy y và Thanh Duy cùng phát hiện manh mối về sơn tặc núi Trúc Cố, song điểm xuất phát lại khác nhau.

Thanh Duy trực tiếp điều tra được từ việc ma quỷ lộng hành trong núi.

Còn y điều tra từ tướng quân dẫn binh diệt sơn tặc năm xưa, từ đó tra được Tưởng gia kiện cáo sơn tặc, cuối cùng mới hướng sang con ma thỉnh thoảng xuất hiện trong núi mấy năm qua, rồi để Triêu Thiên giả ma dụ rắn ra khỏi hang.

Tướng quân tiêu diệt sơn tặc năm ấy đã đột ngột qua đời trên đường lưu đày vì vụ án hà hiếp dân nữ; còn thương hộ họ Tưởng cáo trạng sơn tặc, đẩy sơn tặc vào đường cùng thì có vẻ như đã bị ai đó đánh tiếng từ trước, không chịu tiết lộ nửa chữ, nếu cứ dồn ép, nói không chừng sẽ bứt dây động rừng.

Cũng tức là, con ma xám bị Tạ Dung Dữ dùng trăm phương ngàn kế dụ ra chính là manh mối duy nhất y có thể trực tiếp giành được.

Y ẩn thân ở Thượng Khê mấy ngày, chẳng phải là vì muốn bắt được con ma xám này trước tất cả mọi người sao?

Nghĩ đến đây, Tạ Dung Dữ nói: “Không sao, từ Thượng Khê đến Đông An cũng không xa, ngựa chiến nửa ngày là đến nơi, nàng còn nhớ tiệm thuốc mà ông cháu Diệp gia ghé là đâu không?”

Nhưng hỏi xong, y lại không nghe thấy người đáp.

Tạ Dung Dữ ngoái đầu nhìn, chẳng ngờ Thanh Duy đã nghiêng người ngủ gục tự bao giờ.

Nàng thực sự đã quá mệt, gần nửa năm qua chẳng ngủ được một giấc tử tế. Mái tóc đen tuyền xõa trên gối, hai má nhợt nhạt, bộ trung y nàng mặc trên người rộng thùng thình, để lộ xương quai xanh gầy gò.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, trong lòng tự nhủ: Sao nàng lại biến mình thành ra như thế?

Trời đã sáng nhưng thời tiết rất đẹp, mưa nhẹ âm u sẽ không ảnh hưởng đến người đang ngủ. Tạ Dung Dữ ôm Thanh Duy nằm thẳng xuống giường, khép cửa sổ lại, hạ rèm xuống, im lặng ngồi một bên.

***

Chẳng hay li bì say ngủ đã bao lâu, cho tới khi Thanh Duy mơ màng mở mắt, đầu óc chưa tỉnh táo, nhìn tia nắng rực rỡ ngoài khung cửa, trong thoáng chốc cứ ngỡ mình đã trở về Giang gia.

Còn chưa ngồi dậy, bên cạnh nàng truyền đến âm thanh dịu dàng: “Tỉnh rồi à?”

Thanh Duy quay mặt sang, Tạ Dung Dữ ngồi bên giường, hình như y có ra ngoài nên đã thay sang trường sam hình mây, đang xem bức thư trong kinh đưa tới.

Thanh Duy vẫn còn ngái ngủ, nửa tỉnh nửa mơ gật đầu.

Tạ Dung Dữ mỉm cười: “Ngủ ngon không?”

Thanh Duy lại gật đầu, “Giờ nào rồi?”

Tạ Dung Dữ đưa cốc nước cho nàng, “Vừa sang giờ Tuất.”

Thanh Duy đang uống nước, nghe thấy giờ Tuất suýt thì sặc. Ban nãy nhìn ánh sáng ngoài cửa sổ, nàng cứ tưởng trời hẵng còn sớm, ai dè đã là hoàng hôn rồi.

Sao nàng lại ngủ những năm canh giờ thế này, bao năm lang bạt bên ngoài đã tạo nàng thói quen giờ giấc chính xác, nói dậy lúc nào là dậy lúc đó.

Thanh Duy đột ngột xoay mình xuống giường, túm tóc thành đuôi ngựa, nhìn quanh bốn phía, thấy bộ đồ vải thô mình thay ra tối qua đang vắt trên kệ thì vội vàng cầm lấy mặc vào.

Tạ Dung Dữ ngạc nhiên: “Nàng làm gì thế?”

Thanh Duy vội vã liếc y, lấy làm tự trách, “Ta làm hỏng chuyện rồi, phải nhanh chóng quay về trang viên.”

Tạ Dung Dữ cảm thấy buồn cười, “Nàng làm hỏng chuyện gì?”

Thanh Duy bôi phấn vàng lên mặt, mượn ánh nắng hoàng hôn, múc một chậu nước rồi soi bóng chấm tàn nhang, “Không phải lúc sáng ta nói với ngài rồi à, Diệp Tú nhi đi Đông An là để tìm một vị thuốc còn gì. Lúc đó ta đã muốn về sớm để thăm dò vị thuốc mà cô ấy đã mua, nhanh chóng dụ con ma xám xuất hiện. Cứ kéo dài chuyện cũng không hay, trong huyện lắm kẻ muốn bắt ma, ai biết đâu mới là hung thủ thực sự, lỡ như bị nẫng tay trên, chẳng phải bao công sức trước đó của chúng ta đổ sông đổ bể ư. Sao ta lại ngủ say vậy chứ?!”

Tạ Dung Dữ lại bảo: “Vội vàng làm gì, ta đã lệnh Chương Lộc Chi đi lấy loại thuốc mà Diệp Tú nhi muốn tìm về rồi.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom