Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Thanh Vân Đài

Chương 100


“Lấy về rồi?” Thanh Duy ngạc nhiên.

Tạ Dung Dữ mở chiếc hộp gỗ ở trên bàn ra, bên trong đựng vài miếng gì đó màu trắng.

“Hải phiêu tiêu*.” Tạ Dung Dữ nói, “Chuyện trị cầm máu hoặc chữa ngoại thương. Dù không phải dược liệu gì quý giá nhưng thứ này chỉ ở ngoài biển, thành thử Diệp Tú nhi khó mà tìm mua được ở Lăng Xuyên.”

(*Hải phiêu tiêu là nang của nhiều loại cá mực, thường dùng nhất là nang mực váng. Phiêu tiêu là tổ con bọ ngựa, vị thuốc này giống tổ bọ ngựa nhưng ở ngoài biển, nên gọi là Hải phiêu tiêu.)

Tuy Thanh Duy chưa thấy Hải phiêu tiêu bao giờ nhưng đã từng nghe qua.

Đúng như Tạ Dung Dữ nói, vị thuốc này dùng để chữa ngoại thương cầm máu, cả Diệp Tú nhi lẫn con ma xám đều có vẻ khỏe mạnh, không cần thiết phải dùng, Diệp lão bá bị cụt chân, cũng không cần dùng để pha chế thuốc, rốt cuộc bọn họ trăm phương nghìn kế tìm Hải phiêu tiêu để làm gì?

Lẽ nào có người khác cần đến nó?

Thanh Duy hỏi Tạ Dung Dữ: “Sao ngài biết Tú nhi muốn tìm Hải phiêu tiêu?”

Tạ Dung Dữ nói: “Dân Thượng Khê cũng chỉ lui tới vài ba tiệm thuốc đấy thôi, phái người đi thăm dò là biết.”

Thanh Duy gật đầu, cầm lấy hộp thuốc, “Tiểu a đầu kia rất lanh trí, để ta tìm cách dụ con ma xám ra!” Nàng cất hộp thuốc vào trong áo, bụng nghĩ cần phải nhanh chóng bắt bằng được con ma xám đấy, thế là hai ba bước đi tới trước cửa sổ, đẩy cửa ra toan nhảy xuống.

Tạ Dung Dữ đi theo, chụp lấy cổ tay nàng: “Đợi đã.”

Y bật cười: “Nàng định đi chân trần về à?”

Nghe y nói vậy, Thanh Duy mới đưa mắt nhìn xuống bàn chân đang đặt trên khung cửa, lúc nãy nàng dậy vội quá, cả vớ còn quên mang chứ nói gì đến hài. Nàng lúng túng ngẩn người, phản ứng đầu tiên là quay đầu nhìn Tạ Dung Dữ, thấy đôi mắt thấp thoáng ý cười của y vừa nhìn lướt qua chân nàng, đầu óc Thanh Duy nhất thời trống rỗng.

Nào phải ai xa lạ, hồi trước còn từng giả vợ chồng kia mà, không phải chỉ bị nhìn chân thôi sao, có gì đâu chứ?

Nàng chưa bao giờ để ý đến điều này cả.

Nhưng càng nghĩ như vậy thì trong lòng nàng càng khó chịu, cảm giác hốt hoảng trước lúc ngủ lại ấp đến, xua cách mấy cũng không biến mất. Thanh Duy không hiểu rốt cuộc chính mình bị làm sao nữa, nàng mím môi, vội vã quay vào phòng đi vớ xỏ hài, đúng lúc này lại nghe Tạ Dung Dữ nói: “Ta hộ tống nàng về nhé?”

Thanh Duy lắc đầu nguầy nguậy: “Không cần đâu, trang viên kia nằm dưới chân núi thành tây, dễ đi lắm, tới lúc đó ta dụ Tú nhi và Diệp lão bá ra mặt, các ngài chỉ cần phối hợp là được.”

Nói đoạn, nàng thôi nhìn Tạ Dung Dữ, cơ thể linh hoạt tựa chú chim, nhẹ nhàng nhảy ra từ cửa sổ rồi lập tức biến mất.

***

Về đến trang viên là cuối giờ Tuất, nha sai canh gác trước cửa đã rút lui.

Thanh Duy không đi cửa chính mà leo tường ở cánh đông để vào, chưa lại gần nhà chính đã nghe thấy tiếng chuyện trò bên trong, hình như thím Ngô đang thấp giọng khuyên nhủ Dư Hạm.

Một lúc sau, cái giọng lanh lảnh của Dư Hạm vọng ra, “… Mua son phấn? Mua son phấn là có thể lập công chuộc tội hả? Vậy tối qua ta cho nó nghỉ ngơi hẳn một đêm rồi đấy! Biểu tỉ nó ra ngoài tìm nó, tới nay vẫn chưa về, phạt nó quỳ trong phòng chứa củi một ngày thì đã làm sao? Nó chết đói được chắc!”

Thím Ngô bảo: “Giang biểu tỉ kia trông có vẻ là người có bản lĩnh, không phải Tú nhi từng nói cô ấy đào hôn chạy trốn sao, hình như phu gia còn quen biết quan phủ. Cô ấy đi cả ngày không về, có khi nào là trốn quan phủ không? Bên ngoài còn đang phong tỏa, có lẽ đợi tới tối là cô ấy sẽ về thôi.”

“Cô ta có về hay không không phải chuyện của ta, có phải là biểu tỉ của ta đâu!” Dư Hạm lạnh lùng nói, “Nhưng ngộ nhỡ xảy ra án mạng, ta sẽ là người đầu tiên đuổi con a đầu chết tiệt Tú nhi ra ngoài, đúng là đen đủi!”

Thanh Duy nghe hai người họ nói chuyện, biết tối qua Diệp Tú nhi về đến nhà thì bị nhốt ở phòng chứa củi, trong lòng thở phào một hơi.

Nàng không kinh động đến Dư Hạm, đầu tiên là về phòng cất Hải phiêu tiêu, ngồi đợi một lúc, tới khi Dư Hạm được thím Ngô khuyên can hạ hỏa, đến hậu viện gỡ lệnh cấm túc cho Diệp Tú nhi thì nàng mới đẩy cửa đi ra ngoài.

Cửa phòng chứa củi mở ra, Diệp Tú nhi lập tức lồm cồm bò dậy từ đống cỏ, tiến tới kéo tay áo Dư Hạm: “Phu nhân, nô tì biết sai rồi, tối qua nô tì không nên tự tiện rời phủ, cũng do nô tì sợ phu nhân không có son phấn trang điểm, lần sau nô tì đi Đông An, dù dốc hết bạc cũng phải mua bằng được son bách hợp ở tiệm về.”

Miệng nàng ta như có thoa mật, từng câu từng chữ khảm vào trong tâm Dư Hạm, Dư Hạm vốn thích nàng ta, giờ nghe nàng ta dỗ dành thì cũng nguôi ngoai phần nào, đưa ngón tay xỉa vào trán nàng ta: “Con a đầu chết tiệt, phu nhân ta nghèo lắm hay sao mà cần mấy đồng nhét kẽ răng của em!”

Đương lúc nói chuyện, vừa xoay người lại thì đụng phải Thanh Duy từ trong nhà đi tới, hồn vía bay thẳng lên mây.

Dư Hạm vuốt ngực, khẽ hé môi: “Cô, cô về lúc nào thế? Cô không bị ma bắt đi à?”

Thanh Duy lắc đầu, nói thật: “Ta cũng mới về thôi, tưởng quân lính vẫn đang canh gác nên trèo tường vào.” Ánh mắt nàng dừng lại ở Tú nhi, giả vờ bất ngờ, “Muội về khi nào vậy? Tối qua ta ra ngoài tìm muội cả đêm.”

“Nó ấy hả.” Dư Hạm hừ lạnh, lắc mông đi về nhà chính, “Tối qua cô đi chưa được hai canh giờ thì nó bị quan sai dẫn về, bị người ta bắt được trên đường đi mua son phấn.”

Gió xuân buổi hoàng hôn hây hây thổi nhẹ vô cùng dễ chịu, nhưng có lẽ từ ngày con ma mò đến trang viên, chỉ cần trời vừa trở tối là Dư Hạm ghét phải ở một mình trong viện, gọi tất cả gia nhân trong trang viên đến nhà chính góp đủ nhân khí.

“Mà cô đấy, cô không tìm thấy người sao không biết đường về, mọi người còn tưởng cô…” Vừa tới nhà chính, Dư Hạm ngồi xuống, phất khăn tay ra hiệu thím Ngô khép cửa lại, không nói nốt nửa câu sau – còn tưởng cô chết ngoài kia rồi.

Thanh Duy đáp: “Ta đi trốn.”

“Ta đào hôn chạy trốn mà, ngoài kia nhiều quân lính quá, ta không dám lộ mặt nên đành trốn trong miếu Thành hoàng một đêm.” Thanh Duy nói, “Nhưng ở trong miếu Thành hoàng, ta lại gặp một chuyện lạ.”

Hai chữ “chuyện lạ” vừa thốt ra, người trong nhà đồng loạt nín thở, bây giờ ở Thượng Khê có rất nhiều chuyện lạ, mười chuyện thì hết tám liên quan tới yêu ma quỷ quái.

Quả nhiên Thanh Duy nói: “Ta lại gặp con ma xám kia.”

“Cô gặp ma trong miếu?” Dư Hạm ngạc nhiên, cảm thấy khó tin, “Sao có thể, đạo sĩ miếu Thành hoàng là trấn sơn bắt ma, ma quỷ đi chỗ nào chứ làm gì có chuyện đến miếu Thành hoàng.”

“Nên ta mới bảo là lạ. Nhưng ta phát hiện,” Thanh Duy điềm nhiên nhìn lướt qua Diệp Tú nhi, “Con ma xám này không phải ma, mà là người.”

“Tối qua ta vào thành tìm Tú nhi, nghe quân lính hô hoán ‘bắt ma’ nên mới vào miếu Thành hoàng trốn. Kể ra cũng kỳ, vốn dĩ quân lính giăng bẫy bắt ma ở tiệm thuốc, nhưng bọn họ thất thủ, để con ma kia sổng mất mà chạy vào miếu Thành hoàng. Thượng Khê cũng chỉ lớn có chừng ấy, quân lính tìm hết mà không thấy thì dĩ nhiên sẽ kéo đến miếu Thành hoàng.

Nhờ thế ta mới phát hiện ma xám là người, hắn bị quân lính phát hiện, bị thương trong lúc chạy trốn, chảy rất nhiều máu, mà ma sao lại chảy máu? Chỉ có người mới chảy máu.”

Ban đầu khi Diệp Tú nhi nghe Thanh Duy kể về sự việc tối qua, vẻ mặt vẫn dửng dưng như không, nhưng tới lúc nghe nói con ma xám bị thương thì hai mắt nàng ta đông cứng lại, “Hắn bị thương? Thế… Quan phủ có bắt được hắn không?”

Thanh Duy lắc đầu: “Không bắt được, có vẻ hắn còn rất trẻ, chạy trốn nhanh lắm, quan phủ không đuổi kịp. Nhưng bây giờ đã bị bắt chưa thì ta không rõ.”

Tối qua lúc vào thành, Diệp Tú nhi chỉ kịp thắt túi thơm có mùi hương lạ lên ngọn cây, chưa kịp đợi con ma xám đến đã bị quân lính phát hiện. Sau đó nàng ta bị dẫn về phủ, lại bị Dư Hạm nhốt trong phòng chứa củi một đêm, mọi người trong phủ bao gồm cả Diệp lão bá lại không ra ngoài nửa bước, nên không một ai biết gì về tình hình bên ngoài, con ma đã bị bắt chưa, có bị thương không, vết thương nặng hay nhẹ, tất cả đều do một mình Thanh Duy nói.

Thanh Duy biết Tú nhi lanh trí, nàng nói gì chưa chắc nàng ta đã tin, nhưng lời tiếp theo lại chưa chắc.

“Thực ra người của quan phủ cũng chẳng định bắt ma đâu. Tối qua lúc trốn trong miếu Thành hoàng, ta nghe thấy một quan gia nói, nếu thật là ma thì không cần bắt, cứ để nó đi, tự có Diêm vương quản, sở dĩ bây giờ phong tỏa núi là do quan phủ nghi ngờ con ma này là dư đảng của sơn tặc núi Trúc Cố năm xưa.”

Dư Hạm nghe thế thì giật thót, vội vã bịt miệng nàng lại, “Cô chớ nói lung tung.”

“Ta không nói lung tung.” Thanh Duy nói, “Tiểu phu nhân biết mà, chuyện ở Thượng Khê liên quan gì đến người vùng khác như ta, sơn tặc núi Trúc Cố năm xưa chết thảm, ta không biết gì mà cả gan nói lung tung về họ, lẽ nào không biết họa từ miệng mà ra? Chẳng qua ta nể tình tiểu phu nhân đã thu nhận ta, mang ơn cảm kích nên mới báo cho tiểu phu nhân tin tức mình nghe được. Nếu dòng máu trên núi Trúc Cố chưa chảy hết, quan phủ phong tỏa núi bắt ma, ngày nào chưa bắt được tất sẽ không bỏ qua, ma bị thương, quan phủ nhân đó truy kích, chắc chắn sẽ có hành động mạnh. Tốt nhất mấy ngày tới chúng ta chớ rời khỏi trang viên, tránh rước họa vào thân.”

“Đúng đúng đúng, cô nói chí phải.” Nghe Thanh Duy nói, Dư Hạm không nghi ngờ gì nữa, “Chẳng những không được rời trang viên mà tối đến phải chia người canh gác, không cần biết hắn là ma hay người, đợi việc này qua đã rồi tính tiếp!”

Chỉ nói chuyện một lúc mà trời đã tối sầm, nhắc đến sơn tặc núi Trúc Cố, mọi người chẳng ai thiết tha tán gẫu chuyện trò nữa, ăn tối xong thì cũng đã chùng da mắt, ai về phòng nấy đi ngủ. Dư Hạm bị lời của Thanh Duy dọa sợ, lo ban đêm không ngủ được nên kéo Tú nhi tới ở với mình. Còn Thanh Duy, tuy ban ngày đã ngủ đủ giấc nhưng không xung phong nhận việc gác đêm, nàng về phòng nhắm mắt dưỡng thần, đợi nửa canh giờ trôi qua, quả nhiên trong sân có tiếng bước chân.

Tiếng bước chân rất nhẹ, dẫm lên bùn cỏ trong sân, nếu không biết sẽ ngỡ là tiếng ếch nhảy hoặc côn trùng kêu, nhưng âm thanh đó nào qua được đôi tai của Thanh Duy.

Thanh Duy khẽ khàng đẩy cửa ra, đi vòng tới viện hoang, quả nhiên Diệp Tú nhi lại chui ra ngoài qua lỗ chó sau vườn.

Thanh Duy không lập tức đuổi theo, ngoài lỗ chó là đường núi, chỉ có một con đường dù lên hay xuống, rất dễ lần theo dấu vết, hơn nữa Tú nhi đi cũng không nhanh bằng Thanh Duy, chốc nữa đuổi theo vẫn chưa muộn.

Sau khi chắc chắn Tú nhi đã lẻn ra khỏi trang viên, Thanh Duy vòng về phòng, cầm lấy Hải phiêu tiêu mà Tạ Dung Dữ gói cho mình, gõ cửa phòng Diệp lão bá nói: “Diệp bá, tôi gây họa rồi, hình như tôi cầm nhầm đồ của quan phủ rồi, xin Diệp bá giúp tôi.”
 
Chương 101


Bóng tối bao trùm đường núi, Diệp Tú nhi lần bước dọc theo đường mòn lên núi.

Gió đêm át mất tiếng bước chân nàng, đèn lồng trong tay tựa đốm lửa xanh lét, và dưới nhúm sáng leo lắt ấy, cây đổ bóng rậm rạp chẳng khác gì móng quỷ ghê rợn, thế mà lạ thay, một tiểu cô nương như nàng ấy đi giữa núi rừng lại không hề sợ hãi, như thể đã quá đỗi quen thuộc với con đường này, bước chân rảo nhanh đầy lo lắng.

Thanh Duy lặng lẽ bám theo nàng ta, đi được hơn nửa canh giờ, Diệp Tú nhi mới bước chậm lại.

Có vẻ nàng ta đã đi mệt, dựa vào tảng đá nghỉ một lúc, cúi người xoa chân rồi tiếp tục xách lồng đèn lên núi.

Ngẫm kỹ lại, bây giờ bọn họ đang ở sâu phía tây núi Trúc Cố, tuy nói phong tỏa núi nhưng thực chất chỉ phong tỏa vùng phía đông, còn khu vực bên này vẫn tự do ra vào, có hai nguyên nhân: thứ nhất, sơn trại năm xưa nằm ở phía đông; thứ hai, phía bên này có không ít thợ săn.

Bao quanh Thượng Khê toàn là núi, kiểu gì cũng có người sống dựa vào ngọn núi này, nếu phong tỏa toàn bộ thì những người đó biết phải làm sao.

Sau chốc lát nghỉ ngơi ban nãy, bước chân của Diệp Tú nhi chậm đi thấy rõ, Thanh Duy bám theo sau không khỏi nghi ngờ, bất thình lình thấy Diệp Tú nhi dừng bước, giọng bằng bằng: “Giang cô nương, xuất hiện đi.”

Thanh Duy giật mình.

Nàng ẩn thân trong bóng tối, không hề để lộ bất cứ tung tích nào, tại sao nàng ta có thể phát hiện được?

Thấy không có động tĩnh, Diệp Tú nhi cầm đèn xoay người lại, nhìn về phía con đường không bóng người: “Giang cô nương, tôi biết cô đang ở đây, cô lấy cớ con ma xám bị thương, trăm phương nghìn kế dụ tôi ra mặt, chẳng phải muốn lợi dụng tôi để tìm con ma xám sao?”

Giọng điệu nàng ta rất chắc nịch, Thanh Duy biết có trốn thêm cũng vô ích, thế là bước ra từ sau gốc cây: “Làm sao cô biết tôi đi theo cô?”

Song Diệp Tú nhi không trả lời, chỉ nói: “Có vẻ Giang cô nương đến Thượng Khê không đơn giản là vì đào hôn đúng không? Hồi ở Đông An, cô đã cố ý tiếp cận ông cháu tôi?”

Nàng ta chỉ mới mười bảy tuổi, vóc dáng nhỏ nhắn gầy gò, dung mạo không quá nổi bật, nhưng lúc nói chuyện, ánh mắt vô cùng kiên định.

“Giang cô nương, tôi rất biết ơn cô đã giúp tôi hồi ở Đông An, dù cô tiếp cận chúng tôi với mục đích nào đi nữa, tôi vẫn mắt nhắm mắt mở cho qua. Tôi không biết vì lý do nào lại khiến Giang cô nương có hiểu lầm, cảm thấy tôi quen biết con ma xám ấy, nhưng tôi nói thật với cô, dù tôi hay ông nội, thậm chí là tiểu phu nhân, chúng tôi đều không liên quan gì đến chuyện ma quái ở Thượng Khê, Giang cô nương không cần thăm dò vô vị nữa.”

Thanh Duy nhìn nàng: “Cô nói mình không liên quan đến con ma xám, vậy vì sao khi tối nay tôi nói chuyện hắn bị thương, một mình cô lại lên núi chỗ này?”

“Tôi đến đây không phải vì con ma xám, mà là vì Giang cô nương.” Diệp Tú nhi nói, “Từ khi đến trang viên, Giang cô nương đã rất tò mò về ma vật trong núi và sơn tặc năm xưa. Ông cháu tôi đúng là hạ nhân trong trang viên Huyện lệnh, nhưng không có nghĩa chúng tôi biết nhiều hơn người khác. Rõ ràng tối qua con ma xám không hề bị thương, cũng không bị quan binh tóm, nhưng tối nay khi Giang cô nương về, cô lại bịa chuyện hắn gặp nạn hòng thăm dò mọi người, còn chẳng phải để kiểm tra xem trong trang viên này có người thông đồng với ma xám không ư? Trang viên đông người lắm mắt, sở dĩ tối nay tôi vào rừng là muốn nói rõ toàn bộ với cô nương, người ở trang viên thành tây chỉ là người dân bình thường, trang viên này không chứa nổi đại phật như cô nương, cô đã giúp tôi ở Đông An, tôi cũng đã dẫn cô đến Thượng Khê như cô muốn, chúng ta coi như thanh toán xong, mời cô nương sáng ngày mai hãy rời khỏi đây.”

Thanh Duy nói: “Đúng là tôi cố tình lừa cô, cô bảo mình không bị mắc mưu, nửa đêm vào rừng chỉ là muốn làm rõ mọi chuyện với tôi, không phải tôi không tin, vậy còn việc đêm qua khi mua son phấn xong, cô không về ngay mà còn ở lại treo túi thơm lên cây hòe đầu phố? Cô định giải thích như thế nào đây?”

Diệp Tú nhi nhíu mày: “Tối qua cô bám theo tôi?” Nhưng nàng ta nhanh chóng đổi lời, “Chỉ là treo túi thơm lên cây thôi mà, có gì lạ đâu? Vào ngày lễ tết hay gặp đại sự, người dân Lăng Xuyên đều treo túi thơm lên cây cầu phúc, chẳng phải Giang cô nương nói mình là người huyện Sùng Dương à, sao đến chuyện này cũng không biết?”

Thanh Duy không buồn đếm xỉa giọng điệu mỉa mai của cô nàng, hỏi tiếp: “Làm sao cô phát hiện tôi đi theo cô?”

Không đợi Diệp Tú nhi trả lời, nàng cười bảo: “Thực ra cô không hề biết tôi đi theo cô. Tối qua cô treo túi thơm lên cây rồi bị quan sai đưa thẳng về trang viên, sau lại bị cô chủ nhốt trong nhà kho, mãi tới tối nay mới được thả ra, nên cô không biết tí ti nào về chuyện bên ngoài chẵn một ngày. Cô bị tôi lừa, thực sự đã bị lừa, cô tưởng con ma xám bị thương thật, nửa đêm vào rừng cũng là vì muốn kiểm tra xem hắn có an toàn không. Nhưng cô có thể bảo vệ che giấu con ma ấy ấy năm năm, thì chắc chắn cô và hắn có cách trao đổi mà người ngoài không thể biết.”

Nói đoạn, Thanh Duy liếc về phía khu rừng trên đường đến, “Sao, có phải có người đã để lại tin tức cho cô cạnh tảng đá nghỉ chân vừa rồi?”

Bị Thanh Duy theo dõi, ngay tới người có thân thủ điêu luyện như Triêu Thiên còn không phát hiện, thì một tiểu cô nương không rành võ công như Diệp Tú nhi sao có thể biết được?

Diệp Tú nhi chỉ đang đoán mà thôi.

Và đúng như Thanh Duy nói, Diệp Tú nhi đã giúp con ma xám ẩn nấp năm năm, chắc chắn bọn họ có cách thức liên lạc riêng. Biết con ma xám bị thương, ngay trong đêm hôm Diệp Tú nhi đã lẻn ra khỏi trang viên, sốt ruột muốn xác nhận hắn có an toàn không, cho tới khi đi ngang qua tảng đá lúc nãy, phát hiện dấu hiệu “mọi sự an toàn” dưới tảng đá, Diệp Tú nhi mới sực nhận ra mình đã bị Thanh Duy lừa, và cũng đoán được Thanh Duy đã bám theo mình trên chặng đường này.

Nàng ta rất thông minh, giả lấy lý do lên núi là để dẫn Thanh Duy rời khỏi trang viên, che giấu mục đích thật của mình, chỉ tiếc không thể gạt được Thanh Duy.

Diệp Tú nhi cắn môi, cầm đèn đi thẳng xuống núi, “Những gì cần nói đã nói, Giang cô nương muốn tin hay không thì tùy.”

Thanh Duy giơ tay chặn nàng ta lại: “Đi vội thế làm gì, người chúng ta muốn đợi vẫn chưa xuất hiện mà.”

“Chúng ta muốn đợi ai cơ? Lẽ nào Giang cô nương thực sự cho rằng con ma xám ấy…”

Nhưng chưa nói hết câu, Diệp Tú nhi đã biến sắc.

Gió đêm dần lớn, đưa tới một mùi hương lạ.

Mà mùi hương này, chính là mùi từ chiếc túi thơm tối qua Tú nhi thắt trên cây hòe.

Sao lại như thế? Rõ ràng nàng đã nhắc nhở cậu ta nếu thấy túi thơm thì nhất định phải tháo xuống, có lần nào cậu ta để sót đâu.

Đây là bí mật giữa nàng và ma xám, cũng là tín hiệu vô cùng quan trọng, chỉ có mình nàng biết cách chế hương, còn ma xám lại có cái mũi rất linh, tất sẽ men theo mùi hương mà tới.

Diệp Tú nhi lập tức nhìn Thanh Duy: “Cô…”

Thanh Duy nhắc nhở nàng ta: “Cô nghĩ chỉ có mình cô có túi thơm này à?”

Diệp Tú nhi kịp nhận ra: “Cô, cô dám lừa ông tôi! Cô cũng lừa ông tôi lên núi!” Nhận ra mình mắc bẫy, Diệp Tú nhi lập tức đưa tay lên miệng.

Song, nàng ta chưa kịp huýt sáo thì đã bị Thanh Duy chụp lấy cổ tay, trở ngược ra sau lưng, kế đó bịt miệng nàng ta lại, nấp sau gốc cây to.

***

Gió đêm ngày một lớn dần, mùi hương lạ trong không khí cũng thêm nồng.

Không lâu sau, trong khu rừng lặng lẽ vang lên tiếng động. Động tĩnh ấy nghe giống thú, cứ như là sói đi đêm, tập trung cao độ để xác định khả năng liệu có thợ săn mai phục xung quanh không, rồi từng bước khẽ khàng tiến tới mục tiêu của mình.

Mục tiêu của cậu ta là túi thơm treo trên gốc cây hòe ở dốc núi.

Thực ra khi vừa ngửi thấy mùi hương lạ theo gió đưa tới, cậu lấy làm do dự không dám tới, bởi lẽ Tú nhi đã nói rõ rồi, nếu không phải tình hình cực kỳ khẩn cấp thì nàng ấy sẽ không dùng túi thơm một cách bừa bãi.

Nhưng cậu ta lại nghĩ, dạo gần đây có rất nhiều người truy bắt cậu, bao năm nay trốn đông tránh tây, còn có thời điểm nào khẩn cấp hơn bây giờ.

Nên cậu ta mới vẫn đến đây.

Cậu ta nghĩ, ngộ nhỡ, lỡ như, Tú nhi gặp chuyện thì sao?

Con ma xám thực sự rất nhạy cảm, tới mức cho dù xung quanh vô cùng im ắng, nhưng cậu ta không lập tức nhảy lên cây, dứt khoát gỡ túi thơm như những lần trước đó, mà chỉ lang thang vòng vòng tại chỗ, không bước vào “cái bẫy” có lẽ tồn tại bởi trực giác.

Mà trực giác của cậu ta không sai.

Dẫu rừng đêm lặng im tiếng động, nhưng đâu chỉ một người núp dưới vòm cây.

Gốc cây to bên trái cậu ta là nơi Thanh Duy và Diệp Tú nhi đang nấp, trong lùm cỏ ở phía trước cách cậu ta không xa có hơn mười Huyền Ưng vệ đang mai phục, theo dõi sít sao.

Diệp lão bá bị Triêu Thiên nhét khăn vào miệng, bị trói chặt ở dưới gốc cây xa hơn, và đứng sau hắn là Tạ Dung Dữ.

Nghe thấy ma xám đến gần, khóe mắt Diệp lão bá như muốn nứt ra, tiếc rằng ông không thể phát ra bất cứ âm thanh nào.

Ông vô cùng hối hận, ai dè mình lại mắc mưu của a đầu họ Giang kia!

Ông bị lừa rồi!

Hồi tối lúc sắp đi ngủ, a đầu kia đột nhiên cầm một hộp thuốc đến tìm ông, nói: “Diệp bá, tôi gây họa rồi, hình như tôi cầm nhầm đồ của quan phủ rồi, xin Diệp bá giúp tôi.”

Ông nhìn hộp thuốc trong tay Thanh Duy, đó chẳng phải là Hải phiêu tiêu mà bọn họ đang tìm ư?

Thanh Duy nói: “Tối qua tôi gặp con ma xám ở miếu Thành hoàng, sau đó quan phủ đến lục soát miếu, tôi thấy hắn giấu chiếc hộp này đi nên mới tò mò, thấy hắn đã bị thương bỏ trốn, bèn cầm chiếc hộp đi. Tôi… đào hôn rời nhà, trên người chẳng có một đồng bạc lẻ, cứ tưởng là thứ gì đáng giá, tính đem đến hiệu cầm đồ bán đổi ít tiền, kết quả hiệu cầm đồ nói trong hộp là dược liệu, bọn họ không nhận.”

“Sau đó tôi mới nhớ ra,” Hai mắt Thanh Duy hốt hoảng thấy rõ, “Không phải tối qua quan phủ giăng lưới bắt ma ở hiệu thuốc sao? Tám phần hộp thuốc này là thứ dụ ma cắn câu, chắc chắn con ma đến tiệm thuốc lấy thứ này nên mới bị quan sai truy đuổi. Diệp bá à, nếu sớm biết hộp thuốc này là đồ của quan phủ thì tôi đã không đụng vào rồi. Tôi muốn trả lại về chỗ cũ lắm, như bá bá cũng biết đấy, tôi đào hôn mà, chồng tôi lại có quen biết với quan phủ, tôi không dám lộ mặt đâu, bá bá có thể… giúp tôi chuyện này được không, nói bá nhặt được đồ ở bên đường nên mới đem nộp lên quan phủ?”

Hải phiêu tiêu là thứ ngoài biển, rất hiếm có tại Lăng Xuyên. Ông cháu Diệp lão bá đã tìm vị thuốc này lâu lắm rồi, nghe Thanh Duy nói tối qua quan phủ dùng Hải phiêu tiêu dụ ma thì chẳng nghi ngờ gì, lập tức tin Thanh Duy.

Bây giờ ngẫm lại, vị thuốc bọn họ tìm rất bí mật, sao quan phủ có thể dễ dàng biết được?

Chỉ trách con nhóc họ Giang nói chuyện quá mạch lạc, ông nào biết nàng ta lại đi lừa mình!

Mà cũng phải trách ông, thấy chẳng dễ gì tìm được Hải phiêu tiêu, cứ thế bị lừa lên núi mà không chút do dự, nhưng lại không biết có người bám theo mình ngay từ đầu.

Con ma xám loanh quanh tại chỗ một lúc lâu, sau thời gian nửa nén nhang, ngoại trừ tiếng gió thổi, đêm tối xung quanh vẫn lặng yên không động tĩnh.

Cuối cùng cậu ta cũng thả lỏng cảnh giác, nhún mình bật một phát, cả cơ thể gần như bay lên trời, tay giang ra như loài vượn, chụp một phát bắt lấy cành cây.
 
Chương 102


Nhưng ngay khoảnh khắc con ma xám vừa nhảy lên, Huyền Ưng vệ đang mai phục đồng loạt kéo dây thừng, giữa màn đêm, một tấm lưới khổng lồ xuất hiện trên không trung.

Cùng lúc đó, Diệp Tú nhi vùng ra khỏi Thanh Duy, hét toáng: “Nhóc Cát, mau chạy đi!”

Kỳ thực ngay vào lúc tấm lưới vừa giăng, con ma xám đã kịp nhận ra điểm bất ổn, mũi chân điểm vào thân cây, nảy người lên lộn ngược lại, giơ tay chụp lấy một cành cây rồi tung mình lên ngọn cây bên cạnh.

Đáng tiếc vẫn chậm một bước, tiếng hét của Tú nhi đã khiến cậu ta khựng lại, nên dù không bị tấm lưới tóm thì vẫn bị các Huyền Ưng vệ bao vây.

Ánh lửa từ ngọn đuốc soi sáng khắp núi rừng, Tú nhi dùng hết sức giãy dụa vùng vẫy, song lại bị Thanh Duy giữ chặt cổ họng kìm hãm lần nữa, mà ở phía bên kia, Triêu Thiên đẩy Diệp lão bá, cùng Tạ Dung Dữ bước vào vùng sáng.

Thấy cả Tú nhi lẫn Diệp bá đều bị bắt, con ma xám nổi điên, cổ họng phát ra tiếng gầm gừ phẫn nộ.

Nhờ ánh lửa soi sáng, mọi người mới thấy rõ gương mặt cậu ta.

Cậu ta đúng là người chứ không phải ma, ngoài vết sẹo dài chừng một tấc bên má trái ra thì khuôn mặt ấy khá thanh tú, tuổi tác chỉ xấp xỉ Tú nhi.

Miếng vải bịt miệng Diệp lão bá đã được gỡ xuống, ông sợ hãi nhìn mọi người: “Rốt, rốt cuộc các ngươi muốn làm gì?”

“Không làm gì cả.” Chương Lộc Chi cắm thẳng trường đao xuống đất, đi ngay vào trọng điểm, “Bọn ta đến ngọn núi này cốt muốn biết sơn tặc núi Trúc Cố năm xưa đã chết như thế nào, mong các vị nói rõ thực hư.”

Giọng hắn ồm ồm cộng với thân hình hộ pháp, thoạt nhìn còn cường tráng hơn cả Triêu Thiên, chỉ đứng đấy nói vài câu mà tư thế nghiêm trang vẫn đủ dồn ép đối phương.

Ma xám nhìn hắn, ánh mắt dần trở nên đáng sợ, gập lưng lại, giơ tay thành vuốt, mũi chân ấn xuống hố bùn.

Diệp Tú nhi lập tức nhắc nhở: “Nhóc Cát đừng manh động!”

Rồi nàng nói tiếp: “Sơn tặc gì cơ? Chúng tôi không quen, cũng không biết bọn họ chết thế nào cả. Tôi thấy các hạ cũng chẳng phải người bình thường, nếu đã đến đây vì sơn tặc núi Trúc Cố, vậy tại sao không hỏi quan phủ mà lại đi bắt nạt dân đen chúng tôi?”

Nàng đã giúp con ma xám ẩn nấp năm năm, đương nhiên trí óc cũng hơn hẳn người bình thường, Chương Lộc Chi thấy nàng giảo biện thì lười đôi co, xắn tay áo lên toan chộp lấy nàng ta.

Tú nhi lập tức la lớn: “Giang cô nương! Tôi biết rồi, cô cùng hội cùng thuyền với đám người này đúng không! Chính các người đã giả thần giả quỷ ngày hôm trước để dụ nhóc Cát!”

Vì sao con ma xám lại bị dụ ra, người khác không biết nhưng Diệp Tú nhi lại biết rất rõ.

Nếu không phải con ma bóng đỏ có thủ pháp cao cường đột nhiên xuất hiện, khiến quan phủ khẩn cấp phong tỏa ngọn núi thì ma xám đâu đến mức bị bại lộ?

Chương Lộc Chi nói: “Nếu ngươi đã biết thì mau nói rõ đi, đứng đây giả ngu có ích gì với ngươi?”

“Những gì cần nói tôi đã nói rồi, ma quỷ quấy nhiễu trong núi Trúc Cố mấy năm nay chính là do nhóc Cát làm. Các người cũng thấy nhóc Cát thế nào rồi đấy, cậu ta sinh sống trong núi, không giống người bình thường. Không chung dòng tộc tất có dị tâm, quan phủ coi cậu ta là ma, muốn bắt cậu ta, nhưng ông cháu tôi biết thực ra nhóc Cát rất lương thiện, tuyệt đối không có ý hại người, nên bọn tôi mới giúp cậu ta ẩn náu mấy năm nay. Còn về sơn tặc mà các người muốn hỏi, tôi chẳng biết bọn họ chết thế nào cả!”

Chương Lộc Chi mất kiên nhẫn “chậc” một tiếng, xoay người tới gần Diệp lão bá.

Con ma xám tưởng Chương Lộc Chi muốn hại Diệp bá, gầm gừ một tiếng, đụn đất bay lên, phi thân lao về phía Chương Lộc Chi.

Nhưng Chương Lộc Chi đã có đề phòng, né người tránh cú tập kích của con ma xám, rút đao ra đỡ, đồng thời Thanh Duy cũng siết chặt bàn tay giữ cổ Diệp Tú nhi, cao giọng nói: “Ta biết ngươi nghe hiểu tiếng người, nếu ngươi còn tiếp tục làm càn, cẩn thận tính mạng của Tú nhi!”

Diệp Tú nhi lại la lên: “Nhóc Cát đừng sợ, cậu cứ trốn đi, bọn họ không dám làm hại ta và ông đâu!”

Nói đoạn, nàng ta cười lạnh, “Bọn họ phí bao công sức dụ chúng ta ra, liệu có thể dễ dàng giết chúng ta như vậy ư? Nhóc Cát cậu cứ đi đi, bọn họ ngăn cản cậu thì cậu cứ lao vào lưỡi đao ấy, bọn họ còn định moi tin từ cậu cơ mà, khéo còn muốn cậu phải sống!”

“Còn ta và ông,” Giọng Diệp Tú nhi sang sảng, từng câu từng chữ rõ ràng, “Sẽ ở đây với các vị cho đến sáng sáng, phu nhân nhà tôi không tìm thấy người, quan phủ tự khắc sẽ tìm đến, tôi muốn xem tới lúc đó sẽ là tôi sợ gặp quan sai, hay các vị đây sợ gặp quan sai hơn. Các người cũng thấy rồi đấy, nhóc Cát chỉ là một đứa trẻ hoang, cậu ta thì có liên quan gì đến sơn tặc núi Trúc Cố? Mà Giang cô nương, cô rời nhà tránh quan binh, một thân một mình lên núi, tối đến cũng không dám ngủ, chỉ e… không đơn giản là đào hôn bỏ trốn đâu nhỉ?”

Nghe nàng ta nói, sắc mặt Chương Lộc Chi dần dần thay đổi.

Không ngờ con nhóc họ Diệp này lại sắc sảo đến thế, lời nào lời nấy đâm trúng tim đen.

Đúng thế, thằng nhóc kia nhìn qua chỉ là một thiếu niên chưa phát triển toàn diện, e rằng không có quan hệ trực tiếp với sơn tặc núi Trúc Cố, nhưng còn thiếu phu nhân… Nàng là nữ Ôn thị, vai đeo trọng tội, bây giờ Tả Kiêu vệ cũng đang ở trong thành, một khi thân phận bị bại lộ, dù điện hạ có bảo vệ nàng ấy đến đâu thì cũng sẽ bị cản trở vì nàng.

Lúc này, Tạ Dung Dữ lạnh lùng cất tiếng: “Các ngươi không sợ quan sai, nhóc Cát này cũng chưa chắc là sơn tặc núi Trúc Cố, nhưng…” Y dừng một lúc, “Còn người thực sự được các ngươi che giấu?”

Y vừa dứt lời, Diệp Tú nhi khựng lại, song nàng ta vẫn cố tỏ ra bình tĩnh, “Người thực sự được che giấu gì cơ? Thứ cho tôi không biết rốt cuộc các hạ đang nói gì cả.”

Tạ Dung Dữ thong dong nói: “Hải phiêu tiêu, các ngươi đưa cho ai dùng?”

“Rõ ràng các ngươi có cơ hội rời thành trước khi Tả Kiêu vệ và Tuần Kiểm Ti vào Thượng Khê, lại biết đường tắt trong núi, nhưng vì sao vẫn không bỏ trốn?”

“Nếu nhóc Cát đã không phải sơn tặc còn sống, vậy tại sao mấy năm qua phải mai danh ẩn tính, hay vì tâm trí cậu ta chưa phát triển hoàn toàn?”

Tạ Dung Dữ hỏi liền ba câu, Diệp Tú nhi nghe, sắc mặt dần trắng bệch.

Nhưng Tạ Dung Dữ không cho nàng ta cơ hội bác bỏ, nói tiếp: “Trong ngọn núi này còn có người thứ tư đang trốn. Các ngươi không bỏ đi không phải vì không muốn đi, mà là vì không đi được. Nếu ta đoán không sai, khi con ma áo đỏ xuất hiện, quân lính phong tỏa núi, ít nhiều gì cũng đã kinh động đến các ngươi, khiến người thứ tư này đổ bệnh, đi đứng bất tiện, cần có Hải phiêu tiêu trị tận gốc, nên lúc trước các ngươi đến Đông An, thường xuyên ra vào tiệm thuốc chính là để tìm vị thuốc này.”

“Cả nhóc Cát nữa, nếu cậu ta đã không phải là người của sơn tặc, mà cũng chỉ có mình cậu ta trốn trong ngọn núi này, vậy tại sao các ngươi không đón cậu ta xuống núi? Nhưng các ngươi không thể, vì trong núi này còn có người cần cậu ta chăm sóc. Năm năm qua, ma quỷ trong núi lộng hành là do nhóc Cát xuất hiện, nhưng cậu ta xuất hiện cũng bình thường, quan sai ai lại đi để tâm đến một đứa trẻ hoang. Chẳng qua việc đó đã dẫn đến lời đồn ma quỷ, trùng với ý muốn của các ngươi, người thường sợ hãi quỷ thần, ma quỷ lộng hành khiến bách tính Thượng Khê không dám tự tiện lên núi, như thế các ngươi mới tiện bề giấu người. Mà có khi… tin đồn ma quỷ ấy là do chính các ngươi thêm dầu vào lửa lan truyền.”

“Lúc nãy cô nương nói không sai, đúng là bọn ta đã dùng kế để dụ các ngươi xuất hiện, và cũng không hi vọng người của quan phủ tìm đến, nhưng có một chuyện cô đoán sai rồi, bọn ta trăm phương ngàn kế dẫn các ngươi lên núi không phải là vì nhóc Cát đây,” Tạ Dung Dữ dừng một lúc, “Mà là vì người thứ tư đã trốn trong núi suốt năm năm không hề lộ diện. Người đó mới là chính là sơn tặc núi Trúc Cố còn sống.”

“Anh…” Diệp Tú nhi muốn phản bác, nhưng thấy người kia anh tuấn khôi ngô, như linh quỷ hóa thành trong màn đêm yên tĩnh, chợt không biết phải phản bác thế nào, cắn răng nói, “Dù các ngươi có lấy mạng tôi đi nữa, không đời nào tôi sẽ tiết lộ chỗ ông ấy đang ở!”

Cùng lắm dây dưa tới sáng, xem ai hơn ai!

“Không cần cô phải nói.” Đúng lúc này, Thanh Duy mở miệng, “Cô không tò mò vì sao ta lại lừa cô lên núi ư? Một mình Diệp bá cũng đủ để dụ nhóc Cát rồi.”

Nghe lời đó, Diệp Tú nhi ngẩn ngơ.

Đúng thế, bọn họ đã biết tới Hải phiêu tiêu, dùng Hải phiêu tiêu lừa ông, chính ông treo túi thơm, cũng chính ông dụ nhóc Cát lộ diện, vậy việc gì phải lừa cả nàng lên núi?

Chương Lộc Chi nói: “Cô nhóc à, nếu người được các ngươi bảo vệ che giấu đi đứng bất tiện, vậy nơi các ngươi truyền tin có cách xa chỗ hắn đang ẩn nấp không?”

Tảng đá báo tin nằm giữa sườn núi.

Cây hòe treo túi thơm nằm trong rừng.

Lấy một điểm trong đó làm tâm, tìm kiếm trong chu vi năm dặm hoặc mười dặm xung quanh, ắt hẳn sẽ tìm được nơi trú ẩn của người kia, nhưng phạm vi tìm kiếm quá lớn, lại đang là ban đêm, khéo đến sáng vẫn chưa tìm ra.

May mắn thay bọn họ đã xác định được hai điểm, như vậy sẽ có hai tâm, lấy hai tâm này vẽ một hình tròn, nơi giao nhau chính là phạm vi thực sự bọn họ cần tìm.

Tạ Dung Dữ và Thanh Duy đã hao hết tâm sức để điều tra sơn tặc núi Trúc Cố, thì sao có thể gửi gắm hi vọng vào một tiểu cô nương cùng một thiếu niên chưa hoàn toàn phát triển được, nếu tối nay đã ra tay thì chắc chắn phải thành công!

Chẳng mấy chốc, một Huyền Ưng vệ từ trong rừng chạy tới: “Bẩm Ngu hầu, thuộc hạ phát hiện một hang động dưới mái hiên thấp cạnh dòng suối, hình như có thứ kỳ lạ nào đó trong động, xin phép tăng cường binh lính kiểm tra.”

Diệp Tú nhi nghe thế, mặt biến sắc hét lớn: “Các, các ngươi không th..”

Nhưng nàng ta chưa nói hết câu, ở trong rừng bỗng vang lên tiếng trượng gỗ gõ cộp cộp, tận nơi sâu hút sau lưng đám đông vọng đến tiếng thở dài khản đặc: “Thôi, Tú nhi, nhóc Cát, mấy đứa không đối phó được với những người này đây, cứ để bọn họ đến đi.”

Ông ta vừa nói, vừa ngẩng mặt nhìn lên bầu trời đen kịt: “Máu núi Trúc Cố chảy chưa sạch, liệu Đại đương gia và Nhị đương gia ở dưới hoàng tuyền có thể nhắm mắt? Điện Diêm la đầy rẫy oan hồn, cuối cùng cũng đã kinh động đến Cửu Tiêu, dẫn thần tiên yêu ma tìm đến đây rồi.”

Huyền Ưng vệ lập tức giơ cao bó đuốc, trong ánh lửa bập bùng, người nói chuyện là một ông lão gầy gò, quần áo rách rưới, sức nặng toàn thân như dồn hết lên trượng gỗ trong tay, ống quần một bên được xắn lên cao, thấy rõ một nửa bên chân đã bị cụt, tuy hai mắt đục ngầu nhưng ánh mắt hẵng còn sắc sảo.

Ông ta nhìn mọi người, bình thản cầm trượng xoay người lại, chậm rãi bước trên đường: “Mời các vị đi theo lão hủ.”
 
Chương 103


Có một hang động nằm cạnh con suối trên sườn núi, vén lớp dây leo che phủ lên, một con đường sâu hút xuất hiện, đi tới cuối cứ tưởng là gặp ngõ cụt, nhưng khi ấn vào chỗ nhô ra trên vách đá, một cánh cửa đá từ từ hạ xuống, thạch thất rộng rãi xuất hiện ngay trước mắt.

Thạch thất này được các thợ săn xây dựng trong thời kỳ loạn lạc, dùng để trốn mãnh thú trên núi, về sau bị sơn tặc núi Trúc Cố chiếm làm riêng. Sơn tặc chết quá đột ngột, nơi đây biến thành chỗ ẩn thân của ông Cát và nhóc Cát.

Căn phòng rất rộng, ở trung tâm có xếp một vòng tròn đá khoanh ra thành bếp lửa, trên vách tường có bệ đá trải mấy tấm nệm rơm.

Tạ Dung Dữ ra lệnh cho Huyện Ưng vệ canh giữ ngoài hang, chỉ dẫn vài người Thanh Duy Triêu Thiên vào trong phòng đá, ông Cát bảo nhóc Cát chuyển nệm rơm đến cạnh đống lửa, mời khách tới ngồi. Tuy hiện tại nhóc Cát đã bớt địch ý với hội Tạ Dung Dữ, song cậu nhóc vẫn không thích bọn họ, vừa đặt nệm xuống, cậu ta nhanh chóng kéo Tú nhi lùi vào cạnh bệ đá, đẩy nàng ra sau lưng mình.

Ông Cát không thể đứng quá lâu, đặt trượng gỗ xuống rồi ngồi xuống nệm rơm, “Nhìn dáng vẻ của các hạ, có vẻ là từ kinh thành đến?”

Tạ Dung Dữ đáp phải, lễ phép vái chào: “Tại hạ thực sự không hề có ác ý với tiền bối, chỉ là cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố có liên quan đến một vụ án mà tại hạ đang điều tra, vạn bất đắc dĩ, tại hạ buộc phải tiên binh hậu lễ.”

Ông Cát lại hỏi Thanh Duy: “Ta nghe nhóc Cát nói tối qua quan phủ suýt bắt được nó, có phải chính con nhóc nhà cô đã đánh lạc hướng quân lính cứu nó không?”

“Nói cứu cũng không hẳn đúng.” Thanh Duy nói, “Ta và cậu ta trốn trong chuồng ngựa, lỡ bị phát hiện thì cả hai chắc chắn chết.”

Ông Cát gật đầu, cân nhắc nghĩ ngợi một lúc, đoạn cảm thán: “Nói đi, vì sao các ngươi lại tìm tới khu rừng này? Vì… vụ án mà cậu nói?”

“Không dối gì tiền bối, tại hạ đến là vì vụ án Tiển Khâm Đài.” Tạ Dung Dữ đáp.

Y đã nói tiên binh hậu lễ, nên thái độ lúc này vô cùng thành khẩn.

“Vì Tiển Khâm Đài, tại hạ đã điều tra được một thương nhân buôn gỗ tên Từ Đồ ở Lăng Xuyên. Từ Đồ này, trước khi Tiển Khâm Đài hoàn thành, lão ta lui tới Thượng Khê rất nhiều lần, cũng có quan hệ thân thiết với Đại đương gia Cảnh Thường của núi Trúc Cố. Về sau Tiển Khâm Đài sập, Từ Đồ sợ tội mà chết, không lâu sau, toàn bộ sơn tặc núi Trúc Cố cũng bị tiêu diệt chỉ trong một đêm. Tại hạ cảm thấy việc này có điểm khác thường, bèn điều tra hồ sơ Thượng Khê năm đó, phát hiện ra một thương nhân họ Tưởng. Thương nhân này, ắt tiền bối cũng biết, ông ta tên Tưởng Vạn Khiêm, sở dĩ sơn tặc núi Trúc Cố bị giết là do ông ta kiện lên quan phủ. Mà Tưởng Vạn Khiêm có một cậu con trai tên Phương Lưu, năm xưa đã chết dưới Tiển Khâm Đài.

Ban đầu ta định bắt tay điều tra từ Tưởng gia. Ít hôm trước ta đã phái người đến Thượng Khê điều tra, nhưng nhìn bề ngoài Tưởng gia không có chút kỳ lạ nào. Về sau, thuộc hạ của ta vô tình nhắc đến sơn tặc núi Trúc Cố với người họ Tưởng, lại hỏi chuyện ma quái trong núi có liên quan đến cái chết của sơn tặc không, thì ngay đêm đó, có người đã theo dõi bọn họ. Thuộc hạ của ta không dám bứt dây động rừng, đành về kinh bẩm báo sự việc lại với ta, rồi ta mới phái cận vệ đến Thượng Khê, thử xem có thể giả ma dụ rắn ra khỏi hang không. Ai ngờ vào ngày thứ hai cậu ta giả ma, ở Thượng Khê lập tức có người chết, nha huyện mới mời quân đội đang trú đóng ở gần đến phong tỏa núi bắt ma.

Phong tỏa bắt ma, dụ nhóc Cát ra mặt đúng là kế hoạch của ta, nhưng ta chỉ muốn điều tra rõ thực hư năm đó, vô tình đem lại rắc rối cho tiền bối, nếu lúc trước có chỗ mạo phạm, mong được tiền bối bỏ qua.”

Ông Cát hừ lạnh, “Ta biết ngay mà, một đứa trẻ hoang như nhóc Cát đi lung tung trong núi không phải ngày một ngày hai, sao quan phủ có thể đột ngột bắt nó được. Té ra bắt nó chẳng phải vì chuyện yêu ma quỷ quái gì cả, mà là có kẻ muốn mượn nó điều tra Tưởng gia, điều tra cái chết của sơn tặc, điều tra cái tòa tháp đã sập kia!”

Ông đưa mắt đánh giá Tạ Dung Dữ, người này nhìn có vẻ rất cao quý, hẳn quyền thế không nhỏ, nhưng lúc nói chuyện với mình lại rất khiêm nhường hữu lễ, không che giấu bất cứ chi tiết nào, ắt có thể tin tưởng.

Thế là ông Cát tháo dỡ phòng bị, “Tưởng gia kia chẳng phải hạng tốt lành gì, nhất là Tưởng Vạn Khiêm, đồ vong ân phụ nghĩa, lòng lang dạ sói, năm đó huynh đệ núi Trúc Cố đã bị hắn tạ hại chết!”

Thanh Duy hỏi: “Chuyện này phải kể từ đâu?”

Ông Cát đưa mắt nhìn mọi người: “Ta hỏi các ngươi trước, các ngươi cũng biết vì sao Lăng Xuyên lại có nhiều sơn phỉ như vậy chứ?”

Vì sao lại nhiều thế ư?

Trong thời đại Hàm Hòa, dân sinh bất an, Lăng Xuyên rơi vào cảnh cùng khổ, dân chúng không miếng cơm manh áo, bị đẩy vào đường cùng, đành phải lên rừng làm cướp làm giặc. Hồi Thanh Duy mới tới Thượng Khê, Dư Hạm đã nói cho nàng biết những chuyện này. Trước năm xảy ra chuyện, nạn thổ phỉ vốn chẳng phải nạn, thậm chí kẻ hành sự trượng nghĩa còn được gọi là nghĩa phỉ.

“Cảnh Thường núi Trúc Cố năm ấy chính là nghĩa phỉ.” Ông Cát nói, “Nhưng theo ta thấy, Cảnh Thường không gánh nổi hai chữ ‘nghĩa phỉ’ này, nghĩa phỉ thực sự phải giống Nhạc Xung núi Bách Dương ấy, thời loạn thế cứu dân, buổi chiến tranh xông pha chiến tuyến, một thân trung nghĩa, có ai mà không bội phục? Còn Cảnh Thưởng, chẳng qua chỉ khôn lỏi chút thôi, mạnh vì gạo bạo vì tiền thì việc gì cũng thuận lợi, từ thương khách cho đến quan phủ đều có giao tình với hắn, ngươi nói hắn vì cái gì, còn chẳng phải vì rượu thịt tiền tài ư.

Nhưng thanh niên các ngươi may mắn sinh thời thịnh thế, e là rất khó cảm nhận, chứ người thế hệ trước như bọn ta, nhất là người Lăng Xuyên, cảm thấy Đại Chu như chia làm hai giai đoạn. Thời đại Hàm Hòa thực sự quá khổ, khổ tới nỗi miếng ăn bữa có bữa không, một ống quần cũng chỉ muốn cắt làm hai để mặc, đến mùa đông, dưới núi trong vườn, người chết đầy rẫy. Mà thay đổi do đâu? Là vào mười tám năm trước khi các sĩ tử nhảy sông. Hàm Hòa đế già rồi, chùn chân không muốn chiến, nhưng lê dân bách tính sống khổ như vậy, kẻ thù ngoài kia còn cướp đoạt lương thực của bọn ta, bọn ta biết phải làm sao? May mà từ sau ngày mồng chín tháng bảy năm Hàm Hòa thứ mười bảy, toàn bộ đã thay đổi. Sĩ tử Thương Lãng nhảy sông, thiên hạ chấn động, trận chiến sông Trường Độ đại thắng, Tiên Chiêu Hóa đế kế vị, một lòng chăm lo việc nước, đến bách tính sống ở vùng xa xôi như chúng ta cũng cảm nhận được sự đồng lòng của trên dưới triều đình.”

Chiêu Hóa đế kính trọng người tri thức, thường nghe văn sĩ gián ngôn, dần dà cuộc sống cũng đi lên, triều đình ban ơn đến địa phương, dân chúng từ từ an cư lạc nghiệp, thế là những người nghèo khổ lên núi làm phỉ ngày trước trở nên “vô công rỗi nghề”, dĩ nhiên sẽ thành nạn.

Có nơi rất dễ giải quyết, nha huyện lên núi thuyết phục đôi câu, đương gia đã dẫn tay chân xuống núi cải tà; nhưng có nơi không dễ xử lý, đương gia không từ bỏ địa vị của mình, ẩn nấp trong núi đối đầu với quan phủ, thường xuống núi cướp bóc nhà dân. Mà cũng có nơi, giống như chỗ của Cảnh Thường, chi ra chút ưu đãi qua lại với quan phủ thương khách, sống bình an vô sự mấy năm.

“Trước khi Cảnh Thường lên núi, ta vốn là đương gia của một sơn trại trên núi Trúc Cố; về sau Cảnh Thường đã tập hợp hơn mười sơn trại trên núi về làm một, bản thân làm tân đương gia. Con người hắn cũng có bản lĩnh, không giết cũng chẳng đuổi những đương gia cũ như bọn ta, trái lại còn xem như trưởng lão.”

Trưởng lão tức là gì? Là người lớn tuổi có bối phận cao.

Trưởng lão có thể cầm quyền được không? Một ngọn núi cũng là giang sơn một phương, giang sơn đã đổi chủ, ‘hoàng đế tiền triều’ không bị giết là may lắm rồi, làm gì có chuyện ủy quyền thêm?

“Hơn mười sơn trại cũ tức có hơn mười trưởng lão. Có trưởng lão không nuốt trôi cục tức, dứt áo bỏ đi, có trưởng lão nhẫn nhịn, cam tâm đứng dưới Cảnh Thường, cũng có người làm đường chủ hay trưởng sứ. Còn như ta, năm đó lên núi là do không có cơm ăn, tới năm Chiêu Hóa, rõ ràng thời đại đã khá khẩm, nhưng Cảnh Thường vẫn không muốn xuống núi, cứ làm Đại đương gia núi Trúc Cố, còn tự xưng là nghĩa phỉ, ta rất không vừa mắt hắn. Nhưng vì khi đó núi Trúc Cổ chỉ còn lại mỗi ta là trưởng lão ăn không ngồi rồi, không nhúng tay vào chính sự, nên hắn cũng chướng mắt ta, mặc ta tự sinh tự diệt ở phía tây ngọn núi, có khách khứa hay người mới đến trại, hắn cũng không giới thiệu để ta biết.”

Có lẽ cũng vì lý do ấy mà về sau, ông Cát mới có thể may mắn thoát khỏi cuộc tàn sát.

“Quãng thời gian đó kéo dài mấy năm, mãi tới năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Tưởng Vạn Khâm lên núi.”

Nói đến đây, hai mắt ông Cát lóe lên vẻ chán chường, “Cảnh Thường kết giao rộng rãi, tính tình nghĩa khí, kỳ thực ta gần như không biết những thương nhân kết giao với hắn năm đó là ai, nhưng Tưởng Vạn Khiêm này, vốn dĩ hắn ta là người Thượng Khê, hồi xưa từng gặp mặt vài lần nên ta mới có ấn tượng.

Thượng Khê nghèo lắm, hồi Tưởng Vạn Khiêm còn trẻ cũng là một thằng nhóc nhà nghèo. Nhưng do hắn có gương mặt tuấn tú, cũng có chút đầu óc, về sau đến Đông An mưu sinh, được một tiểu thư nhà phú thương nhìn trúng. Tiểu thư ấy họ Phương, là con một trong nhà, khăng khăng đòi cưới ông ta bằng được, còn chưa thành thân đã mang cốt nhục của Tưởng Vạn Khiêm. Phú thương bất đắc dĩ, đành phải đồng ý cuộc hôn nhân này, sau đó cho Tưởng Vạn Khiêm ở rể, đích thân dạy dỗ mấy năm, thấy hắn ta thông minh bèn giao hết các cửa tiệm cho hắn.

Tưởng Vạn Khiêm có tiền là dính vào tệ nạn, đó là đánh bạc. Chưa đến mấy năm, vì mải chúi mũi vào phường cờ bạc, không quan tâm hàng hóa, kho hàng xảy ra hỏa hoạn, chỉ trong một đêm vải vóc tích trữ đã cháy rụi, việc kinh thương hai đời của nhà họ Phương không những đổ vỡ trong tay ông ta, thậm chí còn phải bồi thường không ít bạc. Vì việc này mà nhạc phụ đổ bệnh, hai năm sau qua đời, kế đó phu nhân của ông ta cũng ủ rũ u sầu, mấy tháng sau nhiễm bệnh mà mất. Tưởng Vạn Khiêm rút ra bài học xương máu, cai nghiện cờ bạc, giao con trai cho họ hàng đằng vợ chăm sóc, cầm theo ít tiền quay về Thượng Khê.

Kể ra hắn ta cũng số đỏ, năm ấy đang là mùa thu hoạch cây dâu ở Thượng Khê, đang lo không có người mua, ông ta chiếm ưu thế trước, lập tức vung tay mua dâu, thuê hơn mười chiếc xe bò vận chuyển đến Đông An buôn bán, nhờ kiếm được lời mà từ đó chuyển sang kinh doanh cây dâu.”

Có vết xe đổ lần trước, lần này Tưởng Vạn Khiêm không những đã cai cờ bạc mà còn không dám hành sự liều lĩnh, mười năm sau, việc kinh doanh ngày một đi lên, cộng thêm Thượng Khê không có nhiều thương nhân, ông ta lần nữa cưới vợ sinh con. Mà trong thời gian mười năm đó, người con trai Phương Lưu được ông ta gửi nuôi tại Phương gia cũng đã trưởng thành.

Tuy Đại Chu đã thay đổi, không còn khinh thường thương nhân như tiền triều, song địa vị của người trí thức vẫn cao vượt bậc, hơn nữa từ sau khi sĩ tử nhảy sông, vào thời đại Chiêu Hóa, cả triều đình gần như là nơi văn sĩ lên tiếng.

Ai mà chẳng muốn đi lên, đã có lợi ắt nghĩ tới việc nổi danh, tiền đã đủ tất lo kiếm địa vị.

Thương nhân mưu tranh địa vị thế nào đây? Khi ấy Tưởng Vạn Khiêm đã gần năm mươi, cuộc đời bản thân cứ bằng bằng, may thay ông ta còn có con trai, chính là con cả Phương Lưu từ nhỏ đã được học hành, đọc đủ thi thư văn chương, vừa đến tuổi cập quan đã thi đậu Tú tài.

“Về sau Tưởng Vạn Khiêm có sinh mấy đứa con, nhưng chỉ Phương Lưu này là đã có công danh Tú tài, thế là ông ta tìm cách kéo Phương Lưu đến bên mình, hi vọng cậu ta có thể làm quan, có chức vị tài cán, mở rộng vinh quang cho nhà họ Tưởng.”

Nghe đến đây, Thanh Duy không khỏi nghĩ tới Từ đồ.

Từ Đồ cũng giống vậy, bản thân không có con trai, thấy cháu ruột Từ Thuật Bạch có học vấn tốt, bèn dẫn y đi nịnh nọt Ngụy Thăng Hà Hồng Vân, ngóng trông y có thể lên kinh làm quan.

“Chỉ tiếc tố chất của Phương Lưu này có hạn, dù đậu Tú tài sớm nhưng không đậu nổi Cử nhân. Thi liền mấy năm cũng không đỗ, cho đến tuổi nhi lập, ngay chính cậu ta cũng không muốn thi nữa. Tam thập lão Minh kinh, ngũ thập thiếu Tiến sĩ*, thực ra tuổi nhi lập chưa đậu Cử nhân cũng bình thường, nhưng Tưởng Vạn Khiêm ông ta không đợi nổi. Tuy Tú tài cũng là công danh, nhưng Tú tài có làm quan được không? Tưởng Vạn Khiêm trái lo phải nghĩ, cuối cùng nghĩ được một biện pháp, sau đó, cũng là đầu mùa xuân năm Chiêu Hóa thứ mười ba, ông ta lên núi Trúc Cố.”

(*Dân gian thời Đường có câu: “Tam thập lão Minh kinh, ngũ thập thiếu Tiến sĩ”, nghĩa là 30 tuổi mới đỗ Minh kinh đã là già, 50 tuổi đỗ được Tiến sĩ hãy còn trẻ. Trong Tiến sĩ khoa, thông thường trăm người dự khảo thí chỉ trúng được 1, 2 người; còn Minh kinh khoa, 10 người khảo thí đã có thể trúng được 1, 2 người.)

Ông lão vừa dứt lời, mọi người lập tức ngẩn ngơ.

Nhiều lần thi không đậu thì liên quan gì tới việc lên núi Trúc Cố hay không?

Trên núi Trúc Cố toàn sơn tặc, mà công danh Phương Lưu muốn có lại nằm ở triều đình, rõ ràng hai điểm này cách nhau cực xa.

Ông Cát nói đến đó rồi thôi, đoạn quay sang nhìn Tạ Dung Dữ: “Nhìn dáng dấp các hạ, ắt không phải là người kinh thành bình thường, mà là người triều đình đúng chứ?”

Tạ Dung Dữ không đáp.

Ông Cát nói tiếp: “Vậy ta có một việc muốn thỉnh giáo các hạ. Trở thành sĩ tử, đề tên bảng vàng có phải là chuyện học trò trong thiên hạ mong muốn nhất không, nếu như tên được đề trên bảng vàng, có phải có nghĩa từ nay trở đi bọn họ có thể một bước lên mây, đường làm quan rộng mở?”

Tạ Dung Dữ nói: “Không hẳn là sẽ rộng mở, nhưng khi triều đình tuyển sĩ chọn quan, ngoài thành tích ra thì đầu tiên phải kể đến công danh, mà trọng thần trong triều hiện nay, ngoại trừ tôn thất thế gia, gần như đều xuất thân từ Tiến sĩ. Nên tiền bối nói đúng rồi, được đề tên trên bảng vàng là chuyện học trò trong thiên hạ mong muốn nhất.”

Một khi đỗ đạt, toàn thiên hạ đều sẽ biết tên.

Năm xưa Tạ Trinh đỗ Trạng nguyên, vào ngày tuyết rơi dựa vào lan can, ngấm men say ngâm một bài từ, để rồi biết bao nhã sĩ thiên hạ tranh nhau sao chép, đánh xe đi qua ngõ Chu Tước, nam nữ gia trẻ đổ xô tranh nhau nhìn ngó, hoa quả ném đầy cả lên xe.

Ông Cát nói: “Thế ta lại hỏi các hạ, lên Tiển Khâm Đài như thế nào so với việc đề tên lên bảng vàng?”

Câu hỏi vừa thốt ra, mọi người xung quanh lập tức sửng sốt.

Thạch thất lặng thinh như tờ, chỉ có ánh lửa chiếu sáng.

Một lúc lâu sau, Tạ Dung Dữ mới cất lời: “Xây dựng Tiển Khâm Đài là để tưởng niệm sĩ tử nhảy sông Thương Lãng và các tướng sĩ đã hi sinh trong trận Trường Độ, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, sĩ tử mà năm xưa tiên đế hạ lệnh chọn lên đài đều là anh tài xuất chúng, phẩm chất cao thượng, chuyện đó… đối với bọn họ, đấy là vinh quang vô cùng to lớn, thậm chí…”

Thậm chí còn hơn cả việc đề tên lên bảng vàng.

Khoa cử ba năm một lần, mà hồi đấy triều đình còn thêm thể lệ mở khoa khai ân, năm nay thi không đậu thì đợi sang năm thi tiếp.

Còn lên Tiển Khâm Đài… Kể từ khi Đại Chu khai triều đến nay, có thể nói đó là dịp trăm ngàn năm có một, sĩ tử được chọn lên đài sẽ được ghi tên vào sử sách, lưu truyền muôn đời.

“Chính thế.” Ông Cát nói, “Phương Lưu này nhiều lần thi rớt, có lẽ về sau cậu ta vẫn còn có cơ hội, nhưng Tưởng Vạn Khiêm không đợi nổi, Một chức Tú tài thì làm được gì? Nhưng, nếu Tú tài này là Tú tài từng bước lên Tiển Khâm Đài? Là một Tú tài được triều đình tuyển chọn, cùng rất nhiều người tài khác lên đài, danh tiếng vang xa? Nên… Tưởng Vạn Khiêm mới đến núi Trúc Cố.”

Ông Cát nhìn thẳng vào mọi người, lời chứa ngầm ý, “Ông ta làm một giao dịch với Cảnh Thường, ông ta cho Cảnh Thường một số tiền, còn Cảnh Thường, hắn hứa với ông ta là vào ngày Tiển Khâm Đài hoàn thành, sẽ để Phương Lưu – cậu Tú tài bình thường đó bước lên đài.”
 
Chương 104


Ngọn lửa trong hang đá cháy khá yếu.

Ánh mắt Tạ Dung Dữ thoáng đông cứng trong một khoảnh khắc, rồi từ từ nhắm lại.

Tận mắt y chứng kiến đài cao hoàn thành, chứa đựng tấm lòng son sắt của biết bao sĩ tử tướng sĩ đã qua đời, lẽ ra không nên lem luốc bẩn thỉu, sao lại… sao lại có thể đem ra mà mua bán?

Nhưng Tạ Dung Dữ biết lời ông Cát nói là thật, vì Phương Lưu thực sự đã chết dưới Tiển Khâm Đài.

Y hỏi: “Vì sao trong tay Cảnh Thường lại có suất sĩ tử lên đài?”

Sĩ tử được chọn lên đài là do các địa phương lập danh sách, đích thân Hàn lâm tự tuyển chọn, vì sao danh sách này lại rơi vào tay một sơn tặc?

Ông Cát lắc đầu: “Ta không biết, Cảnh Thường không nói gì với ta cả.”

Thanh Duy nhớ đến Từ Đồ, hỏi: “Khi ấy trong tay Cảnh Thường chỉ có một suất lên đài thôi à? Hay là hắn cũng bán cho những người khác, là thương nhân thường xuyên qua lại núi Trúc Cố?”

“Không biết.” Ông Cát nói, “Ta bảo rồi còn gì, quan hệ giữa ta và Cảnh Thường không tốt lắm, hồi trước ta sống ở phía tây ngọn núi, thậm chí còn chẳng biết bao nhiêu người trong sơn trại, có thể vì quá cô đơn, một lần nọ đi săn thú về thì gặp nhóc Cát ở trong núi, bèn nhặt nó về nuôi.”

Nói đoạn, ông Cát ngoái đầu nhìn nhóc Cát.

Nhóc Cát vẫn ngồi xếp bằng trên bệ đá, thấy mọi người nhìn sang, cậu ta lập tức quắc mắt cảnh giác, đẩy Tú nhi ra sau lưng mình.

“Thằng bé này, không biết là được chó sói hay khỉ nuôi lớn nữa, ta gặp nó lúc nó sáu bảy tuổi, không nghe hiểu tiếng người, chỉ biết ăn thịt sống, mất nhiều công sức lắm mới đưa được nó về, sau đó nó cũng chịu theo ta đến phía tây này, mà ta, có nó làm bạn thì càng không đến trại nữa.

Cứ thế mấy năm trôi qua, cho tới khi xảy ra chuyện mà các ngươi nói, Tiển Khâm Đài sập.

Thượng Khê này ấy, dở ở điểm bị phong bế, mà tốt cũng ở điểm ấy. Tiển Khâm Đài vừa sập, nghe nói ở kinh thành lẫn Đông An, bao gồm khu vực Trung đều rơi vào rối loạn, nhưng Thượng Khê thì vẫn như trước, gần như không chịu bất cứ ảnh hưởng nào, nên thoạt đầu ta cũng chẳng quan tâm chuyện đài sập, cho tới một hôm, Cảnh Thường bỗng một mình đến Tây Sơn.”

Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, Cảnh Thường tự mình đến phía tây núi Trúc Cố.

Hắn gõ cửa gỗ, ngồi một lúc lâu trong phòng ông Cát, nắm đấm đặt trên đầu gối không ngừng siết rồi buông, cuối cùng mở miệng: “Chú Cát, hình như tôi đã làm sai chuyện rồi.”

“Chú Cát, tôi lo mình sẽ hại anh em trong trại.”

Quan hệ giữa ông Cát và Cảnh Thường cũng chẳng mấy tốt đẹp, bao năm nay cả hai gần như không hề qua lại, nhưng công tâm mà nói, Cảnh Thường cũng không đối xử tệ với ông Cát, mỗi lần trong trại phát lương thực, Cảnh Thường luôn sai người dưới đưa một suất đến phía tây ngọn núi. Nên tiếng gọi “chú Cát” đã khiến ông Cát mềm lòng, ông chống trượng, từ từ ngồi xuống đối diện Cảnh Thường, “Cậu làm sai chuyện gì?”

Cảnh Thường chỉ nói đại khái: “Triều đình xây một ngọn tháp để tưởng niệm sĩ tử nhảy sông, nhưng thời gian trước nó vừa mới sập. Hồi đầu năm Tưởng Vạn Khiêm lên núi, mua một suất lên đài từ trong tay tôi, hiện con trai lão cùng rất nhiều người khác đã chết dưới ngọn tháp ấy.”

Còn về việc vì sao trong tay hắn lại có suất lên đài, rốt cuộc giao dịch giữa hắn và Tưởng Vạn Khiêm là gì, có thể là do không quá tin ông Cát nên Cảnh Thường không nói rõ.

Tuy Cảnh Thường là kẻ hám lợi, nhưng hắn có một điểm tốt đấy là nghĩa khí. Tiển Khâm Đài vừa sập, hắn biết mình đã gây nên chuyện, song hắn không sợ phiền, thậm chí cũng không sợ chết, điều hắn sợ là làm liên lụy tới anh em trong trại.

Có lẽ cũng vì lý do đó mà ngày hôm ấy, hắn mới một mình đến phía tây ngọn núi chỗ này.

Cảnh Thường buồn bã ra về, hắn nói với Cát ông: “Chú Cát, chú đi đứng không tiện, nếu trong trại xảy ra chuyện thật, chú hãy mau chóng rời khỏi đây.”



Nói đến đây, ông Cát thở dài một hơi, gõ cây trượng trong tay: “Hồi ấy ta không tin lời hắn, ta nghĩ, chỉ là một tòa tháp sập thôi mà, có gì ghê gớm đâu? Ta đã sống ở núi Trúc Cố nhiều năm, triều đại thay đổi mấy bận ta còn không đi, hắn bảo ta đi là ta phải đi ư? Nhưng hắn đã nói như thế rồi, ta không cẩn thận không được, nhóc Cát có mũi nhạy tai thính, ta bèn cho nó đi ra đầu núi canh chừng, nếu thấy quan binh hay nha sai lên núi, nhất là người họ Tưởng, thì phải quay về báo với ta.

Lại chẳng ngờ họa ập đến nhanh như thế. Một hai hôm sau, Tưởng Vạn Khiêm đã lên núi. Gã Tưởng Vạn Khiêm này thực sự quá ác, lúc lên núi thì giả làm người tốt, vờ vịt rộng lượng này kia, vừa quay đầu đi đã bán đứng núi Trúc Cố!

Ông ta nói, tuy con trai hắn chết dưới Tiển Khâm Đài, nhưng tòa tháp đó sập là tai nạn bất ngờ, ông ta không hề trách Cảnh Thường. Hơn nữa chỉ một mình Cảnh Thường sao có thể hoàn thành giao dịch? Ông ta biết Cảnh Thường cũng là bị lợi dụng mà thôi. Ông ta còn nhắc nhở Cảnh Thường, nói hiện tại tháp đã sập, sĩ tử chết quá nhiều, triều đình muốn điều tra rõ ràng, nói không chừng sẽ tra đến núi Trúc Cố, bảo Cảnh Thường nhanh chóng dẫn anh em rời núi đi, càng nhanh càng tốt.

Tưởng Vạn Khiêm hiểu rõ Cảnh Thường, ông ta biết mình càng nói thế thì Cảnh Thường càng không làm theo. Vậy Cảnh Thường làm thế nào? Hắn lập tức ra lệnh mọi người không cần rời núi, chặt đứt toàn bộ liên lạc với bên ngoài, sau đó phái người mà mình tin tưởng xuống núi thăm dò thực hư.

Cảnh Thường có một nghĩa đệ tên là Khấu Hoán Sơn, là Nhị đương gia núi Trúc Cố. Khấu Hoán Sơn có công phu cao cường, cũng rất nghĩa khí giống Cảnh Thường, thậm chí còn trọng tình nghĩa hơn cả Cảnh Thường.”

Trong sơn trại xảy ra chuyện lớn nhường vậy, Khấu Hoán Sơn lập tức nhận việc, nói, “Đại ca, để đệ dẫn người xuống núi xem sao.” Và khi hắn xuống núi, bọn họ đã hoàn toàn rơi vào bẫy của Tưởng Vạn Khiêm.

Ngày hôm đó sau khi Tưởng Vạn Khiêm rời núi Trúc Cố, thấy Cảnh Thường phong tỏa sơn trại thì lập tức quay sang báo án lên quan phủ, nói một lượng lớn hàng hóa của mình bị Cảnh Thường dẫn người cướp đi khi tới chân núi Trúc Cố, gia đinh vận chuyển cũng bị giết chết.

Khấu Hoán Sơn dẫn người xuống núi tìm hiểu tin tức, mà dưới chân núi đã sớm có quân mai phục. Một nửa bọn họ bao vây Khấu Hoán Sơn, nửa còn lại giả làm thuộc hạ của hắn, vào thành cướp bóc.

“Vì muốn xây dựng Tiển Khâm Đài mà từ một năm trước triều đình đã hạ lệnh diệt phỉ, quan binh diệt phỉ trú đóng ngay gần Thượng Khê. Sơn tặc núi Trúc Cố liên tục xuống núi càn quấy, binh sĩ đóng quân tất sẽ không ngồi yên bàng quan, lập tức vào núi diệt phỉ. Nhưng mà, đó chẳng qua là dấu hiệu giả, Cảnh Thường cướp hàng cướp người là giả, Khấu Hoán Sơn xuống núi cướp bóc cũng là giả! Kẻ ác thực sự chính là Tưởng Vạn Khiêm, là nha môn tướng quân đã cấu kết với ông ta! Bọn chúng đã làm ra chuyện dơ bẩn, muốn lên núi diệt khẩu nên mới sắp đặt cái bẫy đó! Sơn tặc núi Trúc Cố chỉ là một toán ô hợp, nào đấu lại nổi quan binh triều đình?”

Nói đến đây, giọng ông Cát nhuốm đầy bi thương, gần như nghiền nát răng, “Chỉ trong một đêm trên núi chết vô số kể, tiếng gào thét vang vọng khắp Thượng Khê, ngoại trừ mấy người trước đó theo Khấu Hoán Sơn xuống núi, phỉ tặc trong trại không một ai may mắn thoát khỏi, nhưng tên Khấu Hoán Sơn kia, hắn quả là kẻ đần độn!”

Bị hơn mười người bao vây dưới núi, Khấu Hoán Sơn lập tức đoán ra mình đã mắc bẫy. May thay hắn có công phu cao cường, hơn mười người cũng không bắt được hắn, lẽ ra hắn đã có cơ hội chạy trốn, nhưng khi thấy ánh lửa cháy rực trên núi, phản ứng đầu tiên của hắn lại là, “Tiêu rồi, đại ca của ta đã bị giết, các anh em của ta đã gặp nạn, ta phải quay về cứu họ.”

Khấu Hoán Sơn cũng là một nhân vật lợi hại, một mình cầm đao xông lên núi, cuối cùng chỉ thấy cái xác chết không nhắm mắt của Cảnh Thường, hắn lại xách đao tìm khắp núi, mong rằng có thể tìm được một huynh đệ còn sống.

Thời gian không phụ lòng người, khi Khấu Hoán Sơn chạy đến phía tây ngọn núi, cuối cùng phát hiện ra ông Cát và nhóc Cát đang trốn sau gốc cây khổng lồ trong rừng.

Nhìn thấy Khấu Hoán Sơn lúc đó, ông Cát gần như không nhận ra hắn.

Người đàn ông lưng hùm vai gấu nay máu đỏ nhuộm toàn thân, vết đao trên người nhiều không đếm xuể, sau lưng chi chít biết bao mũi tên.

Nhưng hắn cứ như chẳng biết đau là gì, lau máu trên mặt rồi nói, “Dưới căn nhà sườn núi phía tây có một hang động, đi vào trong đó, cạnh chân tường có một cơ quan, bên trong là thạch thất. Đó là chỗ của thợ săn ngày trước, chỉ có ta và đại ca biết, ông và nó hãy vào đấy trốn đi, nhanh lên.”

Quan hệ giữa ông Cát và Cảnh Thường không quá tốt đẹp, nên gần như cũng chẳng có giao tình với Nhị đương gia núi Trúc Cố cả.

Nhưng cuối cùng vào thời khắc sống còn, hắn đã tiết lộ nơi ẩn thân của mình cho họ.

Có lẽ hắn ta cảm thấy, hai người đó… ít nhiều gì cũng xem như huynh đệ trên núi Trúc Cố.

Ông Cát hỏi: “Vậy… vậy còn cậu?”

Ánh lửa trên núi lan đến gần, quan binh đã đuổi tới nơi, Khấu Hoán Sơn vuốt máu trên mặt, cười lạnh nói, “Đám cẩu tặc này đã giết đại ca, ta sẽ liều mạng với chúng!” Rồi hắn xoay đầu đi, “Ta có ơn với tổ tông Diệp gia đang ở phủ Huyện lệnh, nếu hai người không trốn nổi nữa thì hãy đi tìm bọn họ, bọn họ ắt sẽ hỗ trợ.”

“Chú Cát, chú phải sống, sau này nếu có cơ hội, hãy báo thù cho ta và đại ca, và cả các anh em núi Trúc Cố.”

Nói xong câu, Khấu Hoán Sơn lập tức xách đao xông lên.

Ông Cát chỉ biết trố mắt đứng nhìn, may mà nhóc Cát phản ứng rất nhanh, lập tức cõng ông chạy thục mạng đến sơn động phía tây. Nhóc Cát lúc đó đã lớn, có thể lõm bõm nghe hiểu một đoạn tiếng người dài như vậy.

Khấu Hoán Sơn đã chết, có lẽ ngay khoảnh khắc quay trở về núi, hắn đã chẳng thiết nghĩ đến việc phải sống.

Còn hai “sơn tặc” được hắn ta dùng tính mạng bảo vệ – ông Cát và nhóc Cát – trốn ngay trong động đá giữa núi rừng, dưới sự giúp đỡ của Diệp lão bá và Diệp Tú nhi, may mắn tiếp tục sống qua ngày.

Mãi đến tận ngày hôm nay của năm năm sau.

***

Ông Cát thuật lại đầu đuôi câu chuyện, trong động đá yên tĩnh tới mức chỉ nghe thấy tiếng lửa cháy lách tách.

Ánh mắt mọi người lặng đi, như chưa thể hoàn hồn từ cuộc tàn sát năm ấy.

Một lúc lâu sau, Tạ Dung Dữ mới cất tiếng: “Nói như thế, cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố có sự can thiệp của quan phủ Thượng Khê.”

“Đúng vậy.” Ông Cát nói, “Bao năm nay ta cứ trằn trọc nghĩ mãi chuyện này, cho dù mua bán danh sách hay mai phục Khấu Hoán Sơn, thậm chí là để quân trú đóng lên núi diệt phỉ, đều gỏn gọn trong phạm vị huyện Thượng Khê.”

Nếu nha huyện sạch sẽ, vậy chuỗi âm mưu đó chưa chắc đã thành công. Không phải ai ai ở nha huyện cũng bẩn thỉu, nhưng tất nhiên trong đó có kẻ không sạch sẽ.

Điều ông Cát nói, Tạ Dung Dữ cũng đã nghĩ đến từ lâu.

Bằng không y đã không tránh quan phủ, bí mật đến Thượng Khê làm gì.

Thanh Duy hỏi: “Người ở nha huyện Thượng Khê ngày trước chính là những người bây giờ à?”

Diệp Tú nhi đáp: “Đúng thế, Tôn Huyện lệnh, Tần sư gia, còn cả Lý bổ đầu nữa. Thượng Khê cùng khổ, chẳng ai muốn đến đây làm quan cả, nên nhân sự trong nha huyện gần như không thay đổi.”

Thanh Duy nghĩ ngợi, đoạn nói, “Các vị đã trốn trong núi mấy năm, lại biết nội tình Tưởng gia mua được suất lên đài, lẽ nào không nghĩ tới việc rời khỏi Thượng Khê, bẩm báo sự việc lên phủ Minh Châu?”

Sau khi Ngụy Thăng bị chém đầu, người đảm nhiệm Lăng Xuyên mấy năm nay là một vị quan thanh liêm thanh danh vang xa.

Ông Cát thở dài: “Dĩ nhiên có nghĩ tới. Bằng không cô nương cho rằng, một dân đen không biết chữ như lão hủ làm sao biết tới sĩ tử triều đình, bảng vàng khoa cử, rồi Tú tài Cử nhân? Sơn tặc núi Trúc Cố chết oan, ta nào cam tâm trốn chui rủi cả đời trong rừng? Thời gian đầu khi ẩn nấp, cho dù phát điên ta cũng muốn đến phủ Đông An cáo trạng Tưởng gia, cáo trạng nha huyện, cáo trạng tướng quân diệt phỉ nọ. Nhưng về sau, vào ngày ta rời khỏi núi Trúc Cố, ta đã gặp được một người, người ấy đã khuyên ta yên tâm mà trốn, không cần xen vào việc này nữa.”

Ông Cát mỉm cười nói: “Lão hủ là kẻ cứng đầu cứng cổ, nếu người khác nói câu đó, chắc chắn ta sẽ không nghe lọt nửa chữ. Nhưng ta sinh ở dân gian, bình sinh chỉ kính trọng duy nhất một người. Người này tuy đã mất, nhưng nếu hậu nhân của người ấy nói, ta nhất định sẽ nghe theo.”

Thanh Duy hỏi: “Ông đã gặp ai?”

Ông Cát nhìn nàng: “Chẳng hay cô nương có từng nghe đến Nhạc thị núi Bách Dương?”

Thanh Duy sửng sốt, bàn tay xuôi bên hông lập tức siết chặt.

“Người này chính là con nuôi của tướng quân Nhạc Xung – Nhạc Ngư Thất.”
 
Chương 105


“Người này chính là con nuôi của tướng quân Nhạc Xung – Nhạc Ngư Thất.”

Thanh Duy há miệng, lại chẳng thốt nổi bất cứ lời nào.

Bao năm nay nàng vẫn luôn tìm kiếm sư phụ.

Hai tháng sau khi Tiển Khâm Đài sập, triều đình còn chưa hạ lệnh truy nã mà ở bên ngoài đã phong thanh tin đồn bắt hết gia quyến của Ôn thị, đúng lúc này, Nhạc Ngư Thất lại tự thú với Chiêu Hóa đế.

Ông nói mình là em vợ của Ôn Thiên, nếu trùy đình muốn truy cứu trách nhiệm của thợ Ôn, ông tự nguyện gánh một phần tội lỗi.

Ngọc tiên Ngư Thất có công phu vượt trội, trong trận chiến sông Trường Độ năm xưa, một mình một kiếm có thể địch lại trăm người, tướng sĩ may mắn còn sống sau trận chiến đó không nhiều, một nửa trong số họ là nhờ có Ngư Thất che chở, chính ông đã dẫn bọn họ xông ra khỏi núi thây biển máu.

Thanh Duy không hiểu, rõ ràng Nhạc Ngư Thất đã có thể trốn, nhưng tại sao ông lại chủ động đầu thú, lúc nàng nhận được tin tức này thì sư phụ đã ngồi trong xe cũi tù, theo ngự liễn của Chiêu Hóa đế hồi kinh.

Sau đó Nhạc Ngư Thất biến mất trong một vụ cướp tù.

Không biết kẻ nào ăn gan hùm mật gấu mà dám cướp cả đội liễn của hoàng đế, về sau chuyện này lan truyền rất thần kỳ, đồn gì mà hôm đó cát vàng ngùn ngụt che lấp bầu trời, mấy chục sát thủ bận đồ đen nhảy ra từ bên đường, với thế nhanh như chớp không kịp che tai chém đứt khóa tù, cát còn chưa tan mà trên xe cũi chỉ còn lại gông cùm vỡ đôi.

Nhưng lời đồn cũng chỉ là lời đồn, nói ra miệng được bao nhiêu người tin?

Liễn của đế vương có hơn ngàn cấm vệ quân đi theo, chỉ mấy chục tên sát thủ còn chẳng tạo nổi gợn sóng lăn tăn. Nên về sau có người lại đoán, thực ra Nhạc Ngư Thất không biến mất mà đã chết rồi. Tiển Khâm Đài sập khiến Chiêu Hóa đế tức giận, chém đầu Ngụy Thăng và Hà Trung Lương chưa đủ, chém Chỉ huy sứ của Huyền Ưng Ti cũng chưa đủ, thế nên mới xử tử luôn cả tiểu tướng quân có liên quan đến Ôn Thiên.

Nhưng xét cho cùng Nhạc Ngư Thất là tướng sĩ trong trận chiến sông Trường Độ, Chiêu Hóa đế e ngại người đời chỉ trỏ, thành thử mới giàn xếp vụ cướp ngục hòng che mắt.



Thanh Duy khàn giọng hỏi: “Ông… gặp ông ấy lúc nào?”

“Tháng chín năm Chiêu Hóa thứ mười ba.” Ông Cát vẫn nhớ rất rõ, bởi từ sau khi núi Trúc Cố bị tàn sát, ông gần như đếm ngày để sống, “Hạ tuần tháng chín.”

Là hai tháng sau khi Tiển Khâm Đài sập.

Nói thế tức là Nhạc Ngư Thất đã đến Thượng Khê, hỏi được lý do cái chết của sơn tặc rồi ra đầu thú với Chiêu Hóa đế.

Thanh Duy lại hỏi: “Lúc ông gặp ông ấy, ông ấy có nói gì không?”

Ông Cát lắc đầu: “Nhạc tiểu tướng quân đến vội quá, trước khi đi chỉ dặn bọn ta trốn đi, còn bảo mình muốn tìm người.”

Tìm người? Sư phụ muốn tìm ai?

Thanh Duy không khỏi siết chặt tay.

Hay là… lúc đó sư phụ cũng đang tìm nàng? Nhưng nếu ông ấy đã muốn tìm, vì sao sau đó lại không tìm tiếp nữa? Hại nàng bao năm nay lang bạt bôn ba, lẻ loi một mình.

Tâm trạng Thanh Duy không ngừng lên xuống, nhưng nàng biết ông Cát chỉ biết nhiêu đó mà thôi, có hỏi nữa cũng vô ích.

Lúc này, Tạ Dung Dữ nói với ông Cát: “Hiện tại Thượng Khê đã không còn là nơi an toàn, nha huyện không sạch sẽ, quân lính ngoài kia cũng chẳng tốt đẹp gì, nếu tiền bối tin tại hạ, chi bằng để tại hạ cho người hộ tống chư vị rời đi.”

Tạ Dung Dữ nói rất khách khí, và ông Cát cũng biết bọn họ không còn lựa chọn nào khác.

Nhóc Cát đã bị phát hiện, nha sai tìm đến chỉ là chuyện sớm muộn, bọn họ trốn ở đây được mấy năm, nhưng liệu có thể trốn được cả đời không? Cứ sống mãi trong tối tăm không thấy thái dương, chi bằng liều một phen.

Ông Cát chống trượng đứng dậy, nhìn Tạ Dung Dữ: “Dám hỏi các hạ, tiếp theo đây ta phải đối phó với Tưởng Vạn Khiêm kia sao?” Ông dừng lại, giọng khản đặc già nua, “Người sau lưng Tưởng Vạn Khiêm… không đơn giản đâu.”

Nói đoạn, ông cũng chẳng đợi Tạ Dung Dữ trả lời, chống trượng đi ra khỏi thạch thất, “Vậy làm phiền các hạ.”

***

Bên ngoài trời đã sáng choang, vừa ra khỏi động đá, một Huyền Ưng vệ lập tức báo cáo: “Bẩm Ngu hầu, Ngũ Hiệu úy của Tả Kiêu vệ dẫn binh tìm đến trang viên thành tây rồi ạ.”

“Ngũ Thông?” Tạ Dung Dữ nhíu mày, “Chuyện từ lúc nào?”

“Ngay một khắc trước, sau khi Ngu hầu lên núi, thuộc hạ dẫn theo người để ý động tĩnh bên ngoài.” Huyền Ưng vệ đáp, “Có vẻ hắn ta đến vì thiếu phu nhân, lúc này đã cho triệu phòng ngoài của Huyện lệnh, hỏi về ông cháu Diệp thị và… Giang thị.”

Hai chữ “Giang thị” vừa thốt ra, Tạ Dung Dữ liếc nhìn Thanh Duy.

Y biết nàng đang giả dùng họ Giang, y đã để ý từ khi Tú nhi liên tục gọi nàng là “Giang cô nương”.

Thanh Duy lại chẳng để tâm, ảo não nói: “Năm ngoái ở kinh thành, trong số các Tả Kiêu vệ Hiệu úy truy bắt ta có tên họ Ngũ này, hôm trước ta đến Thượng Khê, khéo thế nào hắn ta lại trực ở ngoài núi, có lẽ hắn đã bắt đầu nghi ngờ ta từ lúc đó.”

Nói xong, nàng xoay người định đi tới đầu kia con đường.

Tạ Dung Dữ chụp lấy cổ tay nàng: “Nàng tính đi đâu?”

“Ta vào rừng tránh một thời gian, chờ hắn đi thì ta ra, kẻ này đúng là âm hồn không tan mà.”

Tạ Dung Dữ không buông tay, nói với Huyền Ưng vệ: “Ngươi hãy thu xếp cho người dẫn chú Cát và nhóc Cát đến Vân Khứ Lâu.” Đoạn, y quay sang nhìn Thanh Duy, lời ít ý nhiều: “Đi theo ta.”

***

Tới dưới núi, từ đằng xa đã thấy mười mấy Tả Kiêu vệ đứng bao vây bên ngoài trang viên, Dư Hạm cùng hội thím Ngô đứng trước cửa ngó nghiêng nhìn quanh.

Ngoại trừ Ngũ Thông, Tần sư gia của nha huyện cũng có mặt, vừa thấy Tạ Dung Dữ, cả hai lập tức đi đến bái lạy: “Điện hạ.”

Lúc này chỉ có Chương Lộc Chi và Triêu Thiên đi theo Tạ Dung Dữ, Huyền Ưng vệ bảo vệ Thanh Duy và ông cháu Diệp thị đang chờ ở dưới chân núi nơi xa.

Tạ Dung Dữ nói: “Có chuyện gì?”

“Bẩm điện hạ,” Ngũ Thông biết quan hệ của Tiểu Chiêu vương và nữ Ôn thị nọ, đâm chần chừ, “Thuộc hạ… vì một vụ án cũ, nên đến trang viên đây kiểm tra ông cháu Diệp thị cùng biểu tỉ Giang thị, không biết điện hạ có thể cho phép thuộc hạ… gặp ba người này một lần được không?”

Tạ Dung Dữ thờ ơ nói: “Không phải ngươi phụng lệnh đến bắt ma à? Sao lại nghi ngờ ba người họ?”

“Là thế này, vì một trong ba người đó rất giống với một trọng phạm mà thuộc hạ đang truy lùng, cũng rất có thể chính là con ma xám mà đêm trước điện hạ đã truy đuổi…”

“Ngũ Thông to gan!” Không đợi Ngũ Thông nói hết câu, Chương Lộc Chi đã ngắt lời, “Đêm hôm ấy bắt ma không thành là do lỗi của ngươi, vì chuyện nên mà Ngu hầu đã khiển trách ngươi, sao hả, ngươi bị đãng trí hay sao mà ba lần bốn lượt lấy chuyện này ra chống đối Ngu hầu?”

“Thuộc hạ không dám, thuộc hạ thực sự…”

Nhưng lời đến bên môi, Ngũ Thông cảm thấy nói gì cũng không ổn.

Hắn chỉ là một Hiệu úy thất phẩm thấp cổ bé họng, chớ nói là thân vương điện hạ, chỉ riêng thân phận Đô Ngu hầu Huyền Ưng Ti thôi, hắn cũng không đắc tội nổi.

Đối đầu với Tiểu Chiêu vương đâu phải điều hắn muốn, nhưng nha môn Tả Kiêu vệ lại có một điểm cố chấp, mệnh lệnh truy nã nữ Ôn thị chưa được dỡ bỏ, trọng phạm còn đang ở ngay trước mắt, lẽ nào hắn mắt nhắm mắt mở coi như không thấy? Hắn không làm được.

Ngũ Thông cụp mắt đợi Tạ Dung Dữ khiển trách, nhưng đợi mãi mà Tạ Dung Dữ vẫn không lên tiếng, trái lại y đánh mắt nhìn sang Tần Cảnh Sơn: “Sao Tần sư gia lại đến đây?”

Tần Cảnh Sơn được hỏi, lấy làm bất ngờ: “Bẩm điện hạ, vì sáng nay Ngũ Hiệu úy có hỏi thăm thảo dân về ông cháu Diệp gia, thảo dân đang rảnh nên mới dẫn Ngũ Hiệu úy đến đây.” Y dừng lại, đoạn bổ sung, “À, người ở trang viên này là… là… người nhà của Tôn đại nhân.”

Hóa ra chính hắn dẫn người tới.

Tạ Dung Dữ nghe thế, nói với Ngũ Thông: “Ngươi đến tra án, bổn vương cũng đến tra án, những người ngươi muốn tìm vừa khéo cũng là nhân chứng Huyền Ưng vệ đang tìm, liệu ngươi có thể nhường bổn vương dẫn người đi thẩm tra trước?”

Vị điện hạ cao quý đã nói lời khách khí đến vậy, Ngũ Thông còn nói gì được nữa, đành phải đồng ý.

***

Ngũ Thông vừa đi, Huyền Ưng vệ nhanh chóng đánh hai cỗ xe ngựa tới, Chương Lộc Chi nói với Diệp Tú nhi và Diệp lão bá: “Hai vị mau quay về thu dọn đồ đạc, chớ để Ngu hầu của bọn ta chờ  lâu.”

Tú nhi gật đầu cái rụp, vội vàng quay về trang viên.

Dư Hạm và mấy người thím Ngô bị Huyền Ưng vệ chặn trước cửa trang viên, thấy Diệp Tú nhi lật đật trở về, một lúc sau lại xách tay nải đi ra thì ngơ ngác.

Dư Hạm đuổi theo, hốt hoảng hỏi: “Rốt, rốt cuộc đã có chuyện gì! Các ngươi định dẫn người của ta đi ư?”

Rồi nàng ta chợt hoàn hồn, giậm chân thật mạnh, lạnh lùng nói: “Không được! Các ngươi không được dẫn người của ta đi!”

Tú nhi đã đặt tay nải lên xe ngựa, thấy Dư Hạm muốn ngăn cản không cho mình đi thì lấy làm chần chừ, hỏi Tạ Dung Dữ: “Quan gia, có thể cho phép nô tì tạm biệt tiểu phu nhân một lần được không?”

Tạ Dung Dữ khẽ gật đầu.

Tú nhi quay lại chỗ Dư Hạm, đứng cách hai Huyền Ưng vệ, nói: “Tiểu phu nhân, em và ông bị vướng vào một vụ án nên phải rời Thượng Khê một thời gian. Phấn son đã đủ, trâm vòng cũng đã mua mới, phu nhân cứ dùng đi ạ, bao giờ phu nhân dùng chán thì em sẽ trở về.” Nói đoạn, nàng lấy ra một chiếc túi nhỏ từ trong tay áo, “Chỗ này là tiền bạc em tích cóp mấy năm nay, nếu phu nhân đã dùng hết phấn mà em còn chưa về, phu nhân cứ cho người cầm chỗ bạc này đến phủ Đông An mua đi, coi như Tú nhi tặng phu nhân.”

Cầm chiếc túi trong tay, bên trong chỉ có mấy miếng bạc to chừng đầu móng tay, con a đầu chết tiệt, chỗ này đáng bao nhiêu hả.

Dư Hạm hỏi: “Em nói phải đi một thời gian, một thời gian là bao lâu?”

Tú nhi lắc đầu, liên quan đến quá nhiều mạng người, không phải cứ kiện là có kết quả ngay, quan gia đến từ trong kinh, không chừng nàng còn phải lên kinh thành.

“Ngắn thì mười ngày nửa tháng, còn lâu… có thể một hai năm, tóm lại tiểu phu nhân cứ đợi em, em nhất định sẽ quay về hầu hạ người.”

“Một hai năm?” Nghe lời này, Dư Hạm tức giận quẳng chiếc túi xuống đất, “Con a đầu chết tiệt nhà em, sao em không chết ở ngoài kia luôn đi!”

Nhưng bản thân nàng ta cũng biết mình không quyết được chuyện Tú nhi đi hay ở, người có thể làm chủ chính là quý công tử đang đứng gần đấy, người mà ai nhìn cũng phải cúi đầu.

Nàng kéo Tú nhi sang một bên, uốn người đi tới, hét lớn với người kia: “Rốt cuộc anh là ai? A hoàn của ta mà anh nói dẫn đi là đi, sao anh không…”

Nhưng nàng ta chưa nói hết câu, Tạ Dung Dữ đã quay mặt sang.

Nửa lời sau tắc nghẹn ở cổ họng.

Dư Hạm ngẩn ngơ, nàng từng gặp nhiều người tuấn tú, nhưng chưa bao giờ thấy ai đẹp đến nhường này.

Trăng rơi xuống nước cũng chỉ là ảo ảnh hư vô, người trước mắt đây mới thực sự là tiên nhân hạ phàm, gió xuân vi vu cũng hóa thành khói sương chốn bồng lai.

Dư Hạm có một tật xấu, đấy là không có sức kháng cự trước cái đẹp. Hai năm trước cùng Tôn Nghị Niên đến Đông An, vừa gặp các anh tài tuấn tú ở Thuận An Các là đầu gối nàng ta lập tức nhũn ra. Mà người trước mắt đây, chớ nói chân mềm nhũn không bước đi được, thậm chí còn chẳng thở nổi, nếu không phải y dẫn đi Tú nhi nàng thích nhất, cộng thêm khí chất lạnh lẽo cao sáng bao trùm toàn thân, thì có lẽ nàng đã bám theo người này cả đời mất thôi.

Dư Hạm biết mình không nói lí được với y, bèn đưa mắt nhìn Thanh Duy.

Nàng không ngốc, từ khi a đầu họ Giang đến trang viên, chuyện lạ này cứ nối tiếp chuyện lạ kia, bây giờ Tú nhi còn bị dẫn đi, chắc chắn có liên quan tới cô ta.

Nàng cầm khăn chỉ vào Thanh Duy: “Có phải cô lừa Tú nhi đi không?”

Thanh Duy nói với Dư Hạm: “Đa tạ phu nhân đã thu nhận ta, đợi sau này sự việc xong xuôi, nhất định ta sẽ đưa Tú nhi bình an trở về.”

“Không được!” Dư Hạm giậm chân, đánh mắt nhìn Thanh Duy và Tạ Dung Dữ, chợt bừng hiểu, “Ta biết rồi, ta biết vì sao cô tới Thượng Khê rồi! Có phải cô đã sớm gian díu với người này không, vì y nên mới đào hôn?”

Hai chữ “đào hôn” vừa được thốt ra, Tạ Dung Dữ khựng lại, đưa mắt nhìn Thanh Duy.

Dư Hạm chống hông, chẳng đếm xỉa gì nữa, “Ta tốt bụng thu nhận cô, nhưng cô lại lừa Tú nhi của ta đi, cẩn thận ta báo chuyện này cho chồng cô biết! Chớ tưởng ta không biết tướng công của cô là ai, Tú nhi đã nói hết cho ta biết rồi,  hắn họ Tạ, xuất thân người nhà quan, thực ra các ngươi đã thành thân từ lâu, nhưng hắn ta suốt ngày chơi bời lêu lỏng, trêu hoa ghẹo nguyệt, muốn nạp tiểu thiếp phòng ngoài, rồi còn có thiên kim tiểu thư thầm yêu hắn nhiều năm trời, chỉ muốn đá cô đi để cưới hắn, cho nên cô mới nổi máu ghen bỏ nhà ra đi! Ta nói cô biết, đừng tưởng Thượng Khê phong tỏa là xong, Lăng Xuyên có rất ít người họ Tạ, công tử chơi bời như thế, Đông An cũng chỉ có mấy người thôi, ta hỏi thăm là biết ngay! Cô định chạy hả? Ta sẽ để oan gia của ta đi tìm tướng công cô, bảo hắn tới Thượng Khê trói cô v…”

Nhưng Dư Hạm còn chưa nói hết thì đã bị hai Huyền Ưng Ti ngăn lại, đuổi về trang viên.

Chung quanh lặng yên như tờ, tất cả Huyền Ưng vệ bao gồm Triêu Thiên đều cúi đầu thật thấp.

Thanh Duy nhắm hai mắt, chỉ hận núi non hoang dã không có chỗ cho nàng trốn khuất mắt đi.

Nàng chôn chân tại chỗ, đương lúc vặn hết óc để giải thích lời nói dối của mình, thì Tạ Dung Dữ đứng bên cạnh đã cất tiếng.

Giọng trầm thấp rõ ràng, điềm tĩnh thong dong:

“Nương tử còn không mau lên xe ngựa?”

Y dừng một lúc.

“Chỉ là lên xe ngựa thôi mà, không cần vi phu phải trói lại chứ?”
 
Chương 106


Thanh Duy chẳng biết mình đã quay về Vân Khứ Lâu thế nào, chỉ nhớ lúc ở trên xe ngựa, hình như Tạ Dung Dữ không nhắc đến chuyện nàng “đào hôn”.

Nhưng y không nhắc không có nghĩa là chuyện kết thúc tại đây, chẳng qua việc cấp bách bây giờ là thu xếp cho nhóm ông Cát rời Thượng Khê. Tạ Dung Dữ đưa nàng về phòng chữ Thiên rồi lại vội vã đến nha huyện, một mình Thanh Duy ở trong phòng, đi không được mà trốn cũng chẳng xong.

Nàng thực sự hận ứa gan tên Tả Kiêu vệ Ngũ Thông kia, nếu hắn không dẫn người lùng bắt nàng trong thành thì nàng đã có thể bỏ trốn rồi.

Với tốc độ đi của nàng, nửa ngày rời khỏi Thượng Khê là quá chậm, nếu mượn được khoái mã, sáng sớm ngày mai có thể đến Đông An, trong vòng ba ngày sẽ rời khỏi Lăng Xuyên, nội trong một tuần có thể đi tới cuối chân trời, từ rày trở đi mai danh ẩn tích đến hết đời.

Tối qua đã thức trắng một đêm rồi, Thanh Duy quyết định chợp mắt ngủ trưa một giấc, ai dè lại cứ mơ thấy ác mộng, khi thì Tú nhi, Dư Hạm liên tục tra hỏi nàng, “nói, có phải chồng cô là Tạ gia ở kinh thành không”, lúc lại là Tạ Dung Dữ cầm dây thừng bước từng bước ép sát nàng, “nương tử à, vi phu tìm nàng đã lâu, từ giờ đừng bỏ chạy nữa”.

Nên lúc ngủ dậy, đầu óc nàng nặng trịch mơ hồ, đến chập tối Tạ Dung Dữ trở về, trong lúc ăn cơm hình như nói gì đó với nàng, nhưng nàng lại không nghe lọt.

Chẳng mấy chốc trời đã tối hù, Tạ Dung Dữ tắm rửa xong, khoác áo tựa vào đầu giường xem hồ sơ, nhân tiện giục nàng mau mau đi tắm.

Đêm xuân vẫn còn hơi lạnh, chạm vào nước ấm giúp Thanh Duy tỉnh táo phần nào, nàng ngơ ngác suốt cả một ngày, nghĩ bụng, nếu không tìm cớ giải thích lời nói dối “đào hôn” thì nàng sẽ ăn không ngon ngủ không nổi, giảm mười năm tuổi thọ mất thôi.

Dưới ánh đèn trên bàn kê trước giường, Tạ Dung Dữ ngồi đấy đọc hồ sơ, công văn thư từ chất đống như núi, có lẽ là từ trong kinh thành đưa tới.

Thanh Duy tắm rửa xong, đứng trong phòng nhìn y.

Lần nào y cũng mặc đồ trắng sạch sẽ, trông vừa nghiêm nghị lại có phần lạnh lùng, hai mắt cụp xuống, đuôi mắt hơi xếch tạo nên độ cong quyến rũ.

Nửa năm không gặp, sắc mặt y khá lên rất nhiều, có lẽ bệnh tình đã chuyển biến tốt, thân người cũng dễ chịu, thoạt nhìn cứ ngỡ quay về lần đầu tiên gặp mặt, gặp lại Giang Từ Chu tiêu dao ngày nào.

Thanh Duy cố sắp xếp mớ bòng bong trong đầu, ngồi xuống cuối giường.

“Cái đó… Ta…”

Nghe thấy giọng nàng, hai mắt Tạ Dung Dữ khẽ động, ngước lên nhìn: “Nàng cái gì?”

Y gập bản hồ sơ trong tay, “Nghĩ ra lời giải thích rồi hả? Lại đây, nói nghe xem nào.”

“… Nói cái gì?”

“Nói nàng nói xấu ta trước mặt người khác thế nào.”

Y nửa cười nửa không nhìn nàng, thâu trọn vẻ lúng túng của nàng vào đáy mắt.

Ngay từ hồi sáng y đã thấy nàng lúng túng gượng gạo, vì thế nên mới không nhắc đến, đâu hay đã một ngày trôi qua mà nàng vẫn chưa bình tĩnh lại, nói chuyện với nàng nhưng nàng chỉ cứ thẫn thờ.

Nếu không cho qua được thì nói rõ ràng đi vậy.

Thanh Duy nhìn Tạ Dung Dữ: “Ta, ta nói xấu ngài lúc nào? Một mình ta ở bên ngoài, chí ít cũng phải có tên tuổi chứ, nói bản thân đào hôn bỏ trốn, chồng là người quan phủ, để lỡ ta có trốn quan bình thì người ta cũng không cảm thấy lạ.”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng: “Sao nàng lại họ Giang?”

“…”

“Giang thị?”

“Thiên hạ có biết bao nhiêu cái họ, chẳng lẽ ngài họ Giang thì ta không được phép mang họ Giang hả?” Thanh Duy nói, “Hơn nữa nhiều chữ Giang như vậy, sao ngài biết ta lấy họ Giang chứ không phải họ Khương?”*

(*Giang và Khương là hai chữ đồng âm.)

Nói đoạn, nàng luống cuống bổ sung, “Nói chồng họ Tạ cũng lý do giống vậy, hồi trước chúng ta thành thân giả, ta lấy họ của ngài cho dễ nhớ mà thôi.”

Tạ Dung Dữ dựa vào gối, thong thả nói, “Được, họ Giang là ngoài ý muốn, họ Tạ là để dễ nhớ, xuất thân quan lại cũng là cái cớ tránh quan binh, trêu hoa ghẹo nguyệt, nạp tiểu thiếp phòng ngoài, tuy ta không làm những chuyện đó, nhưng để người ngoài tin rằng nàng đào hôn, ta chấp nhận mang tiếng xấu, có điều…”

Bỗng y chồm người tới, nhìn thẳng vào nàng, “Thiên kim tiểu thư đơn phương ta, chỉ muốn đá nàng đi để cưới ta, chuyện này có cần thiết không? Vì sao nàng lại nói cả chuyện này với người ngoài?”

Y dựa rất sát, hơi thở thơm mát đập vào mặt.

Rõ ràng là hơi thở rất quen thuộc, là mùi hương nàng có thể ngửi thấy vào những đêm chung giường ngày xưa.

Nhưng bây giờ khi hơi thở ấy lại gần, con tim nàng lại đập thình thịch chẳng dừng, “Là vì, vì…”

“Ta cho rằng,” Tạ Dung Dữ trầm giọng, “Câu chuyện đó, chỉ là lời buột miệng xả giận mà thôi.”

Y cụp mắt nhìn nàng, “Sao hả, trước khi nàng rời kinh, có người đã nói gì với nàng khiến nàng phải bận tâm đến nay ư?”

Tiểu Dã là người độ lượng, y biết màn thổ lộ của Xa thị tại hội thơ Hàn lâm không đến mức khiến nàng để bụng.

Thanh Duy nghe thế, ngón tay đặt trên giường run lên.

Nàng chợt nhớ lại trước khi mình rời kinh, cái đêm mà nàng đi gặp Tào Côn Đức lần cuối cùng, lão đã nói với nàng: “Tiểu Chiêu vương có thể tiến xa đến đâu còn chưa biết được, may mà ngài ấy còn trẻ tuổi, vẫn chưa chính thức kết hôn, có thể đi đường tắt, nếu kết hôn với vọng tộc có địa vị cao thì…”

Những lời ấy, lúc mới nghe chẳng cảm thấy gì, nhưng không hiểu vì sao bây giờ lại bỗng nhiên nổi gợn sóng trong lòng.

Tim Thanh Duy nảy lên, bật thốt: “Không phải!”

“Thế là gì?”

“Là… là giọt nước tràn li.” Thanh Duy nhìn y, vội vàng giải thích, “Muốn đào hôn thì cũng phải có bước ngoặt chứ? Ngài ở bên ngoài trêu hoa ghẹo nguyệt, còn cùng Khúc Đình Lam uống rượu gọi ca cơ nghe nhạc, những chuyện này ta không quản, nhưng ngài còn định cưới người ta, khác gì làm khó ta đâu, chính vì vậy nên ta mới…”

Song nói chưa hết câu, Thanh Duy đã im bặt.

Nàng đang… nói cái gì thế này?

Người chồng mà nàng bịa ra rõ ràng là theo suy nghĩ chủ quan của nàng, là Tạ gia phú hộ ở Đông An, đã nói thế kia mà, sao nay lại biến thành Tạ thị Dung Dữ ở kinh thành?

Tạ Dung Dữ thản nhiên nói: “Ta hồi cung không lâu, đúng là Xa đại nhân của bộ Binh có tiến cung gặp ta, uyển chuyển đề cập chuyện thiên kim nhà ông ta chưa kết hôn với ta mà mẫu thân, có điều… ta đã từ chối rồi.”

“Tuy ta cho rằng mình không làm gì sai trong chuyện này, nhưng…” Giọng y bỗng dịu dàng hẳn đi, “Nương tử à, vi phu sai rồi.”

Thanh Duy cảm thấy da đầu sắp nứt toác.

Y đang nói gì thế?

Rõ ràng đang giải thích về lời nói dối của nàng mà, tại sao lại quay sang chuyện giữa hai người họ?

Hơn nữa bọn họ chỉ là vợ chồng giả, y nhận sai với nàng làm gì?

Thanh Duy há miệng mấy lần, nhưng cảm thấy có nói gì cũng chỉ thêm loạn, mà con người nàng là như thế đấy, nói không lại sẽ động thủ, không động thủ được thì bỏ đi.

Nàng nhìn Tạ Dung Dữ chằm chằm, bỗng dưng xoay người xuống giường, đẩy cửa sổ phòng ra.

Tạ Dung Dữ đuổi theo, đóng cửa sổ lại: “Nàng làm gì đấy?”

“Ta không muốn ở chỗ này nữa, ta muốn ra ngoài ở.”

Tạ Dung Dữ nắm chặt then cửa sổ: “Ra ngoài? Nàng tính đi đâu ở?”

“Lấy trời làm chăn lấy đất làm chiếu, tìm đại gốc cây nào đó cũng được, tên Ngũ Thông kia có thể tìm ra ta chắc?”

Y dừng lại, nụ cười dần tắt, giọng cũng nhẹ đi: “Nàng đang để tâm điều gì?”

Thanh Duy vốn là người có gì nói nấy, nếu y đã hỏi như vậy thì nàng cũng chẳng che giấu nữa, nói thẳng: “Hai ta chỉ là vợ chồng giả, lẽ ra không nên vô tư ở chung với nhau như thế. Hồi thành thân, ta lấy thân phận nữ Thôi thị, còn ngài dùng thân phận thiếu gia Giang gia, đôi bên không ai thành thật cả, còn bây giờ chúng ta đã quay về là chính mình, dĩ nhiên không thể ở chung dưới danh nghĩa vợ chồng rồi.”

Tạ Dung Dữ khựng người, đang định lên tiếng thì nghe thấy Thanh Duy nói, “Vả lại, hai chúng ta cách biệt một trời một vực, nếu xưa nay ta chỉ là ta, ngài chỉ là ngài, có lẽ gặp mặt nhau thôi cũng rất khó khăn, nói gì đến việc kết vợ kết chồng. Ngay đến danh tính của ngài ta cũng biết từ người khác mà, chẳng phải ư?”

Nàng vừa dứt lời, Tạ Dung Dữ sửng sốt.

Nội tâm Thanh Duy vô cùng hốt hoảng, nàng biết Triêu Thiên đang đứng ngoài hành lang, vừa nói xong lập tức cao giọng gọi: “Triêu Thiên.”

Đúng là Triêu Thiên đang rất tận chức đứng gác ngoài hành lang, nhưng từ hai ngày trước, chủ tử đã dặn hắn từ nay về sau, nếu không được gọi thì không thể vào, bây giờ chủ tử không gọi nhưng thiếu phu nhân gọi, chủ tử lại để ý thiếu phu nhân nhất, thế là hắn lập tức đi vào.

“Có thuộc hạ.”

Thanh Duy hỏi: “Khách điếm này còn có phòng nào khác không? Ta muốn đổi phòng.”

Không đợi Triêu Thiên lên tiếng, Tạ Dung Dữ nói luôn: “Không được, nàng ở phòng khác ta không yên tâm.”

“Thế phải ở đâu?” Thanh Duy nói, nàng nhìn quanh một vòng, nghĩ bụng dù sao chiếc giường này cũng đủ rộng, thế là tiến thẳng tới chỗ Triêu Thiên, “Đưa đao của ngươi cho ta, ta bổ đôi chiếc giường này ra làm hai vậy.”

Triêu Thiên ngơ ngác, chợt lùi về sau một bước, đầu óc hắn xoay chuyển rất nhanh, ánh mắt dừng ở gian phụ vốn nằm bên phải chiếc giường, nhưng sau khi thiếu phu nhân tới thì đã bị biến thành phòng tắm.

Bổ đôi giường làm gì? Chia ra rồi vẫn ghép lại được, mà cho dù không ghép thì cũng chỉ cách nhau khoảng cách có tí tẹo thôi mà? Xoay người là chạm mặt nhau rồi còn gì. Phí cả thanh đao.

“Chi bằng để thuộc hạ chuyển thùng tắm ra ngoài, thu xếp giường đệm, thiếu phu nhân và công tử chia ra ở hai gian là được.”

Đức Vinh đã nói rồi, khi đi xa phải ngẫm xem công tử quan tâm gì nhất.

Công tử quan tâm thiếu phu nhân nhất, ý của thiếu phu nhân ắt hẳn là ý của công tử.

Triêu Thiên nói làm là làm, không tới một khắc đã chuyển thùng tắm ra ngoài, kê giường mới vào rồi lập tức rời khỏi phòng, cứ như thể làm việc tốt không lưu lại công danh vậy.

Thanh Duy im lặng, đứng dậy toan đi tới gian đối diện, ai dè lại bị Tạ Dung Dữ giữ chặt, “Nàng cứ ngủ ở đây đi.”

Căn phòng đó đã đặt thùng tắm, hẵng còn ẩm ướt, không tiện nghỉ ngơi.

Nói xong, y thu dọn hồ sơ trên bàn chuyển vào gian đối diện.

Kỳ thực khoảng cách giữa hai bên không xa, chỉ cách nhau một phòng chính, gian phụ không có cửa, chỉ có rèm tre xuyên sáng.

Đáng lẽ ra hôm nay phải đi nghỉ từ sớm, nhưng vì chuyện ban nãy mà kéo dài đến tận nửa đêm, lúc này cũng đã khuya lắm rồi. Thanh Duy lên giường, kéo chăn đắp, song vừa nhắm mắt lại nghe thấy tiếng bước chân của Tạ Dung Dữ đến gần, nghe thấy y gọi: “Tiểu Dã.”

Nàng không khỏi mở mắt.

Y đứng trước giường nàng.

Nàng dễ chăm sóc thật đấy, chỉ mới mấy ngày thôi mà sắc mặt đã khá hơn rất nhiều so với hồi mới gặp lại.

Y nhớ tới lời nói lúc nãy của nàng.

“Hai chúng ta cách biệt một trời một vực.”

“Nếu xưa nay ta chỉ là ta, ngài chỉ là ngài, có lẽ gặp mặt nhau thôi cũng rất khó khăn, nói gì đến việc kết vợ kết chồng.”

“Ngay đến danh tính của ngài ta cũng biết từ người khác mà, chẳng phải ư?”

Hóa ra nàng để ý chuyện này.

Ngẫm cũng phải, nếu Tiển Khâm Đài không sập, y sống trong thâm cung, nàng ở chốn dân gian, chỉ e cả đời này khó mà gặp được nhau.

Mà khi Tiển Khâm Đài sập, y vẫn là vương, nàng lại trở thành trọng phạm, khoảng cách giữa bọn họ lại càng xa hơn, như cách nhau cả một khung trời rộng lớn, ấy thế mà… trời xui đất khiến lại đẩy hai người đến với nhau, thành vợ chồng giả.

Chỉ có y mới đảo ngược mà thôi.

Còn nàng xưa nay luôn bôn ba một mình, lưng gánh tiếng oan, sao có thể không để tâm?

Có lẽ những khúc mắc này không thể tháo gỡ chỉ trong một tối, rồi kiểu gì vẫn đến.

“Tiểu Dã.” Tạ Dung Dữ lại gọi, “Ta biết nàng chưa ngủ.”

Thanh Duy chần chừ, mở mắt ra nhìn y, im lặng ngồi dậy.

Nàng biết vừa nãy mình hấp tấp nói năng quá lời, dù là vợ chồng giả hay thật đi chăng nữa, y vẫn luôn đối xử tốt với nàng.

Nàng mấp máy môi, định bụng giải thích: “Thực ra ta không có ý…”

“Tên họ của ta… là nàng nghe được từ người khác?” Thấy nàng chần chừ, Tạ Dung Dữ tiếp lời, nhẹ nhàng hỏi.

Thanh Duy sửng sốt, đoạn gật đầu.

Tạ Dung Dữ mỉm cười nói: “Vậy chúng ta làm quen lại nhé, ta họ Tạ, tên Dung Dữ, tự Thanh Chấp, sinh vào mùa xuân năm Hàm Hòa thứ mười hai. Hai chữ Dung Dữ do phụ thân ta đặt, hai chữ Thanh Chấp là cữu phụ ta chọn.” Y dừng lại, nhẹ nhàng hỏi, “Còn nàng?”
 
Chương 107


Y họ Tạ, tên Dung Dữ, tự Thanh Chấp.

Hai chữ Dung Dữ là Tạ Trinh đặt, lấy từ “lang thang thôi hãy gượng sầu làm khuây”*, mang hàm ý tiêu dao thảnh thơi.

(*Câu gốc Liêu tiêu dao hề dung dữ trích từ bài Tương quân, bản dịch của Nhượng Tống.)

Hai chữ Thanh Chấp do Chiêu Hóa đế ban tặng.

Y được phong vương vào năm năm tuổi, tước hiệu là Chiêu, nhưng vì còn nhỏ nên trong ngoài cung đã quen gọi y là Tiểu Chiêu vương.

Hồi còn ở Giang gia, Giang Trục Niên đã nói cho Thanh Duy biết chuyện này.

Nhưng nàng không biết Thanh Chấp có nghĩa gì, về sau thấy y có vẻ cũng không thường xuyên dùng, tên đề trên thư toàn ghi Dung Dữ.

Thanh Duy cụp mắt: “… Ta sinh vào mùa đông năm Hàm Hòa thứ mười lăm.”

“Chỉ thế thôi à?” Tạ Dung Dữ hỏi.

“Thế thôi là thế nào?” Thanh Duy ngước mắt nhìn y, “Có phải ngài không biết tên ta đâu, lần trước vào cung, Trưởng công chúa có hỏi, ta nói một lần rồi còn gì.”

Tạ Dung Dữ đã nhớ ra, nàng bảo hồi bé mình từng cào mặt Nhạc Ngư Thất, kể từ đó được gọi là Tiểu Dã.

Cái tên Tiểu Dã quả đúng là rất hợp với nàng.

Nàng lúc nào cũng giương nanh múa vuốt, chỉ chút sơ hở là lật tung nóc nhà, y hệt chú sói nhỏ.

Mà giờ đây chú sói nhỏ ấy để xõa mái tóc, lặng lẽ ngồi tại chỗ, bộ lông xẹp xuống, nhưng y vẫn có thể cảm nhận được sự đề phòng và cảnh giác dưới bề ngoài ngoan ngoãn ấy.

“Tiểu Dã.” Y gọi nàng.

Thanh Duy “ừm” một tiếng, không dám nhìn y.

Chẳng hiểu vì sao, rõ ràng đã nói không phải vợ chồng rồi, nhưng chỉ cần y tới gần là nàng sẽ trở nên căng thẳng, ngay cả việc hỏi cái tên thôi mà cũng cứ như đang trao đổi canh thiếp.

Thanh Duy ngồi bất động tại chỗ, bất thình lình y áp sát lại gần.

Hơi thở thanh mát bao trùm lấy nàng, còn chưa kịp ngước mắt, nàng đã thấy lọn tóc xanh vắt trên vai y chạm vào lọn tóc rơi trước ngực mình.

Tay y vòng ra sau lưng nàng.

Thanh Duy siết chặt tấm chăn.

Nàng rơi vào hoảng hốt, tim đập thình thịch, nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh mà nói: “… Ngài tính làm gì?”

Tạ Dung Dữ đứng thẳng dậy, trong tay cầm thêm tập hồ sơ, “Lấy công văn, tối còn phải xem nữa.”

Thì ra lúc nãy y chỉ chuyển thư từ sang gian đối diện, còn công văn hồ sơ vẫn nằm trên giường.

Y gọi mà nàng không đáp, nên đành phải tự lấy.

Hóa ra chỉ là chuyện chẳng đâu.

Thấy Thanh Duy lật đật nhắm mắt nằm xuống giường, Tạ Dung Dữ giúp nàng dém chăn, tắt đèn trên bàn, buông rèm xuống rồi đi gian sang đối diện.

Trong phòng tối như hũ nút, cũng may không lâu sau, ở đối diện lại sáng đèn.

Chiếc bóng Tạ Dung Dữ đang lật xem sổ sách hắt lên rèm tre, tĩnh lặng như bóng trăng màn sương.

Trong ánh sáng tù mù mờ ảo, Thanh Duy mở mắt nhìn chiếc bóng đó.

Kỳ lạ thật, y mà đến gần là nàng sẽ hoảng hốt, nhưng vừa nãy khi y đứng dậy rời đi thì lòng nàng lại cảm thấy trống trải, bây giờ y mở đèn, nàng có thể nhìn thấy bóng y trong màn đêm, con tim đập mạnh như sấm cuối cùng cũng dần dà bình tĩnh, không còn cần cảnh giác mọi lúc mọi nơi, để rồi đến mai lại chẳng hay phải đi hướng nào.

Thanh Duy dần dà bình tâm, chìm vào giấc ngủ miên man.

***

Thượng Khê giới nghiêm cả sáng lẫn tối, tối hôm nay khi vừa hết giờ giới nghiêm, một cỗ xe ngựa chạy băng băng trong thành.

Xe ngựa chạy một mạch về phía tây mà không bị chặn, cuối cùng dừng lại trước trang viên thành tây, người trên xe bước xuống, sửa sang áo xống rồi đi lên gõ cửa.

Vừa qua giờ Tý, Dư Hạm vẫn chưa ngủ, nghe thấy tiếng động ngoài cửa song nàng chẳng buồn để tâm, hôm nay quan sai đến ba bốn lượt, vào giờ này rồi còn ai đến tìm nàng kia chứ, có lẽ lại là tốp quan sai nào đó mà thôi. Nàng đang định bảo thím Ngô đuổi quan sai đi, nhưng vừa bước ra ngưỡng cửa thì thấy một bóng người cao gầy đi vào sân, chính là Tôn Nghị Niên.

Dư Hạm ngẩn ra, bước tới đón: “Nửa đêm nửa hôm mà chàng còn đến làm gì?”

Tôn Nghị Niên không đáp mà đi thẳng vào nhà chính, mặt mũi nặng nề rất lạ thường Dư Hạm thấy thế thì lật đật theo ông vào nhà, rót trà đưa sang.

Tôn Nghị Niên uống cạn cốc trà, đoạn nói: “Cũng không có gì, hôm nay được dịp rảnh nên ta đến thăm nàng.”

Đã giờ nào rồi mà còn bảo là dịp rảnh?

Nhưng Dư Hạm không để ý lắm, cầm khăn chạm vào mu bàn tay ông ta, “Tối nay sẽ không đi chứ?”

Tôn Nghị Niên cụp mắt: “Không đi.”

Dư Hạm mừng rơn, ngồi xuống đầu gối ông ta, vòng tay ôm lấy cổ: “Chàng nghỉ lại ở chỗ thiếp, không sợ sư tử Hà Đông nhà chàng sáng mai sẽ chạy đến nha huyện chửi chàng hả?”

Tôn Nghị Niên và phu nhân nhà ông ta đã lục đục nhiều năm, mười ngày nửa tháng cũng chưa chắc đã nói chuyện với nhau câu nào, cứ hễ mở miệng là lại cãi vả.

Mọi khi Dư Hạm mà nhắc đến sư tử Hà Đông này là Tôn Nghị Niên sẽ buột miệng chửi mắng mấy câu, nhưng tối nay ông ta chỉ lặng thinh, lúc sau mới nói: “Nàng… về sau đừng nói xấu bà ấy như thế nữa, lỡ ai nghe được sẽ không hay đâu.”

Dư Hạm nổi giận đùng đùng, “Thiếp nói xấu bà ta? Bà ta không phải sư tử Hà Đông thì là gì? Bao năm qua, thiếp một lòng nghĩ cho trong nhà, nhưng bà ta sống chết không cho thiếp vào cửa, cùng là người nhà mà lại trơ mắt nhìn thiếp sống đơn độc bên ngoài, quả là đồ nhẫn tâm! Trang viên này chỉ được cái rộng chứ có gì hay ho, hồi trước còn có Tú nhi hầu hạ thiếp, giờ thì hay rồi, Tú nhi bị người ta đưa đi, coi như thiếp mất đi người thân thiết nhất.”

Tôn Nghị Niên nhìn nàng, “Tú nhi bị đưa đi vào sáng nay à?”

“Chàng biết hả?” Dư Hạm ngạc nhiên, “Nếu chàng biết, sao không cử người ngăn cản giúp thiếp? Nhưng mà người kia là ai thế, trông cũng tuấn tú bảnh bao lắm, xem bộ dạng cũng khá cao sang! Ngay cả quan gia trong kinh còn không dám nói lớn tiếng trước mặt y, một hai đòi dẫn nha hoàn của thiếp đi bằng được.”

Tôn Nghị Niên lại không đáp.

“Nhưng mà…” Dư Hạm đổi lời, giọng dịu đi, “Trông y tuấn tú thật đấy, nói thật, cả đời này thiếp chưa thấy ai tuấn tú đến vậy đâu.”

Tôn Nghị Niên hừ lạnh, đặt cốc trà xuống, “Nàng chỉ biết có tuấn tú thôi nhỉ.”

“Còn không phải chắc?” Ngón tay Dư Hạm trượt từ sau gáy ông ta đến trước ngực, sau đó nhấn mạnh, “Thiếp ấy, nếu gặp ai tuấn tú hơn là sẽ bỏ mặc chàng luôn, để chàng ngày ngày thèm thiếp mà không ăn được.”

Tôn Nghị Niên chụp lấy cổ ta nàng ta, nhìn nàng ta chằm chằm: “Thứ đào kép bạc tình.”

“Không phải chàng thích thiếp ở điểm bạc tình đấy à?” Ông ta siết chặt khiến nàng đau, vậy mà nàng lại thích mới chết chứ. Nàng thấy, đàn ông phải như thế mới có khí phách, dịu dàng nói, “Chúng ta đó nha, chỉ là cuộc dạo chơi ngắn ngủi mà thôi, trời vừa sáng là tình chấm dứt, thiếp sẽ quên chàng đi, khiến chàng phải đau lòng mới thôi.”

Nàng nhìn ông ta, nói tiếp: “Vả lại mấy năm gần đây, chàng cũng không còn anh tuấn như hồi trước nữa.”

Hồi Dư Hạm mới gặp Tôn Nghị Niên, ông chỉ vừa qua tuổi nhi lập, mày thẳng mắt dài, người cao ráo, tuy có để râu nhưng cũng được xem là Mỹ Nhiêm Công*, nhưng không rõ do đâu mà chỉ mới mấy năm ông đã gầy sọp hẳn, chưa tới bốn mươi song già đi trông thấy.

(*Mỹ Nhiêm Công trong tiếng Hán dịch ra Việt văn nghĩa là ông râu đẹp, có ít nhất 2 nhân vật được người đời gán cho ngoại hiệu này là Quan Vũ và Chu Đồng.)

Đàn ông ai mà chẳng sợ tuổi về già, cũng sợ bị người ta so sánh.

Từng câu từng chữ của Dư Hạm đã đâm thẳng vào tim Tôn Nghị Niên, khiến ông không nhịn nổi nữa, sâu trong lòng như có nhúm lửa bốc cháy, bất thình lình kéo nàng lại gần mình.

Dư Hạm hét lên, thở dốc đẩy ông ta: “Đang ở nhà chính mà.”

Thế là Tôn Nghị Niên bế nàng ta lên, bước nhanh vào phòng ngủ, trong màn đêm đen nhánh, ném mạnh nàng lên giường.

***

Rèm sa đung đưa điên loan đảo phượng, sóng gió hồng trần tới tấp dồn dập, cơn sóng mạnh dâng cao đến ngàn trượng.

Dư Hạm dần tỉnh lại trong cơn mơ, chân trời ngoài cửa sổ đã hửng sáng, xà nhà lắc lư cũng vừa dừng, nệm giường ướt nhẹp, không rõ là mồ hôi của người nào. Dư Hạm giơ tay đẩy Tôn Nghị Niên đã lấy lại nhịp thở, hổn hển nói: “Oan gia, thiếp không xuống nổi giường rồi đây nè, chàng muốn thiếp chết hả?”

Ông ta chưa bao giờ làm mạnh đến thế, như thể trút hết tinh lực của cả nửa đời sau.

Tôn Nghị Niên nằm sấp trên vai nàng, nghe hỏi thế thì bỗng bật cười.

Ông lật người nằm xuống, trở mình nhìn xà nhà, “Chết lại hay, chết rồi, cũng đầu đi đuôi lọt.”

Dư Hạm cảm thấy lạ.

Nàng chống người nhổm dậy nhìn ông: “Rốt cuộc chàng có chuyện gì thế?”

Tôn Nghị Niên quay mặt sang: “Tối qua nàng nói, sau này ta mà không ở đây, nàng sẽ lập tức đi tìm một người tuấn tú hơn, tốt hơn, có thật thế không?”

Dư Hạm cười khẩy: “Thật chứ sao không, đào kép bạc tình mà, thiếp sẽ dứt áo ra đi thẳng, cả đời này không bao giờ gặp lại chàng nữa.”

Tôn Nghị Niên cũng bật cười, nhưng nụ cười đượm vẻ đắng chát: “Thế thì… nàng đi nhanh lên.”

Dư Hạm ngẩn ngơ: “Chàng nói gì?”

“Nàng đi nhanh lên.” Đôi mắt nhìn xà nhà của Tôn Nghị Niên trở nên trống rỗng, “Thượng Khê… sắp xảy ra chuyện rồi.”
 
Chương 108


“Nàng hỏi ta người sáng nay đến là ai hả.” Tôn Nghị Niên dừng lại, sau mới nói, “Nàng có biết Tiểu Chiêu vương không?”

Dư Hạm không biết Tiểu Chiêu vương là ai cả, trong mắt nàng, vương hay hầu cũng như thần tiên trên trời, sờ không thấu chạm cũng không tới.

Nên khi nghe Tôn Nghị Niên hỏi, nàng cũng chỉ lẩm bẩm: “Hóa ra là vương gia trong cung, hèn gì tuấn tú thế.”

“Y đến để điều tra cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố.” Tôn Nghị Niên nghiêm túc nói, “Bao năm nay, có một người ẩn náu rất kỹ, không hề để lộ bất cứ tung tích nào, nhưng y chỉ vừa mới đến mà đã bị y dụ ra.”

Dư Hạm không hiểu nửa lời sau, chỉ hỏi: “Y muốn điều tra sơn tặc à? Sơn tặc cũng đã chết năm năm rồi, sao bây giờ mới điều tra?”

“Có thể vì năm ấy máu chảy trên núi Trúc Cổ quá nhiều.” Tôn Nghị Niên cười bất lực, “Lúc đó… ta cũng ở trên núi.”

“Thiếp biết mà.” Dư Hạm nói. Chuyện vừa qua, hai người ôm ấp vuốt ve, nàng vẽ vòng tròn lên vai Tôn Nghị Niên, “Gia của chúng ta ấy, là đại anh hùng diệt loạn kia mà.”

Nhưng Tôn Nghị Niên lại không có phản ứng gì, ông ta xoay mặt đi, lặp lại lần nữa, “Ta nói là, lúc đó, ta cũng đang ở trên núi Trúc Cố.”

Dư Hạm ngẩn người.

Tuy không phải người quá thông minh, nhưng khi nghe Tôn Nghị Niên nói thế thì nàng lại lờ mờ hiểu được điều gì.

Quá nhiều sơn tặc đã chết trên núi Trúc Cố, vụ án ấy có thật sự sạch sẽ không? Đã nhiều năm trôi qua, dân chúng Thượng Khê dẫu phẫn uất cũng không dám vọng ngôn, nhưng oan khuất theo máu ngấm xuống đất, cuối cùng đã kinh động đến Diêm vương, quỷ sai muốn đến nhân gian bắt người đòi nợ.

Mà món nợ này, có lẽ sẽ tính với Huyện lệnh Tôn Nghị Niên đầu tiên.

Giọng Dư Hạm vút cao, cuống quít nói, “Thế thì sao? Lúc ấy chàng ở trên núi, nhưng tướng quân triều đình bảo muốn tiêu diệt sơn tặc mà, đấy có phải chuyện chàng quyết được đâu? Hơn nữa, bao năm qua, không phải mọi việc trong nha môn đều do Tần sư gia giải quyết sao, chàng chỉ đứng trên danh nghĩa, có biết chuyện đâu, Chiêu vương gì gì kia tới, nếu mà hỏi, thì chàng giải thích là được mà?”

“Ai nói ta không biết, ta biết hết,” Tôn Nghị Niên nằm thẳng trên giường, cười khổ một tiếng, hồn phách như bay mất nửa, “Đâu phải chỉ mỗi mình Tiểu Chiêu vương tới Thượng Khê này. Nàng không biết đâu, quan phủ Thượng Khê bây giờ đã không còn thuộc về ta nữa rồi.”

Ông ta dừng lại, lên tinh thần, đứng dậy mặc quần áo, “Thế cũng hay, cứ kết thúc như vậy đi, từ nay trở đi, đừng ai phải chết vì ngọn núi Trúc Cố này nữa.”

Dư Hạm nghe ra sự tự trách trong lời của ông, lật đật mặc quần áo vào theo, “Thiếp không biết? Sao thiếp lại không biết chứ! Gã Tần Cảnh Sơn đó đúng là nhắm vào chàng mà! Năm xưa chính chàng đã cứu mạng ông ta, rồi sau đó ông ta phạm tội, không có công ăn việc làm, nên chàng mới dẫn ông ta đến nha huyện. Đến đào kép như thiếp còn biết “nhận ơn một giọt, trả ơn một dòng”! Còn ông ta thì hay rồi, đến chỗ chàng làm sư gia, ôm hết việc vào người, biến cả nha huyện thành lãnh địa của mình! Chuyện đó thôi đã đành, còn lão Tưởng Vạn Khiêm kia, không phải hồi đấy do ông ta xúi giục à? Chính ông ta xúi Tưởng Vạn Khiêm lên núi Trúc Cố, kết giao với Cảnh Thường! Ha, bây giờ xảy ra chuyện lại muốn chàng chịu trách nhiệm, đạo lý gì thế kia? Tính hắt hết nước bẩn lên đầu một mình chàng chắc!”

Tôn Nghị Niên đã mặc quần áo xong, nghe được vậy cũng chỉ ậm ờ nhìn nàng ta.

Cuối cùng ông ta chẳng nói gì, đẩy cửa ra gọi người hầu tới, lấy tay nải đã chuẩn bị từ tối qua vào, đặt lên bàn, dặn dò một lần nữa: “Tiểu Chiêu vương đến rồi, Thượng Khê sẽ sớm xảy ra chuyện thôi, nàng… nhân lúc này mà đi đi, đồ trong tay nải đủ cho nàng sống nửa đời sau.”

Dư Hạm nhìn tay nải trên bàn, vẫn do dự, “Chàng muốn thiếp đi thật à, còn người trong nhà chàng?”

Ý nàng là sư tử Hà Đông trong nhà ông.

Khóe miệng Tôn Nghị Niên giật giật, không rõ là mếu hay cười, “Bà ấy còn dứt khoát hơn cả nàng, tối qua lúc ta đề cập chuyện này, bà ấy đã dẫn hai con rời đi rồi.”

Dư Hạm nghe thế lại thấy vui.

Thượng Khê sắp xảy ra chuyện, ông cho sư tử Hà Đông rời đi, đồng thời cũng bảo nàng nên đi, chứng tỏ trong lòng ông nàng cũng có vị trí ngang bằng chính thê.

“Được rồi.” Dư Hạm bật cười, “Thế thiếp sẽ đi từ từ chậm rãi, đợi chàng giải thích rõ vụ án với Vương gia xong, có thể sẽ đuổi theo thiếp!”

Tôn Nghị Niên không đáp, chỉ nhìn nàng, sau đó xoay người rời đi.

Dư Hạm không đuổi theo, nhìn ông lên xe ngựa đi xa rồi mới hấp tấp về phòng, mở tay nải ra xem, ai ngờ lại hết hồn.

Trong tay nải là một hộp gỗ rộng chừng một thước rưỡi, đựng toàn vàng ròng sáng rực!

Thượng Khê sắp chết nghèo đến nơi, dù oan gia nhà nàng có nhịn ăn nhịn uống tích góp bổng lộc cả đời cũng chưa chắc tích bằng được một góc số tiền trong hộp! Rốt cuộc ông ấy lấy đâu ra nhiều tiền thế này?

Lúc nãy Tôn Nghị Niên nói gì mà vương gia, gì mà án cũ, chẳng liên quan đến Dư Hạm chút nào, thế nên nàng mới không để tâm, nhưng hộp vàng này quá chân thực, Dư Hạm nhìn số vàng đó, cuối cùng thâm tâm cũng cảm thấy hốt hoảng, nàng giơ một tay ôm ngực, tay kia ngoắt gọi người ngoài phòng, “Thím Ngô, nhanh lên, mau chóng thu dọn, chúng ta phải đi, phải đi ngay!”

***

Trời còn chưa sáng, Triêu Thiên ngáp dài bước ra khỏi phòng – đây là thói quen của hắn, ngủ sớm dậy sớm, không có việc thì tập võ, có việc thì giải quyết. Đẩy cửa hành lang ra, vừa đi tới khúc cua đã thấy Tạ Dung Dữ bước ra từ trong phòng.

Triêu Thiên vội vàng tiến tới: “Công tử dậy sớm thế ạ?”

Tạ Dung Dữ nhìn hắn: “Đã viết thư xong chưa?”

Triêu Thiên ngơ ngác: “Thư gì ạ?”

Tạ Dung Dữ im lặng nhìn hắn chằm chằm.

Triêu Thiên nhớ ra rồi, một ngày sau khi gặp lại thiếu phu nhân, công tử dặn hắn nếu không cho gọi thì không được phép vào nhà, ngoài ra còn dặn hắn viết thư cho Đức Vinh đang ở Trung Châu, bảo hắn mau tới Lăng Xuyên.

Triêu Thiên đáp: “Đã viết xong rồi ạ, nhưng phải mất mấy hôm mới đưa thư đến được Trung Châu.”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, đi xuống cầu thang, Triêu Thiên theo sau, thấy chủ tử có vẻ mệt mỏi thì rót một cốc trà đặc, quan tâm hỏi: “Có phải tối qua công tử ngủ không ngon không?”

Tạ Dung Dữ phớt lờ hắn.

Triêu Thiên nghĩ ngợi, đoạn lấy làm ăn năn: “Lỗi tại thuộc hạ, không nên bày kế để công tử và thiếu phu nhân chia gian ở.” Hắn thật lòng thật dạ suy nghĩ cho phu nhân và công tử nhà mình, “Nói gì đi nữa cùng phòng mà không chung giường cũng ảnh hưởng nhau, mà nếu thiếu phu nhân không thích chung phòng với công tử, vậy chi bằng thuộc hạ sai ông chủ dọn dẹp phòng chữ Nhân để thiếu phu nhân chuyển sang.”

Tạ Dung Dữ dừng bước, ánh mắt lại dừng trên người Triêu Thiên.

Một lúc sau, y đưa tay cầm lấy cán đao bên hông Triêu Thiên, rút đầu đao ra, “Thanh đao này xài có được không?”

Triêu Thiên gật đầu cái rụp: “Xài ngon lắm ạ!”

Tạ Dung Dữ nói: “Nếu xài được thì lại đi viết thư cho Đức Vinh đi, nhân tiện cũng viết thư gửi về kinh, gọi Trú Vân Lưu Phương tới Lăng Xuyên, nhanh nhất có thể.”

Triêu Thiên không hiểu lắm, “a?” lên một tiếng.

Tạ Dung Dữ thu tay về, thanh đao tuột xuống vào vỏ, lạnh lùng nói, “Lập tức, ngay bây giờ!”

***

Đến khi Triêu Thiên gấp rút viết thư xong thì Thanh Duy cũng đã thức – thế mà tối qua nàng ngủ ngon giấc thật. Nàng mặc vào áo bào huyền ưng, đội mũ lụa đen đi xuống đầu, Chương Lộc Chi và Huyền Ưng vệ cũng đã có mặt.

Nhân số Huyền Ưng vệ ít đi một nửa, có lẽ đã cắt nhân lực hộ tống mấy người ông Cát rời thành hôm qua. Tạ Dung Dữ hỏi: “Thế nào rồi?”

Chương Lộc Chi đáp: “Tất cả đều nghe theo sắp xếp Ngu hầu, nhân chứng được bảo vệ đầy đủ, sáng nay nhận được tin nhóm ông Cát đã bình an rời Thượng Khê, có lẽ Vệ Chưởng sứ sẽ nhanh chóng tiếp nhận bọn họ.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, lại hỏi: “Còn Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn thì sao, các ngươi đã điều tra được gì chưa?”

Tạ Dung Dữ đã phái người điều tra nha huyện Thượng Khê trước khi đến nơi này, chẳng qua người sau lưng Huyện lệnh và sư gia không đơn giản, muốn điều tra bọn họ phải nhờ cậy quan hệ khá nhiều, thành thử khá khó khăn.

Chương Lộc Chi bảo: “Hôm trước Kỳ hộ vệ gửi thư tới nói Châu doãn Lăng Xuyên đồng ý hỗ trợ, hiện tại đã có manh mối, chỉ còn chờ phong thư trả lời từ kinh thành. Hôm qua thuộc hạ có vào thành Thượng Khê nghe ngóng, lại nghe được vài chuyện lạ.”

“Mọi người nói Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn là bạn tốt từ thời thiếu niên, còn từng học chung trường. Tần Cảnh Sơn học giỏi, lấy được công danh Tú tài sớm hơn cả Tôn Nghị Niên, nhưng vào năm thứ hai sau khi ông ta thi đậu Tú tài, do trượt chân rơi xuống nước nên đổ bệnh nặng kéo dài, làm trễ kỳ thi Cử nhân. Tần Cảnh Sơn đúng là số khổ, nghỉ dưỡng mấy năm, cuối cùng bệnh tình cũng thuyên giảm, quyết định đi thi lần nữa, ai ngờ lại phạm tội bị tống vào nhà lao, về sau triều đình cũng tước công danh của ông ta. May có Tôn Nghị Niên nhớ tới bạn cũ, mấy năm sau khi thi đậu Cử nhân thì đến Thượng Khê làm Huyện lệnh, dùng thủ đoạn để cứu Tần Cảnh Sơn, còn để ông ta đi theo mình làm sư gia.”

Thanh Duy nghe thế, nói: “Thế thì Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn chỉ là bạn cũ giúp đỡ nhau bình thường thôi mà, có gì lạ đâu.”

Chương Lộc Chi đáp: “Có điều này hẳn thiếu phu nhân không biết. Thuộc hạ nghe được rằng, năm ấy Tần Cảnh Sơn rơi xuống nước là bị người ta hãm hại, sở dĩ còn sống cũng nhờ Tôn Nghị Niên cứu mạng. Về sau, Tần Cảnh Sơn phạm tội giết người anh họ đã đẩy mình xuống nước ngày xưa. Tội giết người mà chỉ bị tống vào lao ngục thì quả là ly kỳ, rồi hồi đó Tôn Nghị Niên chỉ mưới là Huyện lệnh trẻ tuổi, vừa có cách cứu ông ta ra lại còn để ông ta làm sư gia của mình, càng thêm khó hiểu. Nếu đúng như thế, Tôn Nghị Niên khác gì phụ mẫu tái sinh mang ơn cứu mạng với Tần Cảnh Sơn đâu, Tần Cảnh Sơn phải cảm đội ơn đức ông ta mới phải. Nhưng không, từ khi Tần Cảnh Sơn lên làm sư gia Thượng Khê, quan hệ giữa ông ta với Tôn Nghị Niên dần có xích mích lục đục, nhất là những năm gần đây, ông ta tự xử lý hết mọi chuyện lớn bé trong nha huyện, cả nha môn gần như biến thành đất của ông ta. Còn Tôn Nghị Niên, vẫn cứ để mặc ông ta làm vậy. Giờ hai người họ chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng.”
 
Chương 109


“Quan trọng nhất là,” Nói đến đây, Chương Lộc Chi dừng một lúc, “Năm xưa tuy Cảnh Thường kết giao rộng rãi nhưng lại không quen biết Tưởng Vạn Khiêm, việc Tưởng Vạn Khiêm lên núi Trúc Cố, thiếu phu nhân đoán là do ai xúi giục?”

Từ ngữ điệu của hắn Thanh Duy đã có được câu trả lời, song vẫn hỏi: “Ai?”

“Tần Cảnh Sơn.” Chương Lộc Chi nói, “Ông ta kết bạn với Tưởng Vạn Khiêm hồi còn ở Đông An, lúc Tưởng Vạn Khiêm ở rể nhà họ Phương từng mua tranh của Tần Cảnh Sơn.”

Thanh Duy im lặng.

Theo lời ông Cát, Tưởng Vạn Khiêm mua được suất lên Tiển Khâm Đài từ Cảnh Thường núi Trúc Cố, nếu như vậy, cuộc giao dịch này có cả sự góp mặt của Tần sư gia?

Tạ Dung Dữ cũng trầm ngâm, nhưng y biết, đã đến bước này rồi thì không thể dựa vào suy đoán để chỉ ra chân tướng, quan trọng nhất bây giờ là tìm được nhân chứng để hỏi rõ sự tình.

Y hỏi: “Các ngươi vẫn theo dõi Tưởng Vạn Khiêm chứ?”

“Mấy ngày nay vẫn theo dõi.” Một Huyền Ưng vệ đáp, “Chỉ là vị Tưởng lão gia nọ không có động thái nào lớn, vẫn mở cửa hàng như mọi khi, có điều tuổi tác đã lớn, không ngồi lâu ở trong cửa hàng nên thuê người trông coi.”

Tạ Dung Dữ lại hỏi: “Bao giờ Vệ Quyết mới đến?”

“Có lẽ là tối nay.” Chương Lộc Chi đáp, “Hôm qua Huyền Ưng vệ đã đưa ông Cát và nhóc Cát rời thành, sáng nay Vệ Chưởng sử đã tiếp nhận bọn họ, nếu cưỡi ngựa chiến đến Lăng Xuyên, nhanh nhất cũng phải sau khi mặt trời xuống núi.”

Hắn do dự, nghĩ một lúc rồi cuối cùng vẫn nói thật: “Nhân lực của chúng ta quá ít, một phân làm hai cũng không đủ dùng, nha huyện Thượng Khê không sạch sẽ, mà Tả Kiêu vệ hay Tuần Kiểm Ti lại không mấy đáng tin. Đáng lẽ có lời làm chứng của ông Cát thì chúng ta đã có thể thu lưới, nhưng Vệ Chưởng sứ chưa tới, chúng ta không thể hành động, chỉ có thể phái người theo dõi Tưởng Vạn Khiêm. Tưởng Vạn Khiêm bị giám sát chặt rồi, nhưng những người kia, Tần sư gia, Tôn Nghị Niên, và cả những người chúng ta chưa điều tra nữa, bọn chúng không chạy đi ư? Quá bị động.”

Tạ Dung Dữ hiểu ý hắn.

Tình hình trước mắt giống như ngư phủ muốn bắt cá trong biển, ấy nhưng lưới trong tay chỉ đủ bắt cá trong ao; lưới đan đã ít mà mắt lưới còn quá thưa, ngư phủ đứng trên bờ quẳng lưới xuống, lũ cá đua nhau lẩn trốn, ngư phủ cần làm gì đây? Đành phải tóm lấy con quan trọng nhất.

Song, Tạ Dung Dữ không quá lo lắng.

Cả Thượng Khê chẳng sạch sẽ gì cho cam, ngày trước để dụ ông Cát và nhóc Cát xuất hiện, cử hơn mười Huyền Ưng vệ lẻn vào Thượng Khê là nhiều lắm rồi. Nếu y đã đạt được mục đích, thì hiện tại việc bọn cá sợ hãi bỏ trốn cũng là khốn cục mà y sẽ gặp phải, có được tất có mất, dẫu sao cũng chỉ là một hai con cá, đợi Vệ Quyết dẫn Huyền Ưng vệ đến, tấm lưới lớn sẽ được kéo căng.

Tạ Dung Dữ đặt tách trà xuống: “Đến nha huyện, dẫn Tưởng Vạn Khiêm tới đây.”

***

Trời hửng sáng, một chiếc xe lừa chạy nhanh trên đường núi. Nếu Thanh Duy có ở đây, ắt có thể lập tức nhận ra cỗ xe này: con lừa bướng bỉnh kéo xe, trục bánh phải có vết nứt – đấy chính là cỗ xe của Diệp lão bá. Nhưng người đánh xe hôm nay không phải là Diệp lão bá mà là một quản gia già của phủ Huyện lệnh. Thím Ngô ôm tay nải chạy vội theo xe, còn Dư Hạm đang ngồi trên xe.

Tuy Dư Hạm tính tình tùy hứng, song cũng biết con đường nàng đang đi chính là con đường tắt bí mật rời núi.

Nàng lấy làm kinh ngạc, mấy hôm trước khi Tú nhi đi Đông An về, nó nói với nàng đường núi đã bị phong tỏa, trước sau có quân lính triều đình trấn giữ, kết quả hôm nay nàng đi, không những quan binh trấn giữ đã rút bớt mà cũng kiểm tra cũng khá qua loa, lúc đến gần cửa trạm, quản gia xua xe lừa đi lên rừng, dễ dàng đi vòng qua trạm gác.

Tại sao trạm gác lại lỏng lẻo thế!

Khi xe lừa về lại đường cái, Dư Hạm nhìn thoáng ra phía sau, rời ra khỏi trạm gác là coi như đã rời khỏi Thượng Khê.

Nhưng nàng không hề có cảm giác vấn vương lưu luyến, tuy là người Thượng Khê nhưng nàng đã sống cảnh bơ vơ từ bé, lớn lên trong đoàn hát, bầu gánh càng không đối xử tốt với nàng, lúc nào cũng chửi bới đập đánh, nàng đã muốn bỏ đi từ lâu, nếu về sau không đi theo oan gia, nàng thực sự không biết bây giờ mình đang ở chốn nao.

Nhớ đến oan gia, lòng Dư Hạm càng thêm hạnh phúc. Ông tốt với nàng thật đấy, chẳng biết hộp vàng ròng này có thể mua hết son phấn trong cửa tiệm Bảo Trai không nhỉ, không uổng công tối qua ở trên giường nàng mất nửa cái mạng cho ông.

Dư Hạm vui vẻ  hân hoan, khi xe lừa ra khỏi cửa trạm, nàng gọi quản gia đánh xe: “Này, dừng lại đã.” Rồi nàng nhảy xuống xe lừa, cầm khăn lau cột gỗ bên đường, ngồi xuống, gọi thím Ngô đem túi nước đến cho mình.

Quản gia thấy thế, lại gần hỏi: “Sao tiểu phu nhân không đi nữa?”

Dư Hạm liếc ông ta, cười nói: “Đi vội làm gì? Ta đã dặn lão gia rồi, đợi ông ấy nói rõ công chuyện với vương gia kia xong, ông ấy sẽ đuổi theo ta.” Nàng nhấp ngụm nước, “Từ từ ông ấy sẽ đến, cứ chờ ở đây.”

“Không chờ được đâu!” Quản gia lo lắng nói, “Lão gia đã dặn rồi, để tiểu nhân nhanh chóng dẫn tiểu phu nhân rời Lăng Xuyên. Thuê cả xe ngựa rồi mà, đang chờ ở ngoại ô phía tây phủ Đông An, khi đến nơi, phu xe sẽ đưa tiểu phu nhân đến Trung Châu.”

Dư Hạm nghe thế, lông mày lá liễu nhíu lại, ngạc nhiên nói: “Sao lại đến Trung Châu?”

Không phải dừng ở phủ Đông An là được rồi à?

Nhưng không đợi quản gia trả lời, động tác uống nước của nàng đã chậm lại.

Nàng bỗng nhớ ra tờ mờ sáng hôm nay, khi ông xuống khỏi người nàng thì đã nói những lời này…

“Chết lại hay, chết rồi, cũng đầu đi đuôi lọt.”

“Thế cũng hay, cứ kết thúc như vậy đi, từ nay trở đi, đừng ai phải chết vì ta nữa.”

Nàng nhớ khi mình bảo ông giải quyết xong thì hãy đuổi theo nàng, nhưng ông chỉ liếc nhìn nàng mà không nói năng gì.

Nàng nhớ tối qua ông ấy điên cuồng thế nào.

Dư Hạm chợt đứng bật dậy, dậm chân nói: “Hỏng rồi!”

“Không được, không thể đi được, oan gia nhà ta còn đang nghĩ quẩn, ta phải về khuyên ông ấy!”

Nàng biết khúc mắc của ông ấy nằm ở đâu, ngày xưa ông cũng là mỹ nhiêm công cơ mà, nhưng từ sau khi núi Trúc Cố gặp chuyện, trong năm năm đã hom hem, già đi trông thấy.

Quản gia lật đật ngăn cản, “Tiểu phu nhân có về cũng không giải quyết được gì đâu, lão gia để cô đi là nghĩ cho cô đấy, nếu cô mà về, không chừng còn mất thêm cái mạng.”

“Sao lại không giải quyết được gì? Sao lại phải mất mạng!” Dư Hạm cao giọng quát, “Không phải vị vương gia kia tới là để điều tra vụ án núi Trúc Cố sao? Sơn tặc núi Trúc Cố đâu phải do lão gia giết, nói rõ ràng là xong mà!”

Nàng gạt tay quản gia ra, nóng lòng quay về.

Tuy trông nàng liễu yếu đào tơ là thế nhưng thực chất rất quật cường, ngày xưa thiếu cơm ăn áo mặc mà vẫn có thể sống đến bây giờ, quản gia ngăn nàng thì nàng đi bộ về, có hơn mười dặm thôi mà, với tốc độ của nàng đi nửa ngày là tới.

“Không phải núi Trúc Cố, Chiêu vương điện hạ đến Thượng Khê là để điều tra Tiển Khâm Đài, Tiển Khâm Đài!” Quản gia lo lắng đuổi theo.

Dư Hạm giật mình, Tiển Khâm Đài? Tại sao sơn tặc núi Trúc Cố lại liên quan đến Tiển Khâm Đài? Lẽ nào sơn tặc bị giết thực sự phải xuống điện Diêm vương, đổi mạng với những sĩ tử đã chết oan?

Quản gia nói: “Dù tiểu phu nhân không hiểu nhân quả trong chuyện này thì cũng phải biết, nếu đã liên quan đến Tiển Khâm Đài, tội chết có thể miễn nhưng tội sống khó tha, huống hồ… huống hồ núi Trúc Cố có hơn mấy trăm người chết! Tiểu phu nhân mau đi đi, cô được bình an cũng coi như thành toàn tâm nguyện của lão gia, hôm nay Thượng Khê ắt sẽ loạn, quay về chỉ tổ mất mạng, đến lúc này rồi, không thể do dự được nữa!”

Dư Hạm chợt đứng bất động.

Nàng không hiểu rõ lời quản gia nói lắm, tại sao hôm nay Thượng Khê ắt sẽ loạn? Rồi gì mà hễ liên quan đến Tiển Khâm Đài, tội chết có thể miễn, tội sống khó tha?

Nhưng nàng nghe rõ một câu, nếu nàng về thì sẽ mất mạng.

Nàng đưa măt nhìn cỗ xe lừa, Tôn Nghị Niên đã chuẩn bị tay nải cho nàng, trong tay nải có hộp vàng, trần đời này nàng chưa bao giờ tiêu nhiều tiền bạc đến thế, nàng không muốn chết!

Lòng Dư Hạm trở nên trống rỗng.

Tôn Nghị Niên nói nàng là đào kép bạc tình.

Lúc trước nàng chỉ coi đó như câu chuyện cười, nhưng vào khoảnh khắc sống còn, nàng mới phát hiện hình như bản thân… có lẽ… bạc tình thật.

“Tiểu phu nhân…” Quản gia vẫn đang khuyên nhủ.

“Dừng!” Không đợi ông ta nói hết câu, Dư Hạm cắn răng, quay người đi lên xe, “Chúng ta đi mau!”

***

“Điện, điện hạ, sao ngài lại đến đây vào giờ này?”

Lại nói sang chuyện khác, vừa quá giờ Mão, Lý bổ đầu vừa trực đêm xong, bước ra từ nha môn thì bắt gặp Tạ Dung Dữ cùng bảy tám Huyền Ưng vệ đang chờ ở công đường.

Thấy Lý bổ đầu, Chương Lộc Chi hỏi: “Sao không thấy Tôn Huyện lệnh đâu?”

Lý bổ đầu sợ hãi đáp: “Tối qua Tôn đại nhân trực đêm, đến giờ Hợi mới ra về, e là sáng nay sẽ đến trễ, còn Tần sư gia đã đến quan dịch ngoài núi từ khi trời còn chưa sáng… nói gì thì lệnh phong tỏa vẫn chưa được dỡ bỏ.”

Trong nha môn còn có Điển bạc và Lục sự, biết Tiểu Chiêu vương đến nên đã đứng chờ ngoài công đường, Chương Lộc Chi nhìn quanh một vòng, lại hỏi: “Khúc Hiệu úy đâu rồi?”

“Tối hôm qua Khúc Hiệu úy không trở lại.” Lý bổ đầu cụp mắt đáp, “Có thể… có thể là đến Túy Phương Các nghe kịch rồi.”

Tạ Dung Dữ biết gần đây Khúc Mậu đang mê mẩn nghe kịch. Từ sau ngày quan phủ giăng bẫy bắt ma, Khúc Mậu phát hiện hóa ra con ma xám hoành hành trong thành là người, còn ma áo đỏ lại là Triêu Thiên cải trang thì không sợ gì nữa, vốn dĩ hắn đã lười biếng trong công vụ, có thể nghiêm túc xử lý là coi như tiến bộ lắm rồi, bây giờ không có việc để làm, dĩ nhiên sẽ tìm chuyện vui. Thượng Khê có ít chốn tầm hoan song không phải không có, cái tên Túy Phương Các nghe như chỗ lầu xanh nhưng thực chất lại là nơi đứng đắn, chuyên hát hí kịch Lăng Xuyên, hoa khôi gánh hát lại có giọng rất hay. Thời gian này Khúc Mậu chỉ toàn ngồi không, gần như tối nào cũng đi nghe kịch, chi bạc mua rượu, thậm chí còn để đào kép hát suốt đêm.

Chương Lộc Chi nghe câu đáp của Lý bổ đầu, đoán phải tám phần vị công tử kia lại say mèm ở Túy Phương Các rồi, nên hắn không hỏi nhiều mà nói thẳng: “Tìm một gian phòng để thẩm vấn.”

Bọn họ đang đứng ở công đường, nhưng ý của Chương Lộc Chi quá rõ ràng, Huyền Ưng vệ bắt được người, muốn thẩm vấn riêng.

Tiểu Chiêu vương ngồi ngay bên cạnh, ban nãy Lý bổ đầu còn cúi gằm đầu không dám nhìn quanh, nhưng nghe xong câu đó thì ngẩng đầu lên, cả gan trông ra ngoài, thấy ở trước cửa công đường, một cụ già tóc hoa râm mặc áo tơ bị Huyền Ưng vệ canh chừng hai bên, không phải là Tưởng Vạn Khiêm đấy sao?

Lý bổ đầu không dám chen miệng, lật đật dẫn Tạ Dung Dữ và Huyền Ưng vệ đến Thoái Tư Đường, rót trà rồi lui ra.
 
Chương 110


Huyền Ưng vệ đứng canh ngoài cửa Thoái Tư Đường, Chương Lộc Chi mời Tạ Dung Dữ ngồi vào ghế, tháo thanh đao bên hông ra, đập mạnh xuống bàn: “Ông là Tưởng Vạn Khiêm?”

Tiếng động lớn khiến Tưởng Vạn Khiêm giật mình, ông ta vốn đang quỳ, lúc này càng cúi đầu thấp hơn, “Bẩm, bẩm quan gia, đúng, đúng ạ…”

Chương Lộc Chi hỏi: “Có biết vì sao bọn ta lại bắt ông không?”

Tưởng Vạn Khiêm lắc đầu: “Không, không biết.”

“Không biết?” Chương Lộc Chi ngồi xổm xuống bên cạnh ông ta, “Bản thân ông làm gì, ông lại không biết?”

Hắn dừng một lúc, sau đó hỏi: “Nghe nói ông có giao tình không tệ với Tần sư gia, năm xưa ở Đông An, ông còn từng mua tranh của ông ta?”

“Bẩm quan… quan gia, đúng thế ạ.” Tưởng Vạn Khiêm ngước mắt nhìn Chương Lộc Chi, thấy vẻ mặt hung dữ của hắn thì vội vàng cụp mắt, “Hồi ấy Tần, Tần sư gia, đến Đông An, thi Cử nhân, rất… bần túng, mà tranh ông ấy vẽ, vẽ rất đẹp, dù vẽ ai, cũng giống hệt như lột, thảo, thảo dân mua tranh, chỉ là tiện… tiện tay giúp đỡ.”

Nghe ông ta khai, Thanh Duy và Tạ Dung Dữ không khỏi nhìn nhau.

Mới đầu khi nghe Tưởng Vạn Khiêm nói chuyện lắp bắp, nàng tưởng đấy chỉ là do kích động, nhưng bây giờ thấy ông ta cật lực nhả chữ mới biết là bệnh nói lắp.

Nhưng… Tưởng Vạn Khiêm chìm nổi kinh thương, vạn sự như ý sao lại bị nói lắp?

Chương Lộc Chi hỏi tiếp: “Nghe nói ông ta từng thi Cử nhân hai lần, lần thứ nhất trượt chân rơi xuống nước trước kỳ thi, lần thứ hai gây ra án mạng, ông mua tranh của ông ta vào lần nào?”

“Lần, lần đầu tiên.”

Chương Lộc Chi “ồ” một tiếng: “Thế xem ra các ngươi cũng quen biết nhau nhiều năm nhỉ.”

Chợt hắn hạ tông giọng: “Nếu đã vậy, vì sao Tần Cảnh Sơn lại giới thiệu ông lên núi Trúc Cố? Theo như ta biết, phần lớn xe bò chở dâu của ông trực tiếp xuất phát đến Đông An, rất ít khi đi qua chân núi Trúc Cố, hơn nữa xét cho cùng, Cảnh Thường núi Trúc Cố cũng không phải kẻ lương thiện, ông với hắn ta vốn dĩ chẳng có gì để kết giao.”

Tưởng Vạn Khiêm nghe thế, miễn cưỡng nở nụ cười, “Làm, làm kinh doanh, người… người cần kết giao, thì nên kết giao, sớm, sớm hay muộn, cũng giống nhau.”

Chương Lộc Chi hỏi như thế là hi vọng ông ta có thể thành thật khai báo chuyện mua bán suất tên, nhưng thấy ông ta đáp chiếu lệ thì lấy làm bực tức, “chậc” một tiếng toan hỏi thẳng.

Cũng may hắn biết mình là người bộp chộp, trước khi tới Thượng Khê, Vệ Quyết đã dặn hắn bất cứ việc gì cũng phải xin ý kiến Ngu hầu, Chương Lộc Chi chần chừ, đoạn ngoái đầu nhìn Tạ Dung Dữ, Tạ Dung Dữ lại lắc đầu.

Chương Lộc Chi mím môi, không thể hỏi thẳng, vậy phải tiếp tục bóng gió rồi.

Hắn sắp xếp lại chuyện Tưởng Vạn Khiêm giao dịch suất lên đài, nhớ ra ông ta làm giao dịch là vì con trai Phương Lưu, bèn hỏi: “Ông có đọc sách không?”

Tưởng Vạn Khiêm lắc đầu “Đọc, đọc rất ít, cũng không, không thích đọc.”

Chương Lộc Chi cười lạnh: “Ông không thích đọc sách, thế mà lại ngóng con trai nhà mình có thể làm đại quan, vì Phương Lưu mà phí không ít trắc trở nhỉ?”

“Quan, quan gia nói đùa.” Tưởng Vạn Khiêm nói, “Nó… nó chỉ là Tú tài, không, không thi đậu Cử nhân, thảo dân, cũng không mong thằng bé có, có thể làm quan, ngay, ngay kỳ thi Hương năm Chiêu Hóa… thứ mười ba, thảo dân cũng, cũng không cho con đi.”

Ông ta dứt lời, Chương Lộc Chi không cảm thấy có gì lạ, nhưng Tạ Dung Dữ lại nhíu mày, ánh mắt dừng ở trên người Tưởng Vạn Khiêm.

Năm Chiêu Hóa thứ mười ba chính là năm Tiển Khâm Đài hoàn thành, bắt đầu từ đầu xuân Lăng Xuyên đã phải tiếp đãi sĩ tử đến từ khắp cả nước, vì vậy đã đẩy ngày thi Hương lên sớm hơn, tức vào tháng Mười hai năm trước đó.

Cho nên năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Lăng Xuyên không hề tổ chức thi Hương.

Chuyện này người bình thường không biết, nhưng Tưởng Vạn Khiêm… ông ta coi trọng đường làm quan của Phương Lưu, sao có thể nói nhầm?

Hơn nữa, việc Phương Lưu không thi Hương vào năm đó rất có khả năng là Tưởng Vạn Khiêm sợ nhiều lần thi rớt ảnh hưởng tới thanh danh của cậu ta, cho nên mới hạ quyết tâm mua suất lên đài, một quyết định nhảy cảm là vậy, sao ông ta có thể buột miệng sơ suất đến thế?

Tạ Dung Dữ ngồi tựa lưng ghế, mười ngón tay đan vào nhau, chậm rãi hỏi: “Phương Lưu không tham dự kỳ thi Hương năm Chiêu Hóa thứ mười ba?”

“Vâng, thảo, thảo dân không cho, không cho con đi.”

Tạ Dung Dữ nhìn ông ta chằm chằm: “Ông còn nhớ ngày diễn ra kỳ thi Hương là ngày nào không?”

Tưởng Vạn Khiêm nghe hỏi thì ngớ người, vắt óc nhớ lại, nhưng đúng lúc này, một Huyền Ưng vệ ở bên ngoài bẩm báo: “Ngu hầu, Khúc Hiệu úy đã về nha môn, Ngu hầu có cần gặp ngài ấy không ạ?”

Thượng Khê bây giờ có sóng ngầm cuộn trào, vô cùng bất ổn, trước khi Vệ Quyết đến, trong tay y có quá ít người đáng tin, ít nhiều gì cũng phải mượn thế lực của Khúc Mậu.

Tạ Dung Dữ nhìn Tưởng Vạn Khiêm: “Dẫn ông ta đến nội nha, đích thân các ngươi canh chừng, không được để bất cứ ai tiếp cận.”

Đợi Tưởng Vạn Khiêm bị dẫn đi, y mới ra lệnh: “Cho Khúc Mậu vào đi.”

Có vẻ Khúc Mậu đã thức trắng một đêm, lúc vào Thoái Tư Đường còn ngáp dài, nói với Tạ Dung Dữ: “Nếu biết cậu đến nha môn thì ta đã chuồn sớm rồi, khi không bị giày vò cả đêm!”

Tạ Dung Dữ ngạc nhiên: “Không phải huynh đến Túy Phương Các nghe kịch à?”

“Nghe kịch?” Xương cốt Khúc Mậu như rã rời cả ra, chùng người ngồi xuống ghế, “Nếu thực sự phải đến Túy Phương Các nghe kịch thì sao ta phải mệt mỏi thế này, tối hôm qua mới tới Túy Phương Các thì tên Ngũ Thông đến tìm ta, bảo ta dẫn theo Tuần Kiểm Ti đi canh gác trạm trên núi.”

Khưu hộ vệ đi theo Khúc Mậu nói: “Hẳn điện hạ không biết, canh ba đêm qua, Ngũ Hiệu úy nói có việc gấp gần đến Đông An một chuyến, nhờ Khúc Hiệu úy thay ca một đêm.”

Tạ Dung Dữ lại ngạc nhiên, hỏi: “Ngũ Thông dẫn Tả Kiêu vệ đi rồi?”

“Bảo là có chuyện, muốn đến Đông An xin chỉ thị từ Trung Lang tướng của chúng.” Khúc Mậu nói, “Tả Kiêu vệ không đi hết đâu, vẫn có người ở lại, nhưng toàn đám vô tích sự, cấp trên của chúng đi hết, việc gì cũng đến hỏi ta, phiền chết đi được.”

Tạ Dung Dữ im lặng.

Rốt cuộc vì sao Ngũ Thông lại rời đi, không cần nghĩ y cũng biết.

Hơn nửa năm qua, trong mọi vụ án mà Tả Kiêu vệ phụ trách, chỉ có vụ án nữ Ôn thị là cần phải xin lệnh từ Trung lang tướng.

Ngũ Thông không ngốc, hắn biết “con ma” mà hắn muốn ở Thượng Khê đã bị Tạ Dung Dữ tóm được vào hôm qua, nên hắn đi Đông An chuyến này chỉ có thể là vì đã phát hiện ra Thanh Duy.

Tất cả trông có vẻ không sai, nhưng vấn đề ở chỗ… Tạ Dung Dữ còn nhớ, Ngũ Thông không hề gặp mặt Thanh Duy trực tiếp ngày nàng vào núi, trong đêm đuổi bắt con ma xám, dù hắn đã giao đấu với nàng, nhưng chỉ dựa vào bóng lưng bề ngoài và thân thủ có vẻ quen thuộc, liệu hắn có thể kết luận người này là nữ Ôn thị mà Tả Kiêu vệ đang đuổi bắt, hơn nữa còn vì chuyện đó mà rời khỏi Thượng Khê?

Hay là, hắn đã thấy Thanh Duy ở nơi nào đó, bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp, vì vậy mà xác minh được thân phận của nàng?

Nhưng, Tạ Dung Dữ lại nghĩ, từ sau đêm đuổi bắt con ma xám, Thanh Duy gần như luôn ở bên y, Ngũ Thông không có khả năng gặp nàng, trừ phi là tranh vẽ.

… Đúng rồi, tranh?

Nghĩ đến đây, Tạ Dung Dữ khựng lại.

Y chợt nhớ ra vào sáng sớm ngày hôm trước, Ngũ Thông dẫn người đến trang viên thành tây yêu cầu thẩm vấn ông cháu Diệp gia và “Giang Duy”, là do Tần Cảnh Sơn dẫn đường tìm tới.

Lúc đó Tạ Dung Dữ đã cảm thấy hành động này khả nghi, hai ngày nay để Huyền Ưng vệ theo dõi Tần sư gia cũng là vì nguyên nhân ấy.

Tuy dạo gần đây Thanh Duy không lộ mặt ở nơi công cộng, nhưng trong hai ngày đầu tới Thượng Khê, người ở trang viên thành tây, bao gồm cả Tôn Huyện lệnh và Tần sư gia đều đã gặp nàng.

Lúc nãy Tưởng Vạn Khiêm cũng nói, Tần sư gia giỏi vẽ, vẽ người giống hệt như thật.

Vậy… chỉ có một cách giải thích.

Hôm đó chính Tần Cảnh Sơn cố ý dẫn Tả Kiêu vệ đến trang viên thành tây.

Ông ta nhận ra Ngũ Thông đang nghi ngờ vị biểu tỉ ngoại lai sống ở trang viên, nhưng ngại Tiểu Chiêu vương nên không dám tự ý thẩm tra, vì vậy ông ta mới cố tình vẽ lại chân dung Thanh Duy, sau đó đưa cho Ngũ Thông xem, Ngũ Thông xem tranh, xác định đúng là Thanh Duy đang ở Thượng Khê, cho nên lúc này mới gấp rút đến Đông An xin chỉ thị từ Trung Lang tướng.

Nói như thế, Ngũ Thông bị Tần sư gia mượn vụ án nữ Ôn thị dụ rời đi.

Nhưng ông ta tách Ngũ Thông đi để làm gì?

Hiện Tả Kiêu vệ đã không cần bắt ma, ở lại Thượng Khê cũng chỉ tuần tra bình thường.

Hay là, ông ta dụ thủ lĩnh Tả Kiêu vệ rời đi, tính lợi dụng lúc cửa nẻo lỏng lẻo để đưa ai đó đi ư?

Tạ Dung Dữ nhắm mắt, trầm ngâm một lúc lâu.

Tần Cảnh Sơn, Tôn Nghị Niên đều là người của nha môn, bọn họ có một trăm cách để rời khỏi Thượng Khê, thậm chí có thể trực tiếp tới quan dịch, không cần phải hao tâm khổ trí đến vậy, và người nhà của họ cũng thế. Điều đó có nghĩa, người Tần Cảnh Sơn đưa đi là một người không thể bị bất cứ ai phát hiện, và đang cần nhanh chóng rời khỏi Thượng Khê.

Hiện ở Thượng Khê ai là kẻ muốn nhanh chóng rời đi? Tạ Dung Dữ nghĩ, nếu Vệ Quyết đã dẫn Huyền Ưng Ti tới nơi, vậy cái võng mà y muốn bắt, ngoài người liên quan đến nha huyện thì chỉ có Tưởng Vạn Khiêm.

Tưởng Vạn Khiêm?

Gã Tần Cảnh Sơn này… lão ta muốn đưa Tưởng Vạn Khiêm đi?

Nhưng Tưởng Vạn Khiêm đã nằm trong tay y rồi còn gì?

Nghĩ đến đây, Tạ Dung Dữ chợt mở bừng mắt, y bỗng nghĩ đến, Tưởng Vạn Khiêm mà Chương Lộc Chi vừa thẩm vấn không những bị nói lắp, mà có vẻ còn không biết chuyện Lăng Xuyên không có kỳ thi Hương vào năm Chiêu Hóa thứ mười ba.

Một suy nghĩ khó tin dần thành hình trong y, Tạ Dung Dữ đứng bật dậy, nghiêm mặt đi thẳng đến hậu viện. Y nhìn Tưởng Vạn Khiêm bị Huyền Ưng vệ giám sát chặt chẽ: “Đã nghĩ ra chưa? Kỳ thi Hương năm Chiêu Hóa thứ mười ba là vào ngày nào?”

Tưởng Vạn Khiêm sợ hãi ra mặt, “Bẩm, bẩm quan gia, thảo dân không, không nhớ rõ lắm, hẳn là, vào khoảng đầu mùa xuân.”

Lòng Tạ Dung Dữ trầm xuống.

Nhưng ngoài mặt y vẫn không thay đổi, lại hỏi: “Ngươi nói Phương Lưu thi Cử nhân mấy lần nhưng không đậu, vậy ta hỏi ngươi, hắn ta thi Cử nhân theo thứ tự vào những năm nào?”

“Hồi nhỏ hắn học trường gì, thầy dạy tên gì?”

“Năm Chiêu Hóa thứ mười ba, hắn được chọn lên Tiển Khâm Đài, rời nhà vào ngày nào?”

Ba câu hỏi liền nhau khiến Tưởng Vạn Khiêm đổ mồ hôi hột, “Bẩm.. quan gia, thảo nhân chỉ nhớ hồi nó còn nhỏ, học, học trường tên Thính Lan, ân sư họ Thu, tên, tên…”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Nghĩa là ngươi chỉ nhớ được chuyện của hắn hồi nhỏ, còn từ năm Chiêu Hóa thứ mười hai đến năm mười ba, cụ thể việc hắn được chọn lên Tiển Khâm Đài và không tham gia kỳ thi Hương, ngươi lại không biết gì?”

Y nhìn Tưởng Vạn Khiêm chăm chú, hàn quang trong mắt dần tích tụ: “Ngươi không phải là Tưởng Vạn Khiêm, ngươi là ai?”

“Tưởng Vạn Khiêm” hốt hoảng, lão đã cải trang làm đại ca gần hai năm, ngoài người biết chuyện và người trong nhà ra, không một ai có thể nhận ra sơ hở, lão cũng sớm thuộc làu về cuộc đời của Phương Lưu – ngoại trừ năm Chiêu Hóa thứ mười hai mười ba, hình như người ở nha môn kiêng kị gì đó nên không nói nhiều cho lão biết.

Nhưng vị trước mắt đây lại có thể thấy rõ mồn một, chỉ vài câu hỏi đã nhìn thấu lão.

Đầu gối “Tưởng Vạn Khiêm” mềm nhũn, quỳ rạp xuống đất, “Thảo, thảo dân…”

Nhưng Tạ Dung Dữ không đoái hoài đến lão, y xoay người sải bước đi ra ngoài, “Tưởng Vạn Khiêm thực sự đã chạy thoát từ hai canh giờ trước, cho người ở lại đây canh gác, những người còn lại lập tức xuất phát, theo ta bắt ông ta!”
 
Chương 111


Còn chưa ra khỏi sân, mọi người đã nghe thấy âm thanh huyên náo ở ngoài kia vọng đến.

Hộ vệ Khưu Minh của Khúc Mậu sải bước đi tới, “Bẩm điện hạ, không ổn rồi, Tần sư gia dẫn lính đến bao vây.”

“Tần sư gia?”

Tại sao trong tay Tần Cảnh Sơn lại có binh lính?

Khưu Minh đáp: “Sáng hôm nay Tần sư gia đến quan dịch, binh lính trong tay ông ta lúc này có thể là binh mã của nha huyện ở quan dịch.”

Chương Lộc Chi suy đoán: “Sở dĩ nha huyện đã nằm trong tay Tần Cảnh Sơn, lão ta đã tìm đủ cách để Tưởng Vạn Khiêm chạy thoát, bây giờ lo bị chúng ta đuổi theo nên mới dẫn người ngăn cản?”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Bọn họ có bao nhiêu người?”

“Phỏng đoán sơ sơ thì có hơn trăm người, không nhiều lắm, mạt tướng có thể tập hợp binh mã của Tuần Kiểm Ti và Tả Kiêu vệ để ngăn cản, nhưng không biết các nha sai khác ở trong huyện có phải là người của sư gia này không, một khắc trước đã không thấy tăm hơi Lý bổ đầu đâu, mà sáng nay cũng không biết tung tích của Tôn Huyện lệnh.”  Khưu Minh trả lời, có vẻ đã nhận ra Huyền Ưng vệ đang gấp gáp muốn truy đuổi ai đấy, “Điện hạ có việc gấp sao? Điện hạ cứ việc đi trước, nha huyện này, mạt tướng và Khúc Hiệu úy có thể đối phó.”

Truy đuổi Tưởng Vạn Khiêm là việc không thể chậm trễ, tuy Tạ Dung Dữ không yên tâm về nha huyện nhưng lại không đủ nhân lực điều động, y không có nhiều lựa chọn.

Y suy nghĩ, đoạn ra lệnh: “Chương Lộc Chi, ngươi hãy ở lại đây, nếu có bất cứ điểm đáng ngờ nào thì phải báo lại với ta, nhớ rõ, bổn vương muốn Tần Cảnh Sơn sống.”

“Đã rõ.”

***

Rời khỏi nha huyện, đánh ngựa đi lên hướng Bắc, chưa tới một khắc đã đến vùng núi.

Nếu Tả Kiêu vệ Ngũ Thông thực sự đã bị Tần Cảnh Sơn dụ rời đi, vậy chắc chắn Tưởng Vạn Khiêm sẽ đi con đường tắt bí mật để rời khỏi Thượng Khê.

Ngũ Thông không có mặt ở đây, Khúc Mậu vẫn thường trực ở trạm gác trên núi, tuy đúng là có thể dễ dàng qua mặt vị công tử này nhưng cũng không thể qua mặt một cách quang minh chính đại được, vậy khi Tưởng Vạn Khiêm bỏ trốn, chắc hẳn chỉ có khoảng ba người đi cùng lão, lão ta đang mang tội danh, rất có khả năng thay tên đổi phận.

Huyền Ưng vệ vừa thúc ngựa phóng như bay, vừa phân biệt vết bánh xe trên đường, bấy giờ đã quá trưa, nắng chiếu thẳng xuống, khi sắp lại gần trạm dịch trong núi thì bất thình lình có hai người lao ra từ con đường trong rừng phía trước, một trong đó liễu yếu đào tơ, mặc áo lụa đối khâm.

Thanh Duy lập tức nhận ra bóng người ấy, hai chân nàng thúc vào bụng ngựa, thốt lên đầu tiên, “Tiểu phu nhân?”

Dư Hạm ngước mắt nhìn, thấy người trên ngựa mặc áo chùng đen, mũ đen che khuất mặt, “Giang, Giang cô nương?”

Thanh Duy “ừ” một tiếng, nhìn thím Ngô đi theo Dư Hạm, “Sao hai người lại ở đây?”

Trời oi bức, trán Dư Hạm lấm tấm mồ hôi, nàng giơ tay áo lau sạch, lo lắng nói, “Tại oan gia kia của ta hết! Đêm qua ông ấy đến tìm ta, nói Thượng Khê sắp gặp chuyện rồi, muốn ta rời đi. Nhưng đi trên đường, ta càng nghĩ càng thấy không ổn, sợ ông ấy nghĩ quẩn…” Nàng ta dậm chân, “Dù gì ta cũng phải về khuyên ông ấy, nếu không được thì kéo ông ấy đi trốn cùng!”

Ban đầu nàng ta không định quay về, nhưng càng rời xa Thượng Khê, những lời Tôn Nghị Niên nói tối qua cứ liên tục văng vẳng bên tai.

“Ai nói ta không biết? Ta biết hết.”

“Quan phủ Thượng Khê bây giờ đã không còn thuộc về ta nữa rồi.”

Ít nhiều gì Dư Hạm cũng biết Quan phủ Thượng Khê có đức hạnh thế nào, tuy lão Tần Cảnh Sơn là kẻ độc đoán, nhưng Tôn Nghị Niên đã làm Huyện lệnh nhiều năm, vì sao không thể ra lệnh quyết định được? Nàng cảm thấy đằng sau câu nói ấy còn có ẩn ý, càng rời đi lại càng bất an.

Đúng là oan gia mà! Nếu ông ấy thực sự nghĩ quẩn, quả quyết tìm chết đã đành, sợ là sợ ông ấy đi tới cuối đường nhưng không cam lòng, chưa rửa sạch oan khuất đã biến thành ma quỷ, về sau lại đeo bám nàng trong mộng!

Lúc này, Tạ Dung Dữ hỏi: “Là Tôn Nghị Niên bảo cô rời Thượng Khê?”

Dư Hạm cũng đã trông thấy Tạ Dung Dữ, nàng biết y là vương gia trong cung nên không dám tự tiện bắt chuyện, nghe y hỏi trước, nàng lập tức đi tới, quỳ gối thưa: “Vương gia, vương gia, xin ngài, tha cho lão gia nhà tôi một mạng, tuy… tuy có khiếm khuyết nhưng ông ấy là người tốt. Chuyện trên núi Trúc Cố đã qua lâu nhưng tới giờ ông ấy vẫn áy náy ăn năn, bị bóng đè mấy năm liền, gầy sọp hẳn đi, vương gia, ông ấy thực sự đã hối lỗi rồi!”

Tạ Dung Dữ không đáp, y chỉ nhìn cửa khẩu cách đó không xa.

Trước mắt Thượng Khê đã không còn “ma” song lệnh phong tỏa vẫn chưa được dỡ bỏ, người Thượng Khê biết trạm gác vẫn còn ở đường núi, bình thường sẽ không đi con đường này. Trừ phi… bọn họ biết Tả Kiêu vệ Ngũ Thông đã rời đi.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Sáng nay cô đi một mình à?”

Dư Hạm ngẩn người, không biết tại sao y lại hỏi điều đó, bèn đáp: “Không phải, lão gia phái một quản gia đến đưa tôi đi, nói ông ấy quen đường, có thể dẫn chúng tôi rời núi.”

Thanh Duy nghe thế, ghìm cương ngựa lòng vòng tại chỗ, vội hỏi: “Lão quản gia này tên gì? Trước đó cô đã gặp ông ta chưa?”

Dư Hạm lắc đầu, mụ sư tử Hà Đông kia có bao giờ cho nàng bước vào cửa đâu, nên nàng không biết rõ về gia nhân hầu hạ ở phủ Huyện lệnh.

Đúng lúc này, thím Ngô nói: “Quan gia, Giang cô nương, trước kia lão nô từng phục vụ trong phủ Huyện lệnh, lão nô chưa từng gặp lão quản gia này bao giờ, có lẽ là người mới đến một hai năm trước. Nhưng lão gia rất tin tưởng ông ta, chuyện gì cũng nói với ông ta hết.”

Thanh Duy hỏi thẳng: “Sao bà biết Tôn Huyện lệnh rất tin tưởng ông ta? Có phải ông ta đã nói gì với mấy người không?”

Dư Hạm đang muốn cầu xin Thanh Duy và Tạ Dung Dữ, nên khi nghe nàng hỏi như thế, lập tức nói hết: “Ông ta khuyên tôi đừng về lại Thượng Khê nữa, nói là dù tôi có về thì cũng chỉ mất mạng mà thôi, nhưng tôi khăng khăng muốn về, ông ta khuyên không được, bèn bảo lão gia có giao công sự cho ông ta, hiện đã đến Đông An. À phải rồi, ông ta còn nói, vương gia ngài đến Thượng Khê thực ra không phải điều tra núi Trúc Cố, mà thực ra là muốn điều tra… Tiển Khâm Đài!”

Ba chữ “Tiển Khâm Đài” vừa thốt ra, Tạ Dung Dữ sầm mặt, y lạnh lùng nói: “Kẻ này không phải là quản gia, ông ta chính là Tưởng Vạn Khiêm thật.”

Nhưng… Nếu kẻ này là Tưởng Vạn Khiêm thật, vì sao ông ta lại cùng Dư Hạm rời khỏi Thượng Khê?

Người Thượng Khê ai cũng nói Tần Cảnh Sơn và Tôn Nghị Niên nước lửa bất dung, hiện tại xem ra, việc Tưởng Vạn Khiêm bỏ trốn là do Huyện lệnh và sư gia cùng nhau mưu đồ?

Tạ Dung Dữ khó hiểu, mà sự khó hiểu đó khiến y dần dần bất an.

Y cảm thấy, vũng nước đục ở Thượng Khê khéo còn sâu hơn mình nghĩ.

Nhưng nghĩ nhiều cũng vô ích, tìm được Tưởng Vạn Khiêm mới là điều cấp bách, Tạ Dung Dữ cầm cương giục ngựa, lời ít ý nhiều: “Đuổi theo.”

Các Huyền Ưng vệ ở phía sau đồng thời thúc ngựa xông lên, Dư Hạm thấy bọn họ sắp sửa rời đi, cắn răng chạy thẳng tới trước ngựa của Thanh Duy: “Giang cô nương, vương gia, lão gia nhà tôi, mấy người… mấy người không cứu được sao?”

Nàng ta lao ra quá đột ngột, suýt nữa đã bị ngựa của Thanh Duy giẫm trúng, cũng may Thanh Duy kéo cương đúng lúc, tuấn mã hí một tiếng dài, hai vó trước chổng lên, Thanh Duy bực bội vì sự liều lĩnh của Dư Hạm, lạnh lùng nói: “Tiểu phu nhân, Tôn Nghị Niên là Huyện lệnh Thượng Khê, ắt có cách tự bảo vệ, việc có nặng nhẹ, mong tiểu phu nhân chớ ngăn cản.”

“Gì mà có cách tự bảo vệ? Nếu lão gia tự bảo vệ được mình, tôi còn cầu xin các người làm gì?” Lúc này Dư Hạm bất chấp cấp bậc lễ nghĩa, sốt ruột nói, “Lão gia nói, ông ấy đã không còn quản lý Thượng Khê này nữa rồi!”

Nàng ta sợ ngăn cản không được, bèn nói thẳng ra, “Tôi biết vương gia nghi ngờ lão gia, cảm thấy lão gia có liên quan đến cái đài sập ấy. Đúng là lão gia… lão gia có tội thật! Ông ấy từng nói với tôi không dưới một lần, lúc sơn tặc núi Trúc Cố chết, ông ấy cũng ở trên núi, trơ mắt nhìn bọn họ mất mạng. Ông ấy còn bảo mình biết vì sao sơn tặc chết! Chuyện gì cũng biết!”

Tạ Dung Dữ khựng lại, vội ghìm cương ngựa: “Ông ta nói vậy thật sao?”

Năm năm sau khi sơn tặc núi Trúc Cố bị tiêu diệt, tướng quân lúc trước đã chết bất đắc kỳ tử, vất vả lắm bọn họ mới điều tra được đến bước này, mà cũng chỉ tra được Tưởng Vạn Khiêm từng mua một suất lên Tiển Khâm Đài.

Tuy Tưởng Vạn Khiêm mua bán giao dịch nhưng ông ta không có quan hệ sâu xa với Cảnh Thường, chưa chắc đã biết danh sách đó từ đâu mà ra.

Nhưng, nếu chân tướng đúng như Dư Hạm nói, Tôn Nghị Niên biết tất cả mọi chuyện, thậm chí ông ta còn lên núi Trúc Cố, tận mắt chứng kiến sơn tặc chết ra sao. Liệu có phải như thế có nghĩa, vào năm năm trước, ông ta trực tiếp tham gia vào chuyện giao dịch mua bán danh sách, ông ta biết cấp trên của vị tướng quân kia là ai, biết ai làm chủ đằng sau, thậm chí biết được toàn bộ chân tướng?

“Là thật ạ, thảo dân không dám nói dối nửa câu.” Dư Hạm nói.

Vài Huyền Ưng vệ tinh nhuệ đi theo cũng đã nhận ra.

Một Huyền Ưng vệ cất tiếng: “Bẩm Ngu hầu, nếu Tôn Huyện lệnh thật sự tham gia vào cuộc giao dịch đó, chúng ta nhất định phải bắt được nhân chứng sống này.”

“Đúng thế.” Một Huyền Ưng vệ khác cũng nói, “Danh sách lên Tiển Khâm Đài là do Hàn lâm chuẩn bị, tiên đế khâm điểm, vậy mà lại bị đem ra làm thành mua bán, chuyện này chắc chắn không đơn giản, chúng ta tuyệt đối không thể bỏ qua bất cứ manh mối nào.”

Thanh Duy nhìn Dư Hạm: “Sáng sớm hôm nay đã không thấy tung tích của Tôn Nghị Niên đâu, nếu cô quyết tâm quay về tìm ông ta, vậy cô biết được ông ta ở đâu à?”

Dư Hạm cúi đầu: “Tuy không dám chắc, nhưng… có một nơi, lão gia hay đến.” Nàng duỗi tay chỉ vào vùng núi, “Đi về phía đông, cách nơi này không xa!”

Các Huyền Ưng vệ lập tức xin chỉ thị của Tạ Dung Dữ: “Ngu hầu.”

Đúng là cần tìm Tôn Nghị Niên, nhưng lẽ nào không đuổi theo Tưởng Vạn Khiêm nữa?

Đã năm năm từ khi Tiển Khâm Đài sập, khó khăn lắm bọn họ mới tìm được chân tướng từ dưới đống đổ nát, không thể bỏ qua bất cứ một manh mối nào.

Nhưng không rõ có phải vì quan hệ khó hiểu giữa Tôn Huyện lệnh và Tần sư gia hay không, sơn thành bé nhỏ nước sâu ngàn trượng khiến nỗi bất an trong lòng Tạ Dung Dữ càng thêm sâu, nên dẫu y biết lúc này cần chia binh ra làm hai hướng, một hướng đi tìm Huyện lệnh, một hướng đuổi theo Tưởng Vạn Khiêm, song y lại không muốn điều động.

Vệ Quyết chưa đến, Huyền Ưng vệ trong núi lại quá ít, nếu chia binh làm hai hướng rồi một trong hai gặp nguy hiểm, thì quả thực không khác nào họa sinh tử.

Tiếc thay, y không có lựa chọn.

Triêu Thiên thấy Tạ Dung Dữ do dự, bèn nói: “Công tử, cho phép thuộc hạ đuổi theo Tưởng Vạn Khiêm.”

“Thuộc hạ đi nhanh, dễ truy đuổi, Huyện lệnh là người đứng đầu chỗ này, không khác gì con lươn, dù thuộc hạ bắt được ông ta cũng chưa chắc đã giữ được.”

Hắn so sánh rất thô, thậm chí có phần buồn cười.

Tạ Dung Dữ nhìn hắn, lại chẳng hé môi nói nửa lời.

Một Triêu Thiên luôn cẩu thả thậm chí là ngu ngốc vẫn có thể nhận ra băn khoăn của chủ tử vào lúc này, hắn dừng một lúc rồi nói tiếp: “Công tử, thuộc hạ thật sự muốn truy bắt Tưởng Vạn Khiêm. Công tử chớ quên, phụ thân của thuộc hạ và Đức Vinh là tướng sĩ sông Trường Độ, chúng thuộc hạ là trẻ mồ côi sông Trường Độ.”

Trận sông Trường Độ năm nào đã khiến bao người phải hi sinh bỏ mạng, trẻ mồ côi ở vùng Cật Bắc nhiều vô số kể, tuy Triêu Thiên và Đức Vinh được thương nhân Cố Phùng Âm nhận nuôi dưỡng, nhưng trên người vẫn còn đó dấu vết của trận chiến ấy. Mấy năm nay bọn họ đi theo Tạ Dung Dữ, công tử muốn điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài, với bọn họ, đấy cũng là trách nhiệm của mình.

Nghe thấy thế, cuối cùng Tạ Dung Dữ cũng thả lỏng, “Được, ngươi hãy dẫn theo ba người.”

Chỉ có sáu Huyền Ưng vệ đi theo Tạ Dung Dữ, vốn dĩ Triêu Thiên không muốn lấy nhiều như thế, nhưng hắn không có thời gian kéo dài, lập tức chọn người.

Thanh Duy căn dặn: “Nếu gặp nguy hiểm, nhớ phải đặt chu toàn lên đầu, không được liều mạng.”

Tạ Dung Dữ cũng nói: “Vệ Quyết sẽ đến nhanh thôi, chỉ cần cầm chân là được.”

Triêu Thiên gật đầu: “Công tử và thiếu phu nhân yên tâm, nhất định thuộc hạ sẽ bắt Tưởng Vạn Khiêm về.”

Nói đoạn, hắn lập tức quất roi, cưỡi ngựa lao đi.

Thanh Duy cũng không nán lại, kéo Dư Hạm lên lưng ngựa, “Chỉ đường.”

***

“Gần cây hòe già ở sườn núi phía đông, bao năm nay, hễ lão gia có tâm sự là đều đến đó.”

“Trên núi Trúc Cố có quá nhiều người chết, lão gia ôm khúc mắc mãi, sau khi sơn trại bị thiêu cháy, ông ấy đã xây mộ chôn quần áo di vật của bọn họ ở đây, tự tay ông ấy xây, nửa năm đầu còn ngồi ở đây suốt đêm.”

“Đi qua dốc núi phía trước là tới, sắp đến nơi rồi…”

Dư Hạm ngồi trên lưng ngựa, âm thanh vỡ vụn trong gió tàn. Nàng ta chưa bao giờ nghĩ có thể phi ngựa trên dốc núi dựng đứng thế này, đến chỗ sườn dốc, nửa người gần như bị hất tung lên không trung, lục phủ ngũ tạng xáo trộn, cũng may cô gái phía sau có kỹ năng cưỡi ngựa rất tốt, dù nàng nghiêng ngả thế nào vẫn có thể giữ chặt nàng ngồi lên lưng ngựa.

Khi sắp đến dốc núi phía trước, Thanh Duy ngước mắt nhìn, dốc núi cái gì chứ, chỉ là kênh rạch rộng ba trượng sâu ba trượng, nhưng thời gian cấp bách, Thanh Duy nhanh chóng đưa ra quyết định, ngoái đầu nói với Tạ Dung Dữ và Huyền Ưng vệ, “Không kịp đi vòng rồi, chúng ta nhảy sang đi!”

Nói đoạn, nàng vụt roi tăng tốc đi đầu, kéo mạnh dây cương, tuấn mã giương cao vó trước, duỗi người ngay trên không trung rồi vững vàng đáp xuống con đường đối diện. Ngay sau đó, Tạ Dung Dữ và Huyền Ưng vệ cũng giục ngựa nhảy sang.

Địa thế ở con đường bên này khá thấp, vó ngựa vừa chạm đất, tầm nhìn được mở rộng, ngôi mộ cạnh cây hòe lập tức đập vào mắt.

Tiếc thay trước ngôi mộ không phải là Huyện lệnh giỏi trốn như lươn, mà chỉ có một người sõng soài trong vũng máu.

Tôn Nghị Niên nằm thẳng dưới đất, mặt ngửa lên trời, bùn đất dưới thân nhuốm máu đỏ, lồng ngực phập phồng dữ dội, liên tục ho ra máu.
 
Chương 112


Thanh Duy ghìm cương dừng ngựa khiến Dư Hạm ngã chúi xuống đất, nàng ta lồm cồm bò dậy, chạy tới chỗ Tôn Nghị Niên: “… Lão gia? Lão giaaaa!”

Các Huyền Ưng vệ cũng đồng thời kéo cương, vết đâm trên ngực Tôn Nghị Niên rõ còn mới, song xung quanh lại không có hung khí, chứng tỏ sát thủ đã rút đao và vẫn chưa đi xa.

Gió lùa khe núi, tuấn mã thở phì phò.

Đúng lúc này, bất thình lình từ phiến rừng bên trái đưa tới âm thanh rất nhỏ, nghe như tiếng thú giẫm lá mục.

Hai Huyền Ưng vệ ngay lập tức đuổi theo.

Dư Hạm lóng ngóng đỡ Tôn Nghị Niên dậy, nàng ta không biết phải làm gì cả, miệng gọi “lão gia” còn tay cầm khăn bịt lỗ máu trên người ông, nhưng đấy là vết thương đâm xuyên ngực, máu tuôn xối xả không ngừng.

Ánh mắt Tôn Nghị Niên rệu rã, ông nhìn Dư Hạm mà cứ ngỡ là mơ.

Có câu nói rằng: vào khoảnh khắc cận kề cái chết, con người ta sẽ trải qua giấc mộng đẹp nhất đời, sẽ gặp lại người mình thương nhớ nhất, cùng đoàn tụ sum vầy.

Nhưng vì sao giấc mộng này lại có nàng?

Sư tử Hà Đông nhà ông đâu? Cặp trai gái con ông đâu rồi?

Lúc này Tôn Nghị Niên mới nhận ra đấy không phải là mơ, mà hóa ra Dư Hạm tới thật.

Viền mắt Dư Hạm đỏ hoe, nàng vẫn chưa từ bỏ, thấy khăn tay không thể cầm máu thì lại xé toạc vạt áo trên người, mong có thể băng bó vết thương cho ông.

Đột nhiên Tôn Nghị Niên chụp lấy cổ tay nàng, thở dốc dồn dập, yếu ớt hỏi: “Sao nàng… lại đến đây…”

Hai mắt ông viết rõ sự khó tin.

Dư Hạm giật mình.

Ông không tin nàng sẽ quay về ư?

Ông luôn nói đào kép bạc tình, lẽ nào… ông thực sự cho rằng nàng bạc tình thật?

Oan gia này! Dư Hạm vừa buồn vừa tức, nhưng nàng biết đây không phải lúc ngúng nguẩy, bèn nói: “Chàng cố trụ một chút, dù hai chân thiếp có gãy cũng phải đi tìm đại phu đến cho chàng…”

Tôn Nghị Niên vẫn nắm chặt cổ tay nàng, “Đừng… Đừng đi.”

Một nét nuối tiếc vụt qua đáy mắt ông, rồi cuối cùng, ông chỉ thở dài một tiếng nặng nề: “Ta… xin lỗi nàng…”

Dư Hạm lại không hiểu, “Chàng có lỗi gì với ta đâu?” Nếu ngày trước ông không thu nạp nàng làm ngoại thất, thì e là đến bây giờ nàng chẳng có một chốn yên thân, “Không được, thiếp phải đi tìm đại phu, chàng đợi thiếp!”

“Đừng, đừng đi.” Tôn Nghị Niên gọi nàng ta lại, giọng khàn khàn gần như vỡ vụn, “… Ta… chỉ sợ không sống nổi…”

Ánh mắt ông ta sượt qua vai Dư Hạm, dừng ở trên người Thanh Duy và Tạ Dung Dữ, rồi dần dà vỡ lẽ, thì ra bọn họ bắt nàng ấy dẫn đến đây.

Thấy Tôn Nghị Niên đã thoi thóp, Thanh Duy biết nên cho ông ta thời gian tạm biệt Dư Hạm, nhưng khó khăn lắm bọn họ mới lần được đến bước này, không thể bỏ lỡ cơ hội hỏi rõ chân tướng được.

Nghĩ vậy, nàng ngồi xổm xuống một bên: “Tôn đại nhân, ông có thể cho chúng tôi biết rốt cuộc danh sách để Phương Lưu lên Tiển Khâm Đài ngày trước là từ đâu mà ra không?”

Tôn Nghị Niên đưa mắt nhìn Tạ Dung Dữ, một khắc sau, ông ta cụp mắt né tránh.

Ông ta không muốn nói, Thanh Duy cũng đã lường trước điều này.

Nếu ông ta chịu tiết lộ đầu đuôi thì sự việc đâu bị trì hoãn đến hôm nay? Trong vụ án này, bản thân ông ta cũng chẳng sạch sẽ gì cho cam.

Thanh Duy hỏi: “Tôn đại nhân, ông thu xếp cho vợ con rời đi, định ôm bí mật xuống mồ một mình để bảo vệ an nguy cho bọn họ?”

Nàng nói: “Vợ con ông đã bình an rời khỏi đây rồi, chí ít là sáng hôm nay, chúng tôi không nhận được tin bọn họ bị chặn đường. Nhưng,” Nàng dừng lại, “Còn tiểu phu nhân, ông không thấy cô ấy rất đáng thương sao?”

Khóe môi Tôn Nghị Niên giật giật, song vẫn chẳng hó hé nửa lời.

Thanh Duy nói tiếp: “Tiểu phu nhân bất chấp cả tính mạng đến tìm ông, Tôn đại nhân, ông không nghĩ cho tương lai của cô ấy sao?”

Nghe thấy thế, Tôn Nghị Niên đột ngột ngước mắt nhìn nàng.

Vì sao lúc nãy Tôn Nghị Niên nói xin lỗi Dư Hạm, người ngoài không biết nhưng Thanh Duy có thể đoán được đôi phần.

Dư Hạm được ông nạp làm thiếp vào nửa tháng sau khi núi Trúc Cố gặp nạn.

Là tổ ấm dịu dàng ông ta mê đắm trong năm năm qua.

Vì nàng, ông sẵn sàng dựng nên trang viên ở thành tây, bao giờ cũng đến thăm nàng.

Ngoài kia đồn rằng cô gái ngoại thất xuất thân từ đào kép ấy là người Tôn đại nhân yêu quý nhất, nói rằng Tôn đại nhân hồ đồ rồi, chỉ vì một đào kép mà hục hặc với vợ mình.

Nhưng kết quả thì sao?

Kết quả là, Tôn Nghị Niên đã thu xếp cho vợ con bình an rời khỏi Thượng Khê, nhưng lại sắp đặt để Dư Hạm bước đi trên tuyến đường nguy hiểm nhất.

Dư Hạm chỉ là một ngoại thất, cho dù họa có ập xuống đầu Tôn Nghị Niên đi chăng nữa, liệu nàng ấy có thật sự cần phải rời khỏi Thượng Khê không?

Và dẫu phải rời đi, nhưng lẽ nào một Huyện lệnh như Tôn Nghị Niên không thể thu xếp thêm một chiếc xe ngựa, thêm người đồng hành, để nàng ấy đi con đường an toàn như vợ con mình?

Nhưng ông ta không làm như vậy.

Ông ta để Tưởng Vạn Khiêm đóng giả làm quản gia theo nàng rời khỏi đây, thực chất muốn mượn nàng che giấu thân phận của Tưởng Vạn Khiêm.

Ông ta đã lợi dụng nàng, không buồn quan tâm rằng quyết định như thế sẽ đem đến cho nàng nguy hiểm chừng nào.

Thì ra Huyện lão gia nào có hồ đồ, người vợ kết tóc từ thuở bần hàn và nàng thiếp yêu kiều xinh đẹp, trong lòng ông ta ai nặng ai nhẹ tự có phân lượng.

Thậm chí cả việc đắm chìm trong bể tình dịu dàng cũng thế, chẳng qua khi trận đồ sát trên núi Trúc Cố trở thành ác mộng, ông chỉ đang kiếm tìm một nơi lánh nạn yên thân chứ không hề đặt nàng trong lòng.

Điều hoang đường là ông không ngờ nàng sẽ quay về – bất chấp tính mạng quay về tìm ông.

Nên ông mới xin lỗi nàng.

Bao năm qua, ông luôn nói với nàng đào kép bạc tình.

Nhưng con người nào phải cỏ cây, ai có thể vô tình bạc nghĩa.

Kẻ ích kỷ bạc bẽo thực sự chẳng phải là ông đấy ư?

Thanh Duy lại nói: “Ông lợi dụng tiểu phu nhân để giúp Tưởng Vạn Khiêm rời đi, coi như về sau Tưởng Vạn Khiêm có thể mai danh ẩn tích sống bình an, nhưng còn tiểu phu nhân? Những kẻ biết chuyện sẽ không tra hỏi tung tích của Tưởng Vạn Khiêm, không diệt khẩu nàng ư? Tôn đại nhân, ông thực sự có lỗi với rất nhiều người, năm năm trước là sơn tặc núi Trúc Cố, còn năm năm sau vào hôm nay, chính là ông đã gieo gió gặt bão cùng những người đi theo ông, những người tin tưởng ông. Ngày nào chân tướng chưa được hé lộ thì sẽ càng có nhiều người mất mạng. Huống hồ ông cho rằng, tất cả những chuyện này, chỉ cần ông xuống âm tào địa phủ là có thể xóa bỏ được sao? Bụi bặm dưới Tiển Khâm Đài chưa lắng, máu chảy trên núi Trúc Cố tới nay vẫn chưa dừng, lẽ nào ông định để sự ăn năn đó theo ông tới tận lúc xuống mồ?”

Thanh Duy lại tha thiết nói: “Tôn đại nhân, ông có thể nói cho chúng tôi hay, rốt cuộc danh sách Phương Lưu lên đài hồi đấy là từ trong tay ai mà ra không?”

Nghe đến đây, cuối cùng ánh mắt Tôn Nghị Niên cũng dần tụ lại.

Ông ta há miệng: “Danh… danh sách ấy…”

Nhưng máu chảy quá nhiều, chỉ nhả vài con chữ mà đã rút hết toàn bộ sức lực của ông, lời thốt ra vỡ vụn khó nghe.

Ông ta hít sâu một hơi, lấy hết sức nói lời cuối cùng:

“Các người… Đừng… Đi, đi…”

Thanh Duy cố lắng nghe: “Đi đâu?”

“Không được… đi.”

Rồi Tôn Nghị Niên đột ngột im bặt, không còn lên tiếng nữa.

Dư Hạm ngơ ngác, một lúc sau, nàng cất tiếng gọi: “Lão gia?” Tiếc thay không ai trả lời nàng, nàng luống cuống dìu ông dậy, nước mắt tuôn rơi, ngơ ngác hỏi lại: “Lão gia, chàng sao thế… Oan gia! Chàng nói chuyện đi!”

Tạ Dung Dữ cúi người, đưa tay kiểm tra hơi thở của Tôn Nghị Niên, “Người đã đi rồi, xin nén bi thương.”

Người đã đi rồi. Chống trụ được đến giờ đã là hết sức mình.

Chỉ đáng tiếc, lời cuối cùng của ông lại dừng ở chữ “đi”.

Rốt cuộc không được đi đâu? Ông không nói rõ.

Tình hình cấp bách trước mắt không cho phép bọn họ nghĩ nhiều, hai Huyền Ưng vệ đi kiểm tra đã quay về, bẩm báo với Tạ Dung Dữ: “Bẩm Ngu hầu, có hai sát thủ ám sát Tôn Huyện lệnh, bị chúng thuộc hạ đuổi kịp nên đã uống thuốc độc tự vẫn, trên người không có gì khác thường, ắt hẳn là tử sĩ riêng của ai đó.”

Tạ Dung Dữ nhíu mày: “Ở Thượng Khê còn có tử sĩ?”

Dù Tôn Nghị Niên đã nói Thượng Khê bây giờ không còn do ông làm chủ, nhưng Thượng Khê đã phong tỏa nửa tháng, toán tử sĩ này vào đây bằng cách nào?

Nghĩ đến đây, Tạ Dung Dữ đột ngột thốt lên: “Hỏng rồi!”

Tôn Nghị Niên quá yếu, muốn giết ông ta dễ như bỡn, không cần dùng đến tử sĩ. Theo kinh nghiệm lần trước, nếu tử sĩ được huấn luyện bài bản xuất hiện thì chắc chắn phải có nhóm đông, nhưng ở đây chỉ có hai tên, số còn lại đi đâu?

Rõ ràng bọn chúng đến để diệt khẩu, bây giờ Tôn Nghị Niên đã chết, bọn chúng sẽ diệt khẩu ai?

Thanh Duy cũng kịp thời nhận ra, “Tưởng Vạn Khiêm gặp nguy rồi!”

Vừa dứt lời, cả nhóm không dám chậm trễ khắc nào, phóng người lên ngựa lao nhanh xuống núi.

***

Theo lời của Dư Hạm, Tưởng Vạn Khiêm ra khỏi địa phận Thượng Khê thì đi thẳng xuống núi, sau đó chuyển sang ngồi xe ngựa để tới trạm dịch ngoại ô thành Đông An.

Nhưng còn chưa đến chân núi, Tạ Dung Dữ đã phát hiện ra ký hiệu do Triêu Thiên để lại ở lối rẽ trên đường: Tưởng Vạn Khiêm tạm thời đổi hướng, đi về phía tây.

Tưởng Vạn Khiêm đang hòng chạy trốn, nếu ông ta đổi đường giữa chừng thì chắc chắn là do cảm nhận được nguy hiểm – rất có thể nhóm tử sĩ kia đã bắt kịp!

Bấy giờ hoàng hôn đã ngả bóng, Vệ Quyết chưa dẫn binh đến nơi, hội Tạ Dung Dữ phải gấp rút đi tiếp viện Triêu Thiên nhanh nhất có thể, bọn họ vừa phát hiện ký hiệu là lập tức đánh ngựa lên núi.

Đồi dốc rừng sâu, ngựa khó đi lại trong vùng sơn dã, may thay băng qua phiến rừng long não, con đường trước mặt dần mở rộng. Gió chiều hây hây, qua tiếng gió trống trải, Thanh Duy nhạy bén phán đoán ắt phải có vách đá ở gần đây, nàng đánh ngựa đi tới, cho tới khi thấy cỗ xe lừa lật nghiêng bên đường, tiếng giao chiến ở đằng trước vọng đến.

Vách đá trên cao, Thanh Duy chỉ thấy được bóng người mặc đồ đen. Nàng nhanh chóng đưa ra quyết định, mũi chân điểm lực trên lưng ngựa, cơ thể tung lên không như một chú chim. Người ở trên cao có thể thâu trọn tình hình dưới vách vào mắt: Tưởng Vạn Khiêm nấp sau hòn đá lớn cạnh vách núi, Triêu Thiên cùng ba Huyền Ưng vệ vây quanh ông ta bảo vệ, nhưng nhóm bọn họ có quá ít, chắn được bên trái lại hở bên phải, trên người ngang dọc vết thương.

Thanh Duy thấy thế, quay trở về lưng ngựa đồng thời rút kiếm bên hông ra, dùng hết sức ném đi. Kiếm sắc xé gió ghim thẳng vào ngực một gã tử sĩ, Triêu Thiên ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng định thần: “Công tử, thiếu phu nhân!”

Đằng trước có dốc, sợ đồng bọn bị dồn ép rơi xuống vách núi nên hội Thanh Duy không dám thúc ngựa xông tới, vừa đến gần là tung người xuống ngựa.

Cùng lúc đó, toán tử sĩ cũng đã kịp phản ứng, bọn chúng đông người, chẳng mấy chốc đã phân bổ nhân lực đối phó với hội Thanh Duy.

Huyền Ưng vệ giơ đao lên, vũ khí thường dùng của Tạ Dung Dữ là một chiếc quạt có mũi nhọn, nhưng hôm nay hiếm khi thấy y dùng kiếm.

Những lần Thanh Duy giao thủ với y ngày trước chỉ được xem là vợ chồng ẩu đả, song bây giờ nhìn lại, thân thủ của y không hề khó lường như lúc ở nhà, trái lại cực kỳ dứt khoát mạnh mẽ.

Toán tử sĩ nghênh địch từ hai phía, Thanh Duy và Tạ Dung Dữ xuất hiện đã khiến trận cước của chúng bị rối loạn, nhưng chúng có đông người, không những nhanh chóng tập trung lại mà còn có thể tìm ra điểm yếu của hội Thanh Duy – giống như Triêu Thiên bảo vệ Tưởng Vạn Khiêm, hội Thanh Duy cũng phải bảo vệ Dư Hạm và thím Ngô không biết võ công – ngay lập tức chúng chia nhân lực lấy công làm thủ, chia hẳn ra hai bên.

Không thể xông tới tập hợp với Triêu Thiên, Thanh Duy khó mà giải vây cho hắn.

Huống hồ đám tử sĩ hôm nay không giống toán bọn họ gặp hồi trước, chưa nói tới việc võ công cao cường, bọn chúng không hề mệnh ai nấy lo mà hợp tác rất chặt chẽ, chặn hết mọi con đường ở vách núi.

Đương khi Thanh Duy định phá vòng vây thì đúng lúc này, có lẽ Dư Hạm biết mình ở lại chỉ thêm níu chân, bèn thấp giọng gọi: “Thím Ngô.” toan dẫn bà lui xuống núi, tìm chỗ khác trốn.

Vốn dĩ vị trí bọn họ nấp rất kỹ, lưng dựa vách núi, cây gỗ che chắn, nhưng vừa động một cái lại thành lạy ông tôi ở bụi này, để lộ vị trí cho bọn tử sĩ.

Lúc này hai tên tử sĩ phi thân lao tới, tính bắt các nàng làm con tin. Tạ Dung Dữ vung kiếm gạt một con dao găm, vừa thấy thế, thân kiếm lập tức chạm vào con dao rơi từ trên xuống, ném thẳng về phía hai tên tử sĩ nọ.

Tử sĩ né người tránh giữa không trung, có tích tắc sơ hở đó, Thanh Duy lập tức giật mạnh túi vải quấn ở cổ tay, nhuyễn ngọc kiếm rời vỏ, Thanh Duy tung mình lên cao, dưới ánh tà chiều hệt như rắn bạc nhuốm máu, lưỡi rắn thè ra, tấn công gã tử sĩ đang chạy tới chỗ Dư Hạm.

Lưỡi độc sắc bén đến gần, đâm xuyên qua cổ tử sĩ.

Thanh Duy thu nhuyễn ngọc kiếm về, mắng hai người Dư Hạm: “Hai người chạy cái gì? Quay về trốn ngay!”

Đám tử sĩ còn lại đã nắm được bản lĩnh thân thủ của Thanh Duy trong khoảnh khắc ấy, bọn chúng biết nếu cứ tiếp tục giao đấu thế này, đợi viện binh của đối phương đến thì chỉ tổ càng thêm bất lợi.

Tử sĩ trong trận bỗng nghe thấy tiếng huýt sáo lanh lảnh, bọn chúng tức khắc rút lui về vách núi, tập hợp nhân lực, xông đến đám Triêu Thiên đã mất sức.

Thanh Duy nhủ thầm không ổn, bọn chúng đang định liều mạng, muốn đẩy Tưởng Vạn Khiêm xuống núi chết chung!

Thanh Duy muốn xông tới ngăn cản, nhưng đám tử sĩ thối tha đã để lại người giao đấu với họ.

Đương khi địch vây bốn bề, chợt giữa núi rừng vang lên tiếng vó ngựa rầm rập như sấm rền nước dâng, chấn động khắp quả núi.

Thanh Duy thất thần, xoay mặt nhìn lại, thấy ở bóng cây bên sườn núi, một làn sóng đen đang dần ập đến.

Dưới trời chiều chói mắt, hùng ưng trên áo choàng đen thoắt ẩn thoắt hiện.

Là Vệ Quyết dẫn Huyền Ưng vệ đến!

Xem ra bọn họ còn đến sớm hơn như đã tưởng.

Kỳ Minh có thị lực tốt, ngước mắt nhìn, lập tức hô: “Vệ Chưởng sứ, góc Tây Bắc!”

Vệ Quyết gật đầu, giương cung lắp tên ngay trên lưng ngựa, ba mũi tên xé gió lao đi, lập tức ghim thẳng vào sống lưng ba tử sĩ.

Cùng lúc ấy, Thanh Duy nhanh nhẹn rút nhuyễn ngọc kiếm ra, mượn thời cơ phá trận.

Thấy Huyền Ưng vệ đến mà bọn tử sĩ vẫn có thể giữ nguyên đội hình, trong đám đông chợt nghe thấy một tiếng quát cao vút, toán tử sĩ như bị kích thích, bất chấp Huyền Ưng Ti đã đến, chạy thẳng tới chỗ Tưởng Vạn Khiêm, Triêu Thiên và ba Huyền Ưng vệ.

Dáng vẻ mặc kệ sống chết đó khiến Tưởng Vạn Khiêm khiếp hãi, ông ta cảm thấy không thể cứ nấp dưới tảng đá được nữa, phải rời khỏi nơi quỷ quái này ngay lập tức, bằng không sớm muộn gì ông cũng sẽ bị toán tử sĩ liều mạng này đẩy xuống vách núi.

Một thanh đao bổ xuống từ bên trái, Tưởng Vạn Khiêm khó khăn ôm đầu né tránh, ngay sau đó dán lưng vào vách đá, định đi về phía Vệ Quyết.

Nhưng ông ta vừa cử động, mọi sơ hở điểm yếu đã bị lộ hẳn ra. Ba tên tử sĩ tức tốc lao về phía ông ta, Triêu Thiên đá bay hai tên, song không ngờ khi tên thứ ba rơi xuống vách núi, hắn đã bấu lấy được quần áo của Tưởng Vạn Khiêm.

Tưởng Vạn Khiêm bị hắn ta kéo mạnh, chân sau trượt một phát rơi xuống vách núi.

Triêu Thiên không kịp nghĩ nhiều, hắn nhanh chóng lao ra chụp lấy cổ tay Tưởng Vạn Khiêm ngay giữa không trung, tay phải cắm mạnh trường đao vào khe đá trên vách núi.

Thanh Duy cũng đã đến nơi, thấy cảnh đấy, con tim hẫng một nhịp.

Cũng may nàng kịp thời lấy lại bình tĩnh, cầm nhuyễn ngọc kiếm đẩy lui một gã tử sĩ rồi chạy tới vách núi, cúi người nhìn xuống: “Triêu Thiên?”

Hai người một đao lắc lư dưới vách cách chừng một trượng.

Thanh Duy nói: “Cố bám trụ, ta cứu ngươi lên!”

Song đúng vào khoảnh khắc ấy, một âm thanh kim loại nứt vỡ phát ra từ kẽ đá.

Đúng, mang trọng lượng của hai người thì thanh đao cắm vào kẽ đá có thể chịu đựng được bao lâu?

“Thiếu phu nhân!”

Đúng lúc này, Triêu Thiên hét lên.

Hắn là người rất quý đao, cũng biết thanh đao trong tay có thể chịu đựng được đến khi nào.

Hắn nhìn Tưởng Vạn Khiêm đang treo lơ lửng dưới người mình.

Hắn đã nói bằng mọi giá phải giao nhân chứng quan trọng nhất cho công tử và thiếu phu nhân.

Hắn cũng là trẻ mồ côi trong trận chiến sông Trường Độ, phải có trách nhiệm, nói được làm được.

Triêu Thiên cố gắng nói: “Thiếu phu nhân, bắt lấy.”

Nói đoạn, cánh tay hắn đỏ ngầu hiện rõ gân máu, hắn dùng tay không nhấc Tưởng Vạn Khiêm lên rồi ném mạnh lên trên.

Nhuyễn ngọc kiếm của Thanh Duy đã phóng ra, thấy Tưởng Vạn Khiêm bị ném lên trời, nàng đành phải bắt lấy ông ta đưa về lại vách đá trước.

Nhưng đúng lúc này, thanh đao cắm trong kẽ đá vang lên tiếng gãy giòn tan.

Thân đao vỡ làm đôi, chẳng thể níu được người quý đao.

Gió chiều thốc mạnh, mặt trời lặn điểm tô viền vàng lên vách đá, tiếng đao gãy không ngừng vang dội, Triêu Thiên cùng nửa thân đao đã rơi xuống vách núi sâu.
 
Chương 113


Năm ngày sau.

Kinh đô, thành Tử Tiêu.

“… Chẳng ngờ lại có chuyện như vậy, thực ra năm xưa khi sơn tặc núi Trúc Cố chết, trong triều đã có người bày tỏ dị nghị, nhưng… Quan gia biết đấy, không được để ý lắm, hơn nữa lệnh diệt phỉ được ban bố từ một năm trước đó, đội quân diệt phỉ cũng chỉ làm theo lệnh, thành thử triều đình mới không truy cứu nhiều trách nhiệm.”

Trên điện Tuyên Thất, Đại Lý Tự Thiếu khanh Tôn Ngải bẩm báo với Triệu Sơ.

Sáng sớm hôm qua, tin tức Huyện lệnh Thượng Khê đột tử, sư gia nha huyện dẫn binh đối đầu với Tuần Kiểm Ti đã truyền về kinh đô. Vừa hay tin, văn võ toàn triều thất kinh, hai ngày liền lâm triều đều đợi Gia Ninh đế chất vấn, song vị hoàng đế trẻ tuổi đây lại cực kỳ bình tĩnh, mãi đến buổi chiều hôm nay mới triệu tập trọng thần có liên quan đến điện Tuyên Thất nghị sự.

“Cũng may Huyền Ưng Ti tới kịp, tuy có người chết nhưng chủ yếu là đám ác ôn ở nha huyện, có Tiểu Chiêu vương điện hạ và Huyền Ưng vệ ở đó, ắt hẳn sẽ khắc phục được hậu quả.” Tôn Ngải nói tiếp, ông không nhắc tới việc vì sao Tiểu Chiêu vương điện hạ lại xuất hiện ở Lăng Xuyên, càng không dám suy đoán nhiều về hành động của Huyền Ưng Ti có liên quan gì tới cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố. Huyền Ưng Ti vốn là cận vệ của thiên tử, hành động của họ chính là ý của thiên tử, chỉ cần không vi phạm luật lệ quy chế thì đến cả ngôn quan* cũng không dám nói nhiều, càng đừng nói đến hạ thần như bọn họ, “Chỉ là, Tiển Khâm Đài vừa mới tái khởi công mà Thượng Khê ở gần đó lại xảy ra chuyện, ảnh hưởng không tốt, thần cho rằng, tuy có Huyền Ưng Ti và Tuần Kiểm Ti giải quyết, nhưng các bộ nha vẫn nên giúp sức một tay.”

(*Ngôn quan là quan viên ở cơ quan giám sát như Ngự sử đài, có nhiệm vụ giúp vua sửa điều lỗi, chữa điều lầm, từ bỏ điều ác, biểu dương điều thiện.)

Triệu Sơ gật đầu, hỏi: “Dạo này Chương Lan Nhược và Trương Vong Trần đang ở trên núi Bách Dương à?”

“Bẩm quan gia, đúng vậy ạ.” Chương Hạc Thư đã đoán được ý của Triệu Sơ, trả lời trước, “Đã hơn một tháng kể từ khi trùng kiến Tiển Khâm Đài, thần cho rằng có thể điều một trong hai vị đại nhân đến phủ Đông An trước, hợp lực với Chiêu vương điện hạ và châu doãn Lăng Xuyên phá án.”

Đầu mùa xuân năm nay, Chương Đình đã từ chức Thiếu khanh ở Đại Lý Tự, thăng lên Thị lang bộ Công, còn Trương Viễn Tụ ngồi không từ ngày hồi kinh đã được đích thân Ngự Sử đại phu tuyển chọn, vào Ngự Sử Đài nhậm chức Ngự Sử, ba tháng sau, vì có công phá án nên được đặc cách đề bạt làm Trung thừa Ngự Sử, là nhân tài vào triều làm quan đương lúc còn trẻ.

Nói đến đây, Chương Hạc Thư lấy làm chần chừ: “Nhưng vào đêm trước khi xảy ra sự việc, Hiệu úy Tả Kiêu vệ Ngũ Thông đột ngột rời Thượng Khê, đúng hôm sau nha huyện gây chuyện, vốn dĩ thần đã viết thư gửi đến Đông An, lấy danh Xu Mật Viện quở trách tả Kiêu Vệ, nhưng hôm qua thần vừa nhận được thư của Trung Lang tướng, trong thư nói Ngũ Thông rời Thượng Khê là có nguyên nhân, lại nói đã bẩm tấu nội tình lên quan gia, chẳng hay có việc này không ạ?”

Triệu Sơ nói: “Xu Mật Viện không cần nhúng tay vào chuyện này, trẫm biết nguyên nhân đằng sau, Tả Kiêu vệ không phải thất trách.”

“Quan gia! Xin quan gia trách phạt…” Đúng lúc này, Khúc Bất Duy bước ra từ đám đông, quỳ thụp xuống.

“Khúc hầu có ý gì?”

“Quan gia, thần dạy con không đến nơi đến chốn, lần này đến Thượng Khê điều tra vụ án ma quỷ là cơ hội Quan gia ban cho khuyển tử, nhưng không ngờ… không ngờ lại xảy ra sự việc ghê gớm đến thế! Thần không cần hỏi cũng biết, Thượng Khê loạn như vậy ắt hẳn là do thằng con bất tài lơ là nhiệm vụ, bằng không nó đã phải kịp nhận ra manh mối ở nha huyện Thượng Khê từ trước, tránh kinh động đến Huyền Ưng Ti, kinh động Quan gia!”

Triệu Sơ còn chưa kịp lên tiếng thì vài công thần ở cạnh đã khuyên: “Khúc hầu hà tất tự trách, chẳng phải chính lệnh công tử đã dẫn Tuần Kiểm Ti tiêu diệt đám ác ôn ở nha huyện Thượng Khê sao?”

“Đúng thế, nửa năm nay Khúc Hiệu úy đã tiến bộ rất nhiều, ắt hẳn Quan gia cũng chú ý đến, chẳng qua Khúc hầu thương sâu trách nặng nên mới loạn vậy thôi.”

Triệu Sơ đảo mắt nhìn các quan viên, đoạn nói: “Trong buổi chầu hôm nay trẫm đã gặp lão thái phó, nhất định ông ấy cũng đã hay tin ở Thượng Khê. Lão thái phó ẩn cư đã lâu, nên nghỉ ngơi hưởng thọ chứ không cần phải khắc khoải sự tình thế gian, hiện Trương Vong Trần đang vắng mặt ở kinh thành, nếu chư vị ái khanh có thời gian rảnh thì hãy đến khuyên nhủ thái phó.”

“Vâng.”

Triệu Sơ nói tiếp: “Hôm nay thế thôi, các khanh lui đi.”

Đoạn, chàng đứng dậy rời khỏi bàn long bảo tọa trước. Công thần trong điện lập tức chia ra đứng hai bên, cung kính khom lưng cúi đầu.

Chỉ trong vòng nửa năm, vị đế vương luôn luẩn quẩn giữa thâm cung và quan trường, chân giẫm bèo trôi đây đã không cần bước đi trên băng mỏng như trước nữa rồi.

Hà thị đã đổ, vị trí bỏ trống được Triệu Gia Ninh nhanh chóng lấp đầy bằng người của mình, thậm chí chàng cũng không đuổi tận giết tuyệt Hà thị, trái lại còn khai ân cho tiểu bối cùng họ khác chi ở Hà gia, vẫn trọng dụng người tài.

Chịu ơn trạch của thiên gia, toàn thể triều đình lẫn dân gian như măng mọc sau mưa, hơn nữa từ sau vụ án của Hà thị, hành động của Triệu Sơ đã được các sĩ đại phu xem trọng, trong cung cấm, không một ai còn dám khinh thường vị đế vương mới lên ngôi này nữa.

Hoàng hôn dần buông, lúc nãy chân trời còn được bao phủ bởi lớp mây dày đặc, tưởng chừng như sắp mưa, nhưng khi Tào Côn Đức đi lấy ô về thì gió đã thổi tan mây mù.

Tào Côn Đức đứng chờ dưới đài Phất Y, thấy Triệu Sơ bước ra, đi lên đón: “Quan gia về điện Hội Ninh ạ?”

Triệu Sơ khựng bước, nói: “Đến điện Nguyên Đức.”

Điện Nguyên Đức là nơi ở của Hoàng hậu.

Tháng Tư hương cỏ nhạt nhòa, vài ngày trước trời hẵng còn mát mẻ, nhưng vừa bước sang tháng Tư là coi như hè đã đến, lắm lúc oi bức khi lại ẩm ướt, khiến tâm trạng lên xuống thất thường.

Mấy hôm trước Chương Nguyên Gia khó chịu trong người, nhưng Triệu Sơ thực sự quá bận, gần như đêm nào cũng xem tấu sớ đến tận lúc trời sáng, cộng thêm Thượng Khê vừa xảy ra chuyện nên lần lữa mãi tới hôm nay mới có thời gian rảnh.

Mới đứng ngoài điện đã nghe thấy tiếng cười giòn giã bên trong vọng ra, Triệu Sơ nhìn qua cửa cung, bên vườn hoa trong sân, một bóng người áo tím như cánh bướm dập dìu, trông thấy chàng, đôi mắt hạnh lóe lên vẻ mừng rỡ, rảo bước đi đến chào, “Quan gia đến thăm nương nương ạ?”

Cô gái này họ Triệu tên Vĩnh Nghiên, là biểu muội của Triệu Sơ, cũng là con gái của Dụ vương – bào đệ của Chiêu Hóa đế.

Thuở sinh tiền Dụ vương hay đau ốm, chỉ sinh được một cô con gái nên coi như minh châu bảo bối. Khi Chiêu Hóa đế còn tại thế, ông đã phong hàm Quận chúa cho Triệu Vĩnh Nghiên, phong hào Nhân Dục. Về sau Chiêu Hóa đế băng hà, Triệu Vĩnh Nghiên theo mẫu thân chuyển đến chùa Đại Từ Ân cầu phúc cho đất nước, bao năm qua chỉ thường lui tới giữa chùa chiền và vương phủ, rất ít khi vào cung.

Có lẽ do Chương Nguyên Gia đổ bệnh nên Triệu Vĩnh Nghiên vào cung thăm nàng.

Triệu Sơ “ừ” một tiếng.

Triệu Vĩnh Nghiên mỉm cười, “Nương nương mà biết Quan gia tới, ắt sẽ vui lắm cho xem!”

Nói đoạn, nàng vội cúi người từ biệt, “Vậy Quan gia mau đi thăm nương nương đi, Nhân Dục không làm phiền nữa.” Rồi nàng dẫn các thị nữ vái chào Triệu Sơ, dáng vẻ nghiêm túc như thể chàng mà không vào thì sẽ không đi.

Nàng hẵng còn nhỏ, chưa qua tuổi mười bảy, lại được nuôi dưỡng ngoài cung nên cử chỉ có đôi phần không hợp lẽ, song bù lại bản tính hồn nhiên ngây thơ, thành ra Triệu Sơ cũng không so đo với nàng, nhấc chân bước vào cửa cung.

Người trong điện Nguyên Đức nghe thấy động tĩnh bên ngoài, biết Gia Ninh đế đã đến.

Chỉ Vi cùng các thị tỳ đứng ngoài cung nghênh đón, Triệu Sơ đi vào trong điện, thấy Chương Nguyên Gia đang vén chăn định xuống giường hành lễ, chàng bèn đưa tay đỡ: “Không cần giữ lễ.”

Chàng ngồi xuống bên cạnh, ánh mắt dừng ở chiếc bàn trước giường, thấy mâm vải đỏ vẫn còn nguyên thì không khỏi ngạc nhiên.

Vải đầu hạ là thứ rất hiếm, mâm vải trong điện của Chương Nguyên Gia đây là cống quả, được vận chuyển bằng ngựa chiến gia roi từ Nam Quốc đến. Xưa nay Chương Nguyên Gia rất thích ăn vải, mỗi năm cứ vào hè là lại dài cổ trông chờ. Hồi Triệu Sơ còn là thái tử, chàng thường lén giấu một phần của Đông Cung đem đến cho nàng, về sau lên làm Hoàng đế vẫn không quên chuyện này, dặn dò Nội Thị Tỉnh mỗi năm đều phải đưa một phần vải được tiến cống đến điện Nguyên Đức.

Vải đỏ trên bàn ắt hẳn được đưa đến vào sáng nay, vậy mà nàng vẫn chưa ăn?

Triệu Sơ không khỏi nhìn Chương Nguyên Gia, sắc mặt nàng nom khá tiều tụy, hôm nay trời nóng mà vẫn đắp chăn dày.

“Phía Thái Y Viện nói sao rồi? Hoàng hậu bị bệnh gì?” Triệu Sơ biết cá tính tốt khoe xấu che của Chương Nguyên Gia, bèn hỏi thẳng Chỉ Vi.

“Bẩm Quan gia, không có gì ạ, hôm trước trời đột ngột trở nóng nên nương nương khó chịu, ban đêm mất ngủ, bèn dặn người dưới chuẩn bị băng, nào ngờ lại nhiễm phong hàn.”

Triệu Sơ khẽ thở phào, “Nàng thật là, có còn là bé gái nữa đâu mà cứ thích lạnh như hồi nhỏ thế hả?”

Chương Nguyên Gia chỉ đáp Quan gia dạy phải.

Người nàng đang khó chịu, trong lòng lại nặng tâm sự, nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng vẫn hỏi thẳng: “Thần thiếp nghe nói hôm trước có chuyện xảy ra ở một huyện thành Lăng Xuyên, biểu huynh dẫn binh đến đó, gặp phải nguy hiểm, hộ vệ của huynh ấy còn rơi xuống vách núi, không biết tình hình bây giờ thế nào rồi?” Nàng dừng một lúc, không đợi Triệu Sơ trả lời đã giải thích, “Thần thiếp đổ bệnh, Dụ vương phi cho Nhân Dục vào cung thăm, biểu huynh cũng là biểu huynh của muội ấy, thần thiếp nghe được chuyện này từ muội ấy.”

Triệu Sơ lại không mảy may để ý, chỉ nói: “Biểu huynh vẫn bình an, còn hộ vệ của huynh ấy, tên…”

“Bẩm Quan gia, tên Triêu Thiên ạ.” Tào Côn Đức đứng bên tiếp lời.

“Đúng, Triêu Thiên. Nghe nói bị trọng thương, cũng may hắn mạng lớn, lúc tìm được vẫn còn thở, hiện tại thế nào thì trẫm không biết.”

Chương Nguyên Gia gật đầu, lại hỏi: “Thế biểu huynh đi Lăng Xuyên…”

“Mà nàng cũng nhắc trẫm rồi đấy.” Không đợi nàng nói hết câu, Triệu Sơ cướp lời, “Tào Côn Đức, lệnh cho Trung Thư chuẩn bị bút mực gửi thư đến Đông An, hỏi thăm vết thương của Triêu Thiên sao rồi.”

Tào Côn Đức cầm phất trần vâng dạ, cười nói: “Thằng bé này, bị thương mà được Quan gia đích thân thăm hỏi, quả là có phúc lớn.”

Triệu Sơ cũng cười: “Nói gì đi nữa cậu ta cũng là trẻ mồ côi sau trận sông Trường Độ.” Chàng nhìn Chương Nguyên Gia, dịu dàng bảo, “Hẳn nàng không biết, hai người đi theo biểu huynh kia, một là Đức Vinh, một là Triêu Thiên, phụ thân của họ đều là tướng sĩ đã hi sinh trong trận chiến sông Trường Độ, về sau bọn họ được một thương nhân Trung Châu họ Cố nhận nuôi, trên hộ tịch cũng mang họ Cố, tên là Cố Triêu Thiên, Cố Đức Vinh.”

Chàng nhẹ nhàng thay đổi đề tài, lúc nãy Chương Nguyên Gia còn muốn hỏi, nhưng giờ không thể hỏi được nữa.

Sự im lặng lại bao trùm hai người.

Kỳ thực vào lúc này, đáng lý ra Triệu Sơ nên nói còn có chính vụ rồi rời đi mới phải, nhưng hôm nay chàng muốn ở lại với nàng thêm lát nữa, mãi tới khi ánh nắng nhuộm cả chấn sông, chàng mới đứng dậy bảo: “Thời gian này nàng cứ nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho khỏe, không cần lo lắng chuyện ngoài kia làm gì, hôm khác có thời giờ rảnh, trẫm sẽ lại đến thăm nàng.”

“Quan gia.” Nhưng Triệu Sơ chưa ra khỏi cửa cung thì nghe thấy Chương Nguyên Gia gọi lại.

Triệu Sơ ngoái đầu: “Có chuyện gì à?”

Chương Nguyên Gia nói: “Lúc nãy Nhân Dục đến thăm thần thiếp, thần thiếp mới chợt nhớ muội ấy cũng đã tới tuổi cưới gả, hồi trước Dụ vương phi có nhờ thần thiếp việc này, nên thần thiếp muốn hỏi ý Quan gia.”
 
Chương 114


“Dụ vương phi đã nhờ nàng chuyện này?”

Chương Nguyên Gia đáp phải.

Triệu Sơ im lặng, vì nhân số hoàng thất ở thế hệ bọn họ khá ít nên thân quyến qua lại cũng gần gũi hơn. Tuy Nhân Dục chỉ là Quận chúa nhưng phụ thân muội ấy là Dụ Thân vương, năm xưa trước khi qua đời, Dụ Thân vương đã thống thiết gửi gắm Nhân Dục cho Chiêu Hóa đế chăm sóc, mà nay khi Chiêu Hóa đế đã băng hà, trách nhiệm chăm sóc Nhân Dục rơi lên người Triệu Sơ.

Triệu Sơ quay trở vào tẩm điện, ngồi xuống bên giường: “Nàng nghĩ thế nào?”

Chương Nguyên Gia nói: “Muội ấy lớn lên ở ngoài cung, tích cách ngây thơ, thần thiếp nghĩ, chi bằng tìm một tây quan* xuất thân thế tộc, có nhân phẩm có tiền đồ, như thế muội ấy cũng có nơi nương tựa cho sau này, và Dụ vương phi cũng có thể yên tâm. Nhưng…” Nói đến đây, Chương Nguyên Gia dừng một lúc, “Lúc nãy thần thiếp có hỏi thử muội ấy, hình như muội ấy… có người trong lòng rồi.”

(*Tây quan: từ cũ, chỉ con rể của thân vương hoặc tông thất.)

Triệu Sơ hỏi: “Nàng có biết con bé thích ai không?”

Chương Nguyên Gia lắc đầu: “Muội ấy không nói, trông có vẻ đã thích từ lâu, muội ấy nói người mình muốn lấy như trăng sáng trên trời, không ai sánh bằng.”

Tuy Triệu Vĩnh Nghiên được nuôi dưỡng ở ngoài cung song ngày thường vẫn chỉ toàn qua lại với họ hàng tông thất.

Nhân phẩm như trăng sáng trên trời?

“Biểu huynh ư?” Triệu Sơ ngẩn người, đoạn phủ định: “Không thể nào.”

“Thần thiếp thấy có vẻ không giống, muội ấy bảo mới quen mấy năm nay thôi, mà mấy năm nay không phải biểu huynh đang ở Giang gia sao.” Chương Nguyên Gia khẽ đáp, “Hơn nữa thần thiếp cũng biết ít nhiều về suy nghĩ của biểu huynh, trong lòng huynh ấy đã có người rồi.”

Triệu Sơ gật đầu: “Được, vậy nhờ nàng chuyện này, Nhân Dục còn nhỏ, tình nhân trong mắt hóa Tây Thi, người con bé xem trọng chưa chắc đã tốt, nàng ở bên để mắt giùm, xác định được ai thì nói cho trẫm biết, chỉ cần gia phong trong sạch, tiền đồ rộng mở thì trẫm sẽ phê chuẩn.”

Nói đoạn, chàng lại dặn dò Chương Nguyên Gia nghỉ ngơi rồi ra về.

Chương Nguyên Gia dựa vào cửa sổ, nhìn bóng chàng đi khuất.

Chàng đến vào lúc tia nắng hoàng hôn đầu tiên buông xuống, và rời đi trước khi ánh sáng rực rỡ trên trời tan biến.

Đợi tới lúc Triệu Sơ hoàn toàn biến mất ngoài điện Nguyên Đức, Chương Nguyên Gia không kìm nén nổi cơn đau trước ngực nữa, nhắm mắt che ngực, Chỉ Vi thấy thế, vội vã dặn dò cung tì: “Nhanh, nhanh đem ống nhổ lại đây!”

Chương Nguyên Gia cứ nôn khan vào ống nhổ một lúc lâu.

Cũng phải thôi, ăn gì vào là lại nôn ra, dạ dày trống trơn thì nôn được gì?

Chỉ Vi không khỏi lo lắng: “Nương nương thật là, sao không nói chuyện của mình cho Quan gia mà toàn nói chuyện không đâu vậy? Nếu cứ tiếp tục như thế, chưa nói tới việc xa cách, chuyện lớn đến vậy mà nương nương cứ giấu Quan gia, cẩn thận Quan gia biết sẽ giận nương nương.”

Cung tì quấn lát gừng vào cổ tay Chương Nguyên Gia mới giúp nàng từ từ thư thái ra, đoạn nhẹ nhàng nói: “Chuyện của Nhân Dục, sao lại là chuyện không đâu?”

Nàng cụp mắt nhìn mâm vải trên bàn, “Vả lại, đâu phải ta không muốn nói ra, nhưng ngươi cũng thấy rồi đấy, ta vừa hỏi chuyện Lăng Xuyên thì chàng đã đổi đề tài.” Nàng đưa mắt nhìn nắng chiều ngoài song cửa, “Thôi, đó là ý của chàng, cứ đợi tiếp đi…”

Khi ánh chiều tà cuối cùng tắt bóng, Triệu Sơ quay về điện Hội Ninh, một Cấm vệ Điện Tiền Ti mặc giáp lặng im đứng chờ trước điện, cung kính vái lạy khi thấy Triệu Sơ: “Quan gia.”

Cấm vệ quân này tên Phong Nghiêu, là một trong Cấm vệ quân được Gia Ninh đế tin tưởng.

Triệu Sơ thấy hắn, nói với Tào Côn Đức: “Ngươi đi trước đi.”

Tào Côn Đức vâng dạ, khom lưng lui ra.

Phong Nghiêu đi theo Triệu Sơ vào điện Hội Ninh, vừa đi vừa thấp giọng bẩm báo: “Hoàng hôn hôm nay, vị tiền bối ở trong cung Thính Xuân đã rời đi rồi ạ.”

Triệu Sơ “ừ” một tiếng: “Tới Lăng Xuyên à?”

Phong Nghiêu đáp: “Vâng.”

Vị tiền bối kia đã bị giam ở Thính Xuân năm năm, nửa năm trước khi vụ án Hà thị vừa khép lại, Triệu Sơ đồng ý thả tự do cho ông nhưng ông đã khéo léo từ chối, nói rằng vẫn chưa đến thời điểm. Tới sáng sớm ngày hôm trước, khi vụ việc Thượng Khê truyền đến kinh đô, ông như có linh cảm, nói là muốn đến Lăng Xuyên, xin Gia Ninh đế sắp xếp.

“Quan gia.” Phong Nghiêu do dự, “Lần này Nhạc tiền bối mà đi, rồi vụ án Tiển Khâm Đài, e rằng sẽ là con đường không thể trở về.”

Triệu Sơ nhìn hắn, không lên tiếng.

Ngày hôm trước mật thư vừa được đưa tới, Tạ Dung Dữ nói sĩ tử lên đài năm xưa có liên quan đến việc mua bán danh sách, chẳng qua không biết danh sách này tuồn ra từ tay ai.

Tiểu Chiêu vương đã điều tra chân tướng dưới Tiển Khâm Đài đến bước này rồi.

Triệu Sơ biết ý Phong Nghiêu, nếu cứ tiếp tục đào sâu thì sẽ rút dây động rừng, là phúc hay họa chỉ cách một suy nghĩ.

Nhưng Triệu Sơ không hề do dự, chàng nhìn vào màn đêm, những vì sao nhấp nháy trên đêm trời quang, “Bước tiếp theo sẽ càng khó khăn hơn, về phía Lăng Xuyên, nếu biểu huynh có bất cứ dặn dò nào, các ngươi nhất định phải phối hợp.”

“Rõ.”

***

Đêm kinh đô quang đãng bao nhiêu thì màn đêm ở Đông An lại nặng nề bấy nhiêu. Mây mù tích tụ từ lúc hoàng hôn mãi chưa tan, ráng đỏ hồng vẫn đọng trên khung trời, rồi một cơn mưa trút xuống, rơi mãi tới tận nửa đêm.

Bấy giờ đã qua giờ Hợi, người nhà bình thường đều đã chìm vào giấc ngủ, nhưng Quy Ninh Trang ở Đông An vẫn thắp đèn sáng rực, nhất là Y Sơn Viện ở phía tây trang viên, bên ngoài sân có Huyền Ưng vệ canh giữ tầng tầng lớp lớp, ở bên trong, Tạ Dung Dữ cùng mấy người Thanh Duy Kỳ Minh đứng chờ ngoài phòng, đứng hầu bên trái bọn họ là Đức Vinh.

Đức Vinh mới tới vào trưa hôm nay.

Từ lúc nhận được thư của Triêu Thiên, hắn giục ngựa chạy không ngừng nghỉ đến Lăng Xuyên, chặng đường gần ngàn dặm lại chỉ mất vỏn vẹn năm ngày ngắn ngủi. Hắn vội vã chạy đến Lăng Xuyên là vì biết công tử đã tìm được thiếu phu nhân, lo lắng tên đầu gỗ Triêu Thiên sẽ làm hỏng chuyện, nào ngờ vừa vào địa phận Lăng Xuyên thì hay tin dữ Triêu Thiên rơi xuống vách núi, hồn phách gần như bay biến, cho tới khi theo Huyền Ưng vệ đến Quy Ninh Trang mới dần dà lấy lại bình tĩnh.

Triêu Thiên bị thương rất nặng khi rơi xuống vách núi, gãy ba cây xương sườn, xương đùi cũng nứt rạn, vốn dĩ hắn đã bị thương khi đánh nhau với đám tử sĩ, cũng may hắn mạng lớn, lúc rơi xuống có thanh đao gãy ma sát vào cành khô, cản bớt lực rơi, bằng không chỉ việc hắn chảy nhiều máu thôi cũng đủ để cướp đi tính mạng của hắn.

Nhưng dù là vậy đi chăng nữa, mấy ngày sau đó, vết thương của Triêu Thiên vẫn còn rất nguy hiểm, đại phu nói chỉ cần cố trụ qua bảy ngày là sẽ ổn, song hôm nay chỉ mới là ngày thứ năm mà Triêu Thiên đã sốt cao ba trận, chiều nay lại sốt rất nặng, thậm chí kinh động đến cả Tiểu Chiêu vương đang tra hỏi nghi phạm.

Không lâu sau, cửa phòng kêu “két” mở ra, Kỳ Minh lập tức đi tới: “Đại phu, xin hỏi Cố hộ vệ thế nào rồi?”

Đại phu chắp tay vái mấy người Tạ Dung Dữ: “Bẩm điện hạ cùng các vị quan gia, Cố hộ vệ có căn cơ tốt, tuy rơi xuống vách núi nhưng chạm đất bằng, không chấn động đến tim phổi, sốt cao đến nhanh mà đi cũng nhanh, trước mắt đã từ từ khỏi bệnh, chỉ cần chăm sóc kỹ lưỡng, đợi đến sáng mai, cơn sốt thuyên giảm thì vết thương sẽ đỡ hơn.”

Ông vừa dứt lời, mọi người đồng loạt thở phào.

Nhưng Đức Vinh vẫn chưa yên tâm, bước lên hỏi: “Đại phu, trong lúc chăm sóc có cần chú ý gì không?”

Đại phu nói: “Cũng không có gì nhiều, cậu ấy đang ngủ say, thiếu cơm thiếu nước, nếu nằm mơ có co giật thì phải ghi nhớ số lần.”

Đức Vinh ghi nhớ, Tạ Dung Dữ sai người đưa đại phu về phòng nghỉ ngơi.

Ngày hôm kia ở Thượng Khê xảy ra loạn, không những Tôn Nghị Niên bị ám sát mà sư gia Tần Cảnh Sơn cùng Lý bổ đầu cũng táng thân trong loạn binh, may thay vẫn bảo vệ được Tưởng Vạn Khiêm và Dư Hạm, có thể lần theo manh mối. Năm hôm trước, sau khi Thanh Duy chắc chắn Triêu Thiên còn sống, nàng dẫn người đuổi theo phu nhân Lý thị của Tôn Nghị Niên suốt đêm, con đường Lý thị bỏ trốn vô cùng bí mật, phải tới sáng sớm hôm qua, Thanh Duy mới thuận lợi tìm được người về.

Nha huyện Thượng Khê đã đổ, cần thu xếp khắc phục hậu quả, tuy Huyền Ưng vệ đã có châu phủ lăng Xuyên cùng Tuần Kiểm Ti và Tả Kiêu vệ hỗ trợ, song vẫn khó mà phân thân, càng đừng nhắc đến chuyện khác, nội nhân chứng cần thẩm vấn thôi cũng đã hơn một trăm, cộng thêm chứng từ phải dày chừng mấy tấc. Tạ Dung Dữ còn đích thân thẩm vấn Tưởng Vạn Khiêm và Dư Hạm đến mấy lần, hôm nay dậy sớm lại bận bù đầu sắp xếp manh mối, tới giờ vẫn còn nhiều chuyện đợi bàn bạc.

Tạ Dung Dữ là người chuyện hôm nay không để ngày mai, biết hội Vệ Quyết vẫn đang chờ mình ở thư phòng bèn đứng dậy nói với Thanh Duy: “Nàng về Phất Nhai Các trước đi, tối nay cứ ngủ sớm, không cần chờ ta.”

Nói đoạn, y nhấc chân toan đến thư phòng.

Thanh Duy nhìn bóng lưng y, trong mắt ẩn chứa vẻ phức tạp, nghĩ một lúc rồi đuổi theo hai bước; “Ấy, chờ đã.”

“Sao thế?” Tạ Dung Dữ quay đầu hỏi.

Kỳ Minh đang ở đây, Đức Vinh cũng có mặt, lại còn có Huyền Ưng vệ thường đi theo Tạ Dung Dữ, Thanh Duy ấp úng, một lúc sau chỉ bảo: “Không có gì, ngài đi làm việc trước đi.”

Đức Vinh theo Tạ Dung Dữ ra khỏi Y Sơn Viện, gió đêm thoảng qua, Tạ Dung Dữ nhớ tới vẻ mặt ban nãy của Thanh Duy, bước chân dừng lại, còn chưa mở miệng thì Đức Vinh đã hiểu ý, lập tức nói ngay: “Công tử đến thư phòng trước đi ạ, để tiểu nhân đến chỗ thiếu phu nhân xem thế nào.”
 
Chương 115


Quy Ninh Trang là trang viên của người nhà họ Doãn ở Đông An. Sau khi hội Vệ Quyết đến đây, châu doãn Lăng Xuyên đã thu xếp cho mọi người ở tạm nơi này. Trang viên cực kỳ rộng, trong trang có vài viện các, hội Kỳ Minh và Chương Lộc Chi nghỉ ở Y Sơn Viện để tiện bề chăm sóc Triêu Thiên, còn Thanh Duy và Tạ Dung Dữ ở riêng tại Phất Nhai Các phía tây.

Phất Nhai Các có sân nhỏ phòng sâu, diện tích không lớn song bù lại khá yên tĩnh. Thanh Duy và Huyền Ưng vệ đã truy đuổi Lý thị bỏ trốn mấy ngày liền không nghỉ, đến tận hôm qua mới trở về, sức cùng lực kiệt, phải nhờ thị nữ trong trang viên dìu về Phất Nhai Các, vừa đặt lưng xuống đã ngủ say, li bì tới sáng nay mới tỉnh, thấy Tạ Dung Dữ trở về, nàng mới giật mình phát hiện lại ở chung phòng với y.

Đã nói rõ là thành thân giả rồi, nhưng cứ lấy danh vợ chồng cùng ra cùng vào như vậy, rồi người dưới cũng gọi thiếu phu nhân, thì đến bao giờ quan hệ giữa hai người mới rõ ràng được đây?

Thực ra Thanh Duy cũng đã trăn trở vấn đề này rất lâu, nàng có trách nhiệm điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài, đi theo Tạ Dung Dữ đương nhiên có thể sớm ngày phá được án hơn, nhưng xét cho cùng nàng đang là trọng phạm, không thể ra mặt công khai, hành sự chung với Huyền Ưng Ti chỉ tổ níu chân bọn họ. Nếu đã vậy, chi bằng nàng hành sự độc lập đi, quá nhiều manh mối liên quan đến núi Trúc Cố, kiểu gì cũng có nơi nằm ngoài tầm với của Tạ Dung Dữ, để nàng âm thầm điều tra, không những bớt rắc rối cho y mà còn có thể giúp đỡ y. Hơn nữa, trước khi Nhạc Ngư Thất mất tích ông đã từng xuất hiện ở Lăng Xuyên, nàng hành sự một mình cũng có thể tiện bề thăm dò tung tích của sư phụ.

Thanh Duy ngồi bên giường, nhìn bóng đêm mịt mùng qua khe cửa, hạ quyết tâm đợi Tạ Dung Dữ về sẽ nói rõ với y, ai ngờ mới đợi một lúc thì bên ngoài vọng đến tiếng gõ cửa:

“Thiếu phu nhân đã ngủ chưa ạ?”

Là Đức Vinh.

Đã giờ này rồi mà sao Đức Vinh còn đến đây?

Thanh Duy lập tức kéo cửa ra: “Triêu Thiên bị sao hả?”

“Triêu Thiên vẫn ổn ạ.” Mưa rào vừa tạnh, Đức Vinh lồng tay áo đứng trong bóng đêm, “Là công tử phái tiểu nhân tới, muốn hỏi thiếu phu nhân đã quen ở trang viên chưa?” Không đợi Thanh Duy trả lời, hắn nói tiếp, “Đi xa bên ngoài khó chu đáo bằng ở nhà, nhưng thiếu phu nhân yên tâm, Lưu Phương và Trú Vân đã trên đường đến Lăng Xuyên rồi, có bọn họ, cuộc sống sinh hoạt của thiếu phu nhân sẽ khá hơn.”

Thanh Duy ngạc nhiên: “Lưu Phương và Trú Vân cũng tới ư?”

“Vâng, là công tử dặn ạ.” Đức Vinh đáp.

Thanh Duy biết Tạ Dung Dữ gọi Lưu Phương và Trú Vân đến Lăng Xuyên là vì mình, lòng bỗng dao động, nhưng nàng đã quyết ý rời đi rồi, nghĩ một lúc cuối cùng vẫn nói thật: “Ngươi đi viết thư bảo bọn họ không cần đến nữa. Hôm trước ta đã nói thẳng với công tử nhà ngươi rồi, lúc trước bọn ta chỉ giả thành thân, không thể lấy danh vợ chồng sống chung tiếp được, bây giờ lại còn ở chung phòng, thực sự không ổn. Ta đã nghĩ kỹ rồi, đợi vụ án Thượng Khê sáng tỏ, ta sẽ lập tức đến Thần Dương, ở Thần Dương có nhiều thợ mộc, nói không chừng có thể tìm được manh mối hữu dụng, hơn nữa sư phụ ta có một căn nhà ở núi Thần Dương, ta muốn quay về tìm tung tích của ông ấy.”

“Thiếu phu nhân muốn rời đi?” Đức Vinh giật mình.

Thanh Duy “ừ” một tiếng, “Nên mấy ngày nay làm phiền ngươi tìm cho ta một chỗ khác, ta sẽ sang đó ở trước, nếu trong trang viên bất tiện thì ta ra ngoài ở cũng được.”

Đức Vinh nghe thế thì im lặng, một lúc lâu sau mới thở dài: “Vâng, nếu thiếu phu nhân đã dặn thì tiểu nhân sẽ nghe theo.”

Thanh Duy thấy hắn có vẻ khó xử, “Sao thế, việc này khó lắm à?”

“Cũng không phải là khó.” Đức Vinh nói, “Hiện giờ Triêu Thiên đang bị trọng thương, tiểu nhân cần chăm sóc cậu ta, nhưng nếu thế, bên cạnh công tử không có ai phục vụ…” Đức Vinh chần chừ, rồi như hạ quyết tâm thật lớn mới nói ra câu sau, “Hẳn thiếu phu nhân cũng biết, công tử đổ bệnh từ năm năm trước, tuy nửa năm nay đã khỏe hơn, nhưng để đề phòng bệnh tình tái phát, phải luôn có người túc trực hầu hạ. Chưa nói đâu xa, công tử bận bề công vụ, cần phải có người nhắc ngài ấy uống thuốc, thỉnh thoảng nằm mơ bị bóng đè giật mình, nếu không có người lay tỉnh, tâm bệnh tái phát, chỉ e có tĩnh dưỡng cũng không khỏe lên được.”

Thanh Duy lại ngạc nhiên: “Nhưng ngươi cũng gặp y rồi đấy thôi, sắc mặt y rất tốt, đâu có dùng thuốc nữa, bệnh hẳn phải hết rồi chứ, sao căn bệnh này lại khó chữa vậy?”

Đức Vinh hỏi: “Trước kia khi thiếu phu nhân ở Giang gia, có từng thấy công tử uống thuốc bao giờ chưa?”

Thanh Duy lắc đầu.

“Chính là vậy, công tử không muốn thiếu phu nhân lo lắng nên mới không uống trước mặt người, Triêu Thiên là đứa cẩu thả, mấy ngày ở Thượng Khê, khéo lại quên nhắc nhở công tử.” Đức Vinh nói, “Công tử dốc hết ruột gan vì vụ án Thượng Khê, tiểu nhân sợ nếu sơ suất sẽ khiến tâm bệnh tái phát, lúc đầu nghĩ nếu có thiếu phu nhân ở đây, buổi tối ở bên chăm sóc, tiểu nhân chỉ cần chuẩn bị thuốc là xong, nhưng giờ thiếu phu nhân lại muốn đi…”

Đức Vinh dừng lại, đoạn hỏi: “Thiếu phu nhân định đi thật ạ?”

Thanh Duy không đáp.

Không rõ vì sao nàng bỗng nhớ đến mùa đông năm ngoái, vào cái đêm gặp y trong cung, y khoác áo ngoài viết công văn dưới ngọn đèn dầu, sắc mặt nhợt nhạt.

Đức Vinh bèn nói tiếp: “Bây giờ Trú Vân Lưu Phương còn chưa đến, nếu thiếu phu nhân thực sự muốn rời đi, tiểu nhân đành mượn người hầu ở trang viên đến Phất Nhai Các chăm sóc công tử vậy, nhưng… Thiếu phu nhân biết đấy, dung mạo công tử giống thiên nhân, dễ đưa tới vài phiền phức không cần thiết, lúc trước là Xa thị bộ Binh, công tử chỉ nói có hai câu với nàng ta… Mà thôi, nếu thiếu phu nhân đã quyết ý đi, vậy để tiểu nhân thu xếp chỗ ở cho người.”

“Ấy, gượm đã.” Thấy Đức Vinh sắp sửa rời đi, Thanh Duy gọi giật lại, nàng chần chừ, “Thôi, ta ở lại thêm một thời gian nữa.”

Dẫu sao nàng và Tạ Dung Dữ cùng vào cùng ra không phải ngày một ngày hai, lúc trước ở Giang gia còn ngủ cùng giường cơ mà, bây giờ y đổ bệnh, nàng ở bên chăm sóc y cũng có gì đâu?

Đợi vụ án khép lại, Trú Vân và Lưu Phương đến rồi nàng rời đi cũng chưa muộn.

Đức Vinh dừng bước, hành lễ với Thanh Duy: “Vâng, biết thiếu phu nhân bằng lòng ở lại chắc hẳn công tử cũng yên tâm.”

Dứt lời, hắn đi thẳng ra ngoài.

Ra khỏi Phất Nhai Các, Đức Vinh đi tìm vị đại phu mới xem bệnh cho Triêu Thiên, hỏi: “Đại phu có thang thuốc nào cho điện hạ nhà tôi không?”

Đại phu này là danh y ở Đông An, được Châu doãn Lăng Xuyên mời đến khám cho Triêu Thiên, cho dù vậy thì nhân vật lớn nhất mà ông từng gặp trong đời cũng chỉ là đại nhân trong châu phủ, nay nghe vương gia trong cung muốn xin ông phương thuốc thì giật mình: “Sao thế, điện hạ khó chịu trong người hả?”

“Cũng không phải.” Đức Vinh nói, “Điện hạ vẫn khỏe, chỉ là… vì có việc đột xuất, cần chuẩn bị một thang thuốc. Không cần là thang thuốc trị bệnh thật, miễn là mùi nồng, không khó uống, an thần dưỡng sinh là được.”

Đại phu nghĩ ngợi: “Vậy thì, nhân sâm đương quy thêm mấy quả táo ngọt được không?”

Đức Vinh gật đầu: “Làm phiền đại phu viết một phương thuốc, tôi sẽ đi sắc theo.”

***

Tới đầu giờ Dần, Tạ Dung Dữ mới họp bàn xong, bước ra khỏi thư phòng. Quay về phòng, Thanh Duy đã ngủ, y nhẹ nhàng lấy y phục sạch sang phòng bên tắm rửa, nhưng lúc trở ra thì lại thấy Thanh Duy đã tỉnh, đang ngồi trên giường.

Đèn trong phòng vẫn chưa tắt, đốm lửa bập bùng mờ ảo.

“Sao lại dậy rồi?” Tạ Dung Dữ ngồi xuống mép giường, vuốt lọn tóc rối giúp nàng, nhẹ nhàng hỏi.

Thanh Duy không cách nào ngủ được. Từ khi biết chuyện y vẫn chưa lành bệnh, cứ nhắm mắt là nàng lại thấy ảo ảnh, lúc là gương mặt nhợt nhạt của y dưới ánh đèn trong thâm cung đêm nọ, khi lại là cảnh y bất tỉnh nằm trên vai Triêu Thiên vào hôm Chiết Chi Cư bốc cháy, mộng quấy nhiễu tới tận nửa đêm, nên vừa rồi khi y đi vào thì nàng cũng thức giấc.

Thanh Duy chưa kịp trả lời thì bên ngoài vang lên tiếng gõ cửa, Đức Vinh nén thấp giọng, như thể sợ đánh thức Thanh Duy: “Công tử, đã chuẩn bị thuốc xong rồi ạ.”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, “Đưa vào đi.”

Đức Vinh đi vào nhà, đặt lên bàn chén thuốc và một chén nước muối súc miệng rồi cúi người lui ra.

Tạ Dung Dữ ngồi xuống một bên, bình thản uống thuốc.

Thanh Duy nhìn y, tuy biết nội tình song vẫn hỏi: “Sao ngài lại uống thuốc, bệnh kia vẫn chưa khỏe hẳn à?”

“Bệnh vặt thôi, không có gì đáng lo.” Tạ Dung Dữ uống thuốc xong, quay trở về giường vén chăn lên, Thanh Duy do dự, cuối cùng vẫn dịch vào trong.

Kỳ thực lúc ở Vân Khứ Lâu cả hai đã chia giường ngủ, nhưng vừa rồi Đức Vinh bảo Tạ Dung Dữ đã vất vả nhiều hôm, để đề phòng bệnh cũ tái phát rồi bị bóng đè, cần có người túc trực chăm sóc.

Được rồi, cũng không phải lần đầu cả hai ngủ chung với nhau, chỉ là thêm vài hôm thôi mà, nàng còn có thể rơi mất miếng thịt nào được chắc? Không có gì phải thẹn.

Tạ Dung Dữ chưa ngủ ngay, dùng que khời vặn sáng đèn lên, lật giở hồ sơ vụ án.

Muốn điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài không phải chỉ đuổi theo địch tìm bằng chứng là xong, mà còn phải tìm ra được những điểm đáng ngờ trong các hồ sơ có liên quan, thu thập manh mối. Năm năm trôi qua, hồ sơ liên quan đến Tiển Khâm Đài nhiều tới mức đủ chất đầy nửa thư phòng, đọc kỹ chi tiết lại càng đơn điệu khô khan, ắt hẳn chỉ có Tạ Dung Dữ mới có thể kiên nhẫn xem từ ngày này đến ngày khác.

Thanh Duy nhớ ra vừa đề cập đến chứng bệnh của y, nghĩ bụng nên hỏi rõ gốc bệnh để tiện bề chăm sóc, “Bệnh này của ngài, là bắt đầu từ lúc Tiển Khâm Đài sập à?”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng rồi im lặng, không đánh trống lảng mà ngồi tựa vào gối dựa, nhìn nàng nói: “Có khoảng một năm, ta rất ít khi rời điện Chiêu Doãn, hễ nhắm mắt là thấy ác mộng, cứ nghĩ hoài về cái ngày Tiển Khâm Đài sập, mãi về sau khi đeo mặt nạ vào thì mới đỡ hơn chút, nhưng cũng mất đến ba tháng mới bước được ra khỏi cung cấm.”

Thanh Duy đã nhớ ra, năm ngoái ở Chiết Chi Cư, khi Chương Đình nhờ y phá dỡ tửu xá, dù y biết rõ tâm bệnh của mình nhưng vẫn đi. Có lẽ từ trước đó, y đã liên tục cố gắng thoát khỏi cơn ác mộng.

Thanh Duy bỗng không muốn nhắc đến Tiển Khâm Đài nữa, hỏi sang chuyện khác: “Không phải Trưởng công chúa có phủ công chúa ở bên ngoài à, vì sao ngài vẫn ở trong cung?”

“Hồi nhỏ ta sống ngoài cung, Luận ngữ hay Kinh thi đều do phụ thân tự tay dạy dỗ, sau đó…” Ánh mắt của Tạ Dung Dữ trở nên mông lung, nở nụ cười nhạt, “Sau đó chẳng ngờ, một người sống tiêu dao như ông ấy lại đi nhảy sông.”

Y nói: “Từ ngày khai triều Đại Chu đã trọng văn trọng sĩ, phụ thân là anh kiệt một đời, ông mất đi, mẫu thân không phải là người đau lòng nhất, mà những người đau lòng thống thiết, nuối tiếc không thôi lại chính là hàn lâm nhân sĩ trên triều. Huống hồ… Sĩ tử nhảy sông Thương Lãng quá thê thảm, người còn sống cần phải có gửi gắm, có hi vọng, nên cữu phụ mới đón ta vào cung, phong vương cho ta, lấy quy chế của hoàng tử dạy ta học văn tập võ.”

Tạ thị Dung Dữ, ba tuổi đã biết đọc, năm tuổi đã làm thơ, tài năng sánh bằng phụ thân Tạ Trinh.

Chuyện cũ đã qua, người còn sống phải hướng về tương lai, nên y được đón vào cung, được quân vương dốc lòng giáo dưỡng để trở thành nhân sĩ tương lai.

Mà chẳng quan tâm y có muốn hay không.

Thanh Duy nghe thế lại tò mò, bèn hỏi: “Đó là lý do mà sau này tiên đế phái ngài đến Tiển Khâm Đài à?”

“Ừ.” Tạ Dung Dữ nhìn nàng, đôi mắt nàng trong veo sáng rực tựa tinh tú trên cao, Thanh Duy có một đặc điểm mà đến chính mình cũng không biết, đấy là dù nàng giỏi che giấu trước mặt người lạ đến đâu, một khi đã tháo dỡ phòng bị, toàn tâm toàn ý tin tưởng một người thì nàng sẽ không giấu giếm lòng mình, chuyện gì cũng viết rõ ra mặt, Tạ Dung Dữ cười bảo, “Đúng thế, nhưng từ lúc cữu phụ quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài, ta biết chắc mình sẽ bị phái đi.”

Lòng Thanh Duy nặng trĩu, không khỏi hỏi: “Nhưng mấy năm ngài sống trong cung, có vui vẻ không?”

Y chỉ vừa lên năm khi sĩ tử nhảy sông Thương Lãng, một đứa trẻ năm tuổi ngoài nỗi đau mất cha thì biết được điều gì.

Rồi lại bị đưa vào thâm cung, từng bước từng bước bị ghì chặt bởi kỳ vọng của người khác.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng.

Chốc lát sau, y bỗng bật cười, duỗi người tựa vào gối dựa, “Sao thế? Nương tử thấy tò mò với quá khứ của ta à?”

Thanh Duy ngơ ngác, lúc này mới chợt nhận ra mình vô tình hỏi nhiều.

Nàng nói ngay: “Không được gọi ta là nương tử, lần trước đã nói không phải là nương tử rồi mà.”

Rồi nàng giải thích, “Là Đức Vinh nói bệnh của ngài chưa lành hẳn, bảo ta ở bên chăm sóc, nên ta mới hỏi mấy câu.”

Không đợi Tạ Dung Dữ lên tiếng, nàng nói tiếp: “Hơn nữa không phải lần trước ngài nói muốn làm quen lại sao, ta chẳng biết gì về chuyện ngài cả, giờ hỏi chút xíu cũng không được hả?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, có vẻ nàng đã quên tiền đề khi y đề nghị làm quen lần nữa rồi.

Y biết nàng đang viện lý do lấp liếm, song không vạch trần, một lúc sau mới đáp: “Không vui.”

Thanh Duy sửng sốt, đoạn mới nhận ra y đang trả lời câu hỏi lúc nãy của nàng.

Nhưng nghe được câu trả lời đột ngột như thế, Thanh Duy lại không biết phải đáp thế nào.

Đấy là ân huệ của đế vương, là long ân thánh quyến, nhưng tới lượt y lại trở thành… không vui vẻ.

Tạ Dung Dữ chẳng buồn đoái hoài, chỉ nói: “Đều là chuyện quá khứ cả rồi.” Thấy nàng không ư ử thì hỏi: “Còn nàng?”

“Ta cái gì?”

“Chuyện quá khứ phải trao đổi qua lại mới có ý nghĩa chứ, nàng đã hỏi ta rồi, đến lượt ta hỏi nàng.” Y khép hồ sơ, vặn nhỏ ánh đèn, áp lại gần, giọng trầm khàn mang theo ý cười, trên người là hơi thở thanh mát đặc biệt chỉ mình y có, cuối cùng cũng không gọi nàng là nương tử nữa, “Còn nàng, Tiểu Dã cô nương của ta?”
 
Chương 116


Tiểu Dã cô nương… của ta?

“Của ta” là ý gì?

Trong chớp mắt đầu óc Thanh Duy trở nên trống rỗng, ngón tay luống cuống siết chặt tấm chăn, muốn phản bác nhưng ánh mắt Tạ Dung Dữ lại quá bình tĩnh, thể như xưng hô ấy chẳng có gì bất ổn, chỉ buột miệng thốt ra hai chữ “của ta” mà thôi, âu bởi lẽ hai người thân thiết quá mà.

Thân thiết sao? Đúng là thân thật, chí ít là trong những năm tháng lưu lạc vừa qua, chẳng có ai thân thiết với nàng hơn y.

Lúc này y cách nàng rất gần, chóp mũi nàng cách cằm y chưa tới ba tấc, nàng có thể cảm nhận được hơi thở lẫn ánh mắt thâu trọn của y.

Ngón tay nắm chăn dần siết chặt, Thanh Duy không dám nhúc nhích, thậm chí cũng chẳng dám dịch về sau dù chỉ nửa tấc, thể như nếu nàng lùi bước thì sẽ lập tức bại trận.

Nàng chỉ biết trơ mắt nhìn y, “Ta sinh ra ở Thần Dương, phụ thân là người vùng đó, ta đã nói rồi mà.”

Lúc nãy y chỉ buột miệng gọi chứ chẳng có ý gì khác cả, nàng nhất định không được để ý.

Nhất định.

Tạ Dung Dữ cụp mắt nhìn nàng: “Ta biết nàng là người Thần Dương. Ngày nàng còn bé, trên sườn núi sau nhà có một khu rừng trúc, xuân về gió thổi, trúc đung đưa như sóng cả, vô cùng dễ chịu, nhưng sau đó vì đuổi theo thỏ hoang mà nàng ngay nửa đêm nàng đã phá rừng trúc, có phải có chuyện này không?”

Thanh Duy lấy làm ngạc nhiên: “Sao ngài biết?” Đoạn nhanh chóng nhận ra: “Cha ta kể với ngài à?”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, cuộc đời này Ôn Thiên tinh thông xây dựng, nếu nói có điều gì ông ấy quan tâm nhất, thì ngoại trừ Nhạc Hồng Anh ra chỉ có một Ôn Tiểu Dã. Hồi còn ở núi Bách Dương, việc xây tháp khá là nhàm chán, cần nói chuyện giải khuây, vì thế ông thường vô tình nhắc đến Tiểu Dã mỗi lúc rảnh rỗi, Tạ Dung Dữ nghe được khá nhiều.

“Ôn thúc kể ta nghe không ít chuyện về nàng.”

Phụ thân kể cho y biết không ít chuyện về nàng?

Chuyện gì cơ? Hồi nhỏ nàng rất nghịch ngợm, làm rất nhiều chuyện đáng xấu hổ, đuổi theo thỏ còn đỡ, có lần nàng còn dỡ nóc phòng bếp, xách vịt lên nóc nhà dạy chúng tập bay; thậm chí có một lần còn thi bơi với cá, hơn nửa ngày bơi được hơn hai mươi dặm rồi bị lạc, phải tới ngày thứ hai Nhạc Ngư Thất mới xách cổ nàng về.

Thanh Duy lo Tạ Dung Dữ đã nghe được những chuyện đáng xấu hổ này của mình, thậm chí nàng còn không biết tại sao mình lại để ý đến thế.

Nàng nhìn y, tim đập như trống bỏi: “Cha ta… đã nói gì về ta?”

Tạ Dung Dữ cụp mắt nhìn nàng, ánh mắt càng thêm sâu, “Muốn biết hả?”

Giọng chậm rãi trầm trầm, đánh mạnh vào lòng Thanh Duy.

Thanh Duy chỉ cảm thấy như có nước sông chảy trong vuông màn, núi đá sạt lở khuấy động vòng xoáy sâu, gió trời cuốn lấy những hạt nước, đẩy một cái vào sau lưng nàng, khiến nàng trơ mắt nhìn y tới gần, càng lúc càng gần.

Giữa mây mù biển mưa, xúc cảm mềm mại chợt chạm vào môi.

Cách gang tấc, Thanh Duy thấy được làn mi dày tựa lông quạ cùng đuôi mắt trong trẻo của y.

Thanh Duy bỗng cuống lên.

Sóng cả cao trăm trượng, muốn kéo nàng rơi vào xoáy nước vừa nãy.

Trong màn dậy tiếng sấm, nhưng chẳng rõ là tiếng sóng vỗ bờ hay là tiếng nhịp đập con tim.

Suy nghĩ của Thanh Duy cũng dần trở nên mơ hồ, giữa ngẩn ngơ lại nghĩ đến một điều…

Không phải y vừa uống thuốc sao? Dù có súc nước muối thì dư vị cũng phải đắng chứ, sao lại ngọt đến thế?

Hồi đầu khi thành thân giả với y, liệu nàng có nghĩ đến bước này không? Sao nàng không làm giống như đêm tân hôn, tung chưởng hòng khiến y hôn mê?

Nếu cha mẹ, hay sư phụ biết được chuyện này, liệu có trách mắng nàng không? Nàng nên ăn nói với bọn họ thế nào đây?

Phía cha mẹ còn dễ, tới trước mộ nhận lỗi, cùng lắm cuối đời xuống song Vong Xuyên nhận một trận đòn roi là xong, nhưng còn chỗ sư phụ thì sao? Liệu ông có làm giống như cái lần nàng thi bơi với cá lúc trước không? Xách cổ nàng về, bắt mười con cá để nàng thi với từng con một, khiến nàng xém kiệt sức giữa lòng sông.

Nàng giỏi bơi lội nên có bao giờ biết chết đuối là thế nào, nhưng vào khoảnh khắc này đây, nàng lại như chìm sâu xuống nước, bị vòng xoáy cuốn chặt.

Lực mạnh tới nỗi khiến Thanh Duy cảm nhận được nguy cơ từ trong cơn hoảng hốt.

Nàng bỗng nhận ra một điều, nếu cứ tiếp tục nữa thì nàng sẽ chìm sâu xuống dòng nước này, mãi mãi chẳng thể ngoi lên.

Giữa cánh môi triền miên, nàng đưa tay đỡ vạt áo Tạ Dung Dữ, lập tức đẩy y ra.

Thanh Duy lúng túng, không biết phải đối mặt với chuyện đó như thế nào, chỉ biết trơ mắt nhìn y.

Tạ Dung Dữ cũng nhìn nàng trong bóng đêm, một lúc sau mới cất tiếng gọi: “Tiểu Dã, ta…”

“Ngài bỡn cợt ta!”

Không đợi y nói hết, Thanh Duy nhanh chóng kết luận.

Tạ Dung Dữ ngạc nhiên, không khỏi bật cười, “Ta bỡn cợt gì nàng cơ?”

Thanh Duy vô cùng bất an, tim đập như sấm rền, hi vọng y không nghe thấy.

Nàng mím môi: “Ngài… ngài mới làm chuyện đó, còn không phải là bỡn cợt ta sao?”

Lời vừa thốt ra, ngay đến nàng cũng chột dạ.

Y lại gần nàng, nhưng chẳng phải nàng cũng đến gần y sao? Cứ như ma xui quỷ khiến, không hiểu sao nàng lại tự giác như vậy.

Chỉ trách Đức Vinh cả! Nàng đã nói không muốn ở chung phòng với y rồi, nhưng hắn cứ khăng khăng đòi nàng ở lại chăm sóc y. Y bị bệnh cái gì? Nàng mới mắc bệnh đây này, bệnh gì không biết, chỉ biết cứ đến gần y là chân tay lóng ngóng, ngôn từ rối loạn.

Thanh Duy thấy mình không thể nằm lại trên chiếc giường này thêm một khắc nào nữa, thế là trèo qua người y toan xuống giường.

Tạ Dung Dữ cản lại: “Nàng làm gì đấy?”

“Đức Vinh bảo ta trông nom ngài,” Thanh Duy nói, “Ta lấy ghế tới ngồi bên giường là được rồi.”

Tạ Dung Dữ bật cười: “Nàng ngồi thế thì ngủ kiểu gì?”

“Không ngủ nữa, dầu gì cũng sắp sáng rồi.”

Tạ Dung Dữ cầm tay nàng, định kéo nàng về lại, song lúc này Thanh Duy rất nhạy cảm, khuỷu tay bị vướng thì lập tức trở mình túm một phát, đè chân xuống đầu gối y, “Có phải ngài định bỡn cợt ta nữa không?”

Tạ Dung Dữ thực sự không làm được gì, “Ôn Tiểu Dã, nàng nhìn nàng lúc này đi, ai có thể bỡn cợt được nàng hả?”

Thanh Duy ngơ ngác, bấy giờ mới nhận ra mình dùng tư thế khóa đè y lên đầu giường, cả cơ thể gần như dán vào y.

Chẳng đợi nàng rút lui, Tạ Dung Dữ ngước mắt nhìn nàng: “Mặc xiêm y vào lại đi.”

Vì đi xa nên nàng chỉ ăn mặc gọn nhẹ, trung y trên người còn là bộ hôm trước nàng mượn của y, tắm xong không trả, đồ rộng thùng thình. Ánh mắt Thanh Duy nương theo tầm mắt y vừa dời đi, chẳng biết vạt áo trước đã hở tự lúc nào, để lộ xương quai xanh và một phần nhỏ…

Đầu óc Thanh Duy nổ ầm, lúng túng xuống giường lùi về sau mấy bước, đến lần thứ ba mới thắt được nút.

Giường nhỏ lộn xộn, Tạ Dung Dữ đứng dậy sửa chăn gối, “Lại ngủ nào.”

Nhưng nói xong câu, y không nghe thấy bên kia trả lời.

Tạ Dung Dữ ngoái đầu, thấy Thanh Duy lóng ngóng đứng giữa phòng, ánh mắt hoang mang xen lẫn phức tạp, có lẽ không hiểu được chuyện gì đang xảy ra tối nay.

Từ bé nàng đã quen sống cuộc sống buông thả thoải mái, rồi trong thoáng chốc trời long đất lở, một mình lầm lũi bao năm, vì để tự vệ mà rất ít khi qua lại với người khác, có vài việc không nghĩ ra cũng bình thường.

Hơn nữa… năm năm qua nàng luôn chỉ có một mình, mất đi sinh phụ rồi trở thành trọng phạm, sao trong lòng có thể không có khúc mắc? Bản thân nàng cũng đã nói rồi đấy, nếu không phải vì trời xui đất khiến vì với thân phận cách biệt trời vực của cả hai, đến việc gặp nhau cũng khó vô cùng.

Ở vài phương diện Ôn Tiểu Dã rất cứng đầu, không phải chỉ đôi ba câu cùng vàu lời hứa của y là có thể giải tỏa được khúc mắc trong lòng, nương mình vào người khác. Bản thân nàng phải cam tâm tự nguyện.

Tạ Dung Dữ nghĩ bụng hay thôi, y bằng lòng chờ Tiểu Dã cô nương của mình.

Y nhẹ nhàng nói: “Lại ngủ nào, ta không đùa nàng nữa.”

Thanh Duy nhìn y, vẫn chẳng nói chẳng rằng.

Lúc này nàng đã tỉnh táo lại phần nào, ánh mắt dừng ở bàn gỗ bên cạnh, bát thuốc vẫn nằm trên bàn, Đức Vinh nói bệnh của y còn chưa lành, dễ tái phát, không biết trận ồn ào vừa rồi có ảnh hưởng đến y không. Ban nãy nàng không cố tình gây gổ, y nói đúng, nàng là ai kia chứ, ai có thể cợt nhả được nàng?

Nàng ngập ngừng, đoạn cúi đầu quay về bên giường, vén chăn lên bước vào, ngoan ngoãn như chú sói nhỏ được vuốt thuận lông.

Tạ Dung Dữ hạ màn, nằm xuống bên cạnh nàng, gọi nàng giữa bóng đêm: “Tiểu Dã.”

Đôi khi nàng rất tinh, vừa nghe tiếng gọi ấy là lập tức hiểu được bao lời y muốn nói, nàng căng mắt nhìn trần nhà: “Ta sẽ từ từ suy nghĩ.”

Nàng cảm thấy mình có thể nghĩ ra.

Tạ Dung Dữ bèn đáp: “Được.”

Một lúc sau, nàng trở mình, mượn ánh trăng soi sáng ngoài song cửa nhìn y: “Ngài còn ngủ được mấy canh giờ nữa?”

“Ngày mai không cần dậy sớm, có thể ngủ thêm một canh giờ.”

Một canh giờ nữa, tức là giờ Mão rồi.

Thế mà còn gọi là không sớm ư?

Y đã vất vả bao ngày vì vụ án Thượng Khê, hôm qua cũng chỉ nghỉ ngơi ở thư phòng một khắc, đến hôm nay lại chẳng thể ngủ đủ.

Suốt chặng đường vừa qua, Thanh Duy có thể không ngại vất vả khó khăn chỉ vì một manh mối nhỏ, nhưng đây là lần đầu tiên nàng cảm thấy bực bội vì vụ án này lại rắc rối như vậy.

Tiếc rằng nàng chỉ giỏi tìm bằng chứng truy đuổi nhân chứng, thẩm vấn không phải là sở trường của nàng, nàng bèn hỏi: “Giờ ta có thể giúp gì được không?” Nàng nghĩ ngợi một lúc, lại nói, “Lý thị đó, chính là phu nhân của Tôn Nghị Niên ấy, hôm qua ta tìm được bà ta, vốn muốn tra khảo bà ta để xem có manh mối gì không, nhưng miệng bà ta kín như hũ nút, chẳng chịu tiết lộ gì.”

“Có thể lúc còn sống Tôn Nghị Niên đã đánh tiếng với bà ta, bà ta nghĩ nếu không nói gì thì chí ít có thể bảo đảm an toàn cho hai đứa con, hôm nay Chương Lộc Chi đã thẩm tra bà ta nhưng cũng không có kết quả.” Tạ Dung Dữ nói, “May mắn là hiện tại đã sắp xếp xong hết manh mối rồi, quay tơ bóc kén, ắt hẳn có thể tìm ra kẻ thật sự đã thực hiện giao dịch.”

Thượng Khê để lại quá nhiều mối nghi, danh sách sĩ tử lên Tiển Khâm Đài từ ai mà ra, Tôn Nghị Niên bị ai giết, rốt cuộc quan hệ giữa Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn như thế nào, nếu như không tốt, vì sao bọn họ lại chung tay bảo vệ Tưởng Vạn Khiêm rời đi?

Biết bao đầu mối ngổn ngang, thẩm vấn lên tới trăm người, thế mà chỉ trong năm ngày ngắn ngủi y đã có thể sắp xếp xong tất cả.

Tạ Dung Dữ nói: “Hiện tại chỉ cần chờ một bức thư trong kinh nữa mà thôi, manh mối trong tay chúng ta đã khá đủ rồi.”

Thanh Duy hỏi: “Có gì ta có thể giúp được không?”

Tạ Dung Dữ cụp mắt nhìn nàng, bật cười bảo: “Sáng mai Huyền Ưng Ti muốn phúc thẩm Tưởng Vạn Khiêm, Dư thị và Lý thị một lần nữa, lúc đó nàng cũng đến nhé?”

Thanh Duy gật đầu cái rụp: “Được.”
 
Chương 117


Ngày hôm sau, tại nha phủ Đông An.

“Phương Lưu thi nhiều lần không đậu, còn ông lại đã già, không đợi nổi nữa, vì để con đường làm quan của cậu ta được rộng mở, nhà cửa thêm vẻ vang mà ông không tiếc chi tiền bạc, mua một suất lên Tiển Khâm Đài cho cậu ta đúng không?!”

Trên công đường, Chương Lộc Chi nhìn chằm chằm Tưởng Vạn Khiêm quát hỏi.

Tưởng Vạn Khiêm đã bị thẩm vấn năm ngày liên tục, tinh thần luôn trong tình trạng hoang mang sợ hãi, gần như mất ngủ cả ngày lẫn đêm, khó khăn lắm tối qua mới được chợp mắt một lúc, thế mà sáng nay lại bị lôi đến nha phủ Đông An, bị Ngu hầu, Chưởng sứ cùng Hiệu úy bộ Hiêu ở Huyền Ưng Ti đồng loạt thẩm vấn.

Tưởng Vạn Khiêm không dám giấu diếm, ấp úng đáp: “Phải ạ…”

“Ông nói cách thức giao dịch là do sư gia của nha huyện Thượng Khê Tần Cảnh Sơn giới thiệu cho ông, rốt cuộc quan hệ giữa ông và Tần Cảnh Sơn như thế nào, vì sao ông ta lại giới thiệu cho ông giao dịch đen tối đến thế?!”

“Bẩm, bẩn quan gia, thảo dân và Tần sư gia, là đồng hương cũ, không quá thân nhau, về sau… Y thi đậu tú tài, đến Đông An dự kỳ thi Hương, nhưng y quá nghèo, trong người không tiền, buộc phải bày sạp bán tranh bên đường. Thảo dân thấy y đáng thương, nghĩ dù gì cũng là đồng hương, nên nếu có ghé ngang thì sẽ mua tranh của y, cứ thế đúc thành tình nghĩa. Cái lần Tần sư gia thi không đậu, trước kì thi Hương, y trượt chân rơi xuống nước, đổ bệnh nặng, vãn là thảo dân nhờ người đưa y về nhà ở Thượng Khê, có không ít người biết chuyện này, Tôn… Tôn huyện lệnh quá cố cũng biết.

Còn về việc quan gia nói Tần sư gia giới thiệu cho thảo dân làm giao dịch đen tối, thì thực sự không hẳn vậy. Quan gia biết đấy, năm xưa trong nhà Tần sư gia có một người anh họ, gã là kẻ bất lương vô lại. Tần sư gia mất mẹ từ thuở niên thiếu, nghe nói chính là vì bị tên bất lương này cuỗm mất tiền chữa bệnh, về sau Tần sư gia đỗ Tú tài, lại còn bán được tranh kiếm tiền, gã bất lương này mới ghen tị, tới xin Tần sư gia ít lộc gạo, Tần sư gia không cho, tên bất lương đó mới cố ý đẩy y xuống nước. Hại Tần sư gia đổ bệnh mấy năm, đợi tới lúc khỏi bệnh, y lại lần nữa đến Đông An thi Cử nhân, rồi tên bất lương đó tiếp tục đến tìm y, nói mình muốn cưới vợ, đòi hắn cho mình tiền, Tần sư gia không nhịn nổi nữa, có lẽ là muốn gậy ông đập lưng ông, thế là đẩy tên bất lương kia xuống nước. Nhưng xui nỗi hôm đó gã ta đã uống say, rơi xuống nước không nổi lên được, chết đuối dưới sông. Nghe nói tới khi Tôn Huyện lệnh chạy tới, tìm người vớt gã ta lên thì cơ thể đã sưng phù, vì vậy mà Tần sư gia bị tước công danh, tống vào đại lao.

Hai ba năm sau, Tôn Huyện lệnh đậu Cử nhân, quay về Thượng Khê làm Huyện lệnh. Ông ấy và Tần sư gia là bạn chí cốt, dốc lòng tìm cách cứu Tần sư gia ra khỏi nhà lao Đông An. Về sau có một ngày, Tôn Huyện lệnh bỗng đến tìm thảo dân, nói ông ấy có biện pháp, chỉ cần thảo dân đồng ý ký tên vào một tờ đơn, chứng minh Tần sư gia không cố ý giết người là được. Thảo dân không biết chữ, nhưng tờ đơn này, thảo dân có nhờ Phương Lưu xem giúp, đại khái nói là vào ngày xảy ra sự việc, vốn dĩ là gã bất lương kia muốn sát hại Tần sư gia, Tần sư gia liều mạng phản kháng mới dẫn đến việc đẩy gã xuống nước.”

“Vậy ông đã ký tên vào tờ đơn đó?” Chương Lộc Chi hỏi.

Tưởng Vạn Khiêm ngước mắt nhìn hắn, đoạn gật đầu: “Phương Lưu nói, trong tờ đơn đó có sử dụng bút pháp Xuân Thu*, song không ảnh hưởng quá nhiều. Thảo dân nghĩ Tần sư gia là người tốt, cứ bị nhốt trong ngục cũng tội nghiệp quá, nên đã… chịu ký tên.”

(*Thuật ngữ “bút pháp Xuân Thu” để chỉ văn chương viết theo lối của Khổng Tử trong bộ Kinh “Xuân Thu”, hàm súc, ngắn gọn, dùng chữ nghĩa thâm thúy thể hiện sự khen chê (xưa gọi là bao biếm) đối với một nhân vật hoặc một sự kiện nào đó.)

Cuối cùng vẫn chẳng ai biết rốt cuộc Tần Cảnh Sơn đã đẩy biểu huynh xấu tính của mình rơi xuống nước như thế nào.

Bút pháp Xuân Thu có lẽ là để ám chỉ rằng hồi còn sống tên bất lương kia ác độc thế nào, rồi tuyên bố muốn giết Tần Cảnh Sơn cướp của ra sao, khiến người ta tưởng rằng ngay từ đầu gã đã có sát ý với Tần Cảnh Sơn.

Chương Lộc Chi gật đầu: “Nói tiếp đi.”

“Thảo dân có giúp Tần sư gia mấy bận, Tần sư gia… dù người ngoài nhìn nhận thế nào đi chăng nữa, thì đối với thảo dân, y là người có ơn tất báo. Từ ngày y được thả ra khỏi đại lao, cứ mỗi dịp lễ tết đều đem quà cáp đến bái phỏng nhà thảo dân, mãi… đến tận năm Chiêu Hóa thứ mười hai.”

Tưởng Vạn Khiêm nuốt nước bọt, ánh mắt sượt qua Chương Lộc Chi, nhìn thoáng qua Tạ Dung Dữ ngồi trên ghế chủ rồi nhanh chóng cụp mắt, “Các quan gia đã thấm vấn nhiều ngày, hẳn biết rõ, nhờ kinh doanh cây dâu mà thảo dân mới phát tài, tiền tài dư giả, nếu muốn đi lên một bước nữa thì chí ít trong nhà phải có người đỗ cử nhân, nhưng… nhưng Phương Lưu nó thi trượt nhiều lần, thảo dân đã lớn tuổi, không đợi nổi nữa, sốt ruột lắm! Vừa khéo thời gian đó Tần sư gia thường tới nhà bái phỏng, có lần hắn đến, thảo dân mới nhờ y tìm cách giúp cho…”

Từ lúc vào công đường Tưởng Vạn Khiêm luôn giữ bình tĩnh, nhưng khi nói đến đây lại không che giấu được sự hối hận, thở dài thườn thượt, “Nếu sớm biết chuyện sau đó thì bất luận thế nào đi nữa, thảo dân cũng sẽ không mở lời với Tần sư gia, nhưng con người mà, chưa có đủ thì mãi không thể nào thỏa mãn!”

“Mùa Đông năm Chiêu Hóa thứ mười hai, thảo dân không nhớ là tiết nào, theo thường lệ Tần sư gia đến nhà bái phỏng…”



Ngày hôm ấy trời đổ tuyết lớn, vị sư gia luôn mặc trường sam gõ cửa sau nhà họ Tưởng, giao hậu lễ cho tên giữ cửa rồi vội vàng rời đi.

Lần nào y đến, Tưởng Vạn Khiêm cũng nhờ y tìm cách giúp Phương Lưu trúng cử.

Nhưng muốn có công danh phải tự thi đậu bằng bản lĩnh của chính mình, một sư gia như y có thể giúp được gì?

Nếu không phải niệm tình Tưởng lão gia ra tay cứu giúp trong những năm mình gặp nạn, để y hạ quyết tâm cả đời này phải đối xử tốt với ân nhân, thì còn lâu y mới thèm bước qua cửa nhà họ Trạch.

Giao quà tết cho hạ nhân Tưởng gia xong, Tần Cảnh Sơn gấp gáp rời đi. Nào ngờ chưa ra khỏi đầu ngõ mà đã nghe thấy phía sau có người gọi giật lại: “Tần sư gia ơi Tần sư gia, nếu đã tới rồi, sao không vào trong uống hớp trà?”

Ngoái đầu nhìn, quả đúng là Tưởng Vạn Khiêm vén bào đuổi theo.

Tần Cảnh Sơn dừng bước, cụp mắt nói: “Trong nha môn còn có việc, không thể uống trà được rồi.”

Tưởng Vạn Khiêm nhìn y, nào có ai là kẻ ngốc, ông ta cũng biết bản thân ép buộc nhiều lần khiến Tần Cảnh Sơn sợ đến gặp mình, nhưng ông ta thực sự hết nước rồi, ông ta chẳng quen quan lão gia nào ngoài Tần Cảnh Sơn cả.

Tưởng Vạn Khiêm nhìn quanh quất, thấy xung quanh chỉ là vùng đất phủ tuyết không một bóng người, bèn nói, “Trời lạnh tuyết rơi, sao cậu lại đi bộ tới đây? Ăn mặc cũng phong phanh thế này!”

Nói đoạn, ông lập tức sai hạ nhân kéo xe ngựa đến.

Hạ nhân nhà họ Tưởng cũng rất khôn, chẳng mấy chốc đã đưa xe ngựa tới, Tần Cảnh Sơn từ chối chẳng đặng, buộc lòng lên xe.

Tưởng trạch cách nha môn không xa, đi một khắc là đến ơi, khi xe ngựa vừa lăn bánh, Tưởng Vạn Khiêm lập tức nói thẳng, “Tần sư gia à, cậu xem chuyện của Phương Lưu…”

Tần Cảnh Sơn không đợi ông ta nói hết đã ngắt lời, “Tưởng lão gia, ta đã nói rồi, muốn có công danh phải tự chứng minh bằng thực lực, năm nay lệnh công tử chỉ mới nhi lập, có câu ba mươi dễ đậu Minh kinh, năm mươi khó đỗ Tiến sĩ, chỉ cần chăm chỉ học tập gấp đôi, mai này nhất định cậu ấy có thể khiến Tưởng gia nở mày nở mặt, chớ việc gì phải vội vã.”

“Nó không vội nhưng ta vội!” Tưởng Vạn Khiêm nói, “Nói gì đi nữa cậu cũng trẻ tuổi hơn ta, đâu hiểu được tâm trạng ta lúc này, ta già rồi, chỉ mong trong nhà có người thi đậu công danh, có thể làm quan dẫu chỉ là chức nhỏ. Cậu không biết đấy thôi, thời gian trước đại phu chẩn ra ta bị bệnh gan phổi, nếu bồi bổ tốt, có lẽ có thể trụ được mười năm tám năm nữa, còn không, e rằng chưa đến một năm đã ra đi, người chết đèn tắt, vinh nhục hóa tro tàn, tới lúc đó ta còn trông mong cái gì?!”

“Nếu Tưởng lão gia đã biết vinh nhục hóa tro tàn, hà tất cứ cố chấp về công danh của lệnh công tử?” Tần Cảnh Sơn cao giọng nói, “Huống hồ trộm công danh đâu phải chính đạo, chính đạo không đi lại muốn đi lối tắt, một bước sai vạn bước sai, vạn kiếp bất phục!”

***

“Tần sư gia là người ôn tồn, nhưng ngày hôm đó khi y nói những lời ấy với thảo dân, trông y vô cùng tức giận.” Tưởng Vạn Khiêm nhớ lại chuyện ngày xưa, ánh mắt trở nên mông lung, “Tiếc thay thảo dân không nghe hiểu ý y, cảm thấy y đã không giúp được gì còn phát cáu với mình.”

***

Kinh doanh ít năm, Tưởng Vạn Khiêm coi như là lão gia có bạc triệu dắt lưng, cũng có suy nghĩ riêng, nên nghe Tần Cảnh Sơn nói thế, lập tức phủ nhận, “Tần Cảnh Sơn, ngươi đừng quên năm xưa khi ngươi bị nhốt trong lao ngục, rốt cuộc đã được thả ra thế nào! Nếu không phải năm đó ta chịu in dấu tay vào tờ đơn, để quan phủ tin rằng ngươi chỉ ngộ sát biểu ca nhà ngươi, thì ngươi nghĩ ngươi có được ngày hôm nay không! Bao năm qua ngươi đã quên vì sao có ơn với ta rồi ư? Giờ ta chỉ cầu xin ngươi giúp một chuyện mà thôi, mà ngươi lại khó đến vậy!”

“Ta thà ông đừng ký tên vào tờ đơn ấy, ta thà đeo danh tội phạm giết người còn hơn!” Tần Cảnh Sơn quát, “Nếu Tưởng lão gia đã nói tới mức này thì ta cũng xin nói thẳng, ta không trả nổi ân tình của Tưởng lão gia, mời Tưởng lão gia đến nha phủ Đông An tố giác ta, nói năm đó đúng là ta đã giết người, ta biết gã uống say nên mới cố ý đẩy gã xuống nước!”

Nói đoạn, y bảo xe ngựa dừng lại, vén rèm nhảy xuống, quẳng lại một câu, “Ta không ngồi nổi xe của quý trạch!”

Thực ra vừa rồi Tưởng Vạn Khiêm cũng chỉ nhất thời buột miệng mà thôi, ông ta tự vấn ngày trước giúp Tần Cảnh Sơn là vì nhân phẩm của y, tuyệt không có ý cứu giúp để được báo đáp.

Thế là ông ta cũng xuống xe, đuổi theo Tần Cảnh Sơn, “Tần sư gia, cậu, cậu nói gì thế? Ta nói lung tung mà thôi, xin được tạ tội!”

Tần Cảnh Sơn rảo bước đi nhanh, không đoái hoài đến ông ta.

“Cậu…” Tưởng Vạn Khiêm bị ép bất đắc dĩ, “Lẽ nào cậu còn muốn lão già quá năm mươi như ta phải quỳ xuống nhận lỗi ư!” Nói đoạn, ông ta vén áo lên, “Cũng được, vậy ta quỳ!”

Nghe lời ấy, Tần Cảnh Sơn ngoái đầu lại, thấy đầu gối Tưởng Vạn Khiêm đã chạm nền tuyết thì vội vã đi tới đỡ dậy, “Tưởng lão gia ông thật là…” Y thở dài một hơi, xoay mặt đi, “Tưởng lão gia là ân nhân, Cảnh Sơn không nhận nổi một quỳ này.”

Tần Cảnh Sơn có dáng vẻ của người đọc sách điển hình, trường sam khăn vuông, người gầy gò, vì bệnh tật ốm đau nên sắc mặt thường thiếu sức sống.

Tưởng Vạn Khiêm cầm tay Tần Cảnh Sơn, khẩn khoản năn nỉ: “Tần sư gia, ta biết cậu chỉ là sư gia, nói là quan cũng không hẳn, ta cầu xin cậu chuyện của Phương Lưu cũng khó xử… Nhưng, cậu và Tôn đại nhân là bạn thân nhiều năm, cậu có thể giúp ta hỏi Tôn đại nhân được không?” Ông ta ngập ngừng, đoạn nói tiếp, “Ta biết Tôn đại nhân quen đại quan châu phủ Lăng Xuyên, bằng không chỉ dựa vào mỗi tờ đơn của ta năm xưa thì đâu thể giúp ngài được thả. Cũng được, nếu sư gia không muốn giúp, vậy ta sẽ tự đi xin Tôn đại nhân!”

“Quay lại!” Tần Cảnh Sơn thấy Tưởng Vạn Khiêm mất khôn, lập tức nói luôn, “Thời gian này ông tuyệt đối không được đến nha môn tìm Tôn đại nhân, không được để người khác biết ông muốn mưu đồ chức vị cho Phương Lưu, nếu không… nếu không hôm nay ta sẽ ân đoạn nghĩa tuyệt với ông!”

***

Chương Lộc Chi hỏi: “Vì sao hắn ta lại nói như vậy?”

“Còn có thể là vì gì nữa?” Tưởng Vạn Khiêm cười cay đắng, “Hồi ấy có người tới nha môn Thượng Khê mà thảo dân không thể gặp, y sợ thảo dân sốt ruột làm liều, thành thiêu thân lao đầu vào lửa.”

“Người nào?”

“Thảo dân không biết, thảo dân không đến nha môn.” Tưởng Vạn Khiêm thở dài, “Chỉ tiếc Tần sư gia đã khuyên thảo dân đến mức ấy rồi, mà thảo dân lại không chịu nghe lời y.”

***

Tưởng Vạn Khiêm vốn bị bệnh, nghe Tần Cảnh Sơn nói thế, lập tức cảm giác tiến thoái lưỡng nan. Cơn khó chịu mắc kẹt trong họng ra không được mà xuống chẳng xong, như có gió lớn lùa vào ngực, ho khan kịch liệt, nôn ra búng máu tươi ngay tại chỗ.

Tần Cảnh Sơn thấy vậy, vội vàng đỡ lấy ông ta: “Tưởng lão gia, ông sao thế… Ông đợi chút, ta đi mời đại phu cho ông…”

Tưởng Vạn Khiêm lại túm lấy y, hai mắt mở trừng trừng nhìn y, gằn từng tiếng: “Cậu mời đại phu, ta không chữa, cậu kê thuốc, ta không trị, hôm nay ta về nhà, không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, chỉ có chờ chết. Ta sẽ không nói ra ngoài là vì sao ta chết, chết ra sao. Nhưng Tần Cảnh Sơn, cậu là người có học, luôn để tâm đến ân nghĩa nhân hiếu, ta biết cậu có cách giúp ta, cũng như lúc trước khi Tôn Nghị Niên cứu cậu ra khỏi đại lao, cậu phải biết, là cậu bức tử ta.”

“Ông!” Tần Cảnh Sơn nghe Tưởng Vạn Khiêm nói thế, lửa giận phừng phừng.

Cuối cùng Tưởng Vạn Khiêm nói: “Cậu có biết vì sao ngày trước ta mua tranh của cậu không? Ta thấy cậu có tư chất thông minh, tuổi còn trẻ đã thi đậu Tú tài, tương lai ắt hẳn có tiền đồ rộng mở, nên mới muốn tìm cách kết thân. Đáng tiếc cậu không có số, hai lần trượt thi Hương, vô duyên với công danh, ta thực sự tiếc thay cho tài năng của cậu, nên lúc ấy mới chịu ký tên vào tờ đơn làm chứng giả giúp cậu. Tần Cảnh Sơn, luận học thức, cậu hơn hẳn Tôn Nghị Niên, nhưng tới hắn ta còn có thể làm Huyện lão gia, mà cả đời này cậu chỉ có thể xếp dưới hắn làm sư gia, thậm chí còn không thể xưng Lại mục, chỉ tính là phụ tá, cậu có cam tâm không? Thiếu sót mà cả đời này không thể thực hiện được, cậu đáng nhẽ phải biết, phải hiểu cho ta chứ!”

Đến tận bây giờ, Tưởng Vạn Khiêm vẫn nhớ như in ánh mắt của Tần Cảnh Sơn sau khi nghe những lời đó.

Hai mắt y trở nên trống rỗng, phức tạp, rồi dần dần tuyệt vọng.

Nhưng cuối cùng y vẫn lấy lại bình tĩnh, bình tĩnh đến mức lạnh lùng.

Thật lâu sau, y mới nói: “Ông có tiền không? Rất nhiều tiền.”

“Có.” Tưởng Vạn Khiêm thấy được hi vọng, lập tức đáp, “Muốn bao nhiêu?”

Tần Cảnh Sơn im lặng một lúc lâu, “Một trăm nghìn lượng. Không được thiếu dù chỉ một đồng.”

Tuy Tưởng Vạn Khiêm có vốn liếng kếch xù, nhưng đột ngột nghe cần nhiều tiền như vậy thì vẫn chấn động.

Nhà giàu bình thường một lần có thể chi ra hơn một nghìn lượng bạc là đã hết mức rồi, một trăm nghìn lượng, lẽ nào không cần kinh doanh nữa? Không nuôi một nhà già trẻ nữa?

Nhưng đợi chờ đã lâu, đây là cơ hội duy nhất mà ông ta có, bạc không còn thì có thể kiếm lại, hơn nữa nhà họ Phương còn có sản nghiệp có thể bán lấy tiền, sợ cái gì!

Tưởng Vạn Khiêm cắn răng: “Có!”

“Được, bảy ngày sau, ông gom đủ bạc rồi hãy đến tìm ta.”

“Nếu gom đủ, năm sau Phương Lưu có thể thi đậu Cử nhân không?” Tưởng Vạn Khiêm hỏi.

“Sang năm Tiển Khâm Đài sẽ xây xong, Lăng Xuyên không tổ chức thi Hương. Huống hồ ta cũng không có năng lực lớn đến mức có thể chi phối kết quả kì thi Hương.” Giọng Tần Cảnh Sơn rất nhẹ, như muốn tan hòa cùng tuyết, “Nhưng ta có một cách, có thể giúp cậu ta lên Tiển Khâm Đài vào năm sau.”
 
Chương 118


Chương Lộc Chi hỏi: “Cách của hắn ta là gì?”

“Thảo dân không hỏi, mà y cũng không nói.” Tưởng Vạn Khiêm đáp, “Y chỉ dặn thảo dân từ nay trở đi đừng nói xấu Tôn đại nhân nữa…”

***

Giữa đêm tuyết, Tần Cảnh Sơn cụp mắt: “Bị triều đình tước công danh là tạo hóa của ta, không thể trách người khác được, đừng nói không cam tâm hay không cam lòng gì cả. Còn về Nghị Niên, ta và y là chí cốt lâu năm, ta luôn ghi tạc lòng tốt y dành cho ta, dù cả đời này chỉ làm phụ tá của y thì ta cũng cam tâm tình nguyện, về sau Tưởng lão gia đừng lấy chuyện đó ra kích ta nữa, ta không nghe đâu.”

Nói đoạn, y khép áo ngoài rồi bước đi thẳng.

Một trăm nghìn lượng, thực sự quá nhiều. Dù ngoài miệng Tưởng Vạn Khiêm đã hứa sẽ gom đủ, nhưng mấy ngày sau đó ông ta thực sự sứt đầu mẻ trán để chuẩn bị bạc.

May mắn thay, vì muốn Phương Lưu có chức quan mà mấy năm nay trong nhà thường tiết kiệm, lại chạy một chuyến đến Đông An, bán hết gia sản nhà họ Phương đổi lấy tiền, cuối cùng cũng gom đủ.

Bảy ngày sau, đúng như lời ông Cát đã kể, Tưởng Vạn Khiêm lên núi Trúc Cố, làm một giao dịch với Cảnh Thường.

Dùng một trăm nghìn lượng mua một suất lên Tiển Khâm Đài.

***

Tạ Dung Dữ ngắt lời: “Bạc nhiều như thế, ông cầm lên núi thế nào?”

Một trăm nghìn lượng, dù đựng bằng rương hàng thì cũng phải từ mấy chục đến trăm rương.

“Đợt đó đang là dịp Tết, thảo dân lấy danh nghĩa biếu quà để lên núi. Cảnh Thường chiếm thương đạo dưới chân núi Trúc Cố nên hồi ấy vẫn có thương nhân lên núi tặng quà cho hắn, thảo dân viện cớ bàn chuyện có mối làm ăn mới, mai sau muốn đi qua con đường này, nên mới lên núi làm quen với các anh em, như thế sẽ không bị ai hoài nghi.” Tưởng Vạn Khiêm đáp, “Không phải một lần chở một trăm nghìn lượng lên núi, đầu tiên là đưa hai mươi nghìn lượng làm đặt cọc, sau đó lấy danh ‘mừng thọ’, ‘đường tắt’ để lên núi thêm mấy bận nữa.”

Nghe đến đây, Thanh Duy sực nhớ trước khi Tiển Khâm Đài được hoàn thành, Từ Đồ cũng thường xuyên qua lại núi Trúc Cố, lẽ nào ông ta cũng giao dịch mua suất lên đài cho Từ Thuật Bạch?

Nàng hỏi: “Khi ấy ngoài ông ra, còn có ai lên núi làm giao dịch  như vậy nữa không?”

Tưởng Vạn Khiêm lắc đầu, “Không biết, mấy lần sau lên núi tôi không gặp người ngoài khác ngoài ngoài Cảnh Thường cùng vài thân tín, bọn chúng rất thận trọng, không những không cho tôi ở lại lâu mà cũng không đưa bằng chứng gì, chỉ nói chuyện này đã ổn thỏa, bảo tôi đợi đến tháng Ba, khi danh sách lên đài được khâm định là xong.”

***

Vào tháng Tư khi danh sách đưa tới, quả nhiên tên của Phương Lưu có trong danh sách, Tưởng Vạn Khiêm mừng đến bất tỉnh, cảm thấy chi ra một trăm nghìn lượng là vô cùng đáng giá, thậm chí còn nằm mơ mong ngóng tháng Bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba đến nhanh nhanh.

Nhưng cuối cùng… thứ ông ta chờ được lại là tin dữ Tiển Khâm Đài sập.

Mồng chín tháng Bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Tiển Khâm Đài đã sập dưới cơn mưa trút nước.

Vì Thượng Khê nằm cô lập nên lúc Tưởng Vạn Khiêm nghe nói Tiển Khâm Đài sập, phản ứng đầu tiên của ông ta là không tin. Ông ta cho rằng đây chắc chắn là tin giả, cùng Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn chạy tới Sùng Dương.

Cho đến khi phi ngựa tới Đông An, thấy binh mã triều đình đóng quân, giới nghiêm toàn thành, dân chúng hoang mang thì ông mới thực sự cảm nhận được cái lạnh từ trong tim.

Mà vào khoảnh khắc ấy, điều Tưởng Vạn Khiêm nghĩ đến đầu tiên không phải là an nguy của Phương Lưu, cũng càng phải một trăm nghìn lượng bạc đã trôi sông.

Ông ta chợt lùi bước.

Ông ta chỉ muốn ngay lập tức quay về Thượng Khê cô lập, thậm chí không muốn hỏi thăm xem rốt cuộc Phương Lưu còn sống hay đã chết.

Là vì con trai không ở bên cạnh từ nhỏ nên không có nhiều cảm tình?

Là vì ông ta làm chuyện mua bán dơ bẩn, gián tiếp hại chết Phương Lưu nên không có tư cách đối mặt?

Hay là vì ông ta nhìn thấy đống đổ nát cùng bụi bặm khi tòa tháp chực đổ?

Mà ông ta biết rõ, ông ta chính là đống đổ nát ấy.

Tưởng Vạn Khiêm có trực giác đại họa đã ập xuống đầu, bèn mặc kệ tất cả quay về Thượng Khê.

Quả nhiên trực giác của ông ta không hề sai, ít hôm sau, Tần Cảnh Sơn tìm đến cửa, nói cho ông ta biết: “Quá nhiều tử sĩ chết dưới Tiển Khâm Đài, triều đình muốn điều tra tới cùng, nói không chừng sẽ tra ra chuyện giao dịch, bây giờ ông hãy lên núi Trúc Cố, bảo Cảnh Thường dẫn theo sơn tặc mau chóng rời khỏi đây, càng nhanh càng tốt.”

Mới đầu Tưởng Vạn Khiêm còn chưa minh bạch, bèn hỏi Tần Cảnh Sơn: “Cảnh Thường dẫn sơn tặc chạy trốn, vậy còn chúng ta? Nếu triều đình điều tra đến nơi, chúng ta cũng phải trốn thôi.”

Tần Cảnh Sơn nhìn ông ta, đoạn nở nụ cười hoang đường lẫn chua xót: “Hắn ta phải bỏ trốn, còn chúng ta chưa chắc cần, dầu gì triều đình cũng đã hạ lệnh diệt phỉ, xuất quân có tiếng, sau này chỉ cần chúng ta ngậm chặt miệng là có thể sống được lâu.”

Lúc này Tưởng Vạn Khiêm mới giật mình, hóa ra bảo sơn tặc “trốn” đâu phải là trốn thật, mà là giết.

***

“Thảo dân còn có vợ con, còn có một nhà phải nuôi, thảo dân thực sự bế tắc, những người đó dặn dò sao thì thảo dân đành làm theo dậy. Thảo dân lên núi khuyên Cảnh Thường chạy trốn, sau đó xuống núi… đi thẳng đến nha huyện báo quan, nói hắn dẫn người cướp hàng hóa của thảo dân, giết… người của thảo dân.”

Nói tới đây, viền mắt Tưởng Vạn Khiêm đỏ bừng, ngồi bệt xuống dưới đất, tròng mắt trở nên mơ hồ, “Thảo dân cứ tưởng… Bọn họ chỉ diệt khẩu mấy người Cảnh Thường hay Khấu Hoán Sơn mà thôi, nào ngờ… đám người đó lại ra tay triệt để độc ác đến vậy, chỉ trong một đêm, mấy trăm sơn tặc trên núi Trúc Cố, toàn bộ chết hết… chết hết cả rồi…”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Lúc diệt phỉ, nghe nói Tôn Nghị Niên cũng ở trên núi Trúc Cố?”

Tưởng Vạn Khiêm gật đầu: “Đại nhân hỏi danh sách lên Tiển Khâm Đài từ đâu mà ra, chuyện này thảo dân không biết, nhưng về sau thảo dân biết, lúc đầu thực ra những người đó tới tìm Tôn đại nhân, nên khi tướng quân diệt phỉ của triều đình đến Thượng Khê, cũng chính Tôn đại nhân dẫn lên núi Trúc Cố.”

Ông ta cười khổ, “Thực ra Tôn đại nhân cũng giống thảo dân, không ngờ những người đó lại giết sạch sơn tặc. Tôn đại nhân là vị quan cần mẫn, nhưng sau sự việc núi Trúc Cố, ông ấy trở nên suy sụp hẳn đi, gần như không còn quan tâm đến chuyện ở nha môn nữa. Ai cũng nói nha môn Thượng Khê đã là của Tần sư gia, nhưng Tôn đại nhân không quan tâm, có công vụ gì cũng hỏi Tần sư gia, dần dà giao hết mọi sự cho Tần sư gia quyết định.”

Vì Tưởng Vạn Khiêm thân với Tần Cảnh Sơn hơn nên lời nói dễ thiên vị vị sư gia này, nhưng xét từ manh mối Huyền Ưng vệ có được từ nhiều ngày nay, những lời ông ta nói là sự thật.

Vệ Quyết hỏi: “Vậy theo như ông nói, quan hệ giữa Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn không phải không hợp nhau như bên ngoài đồn?”

“Người bình thường chỉ thích đồn bậy đoán bạ. Thực ra bao năm nay, Tần sư gia chưa bao giờ nói xấu Tôn đại nhân câu nào trước mặt thảo dân, cũng rất chịu khó với công việc ở nha môn. Nhưng… Từ sau chuyện núi Trúc Cố, Tôn đại nhân không gượng dậy nổi, thành thử cả hai có đôi chút bất hòa, song trong lòng Tần sư gia, y với Tôn đại nhân mãi là chí cốt, có lần uống say, Tần sư gia còn nói với thảo dân rằng, dù ông ấy chỉ còn lại chút sức mọn thì cũng phải vực Tôn đại nhân dậy.”

***

Điều mà kiếp nạn thực sự thử thách chính là nhân tâm.

Sau cơn mưa máu ở núi Trúc Cố, Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn bất hòa, còn Tưởng Vạn Khiêm với Tần Cảnh Sơn “tai qua nạn khỏi” lại càng thêm thân, trở thành huynh đệ kết nghĩa. Không nhớ là vào mùa Đông năm nào, trời rét đất căm, tuyết rơi đọng thành lớp dày, Tần Cảnh Sơn ngồi trong sân nhà họ Tưởng nhấp hớp rượu, thở dài một hơi: “Cuộc đời này ta nợ Nghị Niên mãi không trả nổi, dù có phải làm lụng đến chết, chỉ còn lại một chút sức mọn thì cũng phải vực y dậy.”

***

Nghe đến đây, Tạ Dung Dữ chợt nhớ đến lời Dư Hạm đã nói, vào đêm trước khi Thượng Khê xảy ra hỏa hoạn, Tôn Nghị Niên từng nói không hi vọng có người lại mất mạng vì núi Trúc Cố.

Y hỏi: “Để ông rời khỏi Thượng Khê là chủ ý của Tôn Nghị Niên, Tần Cảnh Sơn biết được ý định của ông ta, lo Huyền Ưng vệ truy đuổi ông nên mới dẫn binh đến nha huyện hòng ngăn cản Huyền Ưng vệ?”

“Thảo dân không biết rốt cuộc bọn họ tính toán kế hoạch như thế nào, nhưng đại nhân nói đúng, để thảo dân trốn đi chính là ý của Tôn đại nhân. Từ khi xảy ra chuyện ma quỷ ở Thượng Khê, bọn họ đã bắt đầu trù tính việc này rồi.”

Người khởi xướng chuyện ma quái ở Thượng Khê chính là Tạ Dung Dữ, y muốn mượn chuyện đó để dẫn dụ ông cháu Cát ra mặt, hòng hỏi rõ chân tướng cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố.

Và cùng lúc đó khi Thượng Khê xảy ra chuyện ma quỷ, Tôn Nghị Niên cảm thấy triều đình có người muốn điều tra Tiển Khâm Đài, quyết ý đưa Tưởng Vạn Khiêm rời đi cũng dễ hiểu.

Nhưng có một chuyện Tạ Dung Dữ chưa nghĩ ra, nếu Tôn Nghị Niên đã quyết tâm muốn đưa Tưởng Vạn Khiêm rời đi từ sớm, vậy tại sao phải phong tỏa núi? Biện pháp tốt nhất chẳng phải là giơ cao đánh khẽ, để tin đồn ma quỷ lan xa khiến dư luận xôn xao, nhân cơ hội đó đưa Tưởng Vạn Khiêm cao chạy xa bay?

Bỗng dưng biến Thượng Khê thành tòa cấm thành, cuối cùng lại liều mạng với Tuần Kiểm Ti lẫn Tả Kiêu vệ để làm gì?

Nhưng vấn đề ấy khó mà phỏng đoán được.

Tạ Dung Dữ biết mối nghi ngờ cuối cùng này phải do Dư Hạm và quả phụ Lý thị tháo gỡ, thế là y khoát tay, cho người đưa Tưởng Vạn Khiêm xuống, đoạn quay sang nói với Thanh Duy: “Tiểu Dã, nàng đến Lạc Hà Viện dẫn Dư thị và Lý thị lại đây.”
 
Chương 119


Lý thị – phu nhân của Tôn Nghị Niên thực sự rất cứng đầu, dù Chương Lộc Chi đã thẩm vấn bà ta mấy bận, không lần nào bà ta chịu tiết lộ nửa chữ về núi Trúc Cố. Để bà ta ở chung với Dư Hạm là ý của Tạ Dung Dữ, hai người họ không hợp nhau, trái ý một phát là gây gổ om sòm, Tạ Dung Dữ dặn người ở Lạc Hà Viện ghi chép toàn bộ nội dung bọn họ cãi nhau, quả nhiên chưa tới hai hôm đã tìm được không ít manh mối.

Một lúc sau, Thanh Duy dẫn Lý thị và Dư Hạm đến.

Lý thị có lối sống nhà giàu thanh cao, quỳ gối trên công đường cũng nhẹ nhàng hơn Dư Hạm gấp hai lần. Bà ta biết hai ngày qua cãi nhau với Dư Hạm đã vô tình để lộ vài chuyện, bị người ta nghe được không ít, nghiễm nhiêm không còn tư thế hùng hồn như ban đầu nữa, đầu cúi xuống, sau khi hành lễ thì lập tức kêu oan với vị quen gia quen mặt: “Chương đại nhân, dân phụ thực sự bị oan! Ba mẹ con dân phụ là phận đàn bà trẻ nhỏ yếu đuối, rốt cuộc sơn tặc núi Trúc Cố chết thế nào, dân phụ thực sự không biết!”

Chương Lộc Chi cười lạnh: “Bà mà oan? Huyền Ưng Ti bắt bà mà bà bỏ chạy nhanh lắm cơ mà, ba ngày ba đêm không bắt kịp, bà mà không oan thì đàn bà trẻ nhỏ yếu đuối bình thường cũng không dám học bà đào tẩu.”

Lý thị nhận ra Chương Lộc Chi đang châm chọc mình, mặt không đổi sắc, “Chương đại nhân, ngài hiểu nhầm dân phụ rồi! Để dân phụ rời khỏi Thượng Khê là ý của tướng công đã mất nhà dân phụ, trốn thế nào, trốn ở đâu, cũng do ông ấy lên kế hoạch từ lâu, dân phụ nào quyết định được?”

Lý thị không ngốc, dù sao Tôn Nghị Niên cũng đã chết, cần gì quan tâm tội danh hay ông ta đã chuẩn bị những gì, cứ đổ lên đầu ông ta hết, còn bản thân cứ khăng khăng không biết là được.

“Hơn nữa quan gia đã điều tra nhiều ngày rồi, hẳn cũng biết từ lâu ông ấy đã bị ả hồ ly tinh ở trang viên thành Tây hớp hồn, bình thường không nói nhiều với dân phụ, nên làm gì có chuyện ông ấy kể cho dân phụ về chuyện lớn như vậy?”

Dư Hạm nhận ra bà ta đang ném đá giấu tay, “hừ” một tiếng ngoảnh mặt đi.

Chương Lộc Chi không quan tâm hai người đấu đá ngầm, nói tiếp: “Bà nói ngay từ đầu Tôn Nghị Niên đã lên kế hoạch vạch đường cho bà rời khỏi Thượng Khê, vậy bản quan hỏi bà, rốt cuộc Tôn Nghị Niên bắt đầu tìm cách cho bà rời Thượng Khê từ lúc nào?”

“Trù tính từ lâu rồi, hình như… hình như là vào lúc Thượng Khê có ma quỷ…” Lý thị đáp, lăn tăn một lúc rồi nói, “Có điều ông ấy lề mề quá, đi sớm có phải hay không, nhưng ông ấy cứ trù trừ mấy hôm, kéo dài đến tận lúc phong tỏa Thượng Khê.”

Chương Lộc Chi nghe đến đây thì dừng lại, xoay người cúi đầu trước Tạ Dung Dữ, “Ngu hầu.”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, cho hắn lui sang.

Lời khai của Lý thị và Tưởng Vạn Khiêm tình cờ khớp nhau:bắt đầu từ khi Thượng Khê xảy ra tin đồn ma quỷ, Tôn Nghị Niên đã lên kế hoạch để bọn họ bí mật rời khỏi Thượng Khê.

Lúc nãy Tạ Dung Dữ còn thắc mắc, nếu ngay từ đầu Tôn Nghị Niên đã quyết định để Tưởng Vạn Khiêm và Lý thị cao chạy xa bay, thì vì sao không đi trước khi phong tỏa núi mà cứ dùng dằng tới sau khi phong tỏa?

Bây giờ Lý thị đã đưa ra đáp án, là vì Tôn Nghị Niên bỗng dưng kéo dài thời gian.

Tạ Dung Dữ kéo ghế ra, bước tới trước mặt Lý thị, “Vì sao ông ta lại kéo dài thời gian?”

“Chuyện này… Dân phụ không biết.”

Tạ Dung Dữ lại hỏi: “Theo như lời bà nói lúc nãy, có vẻ như không phải Tôn Nghị Niên là người ra lệnh phong tỏa Thượng Khê?”

Lý thị không dám nhìn Tạ Dung Dữ, hôm qua khi khắc khẩu với Dư Hạm, bà ta loáng thoáng biết được vị này chính là vương gia từ trong kinh tới, nên nghe y hỏi, lời đáp cũng trở nên cung kính hơn, “Quan gia hẳn biết, lão chết… không, lão gia nhà dân phụ, mấy năm nay chỉ ngồi rồi ở nha môn, không nhúng tay vào công vụ, ông ấy đâu có thể làm chủ được nha môn Thượng Khê này?”

Lúc trước Dư Hạm cũng đã kể, một ngày trước khi chết Tôn Nghị Niên từng nói thẳng, nha môn ở Thượng Khê không còn do ông làm chủ nữa rồi.

Muốn đưa mấy người Tưởng Vạn Khiêm rời thành là ý của Tôn Nghị Niên lẫn Tần Cảnh Sơn, nhưng lúc đầu bọn họ không thành công, vì khi ấy Thượng Khê đã bị phong tỏa. Kết hợp với lời khai của Lý thị và Dư Hạm, nói cách khác, trong nha môn Thượng Khê, có một người khác có thể vượt quá sư gia thậm chí là Huyện lệnh, nắm giữ toàn quyền sinh sát ở Thượng Khê?

Rõ ràng Tạ Dung Dữ đã thẩm vấn đến vấn đề mấu chốt nhất rồi, y nhìn chằm chằm Lý thị: “Rốt cuộc là ai đã hạ lệnh phong tỏa núi, bà biết không?”

“… Không biết.” Lý thị ngơ ngác lắc đầu.

Tạ Dung Dữ cũng lường được bà ta không biết, y không sốt ruột, chỉ nhẹ nhàng hỏi: “Những năm qua ở Thượng Khê có rất nhiều tin đồn ma quái, nhưng trong lời đồn chỉ có một con ma, chính là con ma bóng xám thân hình gầy gò, thỉnh thoảng xuất hiện trên rừng trên núi, song không làm hại người, bà là người Thượng Khê, bà có biết chuyện này chứ?”

Lý thị gật đầu.

“Nhưng một tháng trước, trên núi Trúc Cố bỗng xuất hiện một một con ma bóng đỏ. Ngày thứ hai sau khi con ma này xuất hiện, đột nhiên trong thành Thượng Khê có người chết, nạn nhân không ai khác mà chính là nha hoàn Trù Trù trong phủ Huyện lệnh, việc này bà còn nhớ chứ?”

Lý thị lại gật đầu: “Vẫn nhớ ạ…”

“Tử trạng của Trù Trù rất thê thảm, không giống người làm ra, hơn nữa vì trong thành Thượng Khê có con ma bóng đỏ xuất hiện nên quan phủ nghi ngờ là ‘ma giết người’, nhân cơ hội ấy lập tức phong tỏa thành, thậm chí còn thiết trạm gác ngoài núi, nghiêm ngặt kiểm soát người ra vào.”

Trù Trù trong phủ Huyện lệnh chính là a hoàn hầu hạ ấu nữ năm tuổi của Lý thị.

Lý thị nghe Tạ Dung Dữ nhắc đến Trù Trù, không khỏi chột dạ, “Quan gia… Quan gia muốn hỏi gì?”

“Chẳng hỏi gì cả.” Tạ Dung Dữ nói, “Bà vừa mới bảo, từ lâu Tôn Nghị Niên đã quyết định đưa bà và Tưởng Vạn Khiêm rời đi, nhưng tới cuối ông ta bỗng kéo dài thời gian, rồi sau đó Thượng Khê bị phong tỏa núi, các ngươi không rời đi được. Bản quan hỏi bà vì sao ông ta lại trì hoãn thời gian, bà nói không biết, vậy bản quan sẽ giúp bà nhớ lại, bởi vì trong mấy ngày ông ta trì hoãn, Thượng Khê xuất hiện con ma bóng đỏ, sau đó là Trù Trù chết. Bản quan hỏi bà lần nữa, việc Tôn Nghị Niên kéo dài kế hoạch có liên quan gì đến con ma bóng đỏ hay Trù Trù đã mất không?”

Lý thị nghe xong, sắc mặt trở nên trắng bệch.

Bà ta cụp đầu, ngón tay siết chặt vạt áo, “Quan gia, dân phụ, dân phụ nói rồi, chuyện trong nha môn, dân phụ chưa bao giờ hỏi tới.”

Xét cho cùng bà ta đâu tài giỏi gì, đối mặt với màn tra hỏi của Tạ Dung Dữ thì không nén nổi kích động.

Tạ Dung Dữ cụp mắt nhìn bà ta, không ngoài dự đoán, quả nhiên Lý thị che giấu không ít chuyện.

Nói gì đi nữa Tôn Nghị Niên cũng là chồng bà ta, là cha ruột của hai đứa con của bà ta, dù có muốn đi, sao bà ta có thể bỏ đi dứt khoát như vậy được?

Còn nữa, Tạ Dung Dữ biết cước trình của Tiểu Dã, cộng thêm binh lực của Huyền Ưng Ti, thế mà mất những ba ngày mới bắt được một người phụ nữ như Lý thị, tuy trước đó Tôn Nghị Niên đã có sắp xếp chuẩn bị, nhưng nếu không phải trong lòng Lý thị có ma thì đâu thể nấp kỹ như vậy?

Lý thị không nghe thấy bên trên nói gì, vừa ngước mắt lên đã đối diện với ánh mắt lạnh lùng của Tạ Dung Dữ, sợ đến mức giật bắn mình, “Quan gia… Không, vương gia, dân phụ, dân phụ thực sự không biết gì cả. Đúng rồi,” Bà ta hốt hoảng, giơ tay chỉ vào Dư Hạm, “Mấy ngày trước khi phong tỏa núi, lão gia toàn ở chỗ ả ta, vương gia muốn biết vì sao lão gia trì hoãn việc, có thể hỏi ả…”

Dư Hạm nghe thế, lửa giận lập tức bốc lên, “Bà không trả lời được quan lão gia nên đổ lên đầu ta hả, đạo lý đâu ra thế này?!”

Chương Lộc Chi thấy hai người họ lại cãi nhau, đang định lên tiếng quát lớn thì thấy Tạ Dung Dữ lắc đầu, hiểu ý y, thế là khép miệng không ngăn cản nữa.

“Vì sao không được hỏi ngươi! Không biết lão chết kia tìm đâu ra con cáo hoang, lại còn xây tổ hồ ly ở bên ngoài, hồn bị hớp mất, mấy ngày liền không thèm về nhà, nếu không phải vì ngươi thì ta đã đi từ lâu rồi, hà tất dây dưa đến tận hôm nay!”

“Ha, giờ lại quàng chuyện này lên người ta hả!” Dư Hạm cũng chẳng tốt tính gì, lập tức vặc lại, “Bà vào thành Thượng Khê mà hỏi, ai chẳng biết lão gia nuôi sư tử Hà Đông ở trong nhà? Mấy ngày đó nếu không phải bà và ông ấy cãi nhau, nói ông ấy không làm theo ý bà, còn đuổi ông ấy ra khỏi nhà, thì ông ấy làm gì đến chỗ ta, kéo dài tới lúc phong tỏa núi rồi không đi được? Hồi trước ông ấy có ý tốt cho bà rời khỏi Thượng Khê, bà không chịu, bây giờ ông ấy chết rồi, bà lại chạy trốn còn nhanh hơn thỏ, vợ chồng là chim cùng rừng, họa ập đến đường ai nấy đi, ông ấy xây tổ hồ ly cho ta, tốt xấu gì con hồ ly như ta còn biết quay về nhìn ông ấy lần cuối, chứ lúc bà chạy trốn, liệu có nghĩ đến an nguy của ông ấy không?”

Lý thị nói: “Ngươi quay về, nhưng ngươi cứu được ông ấy không?” Bà ta cười lạnh, “Một đứa đào kép lại dám đứng trước mặt ta nói chuyện tình thâm nghĩa trọng, có phải ông ấy cho ngươi một rương vàng, để Tưởng Vạn Khiêm đóng giả lão quản gia đưa ngươi đi không?”

Dư Hạm xoay mặt đi, “Đúng thế thì sao?”

“Ngươi tưởng lão chết kia quan tâm ngươi à?” Lý thị nói, “Sơn tặc núi Trúc Cố chết, tâm ông ấy cũng đã lạnh triệt để, bao năm qua, trong mắt ông ấy ngươi chỉ là nơi để ông ấy say mộng mà thôi, ngươi là ai thực ra không quan trọng. Người ông ấy thực sự muốn đưa đi là Tưởng Vạn Khiêm, để Tưởng Vạn Khiêm cải trang thành phu xe vì muốn mượn thân phận của ngươi yểm trợ cho lão ta, đến lúc đó nếu như bị bắt được, chim đầu đàn chẳng phải là ngươi sao? Ngươi tưởng ông ấy thực sự để ý đến ngươi à? Thứ đào kép bạc tình, ông ấy quá hiểu rõ con người ngươi, chỉ cần cho ngươi một rương vàng thì ngươi có thể không hỏi gì, rời đi dứt khoát. Ông ấy dùng rương vàng đó để mua mạng của ngươi mà thôi!”

Dư Hạm nghe thế thì giật mình, tròng mắt trở nên mơ màng.

Nàng ta chợt nhớ lại ngày hôm ấy khi mình quay về núi, cầu xin Huyền Ưng vệ dẫn mình đi tìm ông ấy, nàng nhớ khi tìm được ông, ông cứ trơ mắt nhìn mình bằng vẻ mặt khó tin.

Cuối cùng ông nói, ông có lỗi với nàng.

Hóa ra câu xin lỗi này không phải là vì ông đã chết, từ rày không thể đi cùng nàng được nữa, mà là cho tới bây giờ ông chưa từng để ý đến đào kép như nàng.

Lời của Lý thị như dao găm đâm vào tim Dư Hạm, Dư Hạm không kìm được đứng bật dậy, giẫm mạnh chân xuống sàn: “Oan gia này! Sao ông ta có thể đối xử với ta như vậy!”

Tuy nàng chỉ là phận đào kép thấp kém, nhưng nàng cũng là người, nàng có tôn nghiêm của chính mình, thua như vậy mà được ư?

Nếu thua trên chữ tình, nàng muốn so bì trên chữ lý!

Nàng chống nạnh, nhìn Lý thị: “Ta biết ta chỉ là thiếp, còn bà là đương gia chủ mẫu của ta, nên trong ngoài đều khách khí với bà, giúp bà giấu diếm. Nếu bà đã nói đến mức này rồi, vậy chúng ta nói rõ cái chết của Trù Trù đi! Đừng tưởng ta không biết, hơn một tháng trước, lão gia giục bà rời Thượng Khê nhưng bà không chịu, nói gì mà Trù Trù làm chuyện dơ dáy, đòi ông ấy xử lí Trù Trù thì bà mới đi. Lão gia không muốn, bà bèn đuổi ông ấy ra khỏi nhà, ông ấy không có chỗ đi nên mới phải đến chỗ ta. Chưa tới hai hôm sau, Trù Trù đã chết thảm ở gần nha huyện, lúc trước ta còn nói chuyện này sao lại trùng hợp đến thế, nay xem ra, người hại chết Trù Trù chính là bà!”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom