Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Lắng Nghe Trong Gió

Quyển 3 - Chương 2: Vài trang nhật kí


Ngày 25 tháng 3, năm 1987.

Tại nhà. Đêm mưa.

Hôm nay tôi nhận được một cú điện thoại, điện thoại của con trai sư phụ tôi. Lúc đầu tôi nghe trong máy có tiếng rè rè, cứ ngỡ đấy là giọng phụ nữ, hỏi ai gọi đấy, người đầu dây đằng kia trả lời là Trần Tư Binh. Tôi suy nghĩ hồi lâu nhưng cũng không biết Trần Tư Binh là ai, sau đấy người ấy mới nói là con ông Trần Nhị Hồ.

Ông Trần Nhị Hồ là sư phụ của tôi.

Điện thoại của con trai sư phụ, ít nhiều cũng khiến tôi phải giật mình, thứ nhất cú điện thoại rất đột ngột, Binh chỉ nói đã gửi cho tôi một lá thư, hỏi đã nhận được chưa. Tôi bảo chưa, Binh định cúp máy. Tôi cho rằng Binh gọi điện thoại đường dài, nên không tiện nói lâu, tôi liền hỏi số điện của Binh, rồi bảo tôi sẽ gọi lại cho anh. Binh bảo khỏi cần, mai sẽ liên hệ lại, vậy là Binh cúp máy; thứ hai, nghe giọng Binh trong điện thoại, tôi cảm giác tâm trạng Binh hình như có vấn đề, thêm vào đấy, Binh bảo đã gửi tôi một lá thư, lại càng làm tôi suy nghĩ, không biết nông sâu thế nào. Nói thật, tuy một thời tôi và bố Binh cũng như cả gia đình rất thân thiết, nhưng với Binh thì không quen lắm, vì Binh ở nhà bà ngoại trên phố, rất ít khi về khu tập thể thung lũng số Một, chỉ đến khi vào đại học, mỗi lần nghỉ hè, nghỉ đông, thỉnh thoảng tôi gặp Binh trên sân bóng chuyền. Người Binh cao, sức bật rất tốt, chơi bóng được nhiều người chú ý. Được bố quan tâm, nên lúc gặp Binh chúng tôi tỏ ra khá giữ ý, cũng có lúc đứng nói chuyện với nhau. Binh rất thích chuyện trò, khi nói chuyện thường kèm động tác tay chân, lúc nhún vai, lúc dang tay, giống như người nước ngoài, cậu hay đứng nghiêng người, trọng tâm dồn lên một chân, trông rất tự nhiên, không để ý đến xung quanh. Qua lời ăn tiếng nói và động tác của Binh, tôi thấy cậu không giống bố. Binh lạc quan, nhiệt tình, có nhiều nét là một thanh niên hiện đại, còn bố cậu lại là con người trầm mặc, một ông già có tính cách lạnh lùng, khô cứng. Biểu hiện khác nhau của hai cha con khiến tôi ngạc nhiên, nhưng nghĩ kĩ thì không có gì kì lạ, vì cha con không giống nhau hay giống nhau cũng là điều bình thường. Tóm lại, ngay cả tên Binh tôi cũng không biết, chỉ nhớ lúc ấy vẫn gọi là cu Binh. Tất nhiên đấy là tên thường gọi, đến nay tôi mới biết cậu tên là Trần Tư Binh. Thư của cậu ta nói gì? Tôi tự nhủ ngày mai sẽ rõ.

Ngày 26 tháng 3.

Văn phòng. Đêm. Trời vẫn mưa.

Lẽ nào vì trời mưa nên ảnh hưởng đến việc vận chuyển thư từ? Hôm nay tôi vẫn chưa nhận được thư, Binh lại gọi điện một lần nữa. Cậu ta sốt ruột hỏi tôi, nhưng tôi vẫn chưa nhận được, nên không hỏi gì thêm. Nghe giọng nói, hình như hôm nay cậu ta có vẻ sốt ruột hơn hôm qua, cũng nói nhiều hơn, cậu ta còn cho tôi biết cả đơn vị công tác và số điện thoại của cậu. Tôi biết cậu ta đã học xong chương trình nghiên cứu sinh, về công tác tại một nhà xuất bản ở miền Nam, hình như làm biên tập viên. Tôi không rõ lắm, nhưng qua điện thoại cậu ta không nói. Nhưng căn cứ vào nhà xuất bản nơi cậu làm việc và chuyên ngành học, rất có thể cậu ta làm biên tập. Cậu ta nghiên cứu văn học châu Âu đương đại, không làm biên tập ở nhà xuất bản thì làm gì? Tôi không nghĩ ra.

Tôi đã một lần đến thành phố ấy, một thành phố rất đẹp, đường phố trồng nhiều hoa, rất lãng mạn. Hoa anh đào trắng tao nhã, có anh đào Tây và cả anh đào ta, lớn nhỏ trồng dọc hai bên phố. Lúc này đang là mùa xuân, đúng mùa anh đào nở hoa, tôi có thể hình dung cảnh tượng phố xá của thành phố ấy, đường phố rực rỡ một màu hoa, giống như hoa tuyết, giống như mây cuộn, không khí đẫm hương hoa, say đắm lòng người, lúc này tôi như ngửi thấy cả mùi thơm của hoa.

Tôi cũng biết đôi chút về thành phố ấy qua sách lịch sử. Nghe nói, một thế kỉ trước, thành phố ấy đã từng xảy ra một trận động đất, số người chết lên đến mấy trăm ngàn. Năm mươi năm trước lại có một chiến dịch nổi tiếng diễn ra ở đấy, theo sách, số người chết “không thể tính hết”. Bởi vậy, tôi thường nghĩ, xác người chết dưới lòng đất ở thành phố ấy có đến hàng chục tấn. Điều ấy không liên quan gì đến hoa anh đào, nhưng không hiểu tại sao tôi cứ nghĩ giữa chúng có mối liên hệ nào đó. Nghĩ như vậy, trong ý thức không có gì quá sai trái, chỉ là một chứng bệnh về ý thức, nhưng không sai trái. Cho dù không sai, nghĩ xa một chút cũng không sao. Sự thật thì, tôi biết, tôi nghĩ như vậy là muốn thoát khỏi một điều nào đó, vì tôi thấy trong lòng rối bời, lộn xộn.

Ngày 27 tháng 3.

Tại nhà. Đêm. Không mưa.

Cuối cùng thì hôm nay tôi đã nhận được thư của Binh. Cho dù hai hôm nay tôi cứ nghĩ những điều trong thư của Binh, nhưng không ngờ cậu ta lại báo tin sư phụ của tôi đã qua đời. Ông qua đời hôm mồng 2 tháng 3, đến nay đã gần một tháng. Trong thư Binh nói, trước lúc ông qua đời rất mong được gặp tôi, ông Vương Cục trưởng có gọi điện thoại báo cho đơn vị biết, nhưng lúc ấy tôi về thăm nhà, không sao liên lạc được. Không còn cách nào khác, sư phụ của tôi để lại di chúc, dặn Binh phải nói lại. Lần này cậu ta chuyển lời di chúc của bố đến cho tôi.

Di chúc do ông viết trên giấy, chữ xấu hơn chữ trẻ nhỏ, chữ lớn chữ bé, nghiêng ngả, không ngay hàng thẳng lối. Tôi rất quen mặt chữ của ông, từ những con chữ không ngay ngắn này có thể hình dung lúc ấy ông đã yếu, tay cầm bút mà miệng thở phều phào. Nhìn những nét chữ nghiêng ngả, tôi có thể biết cái vẻ mệt mỏi, tâm trạng nặng nề, chân tay run rẩy của ông. Đây là lần đầu tiên tôi nhận được di chúc của người quá cố, không ngờ nó lại chấn động lòng tôi đến vậy. Đọc di chúc, tôi cảm thấy sợ hãi, từng chữ rõ ràng, sát khí đằng đằng, giống như những ngọn dao chĩa thẳng vào tim tôi. Tôi khóc, nước mắt rơi lên di chúc.

Di chúc viết như sau:

Cháu Quang, xem ra tôi sắp đi, trước khi đi tôi phải nói với cháu: chuyện ấy - cháu phải tin vào lời tôi, dù thế nào cũng phải giữ bí mật cho tôi, không được để lộ cho ai biết. Trần Nhị Hồ. Viết ngày mùng 1, tháng 3 năm 1987.

Trong di chúc nói “chuyện ấy” là chuyện gì?

Đấy là điều khiến tôi phải suy nghĩ, mà chắc chắn cũng làm cho Binh phải suy nghĩ. Hôm nay Binh lại gọi điện tới, biết tôi đã nhận được thư, cậu ta hỏi tôi đấy là việc gì. Cậu ta liên tục gọi điện cho tôi, cũng chỉ để hỏi “chuyện ấy”. Cậu ta nói, chuyện đó bố cậu rất quan tâm, cậu ta là con nên cũng muốn biết, mong tôi giúp đỡ. Tôi hoàn toàn hiểu được tâm trạng của cậu ta, nhưng cậu ta cũng phải hiểu cho tôi, vì chúc thư giấy trắng mực đen đã viết rõ ràng, tôi phải giữ bí mật, không được nói cho ai biết. Trong đó không nói rõ là con hay bất cứ ai có thể có ngoại lệ. Không có ngoại lệ, thì tôi phải bảo mật, phải kín miệng với tất cả mọi người. Đấy là nguyện vọng của người quá cố, cũng là điều cam kết của tôi.

Thật ra, nếu không có lời dặn của người quá cố, tôi cũng không thể nói với cậu ta, bởi điều ấy có liên quan đến bí mật quốc gia. Là một đơn vị công tác đặc biệt, có thể nói bí mật của 701 chúng tôi là hình ảnh, là nhiệm vụ, là sinh mệnh, là quá khứ, là hiện tại, là tương lại, là tất cả. Mà sư phụ của tôi - cha của Trần Tư Binh - ông Trần Nhị Hồ, công việc của ông là trái tim của 701, là bí mật của bí mật, tôi làm sao có thể nói cho người khác biết? Không thể. Dù là con cũng không thể. Dù là ông trời cũng không thể. Sự thật thì, tôi biết chuyện không được nói với “ai” trong di chúc không phải chỉ chuyện Bỉnh, mà còn là người trong Cục Giải mã. Đúng vậy, người nội bộ, là người trong đơn vị cũ của tôi. Không ai biết, chỉ tôi biết “chuyện ấy”. Không phải là bí mật của Cục Giải mã, mà là bí mật của cá nhân sư phụ tôi, là bí mật của ông đối với tổ chức, đối với Cục Giải mã, đối với 701. Chuyện là vậy.

Trong đơn vị 701, sư phụ tôi không phải là người bình thường, mà là người nổi tiếng, vinh quang cả cuộc đời ông mọi người trong đơn vị 701 cộng lại cũng không bằng. Những vinh dự ấy khiến ông tỏa sáng, dù ông đã qua đời nhưng 701 vẫn không quên ông, vẫn nhớ đến ông, tôn kính ông. Tôi tin rằng, lễ truy điệu ông rất long trọng, nước mắt của người 701 chắc chắn sẽ vì ông chảy mãi, mà ít nhất có một nửa những điều đó được xây dựng trên cơ sở “chuyện ấy” - chuyện mọi người không biết. Bây giờ tôi là người duy nhất biết “chuyện ấy”, tại sao trước lúc qua đời ông lại cẩn thận di chúc lại cho tôi, điều này cũng dễ hiểu. Thật ra, trước đây qua nhiều hình thức ông đã nhiều lần dặn tôi rồi. Tức là, nếu không có di chúc, tôi cũng sẽ không nói với ai, kể cả con trai ông. Nói thật, Binh không đủ tư cách để biết chuyện. Ấy là tôi nói về tư cách.

Tất nhiên tôi cũng đã nghĩ, tôi từ chối sẽ làm Binh khó chịu, khó chịu như có một vật lạ nổi cộm trong người. Có thể từ nay về sau, Binh và cả những người thân khác của ông Hồ sẽ bị tờ di chúc trên tay tôi làm cho tâm tư rối bời, lo lắng, canh cánh bên lòng. Bản di chúc trùm lên họ một bầu không khí mờ mịt, một bóng đen, họ không hiểu và không cho phép người quá cố là chỗ dựa suốt đời của họ, cuối cùng để lại cho mọi người những lời di chúc không thể hiểu nổi nhưng lại rất quan trọng. Trong di chúc ẩn chứa bí mật nào, sinh thời ông có điều gì không nên không phải, liệu có để lại cho họ hiểm họa nào không, phiền hà nào không? v.v. Có nghi vấn, có lo lắng, có sợ hãi, tôi tin chắc họ sẽ như vậy. Tôi nghĩ, di chúc chỉ mấy chữ sơ sài, nhưng nhất định họ phải nghiền ngẫm rất kỹ những điều trong đó, phỏng đoán những khả năng có thể xảy ra. Chắc chắn họ suy nghĩ rất nhiều, suy nghĩ sâu xa. Họ hận một nỗi không thể cắn xé bản di chúc bao trùm không khí thần bí, cắn xé cho lòi bí mật ẩn chứa trong đó. Khi tất cả trở nên công cốc, họ không khỏi nghĩ về tôi, đề phòng tôi, suy đoán, nghi ngờ tôi, thậm chí nhìn tôi bằng con mắt thù địch. Bỗng tôi cảm thấy mình không nên làm chuyện đáng tiếc đối với sư phụ. Vạn lần không nên. Tôi nghĩ, nếu tôi có thể gặp được sư phụ trước lúc lâm chung, bản di chúc này sẽ là của riêng tôi, lúc này nó qua tay người này người khác, cuối cũng mới đến tay tôi. Tuy là di chúc cho tôi, nhưng họ rất không bằng lòng, yêu cầu của Binh đã nói rõ điều đó, rõ ràng bố có điều gì đó không thể nói với ai, cậu ta biết là sai nhưng vẫn làm, những mong được may mắn, đấy không phải là chuyện hồ đồ mà là chuyện đáng xấu hổ. Tôi có dự cảm, những hôm sau tôi sẽ còn nhận được thư hay điện thoại tiếp tục yêu cầu những việc hồ đồ hoặc đáng xấu hổ. Đối với Binh, tôi không có gì phải từ chối, nhưng với ba bức thư và điện thoại, có thể sẽ không đơn giản. Thư hoặc điện thoại, những bức thư và điện thoại chưa biết, tôi dám nói đấy là ý của chị gái Bình.

Nói thật, tôi thích nhận được thư hơn là điện thoại.

Ngày 28 tháng 3.

Tại nhà. Đêm. Trời có gió.

Thư và điện thoại tôi mong đã đến. Điều này chứng tỏ có chuyện, tôi biết, không thể nào thoát khỏi chuyện này. Qua những cú điện thoại liên tục và khẩu khí trong điện thoại tối hôm qua, tôi biết Binh quyết theo sự việc đến cùng, cậu ta đưa chị gái ra, chị cậu ta tên là Trần Tư Tư...

Tư Tư cao lớn, cằm có một nốt ruồi khiến da cô càng thêm trắng. Ở quê tôi, người có nốt ruồi thường được coi là “nam phô ra, nữ đậy lại”, ý nói nốt ruồi của con trai mọc rõ ràng, càng rõ càng có phúc, nhưng nữ thì ngược lại. Như vậy, nốt ruồi của Tư Tư đã mọc nhầm chỗ, hoặc cái nốt ruồi ấy nói lên cô là người kém may mắn, kém hạnh phúc. Phúc là cái thần bí, khó nói ai có phúc, ai không có phúc. Tôi không thể nói không hiểu, tóm lại, Tư Tư giống bố, là người sống nội tâm, không thích nói chuyện, trầm mặc, trên khuôn mặt luôn có nụ cười khiêm tốn, bẽn lẽn. Thật ra, cái vẻ trầm mặc, bẽn lẽn khiến tôi rung động, thậm chí bố của Tư Tư còn nhận ra tôi thích cô. Là một người thầy, ông tốt với tôi hơn mức bình thường, theo một ý nghĩa nào đó, tôi cũng là con ông. Tuổi quân của ông còn lớn hơn tuổi đời của tôi, đối với tôi thân tình còn hơn con cái. Một hôm, ông hỏi tôi đã có bạn gái hay chưa, tôi nói chưa, ông bảo sẽ giới thiệu cho tôi một người. Ông giới thiệu Tư Tư, chúng tôi yêu nhau được nửa năm, nhưng thực ra chỉ là hai buổi đi xem phim, một lần đi chơi công viên. Lần đi chơi công viên, Tư Tư bày tỏ quan hệ hai người nên trở lại thuở ban đầu. Chúng tôi đã làm như vậy. Tôi nói, không phải vì chúng tôi yêu nhau không thành mà có chuyện gì, không có chuyện gì, chúng tôi vẫn như cũ, vẫn quanh quẩn bên bố của cô cho đến ngày tôi đi nơi khác.

Mùa hè năm 1983 tôi rời 701 để đến nơi này. Đây là phân cục của Cục Giải mã thuộc 701, vì nó rất quan trọng, càng ngày càng quan trọng, có người nói đấy là Cục Giải mã thứ hai của 701. Tại sao tôi đến đây, một phần do yêu cầu của công việc, mặt khác cũng do yêu cầu của bản thân. Hồi ấy tôi mới lấy vợ, nơi này gần thành phố vợ tôi làm việc, gần được nửa chặng đường. Cho nên dù nhiều người không muốn về đây, nhưng tôi là một trong số rất ít người yêu cầu được về, lí do là để gần nhà. Tôi còn nhớ, đêm trước khi rời thung lũng, ông Hồ tặng tôi một cuốn sổ tay, trang đầu có ghi lời tặng của ông như sau:

Anh và tôi cùng sống trong bí mật, có những bí mật cần chúng ta giải mã, có những bí mật cần chúng ta giữ kín, sự nghiệp của chúng ta cần vận may. Chân thành chúc anh thành đạt trong sự nghiệp.

Từ đấy về sau, sư phụ luôn ở bên tôi thông qua cuốn sổ tay. Tôi tin ông cho tôi cuốn sổ tay và bút tích của ông mục đích là nhắc nhở tôi phải giữ kín “chuyện ấy”. Nói một cách khác, đấy là lời nhắc nhở đặc biệt của ông đối với tôi khi đến một nơi khác, so với lời di chúc tất nhiên uyển chuyển, khéo léo hơn. Nhưng dù thẳng thắn hay uyển chuyển, tôi cũng đều cảm thấy “chuyện ấy” là sức ép đối với ông. “Chuyện ấy” đã đem lại vinh quang to lớn cho ông. Mà cũng để lại cho ông nỗi lo lắng nặng nề, sợ tôi vô tình hay hữu ý để lộ chuyện. Trong tình huống đó, với những cơ hội khác nhau, ông nhắc nhở tôi. Nhưng nhắc nhở trong di chúc tôi cho rằng ông tỏ ra thất sách. Trước hết, ông nhắc nhở tôi đã đủ lắm rồi, khỏi cần nhấn mạnh thêm; thứ nữa, cái cách nhấn mạnh này - di chúc - rất không thích hợp, có gì đó giống như “lạy ông tôi ở bụi này”.

Nói thật, đây là chuyện giữa hai chúng tôi, không ai biết, không ai hỏi, như vậy là đủ, sau này sẽ có thêm bao nhiêu Binh nữa? Di chúc đã bóc vỏ ngoài của cái bí mật vốn được gói kín, rõ ràng là gây bất lợi đối với cái bí mật mà tôi đang giữ. Tôi không biết đã có bao nhiêu người đọc bản di chúc này rồi? Nhưng tôi biết phải có người đọc, có bao nhiêu người đọc sẽ có gấp bội số người như Binh đến tìm hiểu bí mật ở tôi, nhằm thử thách lòng trung thành của tôi đối với sư phụ. Trước mắt tôi lo nhất là Tư Tư, tôi tin cô sẽ là Binh thứ hai nêu những yêu cầu vô lí đối với tôi. Tôi chờ thư và điện thoại của Tư Tư giống như chờ một tai họa khó bề thoát khỏi.

Ngày 2 tháng 4.

Tại nhà. Đêm. Tạnh ráo.

Thư của Tư Tư không đến nhanh như tôi tưởng, nhưng đã đến, phong thư nặng trình trịch, cầm trên tay cũng đủ biết đây không phải là một bức thư thông thường, có thể trong đó đầy những cuốc thuổng nhằm đào xới bí mật của tôi. Tôi cầm thư trên tay hồi lâu mà vẫn chưa dám bóc. Tất nhiên, thư không thể không đọc, chẳng qua tôi cần chuẩn bị tâm lí. Để gia tăng lòng tin vào thử thách và sức phòng vệ, tôi để di ảnh sư phụ và bản di chúc lên bàn, để tôi vừa đọc thư vừa có thể trông thấy lời dặn dò của ông trước lúc qua đời.

Tôi bắt đầu đọc thư của người tôi đã từng yêu. Đọc xong tôi mới biết mọi lo lắng của tôi đều thừa, từ đầu đến cuối thư không nói gì đến bản di chúc, hình như biết tôi sợ cho nên cố tình không nói gì. Tôi nghi ngờ, sự việc mà ông Hồ di chúc lại có thể Tư Tư không biết, gọi điện hỏi Binh, quả nhiên là vậy. Binh nói, bố yêu cầu cậu ta không được nói với ai, kể cả chị gái, về việc bố để lại di chúc cho tôi. Như vậy càng là lí do để tôi từ chối nói “chuyện ấy” với Binh. Tôi nói với Binh, bố cậu làm như vậy là xét đến quan hệ của tôi với chị cậu trước đây, lo tôi không qua nổi sự truy hỏi của Tư Tư, cho nên mới giấu Tư Tư. Binh nghe tôi nói, liền buông một câu: “Thì ra thế!”. Sau đấy cúp máy. Tôi tin từ nay về sau Binh sẽ không hỏi gì tôi nữa. Như vậy càng tốt, rất tốt.

Điều tôi không ngờ là, Tư Tư viết thư cho tôi dài như thế, lá thư mười tám trang giấy, trang nào cũng chi chít chữ, không giống một lá thư, từ những nét chữ không giống nhau và viết chắp chắp nối nối, ít nhất lá thư cũng phải viết trong mấy hôm mới xong, viết xong ngày Hai mươi ba tháng Ba. Đấy cũng là thời gian tôi nhận được điện thoại của Binh. Theo nội dung bức thư, đây là một phần của bản thảo truyện đúng hơn là một bức thư, trong đó có tình cảm, có cốt chuyện, đọc rất xúc động đã đọc rồi là chỉ muốn đọc cho hết.
 
Quyển 3 - Chương 3: Thư của tư tư


Ngày thứ nhất.

Tường rào màu đỏ rất cao, trên tường còn có dây thép gai, hai cánh cửa sắt màu đen chẳng mở bao giờ, chỉ trổ một ô cửa nhỏ, lính gác đeo súng đạn thật đi đi lại lại trước cửa, thấy người đến là đòi xem giấy tờ. Hồi nhỏ, em với lũ trẻ trong khu tập thể vẫn lén băng qua núi, đứng bên ngoài cửa sắt, nhìn từng người của ta bước qua cánh cửa sắt rồi biến mất. Chúng em muốn lẻn vào trong để xem, nhưng không ai cho vào, cũng không biết tại sao không cho chúng em vào. Lớn lên em mới biết, bố làm công việc bí mật, cho nên bên trong bức tường đỏ cũng là bí mật, nên không có giấy tờ không được vào.

Vì là bí mật, cho đến nay chúng em vẫn không biết tính chất và nội dung cụ thể của công việc bí mật là gì, nhưng cứ theo mức độ kính nể của tổ chức, chúng em tin rằng sự nghiệp của bố rất thiêng liêng, cao cả, đồng thời cũng rất nhiều gian khổ, yêu cầu bố phải toàn tâm toàn lực làm việc. Lúc mẹ còn sống vẫn thường phàn nàn, mong cho bố chóng về hưu, vì mẹ thấy bố ở mãi trong bức tường đỏ, sức khỏe mỗi ngày một kém, người mỗi ngày một già. Cho nên trước đây em thường nghĩ, bao giờ bố không còn làm việc thì được giải thoát khỏi bức tường đỏ, làm một người bình thường, sống cuộc đời bình thường. Năm thứ hai sau ngày anh đi nơi khác, cuối cùng bố đã có ngày như thế. Năm ấy bố 65 tuổi, lẽ ra đã được về hưu từ lâu rồi.

Thấy bố được thanh thản sống cuộc sống của người bình thường, được hưởng hạnh phúc, chúng em vui sướng biết chừng nào. Có thể anh không biết, bố bận công việc, rất ít khi ngó ngàng đến gia đình, rất ít quan tâm bọn em, nhưng tình cảm của bọn em đối với bố vẫn rất sâu đậm, chân tình, chúng em không bao giờ oán trách bố dành cho chúng em quá ít, ngược lại rất thông cảm với bố, giúp đỡ bố, kính trọng bố. Chúng em tin rằng, những năm cuối đời bố sẽ được sống hạnh phúc, vì chúng em cảm thấy cuộc sống của bố cần được bù đắp, bố rất nên và rất cần được sống như ý. Để bố có việc làm sau ngày về hưu, chúng em trồng hoa, nuôi gà, hễ đến ngày nghỉ, ngày lễ là đưa bố đi thăm họ hàng, đi chơi công viên. Hồi ấy Binh vẫn chưa làm nghiên cứu sinh, cũng chưa có bạn gái, em bảo Binh nếu không bận gì thì nên gần gũi bố, Binh đã làm như thế, những lúc rỗi rãi Binh đều về bên bố, nói chuyện với bố, đưa bố đi dạo. Hồi nhỏ, Binh sống với bà ngoại, về sau đi lính, đi học, có phần xa cách bố. Thoạt đầu, em lo bố và Binh không thể thân nhau, về sau biết lo lắng của mình là thừa, hai bố con rất thân thiết với nhau, thân hơn em nghĩ. Có thể vì trước đây hai bố con không chuyện trò giao lưu, bây giờ lại nói chuyện không nói hết, hai người như bạn lâu ngày gặp lại, ngồi với nhau là có biết bao nhiêu chuyện để nói. Vậy là, thời gian đầu bố về hưu rất vui vẻ, khiến chúng em cũng phấn khởi.

Nhưng anh không thể ngờ, chẳng bao lâu sau, khoảng một tháng, bố bắt đau buồn chán với những gì mới bắt đầu, ngắm hoa không vừa ý, nhìn chim không thuận mắt, những gì cần nói với Binh thì đã nói hết, tính tình hình như cũng thay đổi, trở nên thô bạo, nổi cáu vô cớ, oán trách chuyện này chuyện khác, tưởng như gia đình có gì đó gò bó, trói buộc, làm ông nôn nóng, không yên. Lúc này chúng em dù có nói gì thì bố cũng không vui, thậm chí thấy chúng em đến gần bố cũng không vui, xua tay đuổi đi. Có một thời gian bố sống rất cô độc, ngày nào cũng giam mình trong nhà, giống như cái bóng loanh quanh, khiến chúng em lo lắng chẳng biết phải làm thế nào. Cũng nên nói, bố không phải là người hỉ nộ bất thường, thay đổi khôn lường, bố không bao giờ gây chuyện với con cái, trong cuộc sống cũng không có đòi hỏi gì quá đáng, nhưng lúc này bố thay đổi hoàn toàn, hay gây sự, nghiệt ngã, ngang ngược, thô bạo, vô tình. Một hôm, không nhớ em đã nói gì, bố tức giận chạy ra ban công thả hết lũ chim đang nuôi, đập vỡ hết các chậu hoa, tất cả những thứ vừa một tháng trước đây bố còn rất thích thú, bây giờ không thích là không thích. Bố rất chóng chán với những thú chơi ấy, giống như một đứa trẻ, nhưng bố đâu phải là một đứa trẻ? Hàng ngày bố dậy thật sớm, không đi đâu, không làm gì, không nói năng chuyện trò, từ sáng đến tối buồn rầu, cáu kỉnh, ngồi im lặng, giống như bị ngược đãi.

Một hôm, em thấy bố đứng trên ban công gần nửa ngày, em rủ bố đi dạo nhưng ông cáu kỉnh từ chối. Em hỏi ông đang nghĩ gì, có chuyện gì không vui, cần chúng em làm gì, bố không nói, chỉ đứng buồn bã, bất động như một pho tượng, ánh nắng mùa đông lặng lẽ chiếu lên người khiến những sợi tóc bạc trên đầu bố loang loáng phát sáng. Em nhìn bố qua lớp kính cửa sổ dễ dàng nhận ra thần sắc ông, thần sắc mà em rất quen: Vẻ mặt căng thẳng với những nếp nhăn, cặp mắt đờ đẫn ngây dại không chớp ẩn sâu trong hốc mắt tưởng chừng bất cứ lúc nào cũng có thể bật ra, lặng lẽ rơi xuống đất. Nhưng chăm chú nhìn khuôn mặt như mặt nạ, đầy tử khí, có thể phát hiện trong đó ẩn chứa sự mê loạn, không yên, sự kì vọng, và cả tuyệt vọng. Cái vẻ bề ngoài ấy của bố vừa như xa la lại như quen thuộc, khiến em khốn đốn. Thoạt đầu, chúng em nghĩ bố không đến câu lạc bộ người già là bởi ở đấy không vui, vậy là chúng em mời những người bạn chiến đấu cũ của bố đến nhà chơi, nhưng bố vẫn tỏ ra hờ hững, không nồng nhiệt chào đón họ, chỉ nói vài câu, chỉ nhìn nhau vài cái rồi lạnh nhạt với bạn cũ. Đúng vậy, bố không có bạn bè, trước lúc ông qua đời, em chú ý những người đến thăm chỉ có vài vị thủ trưởng bên trong bức tường đỏ và, họ hàng thân thích, ngoài ra không có ai khác, anh là người mà bố trước khi qua đời muốn gặp, cũng có thể là bạn duy nhất của bố. Thật không ngờ, trong đơn vị bố lại là người kém nhân duyên đến vậy! Tại sao? Vinh quang hay tính cách? Hay vì công tác? Anh có thể nói cho em biết, tại sao bố em lại cô đơn, bạc tình bạc nghĩa, thiếu bạn bè đến vậy không? Thôi, anh đừng nói, để em nói với anh, tại sao về những năm cuối đời bố em lại là một ông già sống không yên ổn, không vui vẻ như vậy.

Một hôm, trời đã tối, bố em vẫn chưa về ăn cơm, chúng em chia nhau đi tìm, cuối cùng tìm thấy ông bên bức tường đỏ, ông lặng lẽ ngồi trước cánh cửa sắt, bên cạnh đầy tàn thuốc và mẩu thuốc. Nghe lính gác nói, bố ngồi đấy suốt một buổi chiều, xuất trình giấy tờ, lính gác không cho bố vào, cho nên bố ngồi ở cổng, chừng như chỉ cần ngồi và nghe ngóng cũng làm lòng ông yên ổn hơn. Bố không rời nổi bức tường đỏ, không rời nổi công việc bên trong bức tường ấy. Em nghĩ, đây là câu trả lời tại sao bố không thể yên tâm để nghỉ ngơi. Anh biết đấy, bố em suốt đời ở trong bức tường đỏ, chuyên tâm với công việc vừa bí mật vừa thần bí, không nghĩ gì khác, không giữ lại gì cho mình, nghiêm túc đến độ si mê. Bố say sưa với công việc bên trong bức tường đỏ, lòng dạ hoàn toàn cách biệt với bên ngoài, thêm vào đấy, công việc yêu cầu bố phải xa đàn xa tổ, phong kín cấm kị hết năm này đến năm khác, thế giới bên ngoài, những người bên ngoài chừng như trở nên mờ nhạt, mất hẳn trong tâm trí bố. Khi bố từ biệt cái thế giới ấy, từ trong bức tường đỏ đi ra, bỗng trông thấy, nghe thấy và cảm nhận tất cả, khiến bố thấy mình không có liên quan đến tất cả, tưởng như mình cách biệt với thế gian, cho nên thấy vô vị, khô cằn, không thể dung nạp, không thể gần gũi. Đấy là thái độ của một người cuồng vì công việc đối với cuộc sống, trong con mắt họ, cuộc sống đời thường là vụn vặt, dư thừa, nặng nề âm khí. Em còn nhớ, tướng Patton[7] nói một câu thế này: Một quân nhân chân chính nên chết vì viên đạn cuối cùng trong trận chiến cuối cùng. Nỗi bi ai của bố em hình như chưa bị gục ngã trong bức tường đỏ bởi viên đạn cuối cùng.

Bố ơi, bố đâu còn những năm cuối đời hạnh phúc, hôm nay con quyết định nói lại cho người bạn duy nhất của bố về cuộc sống những năm cuối đời của bố, con bỗng cảm thấy đấy là việc làm vô cùng đau khổ. Con chỉ mới nói đoạn đầu mà đã buồn ghê gớm, đau lòng muốn khóc. Con muốn quên đi tất cả, tình cảm của con không thể chịu dựng nổi khi phải nhớ lại về bố, nhưng là con gái của bố, con mong bạn của bố hiểu bố, nhận thức về bố, hiểu và nhận thức thật rõ ràng. Chỉ có hiểu cuộc sống những năm cuối đời của bố mới thật sự nhận ra cái khổ của bố vào trong thời gian đó...

Ngày thứ hai.

Chừng hai tháng sau ngày bố em chăm sóc hoa và cây cảnh, hầu như ông không có việc gì để làm, lúc nào cũng in lặng, thỉnh thoảng ngồi buồn bã trên sofa, vừa hút thuốc, vừa ho sù sụ. Không biết vì sao, trong thời gian ấy sức khỏe của bố rất kém, huyết áp lên cao, có lúc lên đến 200, bình thường cũng trên dưới 160, rất đáng lo ngại. Bố bị viêm phế quản, lúc nào cũng ho, điều này cũng bởi bố hút thuốc quá nhiều. Bố nghiện thuốc nặng, mỗi ngày hai bao thuốc không đủ. Hồi ấy vì không có việc gì làm, nên bố hút thuốc càng nhiều, chỉ một loáng là hết điếu thuốc. Chúng em khuyên bố hút ít thôi, bố bảo bố hút thuốc bằng tiền của bố, không phải tiền của chúng em, chúng em cũng không còn biết nói gì. Nghe nói, mấy lần bố tìm gặp các thủ trưởng trong quân đội, yêu cầu được quay lại trong bức tường đỏ để làm việc, nhưng không được chấp nhận. Em nghĩ, bố yêu cầu như vậy, chắc các vị ấy cũng cảm thấy phiền. Một hôm, ông Vương, Cục trưởng gặp em, bàn với em tìm cách để cuộc sống của bố được yên ổn. Chúng em biết nghĩ thế nào? Chúng em đã suy nghĩ, đã cố gắng, nhưng không sao làm nổi.

Sang đông, vào một buổi tối, ăn cơm tối xong, theo lệ thường bố ngồi ở sofa hút thuốc, khói thuốc từ miệng từ mũi bố bay lên, tưởng như khói từ trong tim bốc lên lan tỏa khắp căn phòng, tạo nên bầu không khí nặng nề bao trùm quanh chúng em. Chúng em cảm thấy căng thẳng, sợ có điều gì không phải làm bố nổi giận. Binh bật ti vi, mở kênh mà bố thích xem, kênh chơi cờ vây, những quân cờ đen trắng giống như vỏ hến rối rắm phủ kín một khoảng tường trắng, một nam một nữ, một bên giảng giải một bên trình diễn, người không biết chơi cờ chắc chắn không hiểu gì. Binh thích chơi cờ vây, thấy đánh cờ liền ngồi xem chăm chú, em tuy cũng thích xem (bị Binh lôi cuốn), nhưng nghĩ bố không thích, nên bảo Binh chuyển sang kênh khác. Binh nhìn bố, bố đang lim dim mắt, uể oải nhìn, hỏi bố có xem không. Bố không trả lời. Cho đến lúc Binh chuyển kênh, bố mới bảo để xem kênh vừa rồi, hình như vừa rồi bố không nghe Binh hỏi. Binh chuyển kênh, bố xem một lúc rồi hỏi đây là cờ gì. Binh giới thiệu sơ qua với bố về cờ vây. Bố nghe nhưng không có biểu hiện gì, chỉ xem cách chơi cờ vây, xem cho đến hết.

Hôm sau bố lại nghe giảng giải cách chơi cờ vây, hình như phát hiện được điều gì lí thú, rất chăm chú, lại như đang suy tư. Em hỏi bố có hiểu không, bố bảo em đánh với bố một ván, một lúc sau em mới có phản ứng. Trình độ cờ của em rất bình thường, nhưng còn hơn bố hiểu mật mà mập mờ. Lúc em và bố đánh cờ, Binh ngồi bên cạnh, nhắc bố cách đi. Lúc đầu bố còn thích để Binh nhắc đi quân nào, nhưng nhắc chừng chục nước cờ, bố không nghe theo lời Binh nữa, bảo để bố tự đi, bố đánh tuy chậm, mỗi nước đi đều suy nghĩ kĩ, nhưng nước cờ giống như không đúng quy luật, thiếu tính liên tục, cảm giác như phá được thế bí. Đến khi kết thúc em và Binh đều ngớ ra, ván cờ vừa trong thế bí, vậy mà trở nên linh hoạt, tạo thế chủ động, dồn ép, quấy rối, khiến em không thể không chơi chậm lại, phải tính từng nước đi. Em phát hiện ra, muốn giành lại thế chủ động thì đã muộn. Ông thắng từng nước, không một sơ hở, khiến chúng em không biết phải đi thế nào. Bố vừa dồn chúng em vào đường cùng, vừa áp sát, chia cắt, bao vây, tuy vất vả, bị động, nhưng kiên định bất di bất dịch, ngoan cường, mặt khác ông tự mình triển khai kế hoạch đã vạch sẵn, rất thiết thực, ý đồ kín đáo, thiết chế khéo léo, khiến chúng em bị bao vây khốn đốn. Thế cờ luôn thay đổi, quân đen quân trắng giao nhau, bàn cờ mỗi lúc một trở thành trận đồ đặc biệt, em vất vả giành lại ưu thế, mỗi nước đi đều khó khăn. Thế cờ của ông rất rành mạch, nhưng nóng vội giành thắng lợi, ông định ăn quân của em, kết quả bị mất quân. Về sau, tuy ông tính toán cẩn thận, dương Đông kích Tây, định lật ngược thế cờ, cứu vãn tình thế, nhưng cuối cùng không còn sức vãn hồi. Ván đầu tiên kết thúc, ông thua.

Nhưng ván thứ hai thì ông được.

Em và bố chơi tiếp ván thứ ba. Bố liên tiếp thắng, càng thắng càng nhẹ nhàng, đến ván cuối cùng mới đánh được nửa ván thì em thua. Sau đấy đến lượt Binh, hai người đánh bảy ván, kết quả giống như em, Binh chỉ thắng ván đầu tiên, thua sáu ván tiếp theo. Cứ thử nghĩ xem, mới mấy hôm trước bố em còn chưa biết cờ vây tròn hay vuông, vậy mà bây giờ ông khiến chúng em phải khốn đốn, những nước đi trên bàn cờ của ông khiến em và Binh phải kinh ngạc.

Hôm sau, Binh đến cơ quan mời về một kì thủ, anh này cao cờ hơn Binh, bình thường đánh với anh, anh ấy thường nhường nước đi cho Binh. Đấy là một ngày nắng ấm sau trận tuyết rơi, trận tuyết đầu tiên trong mùa đông đến và đi vội vã, thế giới chỉ còn lại một màu trắng xóa dịu dàng. Phải nói rằng đấy là một ngày tuyệt vời để ở nhà đánh cờ. Ván đầu thế cờ của bố không hay lắm, đi chưa đầy hai chục nước bố đã xin thua. Em không biết anh có hiểu cờ vây hay không, nếu biết thì chắc anh hiểu rằng khai cuộc mà xin thua thì không phải là tác phong của người chơi cờ. Thời xưa có câu “chín ván mới phân thắng bại”, kể lại một vị thánh cờ tên là Triệu Kiều chu du khắp thiên hạ tìm đối thủ so tài cao thấp, cuối cùng đến bên bờ sông Vị, dưới chân núi Phượng Hoàng, gặp một nữ kì thủ, chồng tòng quân xa nhà, trong nhà hết gạo thổi cơm, ngày ngày bày cờ thế để mưu sinh. Hai người tựa núi ngồi bên sông đánh cờ. Triệu đi được chín nước thì nữ kì thủ kia nhận thua. Triệu không tin, nữ kì thủ thuật lại, giải thích từ đầu ván, nói thao thao bất tuyệt, tại sao chỉ vài nước cờ đã biết thắng thua. Triệu nghe, xin bái nhận chiếu dưới, nhận nữ kì thủ kia làm sư phụ. Mới hơn chục nước cờ đã thấy thắng thua, chứng tỏ bố có tầm nhìn sâu rộng, suy xét toàn cục. Thế nên em nghi ngờ vị khách ấy hôm nay nhất định sẽ thua bố, vì thuật chơi cờ cao thấp nói cho cùng ấy là năng lực nhìn xa, quả nhiên năm ván sau đấy, ván nào bố cũng thắng, kì thủ của bố không tin lời chúng em: Bố mới biết chơi cờ từ tối hôm qua.

Em có thể nói, bố có sự nhạy cảm kì lạ với cờ vây, có thể ngay khi thấy cờ vây bố đã thích nó rồi, hình như giữa bố và cờ đã ngầm hiểu nhau. Cờ vây xuất hiện đã cứu bố, mà cũng giúp chúng em rất nhiều, một thời gian dài sau đấy, bố rất say mê cờ vây, đọc sách cờ, tìm người chơi cờ, cuộc sống trở nên phong phú, tinh thần phấn chấn hơn. Thật không thể hiểu nổi, chúng em tốn bao tâm sức không giải quyết được, nhưng chỉ qua một đêm mọi chuyện lại giải quyết xong xuôi.

Lúc đầu bố chủ động đánh cờ với người trong khu tập thể, thường xuyên đến câu lạc bộ của đơn vị, là nơi tụ tập những tay cờ giỏi. Trình độ chơi cờ có người cao, người thấp. Ông chơi với họ, gặp ai cũng chơi, đánh với ai cũng thắng, đánh đến cùng. Chừng hơn một tháng sau, những người đã chơi cờ với ông, không ai không nhận mình thua. Tất nhiên câu lạc bộ không phải là nơi có những cao thủ, những người chơi cờ thật sự không chơi ở câu lạc bộ. Họ đến câu lạc bộ làm gì? Họ đến chơi câu lạc bộ, là vì yêu thích nơi kín đáo. Chừng một tháng sau, ông trở thành một kì thủ - một kì thủ không thích đến chơi cờ ở câu lạc bộ. Câu lạc bộ rèn luyện ông, khiến nước cờ của ông thêm mở rộng, hay hơn, nhưng trình độ chơi cờ của những người ở đây rất bình thường, ông không tìm đâu ra người ngang tầm ngang cỡ. Chơi cờ không có đối thủ còn ý nghĩa gì? Ông cảm thấy thắng cũng không hứng thú, vậy là ông bỏ ý thích đến câu lạc bộ. Lúc ấy, ông bắt đầu đi chơi, tiếp xúc với những tay cờ trên thị trấn, đánh thử với họ. Nhưng chưa đến mùa hè những cao thủ ở thị trấn đều trở thành bại tướng dưới tay ông. Vậy là, chỉ trong vòng nửa năm, bố em từ chỗ chưa biết chơi cờ nhanh chóng trở thành cao thủ cờ vây được mọi người công nhận, độc chiếm đầu bảng.

Từ đấy về sau, em, Binh cùng chồng em (Anh cứ gọi anh ấy là Lữ) thường xuyên lên tỉnh liên hệ giúp bố tìm kì thủ, tìm được ai cũng mời về nhằm giải cơn nghiện cờ của bố. Cho dù việc đi tìm kì thủ rất vất vả, phiền phức, nhưng thấy bố say cờ chúng em cũng vui mừng. Thoạt đầu, việc tìm kì thủ rất phiền toái, chủ yếu là qua người quen giới thiệu, những kì thủ trình độ cao thấp không đều, có người khá nổi danh, nhưng chỉ là ếch ngồi đáy giếng, tài cán không bao nhiêu, lại rất khó mời, kết quả khiến bố bực mình vì trình độ chơi cờ của họ rất bình thường, không thể giao chiến với bố. Sau đấy, Binh qua bạn bè biết một người, cha người này vốn là Chủ nhiệm ủy ban Thể dục thể thao, thông qua chỉ dẫn của ông Chủ nhiệm, chúng em liên hệ với Hội cờ của thành phố. Từ đấy, chúng em dựa vào danh sách kì thủ do Hội cờ cung cấp, căn cứ vào trình độ của họ, từ thấp đến cao để lần lượt liên hệ và mời về.

Hiệp hội cờ vây có được danh sách ba mươi tư kì thủ, về cơ bản họ đại diện cho những người chơi cờ giỏi, trong đó có một nữ quán quân môn cờ vây của thành phố. Những người này đã trải qua trăm trận, chơi cờ có chiêu thức, bài bản tuyệt kĩ, ông chỉ là tay chơi cờ mới đủ thông minh. Có thể thấy, lúc đầu bố không phải là đối thủ của họ, lúc chơi thử, ông như trứng chọi đá. Nhưng thật kì lạ, không thể tưởng tượng nổi! Một kì thủ giỏi nhất chỉ cần chơi với bố và lần là cái ưu thế vượt trội của anh kia rất nhanh chóng bị bố đuổi kịp, bắt gọn, rồi vượt qua, bỏ xa. Tức là, trước một cao thủ, lúc đầu tưởng bố thua, nhưng không bao lâu bố chuyển bại thành thắng, trở thành đối thủ bất khả chiến bại. Nghệ thuật chơi cờ của bố tưởng chừng chỉ một đêm bỗng đột ngột tiến vọt, cùng một kì thủ ngang tầm hôm qua còn thắng bố, nhưng hôm sau rất có thể bại trận. Đúng vậy, rất nhiều danh thủ, tưởng chừng đánh cờ với bố chỉ cần trong một tuần lễ, bách chiến bách thắng, xưng hùng xưng bá, nhưng kết quả không ai không trở thành bại tướng của bố. Bố chính thức trở thành là một sát thủ thần bí, bất cứ đối thủ nào cũng thất bại dưới tay bố. Điều này đối với bố giống như một định luật không có ngoại lệ. Về sau bố thường nói, mỗi lần chơi cờ với một kì thủ mới, bố không lo thua đối phương mà chỉ sợ đối phương thua một cách nhanh chóng. Bố cũng biết chúng em tìm được kì thủ không dễ dàng, khó khăn lắm mới tìm được một người, nếu họ bại trận ngay, không những chúng em buồn, mà bản thân bố cũng buồn. Bố rất, rất thích có một địch thủ mạnh để bố lao vào chinh phục. Bố không thích những ván cờ không cọ xát, không suy nghĩ, chẳng khác gì cuộc sống phẳng lặng.

Còn nhớ vào một buổi chiều trước hoặc sau Tết Trung thu, em ngồi đọc sách ở ban công, trong phòng khách bố em đánh cờ với kì thủ quán quân của thành phố, đánh hết ván nọ đến ván kia, đánh từ trưa cho đến tận chiều tối. Thỉnh thoảng lại nghe họ nói chuyện vài câu rồi kết thúc, kết thúc rồi bắt đầu. Từ những trao đổi ít ỏi ấy em biết bố lại thắng. Thỉnh thoảng em vào rót nước cho hai người, thấy vẻ mặt của bố rất thản nhiên, nhấp trà, hút thuốc, vô cùng tự đắc, còn vị quán quân cờ vây kia không hút thuốc, không uống trà, đôi mắt dán chặt vào bàn cờ, hiện rõ vẻ bất khuất, giành giật, như đang nghiến răng nghiến lợi, thỉnh thoảng đưa tay di chuyển các quân cờ, đưa tay lên không trung giống như trong tay không cầm quân cờ mà là một viên đạn, cứ do dự đắn đo không biết nên đi vào đâu. Sự trầm tư của anh ta hiện rõ, những thớ thịt trên mặt căng lên, giống như lên gân suy nghĩ. Còn bố đúng là một sự nhẹ nhàng thanh thản, bình tĩnh, tự nhiên, nhàn tản, suy nghĩ như đang bay lượn trên bàn cờ, bay ra ngoài. Về sau em lại nghe thấy họ nói kết thúc ván cờ, sau đấy là tiếng của nhà vô địch: “Chúng ta đánh ván nữa chứ?”. Tiếng trả lời của bố rất dứt khoát: “Thế này nhé, đánh nữa tôi phải nhường quân, tôi không thích đánh cờ nhường quân”.

Bố không khách khí từ chối bại tướng, khiến khách có phần không bằng lòng, hơn nữa đấy là một nhà vô địch. Kì thủ vô địch trước khi ra về nói với em, bố là thiên tài cờ vây, bố có thể đánh bại mọi đối thủ.

Nghe thấy chưa, anh ta nói bố em sẽ thắng mọi đối thủ!

Nhưng anh thử nghĩ, trong thành phố này ai là đối thủ của bố nữa?

Không có ai.

Không một ai.

Vâng, nói đến chuyện ấy em cảm thấy bố thật xa lạ, thần bí, sâu sắc. Có thể anh sẽ hỏi, đúng thế không? Đúng, Đúng vậy. Tất cả đúng như vậy. Nhưng em vẫn nghi ngờ là bởi bố rất kì lạ.

Ngày thứ ba.

Đã quá nửa buổi chiều nhưng hai đồng nghiệp của em vẫn chưa đến làm việc, có thể họ không đến. Trời đang mưa, đấy là lí do họ không đến. Lí do ấy cũng thật hợp lí, ít ra là ở chỗ chúng em. Nhưng em nghĩ đến bố, lí do nào khiến ông không đi làm? Trong trí nhớ, em không thể tìm ra một hôm nào bố không vào bên trong bức tường đỏ để làm việc, một ngày cũng không. Nếu hôm nào chúng em nói: Bố, hôm nay bố xin nghỉ một hôm, mẹ cần bố ở nhà, hoặc nhà có việc, cần bố ở nhà một hôm hoặc nửa ngày. Lúc ấy bố đứng lại, lặng lẽ suy nghĩ. Mọi người nhìn bố, mong dùng ánh mắt để giữ chân ông. Nhưng ông không nhìn lại, cố tình tránh ánh mắt mọi người, nhìn đồng hồ hoặc nhìn bầu trời, do dự, không quyết, không biết nên đi hay nên ở nhà. Mỗi lần tưởng rằng bố ở nhà, có ai đó tiến đến cầm thẻ ra vào của bố, chuẩn bị treo lên mắc áo, lúc ấy bố bỗng thay đổi quyết định, lấy lại thẻ ra vào nói rất kiên quyết:

“Không, tôi phải đi!”.

Bố là như vậy đấy.

Lí do ông từ chối thật đơn giản nhưng rất có tác dụng, còn lí do để chúng em giữ bố lại rất nhiều, nhưng hầu như không có tác dụng. Mẹ ốm nặng, chỉ mấy hôm nữa sẽ vĩnh viễn xa bố, bố cũng không ở lại với mẹ trọn một ngày.

Mẹ em ốm và qua đời, có thể anh không biết. Đấy là việc một năm trước ngày anh đến đây. Mẹ ốm, bây giờ nghĩ lại, bà đã có triệu chứng từ lâu. Em còn nhớ mùa xuân năm ấy, mẹ hay kêu đau bụng. Lúc bấy giờ em không lo lắng gì, mẹ cũng không nghĩ có chuyện gì, cho rằng đau bụng bình thường, uống một bát nước đường nóng, thêm vài viên giảm đau là xong. Hết đau lại đi làm bình thường. Nghe nói, hồi đầu mẹ làm ở cơ quan trên tỉnh, lấy bố rồi mới chuyển về đây, nhưng không ở đơn vị 701 mà ở chỗ khác, cách nhà hơn chục cây số, hàng ngày đạp xe đạp đi về, đưa đón chúng em đi học, nấu cơm, giặt đồ, suốt mười mấy năm ngày nào cũng như ngày nào. Trong ấn tượng của em, cái gia đình này do một tay mẹ em cáng đáng, bố rất ít hỏi han đến việc nhà. Anh biết đấy, khu tập thể gia đình cách tường đỏ bốn, năm cây số, đi bộ mất nửa tiếng đồng hồ, nhưng bố rất ít khi về nhà, mỗi tháng nhiều lắm chỉ về một lần, tối về sáng hôm sau lại đi ngay. Em nhớ có một buổi tối, một buổi tối đã lâu bố không về, lúc ấy chúng em đang ăn cơm, tai mẹ như có mắt, bố đang đi cách nhà hơn chục mét, chúng em còn chưa biết thì mẹ đã nghe thấy tiếng bố, nói với chúng em: Bố các con về đấy. Nói xong, mẹ đặt bát đũa xuống, đi vào bếp, chuẩn bị đón bố. Chúng em cho rằng mẹ nghĩ đến bố quá nhiều, xuất hiện ảo giác, nhưng khi mẹ bưng chậu nước rửa mặt lên, quả nhiên có tiếng chân nặng nề của bố...

Ở nhà, bố chỉ lặng lẽ không nói chuyện, vẻ mặt lạnh lùng, không giống một người chồng, cũng không giống một người cha. Chưa bao giờ bố ngồi lại nói chuyện với chúng em, nói gì với chúng em bố đều như ra lệnh, lời lẽ ngắn gọn, chính xác, cho nên trong nhà nếu có bố không khí chỉ thêm nặng nề, chúng em phải nhẹ chân nhẹ tay, nói năng khẽ khàng, sợ đụng vào bố. Chỉ cần chúng em làm điều gì trái ý khiến bố nổi nóng, mẹ liền mắng chúng em. Mẹ luôn luôn đứng về phía bố, thế có lạ không? Em có thể nói, làm một người chồng, bố hạnh phúc hơn bất cứ người đàn ông nào, bởi ông được rất nhiều. Cả cuộc đời mẹ sống vì bố, còn cả cuộc đời bố đều dâng hiến cho công việc bên trong bức tường đỏ, cuộc đời mẹ dâng hiến cho bố, dâng hiến cho ông chồng một đời say sưa giam mình trong bức tường đỏ.

Em không thể lí giải được lôgic cuộc sống và mọi chuyện chung quanh. Ví dụ như mẹ, mẹ hình như thuộc về bố, nhưng mẹ lấy bố không phải vì tình yêu, cũng không phải vì được yêu mà chỉ vì “yêu cầu của cách mạng”. Mẹ nói, người của đơn vị bố nói tổ chức giúp tìm đối tượng cho bố, người đó phải trải qua thẩm tra về chính trị, quan hệ xã hội, gia đình, hiện tại, lý lịch... Mẹ lấy bố là do tổ chức sắp xếp, lúc ấy mẹ mới 22 tuổi, bố đã hơn 30. Mẹ còn nói, trước ngày cưới chỉ gặp mặt bố đúng một lần, chưa nói với nhau quá hai câu. Em có thể tưởng tượng lúc ấy bố bối rối đến mức nào, có lẽ bố cũng không dám ngước lên nhìn mẹ. Đó là người đàn ông bối rối khi ra khỏi bức tường đỏ, người đó không đến từ cuộc sống, đến từ nhân gian, mà đến từ một lò chưng cất, đến từ ngoài thế giới này, đến từ một góc bí mật, người ấy bị đẩy ra khỏi bức tường đỏ vào cuộc sống đời thường, đẩy vào ánh nắng, giống như cá nhảy lên bờ sẽ lúng túng khó xử đến mức nào. Điều không ngờ là, chỉ một tháng sau mẹ lấy bố. Mẹ tin ở tổ chức còn hơn cha mẹ đẻ. Nghe nói bà ngoại em không đồng ý mẹ lấy bố, nhưng ông ngoại lại đồng ý. Ông ngoại em là một chiến sĩ Hồng quân cũ, mồ côi từ nhỏ, 14 tuổi tham gia công tác cách mạng. Đảng dạy dỗ ông nên người, được giáo dục, có gia đình, có cuộc sống hạnh phúc. Không những ông cảm ơn Đảng từ đáy sâu của lòng mình, còn yêu cầu con cái coi Đảng, coi tổ chức hơn cả cha mẹ. Cho nên mẹ từ nhỏ rất tin ở tổ chức, tổ chức bảo bố tốt thế nào mẹ cũng tin, tổ chức nói bố tài giỏi thế nào mẹ cũng tin. Tóm lại, hôn nhân của bố mẹ thật ra là yêu cầu của công tác cách mạng đúng hơn là do tình yêu. Có thể nói, lấy bố, mẹ đã hoàn thành một nhiệm vụ chính trị. Chúng em nói như vậy chắc chắn mẹ sẽ giận, thôi, em không nói nữa.

Mẹ đau bụng, đến tháng Năm (năm 1972) tình trạng đã rất nghiêm trọng, đau đến mê man bất tỉnh, mồ hôi vã ra như tắm. Hồi ấy, Binh đang đi bộ đội, còn em về nông thôn làm một thanh niên trí thức, tuy không xa, ở huyện bên, đi về chỉ mất trăm cây số, nhưng rất ít khi về, mỗi tháng chỉ về một lần, về hôm trước hôm sau phải đi ngay, nên không hiểu bệnh tình của mẹ. Bố lại càng không biết, đừng nói đến chuyện mẹ ốm bố không biết, ngay cả bản thân bố ốm bố còn không biết, huống chi mẹ giấu bệnh. Mẹ một đời quan tâm đến chúng em, nhưng khi mẹ cần chúng em quan tâm, tất cả đều đi vắng. Bản thân mẹ chỉ nghĩ đến gia đình, nghĩ đến ba người trong nhà, bận bịu việc này việc khác, đâu còn thời gian quan tâm đến bản thân? Lòng mẹ chỉ có chúng em, không còn chỗ cho chính mẹ. Một người từ nhỏ lớn lên bên những người lính Hồng quân, từ nhỏ coi Đảng và tổ chức thân thiết hơn cha mẹ đẻ, đó là mẹ em, bà khiến chúng em cảm nhận được tình yêu thương của người cha, tình yêu thương của con người, nhưng chưa bao giờ yêu bản thân. Mẹ, mẹ đã vất vả như thế nào với cái gia đình không bình thường này? Mẹ ốm nặng nhưng cố tình giấu bệnh, nói dối chúng em; mẹ ốm mà trong lòng mẹ thấy như đã làm một việc sai trái, có lỗi với chúng em. Mẹ, bây giờ con biết mẹ và bố chỉ là một, đều là người không cần bản thân, bố và mẹ đều đắm chìm trong tín điều và lí tưởng của riêng mình, để máu từng giọt chảy xuống, chảy hết, bố và mẹ đều thỏa mãn. Nhưng bố mẹ đều không biết, cũng không ai biết, trong lòng chúng em vô cùng hối hận và xấu hổ.

Cuối cùng thì em cũng phát hiện ra bệnh của mẹ. Tối hôm ấy em từ nông thôn về đến nhà, đêm đã khuya. Trong nhà không đỏ đèn, tối om. Em bật đèn, thấy cửa phòng mẹ đang mở, mẹ không đón em như mọi ngày. Em gọi, không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng động trong phòng. Em vào phòng, bật đèn, thấy mẹ đang quỳ dưới đất, đầu gục vào thành giường, mặt méo xệch vì đau đớn, hai dòng nước mắt chảy dài, đầu tóc rũ rượi. Em chạy tới, mẹ nắm lấy tay em, khóc như một đứa trẻ. Em hỏi mẹ có chuyện gì, mẹ nghẹn ngào nói mẹ không thể sống được nữa, giục em đưa mẹ đi bệnh viện, nước mắt và mồ hôi của mẹ lấp lánh dưới ánh đèn. Chưa bao giờ em thấy mẹ khóc đau khổ và nước mắt chảy nhiều như thế, toàn thân mẹ co rúm, mềm nhũn như lá rau héo, trong ánh đèn lờ mờ, mẹ như một đống áo quần nhàu nát. Hôm sau, bệnh viện nói với em mẹ bị ung thư gan giai đoạn cuối, không thể cứu chữa nổi.

Viết đến đây lòng em vô cùng buồn, rất buồn! Em không định nói, nhưng nói ra được lòng cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Em nghĩ, dù sao thì mẹ cũng là một phần của bố, giống như khu tập thể gia đình phía bên ngoài bức tường đỏ là một phần của khuôn viên này. Mẹ là vợ của bố, cũng là chiến hữu, chiến hữu dựa vào nhau, cho em thắp một nén hương tưởng nhớ linh hồn mẹ bên bàn thờ của bố và xin được khóc mẹ...

Ngày thứ tư.

Bóng tối bao trùm toàn bộ khuôn viên, nhưng không khí và âm thanh của nó vẫn tràn vào nhà qua các ô cửa sổ có song sắt. Ánh đèn dịu dàng tỏa sáng trên trang giấy, chiếu sáng suy nghĩ của em. Nhìn lên trang giấy, bất giác em thấy trang giấy biến thành bàn cờ vây, bàn tay bố chập chờn, lúc ẩn lúc hiện... Em đang thấy bố đánh cờ.

Ai đang đánh cờ với bố?

Sang mùa thu năm sau, cờ vây của bố lên đến tuyệt đỉnh, chúng em không tìm đâu ra kì thủ để thỏa mãn nguyện vọng của ông. Vì danh tiếng, thỉnh thoảng lại có khách không mời mà đến, nhưng như chúng em dự đoán, họ đến không những không làm bố vui, mà còn làm bố nổi cáu. Nổi cáu vì không chịu nổi một đòn. Bố không muốn chơi cờ với những kì thủ trình độ bình thường, càng ghét chơi nhường quân. Nhưng xung quanh bây giờ còn ai để bố xem là những kì thủ trình độ không bình thường! Không còn ai. Một năm trước, bố dành thời gian nghiên cứu nghệ thuật chơi cờ vây, bố đã đào sâu vào bí mật kĩ thuật cờ vây, thêm vào đấy, bố thường xuyên so tài với các kì thủ gần xa, kinh nghiệm trận mạc, khiến nghệ thuật chơi cờ của bố lên đến tuyệt đỉnh, ít nhất là ở thành phố này.

Không tìm được đối thủ, không còn đánh cờ, cuộc sống của bố một lần nữa rơi vào vòng bế tắc. Chúng em cũng đã nghĩ đến các mặt khác, ví dụ đưa bố đi du lịch, viết thư pháp, hội hoạ, tập khí công, thái cực quyền... để tạo hứng thú cho bố, nhưng với những thứ đó, bố tỏ ra lạnh nhạt, chán ghét, khiến chúng em cũng nản chí. Có một lần, một huấn luyện viên khí công đến tổ chức để mọi người học thái cực quyền, em kéo bố đi, ngày nào cũng đưa đi, ngày nào cũng giục bố, coi như kiên trì được một tuần lễ, kết quả ba mươi mấy cụ già đều học thành công, em đến đấy vài lần, thấy ai cũng tập rất khéo, còn bố ngày nào cũng đi, ngày nào cũng học, nhưng ngay cả động tác cơ bản cũng không thuộc, lúc đi quyền trông thật ngượng nghịu, nhớ trước quên sau, thật bực mình. Về mặt này bố tỏ ra kém cỏi, thật khác hẳn với sự thông minh, tài trí thể hiện trước bàn cờ. Bố như một người quái đản, một mặt như siêu nhân, thiên bẩm siêu thường, mặt khác lại tối tăm kém cỏi hơn người thường. Theo một ý nghĩa nào đấy, những ai giới hạn tư tưởng đơn nhất là người khó thoát ra ngoài, bởi nó giới hạn bản thân trong một vùng nhỏ hẹp, ở một ý nghĩa nhất định rất khó có thể tiếp cận cái vô hạn. Điều em nghi ngờ là, bố dựa vào đâu để có những biểu hiện xuất sắc trong đánh cờ như vậy? Có phải bố là một kì thủ giỏi trời sinh? Hoặc còn có nguyên nhân nào khác?

Theo kinh nghiệm cá nhân, em hiểu cờ vây là một thử thách, là môn vận động đào xới trí năng của con người, nó khác xa với cờ tướng, cờ vua và các thứ cờ khác. Lấy cờ tướng của Trung Quốc ra so sánh với cờ vây, cờ tướng giống như một trò chơi, một phần của trò chơi, còn cờ vây phức tạp, sâu sắc hơn nhiều. Sức sát thương của mỗi quân cờ vây không phân biệt lớn bé cao thấp, cùng một quân cờ, có thể làm tướng, cũng có thể làm tốt, xem anh đi thế nào, đặt thế nào, tất cả đều ở tài khéo léo của người chơi. Cờ tướng không như thế, xe, pháo, mã mỗi quân có một định thức: Xe đi thẳng, pháo phải có ngòi, mã nhảy chéo, tượng đi chữ điền, tốt qua sông như một con trâu. Cái khác biệt, cái hạn chế đó khiến cờ tướng trở nên đơn giản, không sâu sắc. Cờ vây lại khác hẳn, nếu nói cờ tướng hạn chế trí lực của kì thủ, thì cờ vây có tính thách thức trí tuệ vô hạn của người chơi, mỗi nước đi của cờ vây đều vô năng, sức mạnh của nó ở vị trí trên bàn cờ, ở những vị trí nhất định, có sức mạnh nhất định. Cho nên, cờ vây càng cần năng lực tổ chức, kết cấu, anh phải tạo cho nó một vị trí thích hợp, cố gắng kết nối chúng lại, xâu chuỗi chúng, quá trình kết nối cũng là quá trình lớn mạnh, chỉ có lớn mạnh mới có thể tồn tại và phát triển. Phương thức tổ hợp của cờ vây là vô hạn, không có công thức, hoặc có thể nói công thức là vô hạn. Đấy là cái vô hạn bí ẩn, tức là sự hấp dẫn, tưởng tượng, tức là trí năng. Cờ vây thắng thua không phụ thuộc vào ngẫu nhiên may rủi, nó là trò chơi đối địch nhau về tâm trí sắc sảo, là sự thử sức nhân cách hai người, vô địch cờ vây chỉ thuộc về những thiên tài thông tuệ, tính tình khô cứng, lạnh lùng. Trên con người họ, sức tưởng tượng, năng lực phân tích, lí giải, kiên nhẫn, thậm chí kĩ xảo phải giống như một nhà toán học, nhà thơ, nhạc sĩ, chẳng qua chỉ khác nhau ở hình thức biểu hiện, phương thức tổ hợp. Bố thể hiện tài năng quái dị trong nghệ thuật chơi cờ vây, có bản lĩnh chiến thắng xuất kì khó hiểu, thậm chí bố tỏ ra chấp nhặt, không muốn chơi cờ với những bại tướng kiêu ngạo và kì quái, không những khiến chúng tôi khó hiểu, ngay cả những kì thủ đến chơi cờ với ông cũng thấy kì lạ và khó hiểu.

Thật hiển nhiên, nếu dùng “ngẫu nhiên” để giải thích hiện tượng cờ vây của ông cũng thật khó thuyết phục. Vậy thì điều gì thúc đẩy bố có được tài trí phi thường ấy? Tự nhiên em nghĩ đến cái bí ẩn của thế giới bên trong bức tường đỏ. Em muốn nói, đấy là nơi thần bí nhất mà em được biết trong đời. Bao nhiêu năm nay, ngày đêm nó hiện dưới tầm mắt em nhưng nó không thấy em, mà cũng không cho phép em được thấy nó. Bên ngoài của nó là tường cao hào sâu, thâm nghiêm đáng sợ, bên trong bí ẩn, sâu không biết đâu là đáy. Em không biết, mà cũng không thể biết, bố làm công việc bí mật gì trong đó, nhưng em có cảm giác công việc đó có mối liên hệ nào đó với cờ vây. Nói một cách khác, cờ vây là một bộ phận công việc bí mật mà bố làm, là số mệnh của cuộc đời bố, bố không tiếp xúc thì thôi, nhưng đã tiếp xúc rồi thì sẽ say sưa, giống như say sưa với nghề nghiệp trước kia, không muốn say sưa cũng không được. Vì đấy là bệnh nghề nghiệp, không thể tùy theo ý mình...

Ngày thứ năm.

Bố là một kì thủ thần bí, tài nghệ cờ của bố tiến nhanh hơn nguyện vọng. Đến mùa thu năm sau, bố không tìm đâu ra đối thủ, nhưng ông vẫn ngồi trước bàn cờ chờ một đối thủ nào đấy đến thách đấu. Bố em cho rằng, trong một khu vực, thậm chí một thành phố với mấy trăm ngàn người, chắc chắn có những kì thủ tuyệt kĩ, họ ẩn náu ở một nơi nào đó, có thể một hôm nào đấy “đánh hơi” thấy ở góc này có một kì thủ thần bí, sẽ đến giao chiến với bố. Thời gian cứ thế trôi qua, những kì thủ nổi danh đến rồi đi, nhưng không có một kì thủ nào có thể địch nổi, thậm chí họ đến không nhằm mục đích cọ xát, mà đến để thỉnh giáo, gặp bố không ai không tỏ ra khiêm tốn, thận trọng.

Nói chung, những người đến trước đây chưa quen biết, bố đều vui mừng, nhưng chơi vài ván cờ rồi, sắc mặt của bố mỗi lúc một khó coi, bố tỏ ra trầm lắng, bày tỏ sự không vừa ý. Có lúc, trình độ đối phương quá thấp, bố còn chỉ dẫn, thở hổn hà hổn hển, trông thật mệt mỏi. Khách đến ra về không vui, em biết khách sẽ ít dần, khả năng kì thủ đến thử tài ngày một. Trong thành phố này không còn khả năng ấy. Vậy là em bàn với Binh, đề nghị Binh thi nghiên cứu sinh. Em nghĩ là chờ cho Binh thi nghiên cứu sinh xong, chúng em sẽ dọn nhà lên tỉnh, như vậy Lữ cũng bằng lòng, bố anh ấy ở trên tỉnh. Nhưng nói thật, không phải em nghĩ cho Lữ, chủ yếu là để bố tìm được người chơi cờ, trên tỉnh người chơi cờ vây giỏi cũng nhiều. Sự thật thì Binh đã bắt tay vào chuẩn bị dự tuyển nghiên cứu sinh, nhưng đến mùa xuân năm sau, khi Binh đã thi đỗ nghiên cứu sinh, bố lại không muốn lên tỉnh.

Sự việc là thế này, vào một buổi chiều, có người đến tìm bố đánh cờ, chơi liền năm ván, bố không thắng ván nào. Đấy là việc chưa từng có kể từ khi bố biết đánh cờ. Thoạt đầu chúng em nghĩ người này chơi cờ rất giỏi, không chú ý lắm, thậm chí còn vui mừng, nghĩ chuyến này bố sẽ được đã cơn nghiện. Nhưng sau đấy một thời gian, bố thua liền mấy người khác, hơn nữa thua liên tục, chơi ván nào thua ván ấy, họ bại này đến thất bại khác, không còn triển vọng. Những người này ra về đều nói đã thắng bố, những người thua cờ trước đây đều không tin, họ gọi điện đến hỏi xem có đúng vậy không. Chúng em nói đúng, họ tỏ ra kì lạ bởi họ biết trình độ cờ của mấy người kia cũng chỉ bình thường. Vậy là có thời gian người đến tìm bố đánh cờ đông hơn, những người đến không ai không là bại tướng trong tay bố trước kia, nhưng bây giờ bố thua họ, thua cả em và Binh. Giống như không thể chơi cờ được nữa, tài nghệ chơi cờ trước đây của bố tưởng chừng sau một đêm cũng bí ẩn biến mất, bây giờ hễ chơi là thua.

Rốt cuộc là chuyện gì đã xảy ra.

Dần dần chúng em phát hiện, hễ chơi cờ là bố có tật không còn tin ở mắt mình, nước cờ hay không đi mà đánh nước cờ khó hiểu, dở khóc dở cười, thậm chí có lúc chúng em cố tình để bố được một ván. Một điều kì lạ khác là, bây giờ bố được hay thua đều không quan tâm, không như trước hễ thua là nổi cáu, bây giờ thua vẫn vui vẻ như thắng. Chúng em cảm thấy có điều không bình thường, nhưng trông bố vẫn bình thường, thậm chí còn vui vẻ hơn trước, cởi mở hơn trước, cho nên chúng em không nghĩ có chuyện gì xấu. Cho đến một buổi tối, Binh về, bố tưởng cậu ta là anh, bố vừa gọi tên vừa ôm chặt như người điên. Chúng em giải thích Binh không phải là anh, nhưng bố vẫn không tin, bố giống như người điên. Chúng em bỗng nghi ngờ, quyết định đưa bố vào bệnh viện. Thật lạ, đến lúc Binh về nhà thay đồ đến đưa bố đi, thì bố hình như tỉnh lại, không còn nhầm Binh là anh nữa. Đấy là lần đầu tiên chúng em thấy bố phát bệnh, bệnh thật kì lạ, anh không thể tưởng tượng nổi.

Bệnh viện cho rằng đấy là chứng mất trí thông thường của người già, bảo chúng em chú ý để bố nghỉ ngơi, đừng để bố phải vận dụng trí óc quá nhiều. Như vậy, chúng em phải ngăn cản những người đến chơi cờ với bố, đồng thời cho uống những thứ thuốc giảm bớt mệt mỏi của trí óc. Không chơi cờ, chúng em lo bố ở nhà buồn, nghĩ đến chuyện Binh học nghiên cứu sinh đã ổn, cơ quan cũ cũng cho Binh nghỉ một thời gian để giúp đỡ bố. Hết giờ em về, thấy hai bố con đánh cờ. Em hỏi Binh bố thắng hay thua, lần nào Binh cũng lắc đầu, nói, bây giờ bố đánh cờ mỗi lúc một kém, để thua bố là không thể, giống như trước đây muốn thắng bố khó.

Chơi cờ không tốt, em nghi chứng mất trí của bố sẽ nặng thêm. Quả nhiên, vào một buổi sáng, trời vừa rạng sáng, em và Binh đang ngủ, bỗng nghe thấy tiếng kêu của bố. Em dậy xem, bố tưởng em là mẹ, hỏi đây là đâu. Em bảo đây là nhà mình, bố không tin, đòi đi. Binh từ trong nhà ra, bố sợ hãi run rẩy, cứ luôn mồm xin lỗi Binh, hình như bố nghĩ bố và mẹ em vào nhầm nhà, muốn Binh tha thứ. Chúng em lại đưa ông vào bệnh viện, đề nghị cho bố điều trị nội trú. Nhưng ngay tối hôm ấy bố từ bệnh viện về, khuyên bảo thế nào cũng không được, ép bố đi cũng không được. Bố cho rằng mình không có bệnh gì, bệnh viện kiểm tra cũng nhận xét bố không có bệnh gì, thần kinh tỉnh táo, không có rối loạn tâm thần.

Nhưng chúng em biết, chắc chắn tinh thần của bố có, chẳng qua vấn đề thể hiện có phần quái dị, giống như có bệnh mà như không có bệnh, sự việc xung quanh đang chơi trò trốn tìm với bố. Một tối, em đưa bố đi dạo, ra đến cổng khu nhà, trông thấy một quả bóng đỏ của trẻ con, lúc quay về quả bóng vẫn còn đó, bố nhìn chăm chú quả bóng một lúc rồi bỏ đi. Em hỏi bố đi đâu, bố bảo về nhà. Em bảo nhà chúng ta ở đây, bố chỉ vào trái bóng nói với em rất nhiều lí lẽ, ý bảo: Trái bóng này không phải là vật cố hữu ở cửa nhà ta, cho dù không cố hữu, nó xuất hiện ở đây rất có thể là để mê hoặc người khác, mà là thứ để mê hoặc người thì không thể bất biến... Bố nói lảm nhảm làm em không hiểu gì. Em thấy bố chú ý quả bóng, nhân lúc bố nhìn đi nơi khác, em đá quả bóng vào chỗ tối. Bố không thấy trái bóng đâu rồi mới lẩm bẩm về nhà. Thời gian ấy bố vẫn thường lẩm bẩm, không biết lẩm bẩm chuyện gì, em và Binh nghe không hiểu, hình như bố đang đọc một bài thơ, lại như đang dạy bảo ai. Nhưng hôm đó em nghe hiểu lời bố lẩm bẩm:

Anh không phải là anh

Tôi không phải là tôi

Bàn không phải là bàn

Bảng đen không phải là bảng đen

Hôm nay không phải là hôm nay

Ánh nắng không phải là ánh nắng...

Thế là gì? Không giống bài thơ, không giống bài hát, ca dao cũng không phải, tại sao bố cứ đọc hoài? Em lấy làm lạ, hỏi bố có ý nghĩa gì. Bố tỏ ra bối rối, hỏi em nói gì, em nhắc lại mấy câu vừa rồi ông lẩm bẩm, bất ngờ bố trừng mắt hỏi em nghe được ở đâu, chừng như đấy là chuyện không thể nói đến. Em nhắc lại đúng như vừa rồi, bố càng tỏ ra vô cùng ngạc nhiên, bảo em quên chuyện đó đi, đồng thời giải thích bố không nói những câu ấy, tưởng như đấy là bí mật ghê gớm bố đã tiết lộ. Nhìn cái vẻ kinh hoàng sợ hãi của bố, em nghĩ, nhất định đây là những thứ bên trong bức tường đỏ...

Ngày thứ sáu.

Bức tường đỏ!

Bức tường đỏ!

Bên trong đó ẩn chứa bí mật gì?

Làm thế nào để người nuôi dưỡng được một con người luôn căng thẳng, kì dị như vậy?

Em cứ nghĩ, về cuối đời bố trở nên kì lạ, bệnh tật cũng kì lạ, chắc chắn có liên quan đến công việc bí mật bên trong bức tường đỏ. Nói một cách khác, có thể đấy là bệnh nghề nghiệp, là di chứng nghề nghiệp của bố. Bởi vì cái bí ẩn nghề nghiệp nên thậm chí bệnh cũng hết sức bí ẩn, không ai hiểu, không ai nghĩ ra chuyện gì.

Nút thắt phải do người thắt nút mới mở được. Em nghĩ, có thể bệnh của bố bắt nguồn từ công việc ông làm, vậy những người làm việc trong bức tường đỏ kia sẽ biết phải đối phó thế nào. Vậy là một hôm, em gặp ông Vương, Cục trưởng, ông đã đến nhà mấy lần, em có ấn tượng ông rất quan tâm đến bố em. Ông Vương nghe em kể bệnh tình của bố, ông im lặng hồi lâu, không tỏ ra kì lạ cũng không đồng tình, chỉ tỏ vẻ bối rối. Ông hỏi, bố bây giờ ở đâu, em nói ở nhà. Ông bảo thư kí đưa cho ông hai cây thuốc, đi với em về nhà. Về đến nhà, em thấy cửa mở nhưng không thấy bố, hỏi ông già trông bảo vệ, ông già nói bố chắc chắn không đi khỏi khu tập thể này, là bởi nửa tiếng đồng hồ trước đó ông còn trông thấy, chỉ ở quanh quẩn đâu đây. Nhưng em tìm khắp nơi vẫn không thấy, cứ như bố bay lên không trung vậy. Kết quả anh biết bố đi đâu không? Ở trên hành lang dãy nhà phía trước nhà em. Lúc tìm thấy, tay bố đang cầm chìa khóa cửa nhà em, loay hoay mở cửa nhà người ta. Anh thấy có buồn cười không? Ngay cả nhà mình cũng không nhận ra. Em đưa bố về, nhưng vừa vào đến cửa bố bỏ ra ngoài ngay, khăng khăng bảo đây không phải là nhà mình! Thật sự em không biết phải làm thế nào. Nhưng ông Vương nghĩ ngay ra một cách, ông bảo em đưa bố ra ngoài, một lúc sau, ông Vương ra gọi bố và em về. Vào nhà, em phát hiện trong nhà có đôi chút thay đổi, ví dụ vỏ bọc sofa không còn, lọ hoa để ở bàn ăn được đưa ra bàn nước, còn một vài thứ khác bị dịch chuyển khỏi vị trí cũ. Bố trông thấy những thứ đó mới tin rằng đây là nhà mình. Anh thấy có kì lạ không? Hết sức kì lạ!

Hôm ấy, trước lúc ra về, ông Vương bảo em cách đối phó với bệnh mất trí của bố, bảo sau này nếu bố có dấu hiệu mất trí, chúng em phải xê dịch, thay đổi một vài thứ trước mắt bố, giống như vừa rồi ông ấy dịch chuyển các thứ trong nhà. Thoạt đầu em không tin, nhưng thử mấy lần, phát hiện cách ấy rất có hiệu quả. Ví dụ, có lúc bố đột ngột coi em và Binh là người ngoài, chúng em chỉ cần thay đồ hoặc chải lại tóc, bố như tỉnh cơn mê lại nhận ra chúng em. Những tình huống khác cũng như vậy, chỉ cần chúng em tùy cơ ứng biến, bố sẽ tỉnh táo ngay. Về sau, chúng em vô tình phát hiện một tuyệt chiêu khác: Chỉ cần mở ti vi hoặc mở đài bố sẽ không coi rằng “đây không phải là nhà mình” nữa. Có thể vì hình ảnh và âm thanh luôn luôn thay đổi chăng? Phát hiện ra điều ấy đã giảm bớt phiền hà cho chúng em, ít nhất để bố về nhà không còn là vấn đề. Nhưng phiền phức mới lại nảy sinh, ví dụ hôm nay ông nhận nhầm người, ngày mai nghe nhầm câu nói nào đó, lúc thế này, lúc thế khác, mọi chuyện kì quặc cứ diễn ra liên tiếp. Anh thử nghĩ, bố như vậy, người bên trong bức tường đỏ có thể hiểu, không hiểu người trong đó nghĩ ông thế nào? Về sau, nhiều người trong khu tập thể bảo bố bị bệnh thần kinh, họ đều tránh xa. Anh có thể thấy, một con người như thế, một người lúc nào cũng có thể phát bệnh, liệu ai còn dám để ra ngoài một mình? Ra ngoài một mình sẽ xảy ra chuyện gì? Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Cho nên mỗi lần bố đi đâu chúng em phải đi theo, giống như một đứa trẻ, hễ lơ là một chút là phải đi tìm khắp nơi khắp chốn! Tất nhiên, những lúc Binh ở nhà sẽ không thành vấn đề, nhưng cuối năm, Binh lên tỉnh đi học, học nghiên cứu sinh. Như đã nói, chúng em định mượn cớ ấy để đưa cả nhà lên tỉnh, thứ nhất là để bố có đối thủ đánh cờ, bây giờ xem ra không cần thiết, mà cũng không thể chơi cờ nữa rồi! Bố như thế này liệu còn đi đâu được? Chỉ có thể ở trong khu tập thể này thôi. Những người ở đây đều biết bố có ưu điểm, nhược điểm gì, bà con thông cảm, mà cũng an toàn. Nếu lên tỉnh, không quen ai, không xảy ra chuyện mới là lạ. Binh đi rồi, nhà chỉ còn một mình em, em đi làm không ai chăm sóc bố, chăm sóc bố thì không đi làm được, biết làm sao? Em đành đi tìm ông Vương. Ông Vương cũng không có cách nào, nghĩ đi nghĩ lại chỉ còn một cách, đưa bố vào bệnh viện.

Em biết bố không muốn vào bệnh viện, nhưng ông Vương bảo đấy là quyết định của tổ chức, không muốn cũng phải chấp hành. Đối với quyết định của tổ chức, không bao giờ bố nói đến điều kiện. Với sự cố gắng của ông Vương, bố vào bệnh viện mà không tỏ ra sợ hãi, hơn nữa được vào Viện điều dưỡng Linh Sơn. Em rất tán thành kết quả ấy, đưa bố vào Viện điều dưỡng Linh Sơn, em thấy môi trường sống, điều kiện, không khí, kể cả đường từ nhà đến Viện... đều rất vừa ý. Không ngờ, chỉ ba ngày sau, em rất ân hận, vô cùng ân hận...

Hôm ấy, Viện điều dưỡng gọi điện cho em, thông báo bố có chuyện. Em và ông Vương đến giải quyết. Đến nơi, đứng dưới toà nhà mà bố ở, em đã nghe thấy tiếng bố kêu gào, lên đến nơi, thấy cửa phòng của bố bị khóa ngoài bằng một sợi xích sắt, trong phòng bố, như một người tù bị oan, ra sức kêu gào. Em hỏi có chuyện gì, bố nói không biết, họ đã giam bố mấy tiếng đồng hồ rồi, sắp đến 4 giờ chiều, cơm trưa cũng không được ăn. Ông Vương đưa em đi tìm lãnh đạo Viện định tố cáo, nhưng lãnh đạo Viện nói lại đầu đuôi sự việc, em không còn biết nói gì hơn. Thì ra Viện có một cô y tá tên là Thi, rất trẻ, ai cũng gọi cô là Tiểu Thi. Anh cũng biết đấy, ở nhà một người cũng gọi em là Tiểu Tư[8], có thể vì lí do ấy đã dẫn đến sự hồ đồ của bố, ông tưởng Tiểu Thi là em, buổi sáng cô ta đến phòng bố thu dọn, bỗng bố tỏ ra quá mức tình cảm với cô, cô ta bực mình, bỏ đi, bố đuổi theo, vừa gọi vừa đuổi, khiến Thi sợ hãi kêu lên.

Vậy là người ở đây nghĩ bố có hành động sàm sỡ, nhốt bố lại. Em giải thích sự việc, người trong Viện trách chúng em bố như thế, không nên đưa vào Viện điều dưỡng mà phải đưa đến bệnh viện tâm thần. Câu nói ấy không sai, đúng là chúng em không đúng, nhưng điều làm em bực mình là có người đòi em phải xin lỗi cô Thi và bồi thường thiệt hại về tinh thần. Em nghĩ, tinh thần của bố bị tổn thương đến mức này, chúng em đòi ai bồi thường?

Chuyện ở Viện điều dưỡng kết thúc, tính ra bố chỉ ở đấy ba ngày, sau đấy muốn ở lại cũng không được, em phải đưa bố về. Người đã về, nhưng lòng em vẫn hoang mang, không biết phải làm thế nào để bố sống yên ổn nốt quãng đời còn lại, đừng nói gì đến sống hạnh phúc, chỉ cần bố sống yên ổn là đủ cho chúng em lắm rồi. Có người đề nghị em đưa bố vào bệnh viện tâm thần, điều này thì em không đồng ý. Như thế chẳng hóa ra bố em mất hẳn rồi sao? Em nghĩ, dù em không đi làm cũng không thể đưa bố vào bệnh viện tâm thần. Đấy không phải là vấn đề đạo lí, mà tình cảm không cho phép em lựa chọn.

Sau đấy, có một hôm, khi bố ở Viện điều dưỡng về chưa lâu, em đi làm về, thấy bố cười hì hì, không chờ em hỏi, bố phấn khởi nói, tổ chức giao việc cho bố, bố sắp đi làm rồi!

Suốt cả ngày hôm ấy ông rất vui.

Nói thật, trước đây chúng em cứ mong bố ra khỏi bức tường đỏ thật sớm, không ngờ lúc này ông lại sắp trở về trong đó, em rất buồn. Quả thật chúng em không muốn. Ông Vương, Cục trưởng, lúc hỏi ý kiến, em nói không, không đành lòng. Em nói, em có thể xin nghỉ công tác ở nhà chăm sóc bố, bố mắng em như tát nước. Sau đấy em nghĩ, chuyện này em không có quyền phản đối, phản đối cũng chẳng ăn thua gì, kì thật em đã xin nghỉ việc, từng giờ từng phút ở bên bố, như vậy thì sao? Bệnh vẫn là bệnh, buồn vẫn là buồn, em không thể đem lại niềm vui cho bố. Chúng em không thể đem niềm vui đến cho bố, liệu ai có thể? Sự thật hiện lên nét mặt bố hôm đó. Anh không thể tưởng tượng nổi, hôm ấy bố vui vẻ thế nào đâu. Ông gọi điện thoại cho Binh suốt hai tiếng đồng hồ, chỉ nói đi nói lại một câu: Bố đã được giao việc, sắp đi làm rồi!

Hôm sau, bố thật sự “đi làm” giống như đã nói qua điện thoại với Binh. Em nhớ rất rõ, đấy là một buổi sáng mùa đông năm 1986, trời rét buốt, qua một đêm mặt đường tuyết tan chảy, em đưa bố đến trước khu tập thể, đưa bố lên chuyến xe chở mọi người vào trong bức tường đỏ. Xe chuyển bánh, nhìn theo bóng bố mỗi lúc một xa, trong đầu em hiện lên hình ảnh bố tiến đến cái cửa sắt nơi bức tường đỏ.

Ôi, bố!

Ôi, bức tường đỏ!

Vậy là, sau tám trăm hai mươi bảy ngày ra khỏi bức tường đỏ, bố lại trở về trong đó!

Lúc đầu, em lo ở trong đó chứng lẩm cẩm của bố lại nổi lên, không có ai chăm sóc, chưa biết chừng lại xảy ra chuyện gì. Với lại, em lo ông ốm yếu, nghỉ một thời gian dài, trở lại công tác liệu có thể chịu đựng nổi không? Không chịu đựng nổi thì sao? Tóm lại, lần này bố quay về bên trong bức tường đỏ, bố đem theo cả linh hồn em, đêm ngày em lo lắng, không sao ngủ nổi, không thể yên tâm, luôn lo lắng, cảm giác có việc gì đó sắp xảy ra với bố. Nhưng một tuần lễ qua đi, lại một tuần lễ nữa, rồi một tháng, không xảy ra việc gì. Không những không xảy ra việc gì, hơn nữa còn tốt hơn nhiều, mỗi lần về em thấy tinh thần bố phấn chấn, khỏe khoắn, vừa lòng, hợp ý, khiến em cảm thấy rất vui. Ôi, anh không thể tin nổi, bố từ sau ngày trở về trong bức tường đỏ tinh thần càng ngày càng tốt hơn, cơ thể mỗi ngày một khỏe ra, cái bệnh kì quặc kia cũng không tái phát, khỏe như chưa bao giờ khỏe thế. Bức tường đỏ giống như bức bình phong có ma lực, loại bỏ hẳn những ngày oan nghiệt, giống như cá về với nước.

Đúng vậy, bố lại sống vui vẻ.

Bây giờ em vẫn nghĩ, vũ trụ sẽ biến đổi, nhưng bố thì không. Số phận của bố không thoát khỏi bức tường đỏ, tâm tư bố từ lâu chìm sâu trong đó, muốn rút ra không nổi, rút ra bố sẽ khô héo, sẽ chết. Bức tường đỏ bí ẩn là mảnh đất sống của bố, cũng là nơi chôn vùi bố, cuối cùng bố sẽ chết trong đó... Ôi, cái chết của bố, tay em bắt đầu run rẩy, em không tin bố đã chết, em không muốn bố chết! Không, em không muốn bố chết!

Bố ơi!

Bố ơi!

Bố ơi!

Ngày thứ bảy.

Em không còn sức để viết tiếp, chỉ còn đôi lời.

Hôm ấy đúng ngày chủ nhật là ngày bố về. Sau khi bố quay lại trong bức tường đỏ, nói chung chủ nhật nào bố cũng về thăm nhà, ngủ một đêm, sáng hôm sau lại đi. Nếu không về, bố sẽ gọi điện thoại báo cho em biết. Chủ nhật hôm ấy, bố không gọi điện cho em, em chuẩn bị đón bố về. 3 giờ chiều, em đi chợ như mọi khi, mua bốn con cá. Bố nói ăn gà bổ chân, ăn cá bổ não, bố ăn cá cả đời không biết chán. Về đến nhà đã hơn 4 giờ, 4 giờ 30 phút, em đang chuẩn bị xào rau,thì có điện thoại, bố lên cơn đau tim, đang cấp cứu trong bệnh viện, yêu cầu em phải đến ngay. Đấy là bệnh viện của đơn vị, em đến nơi thì bác sĩ bảo đã chuyển lên bệnh viện tỉnh. Điều này chứng tỏ bệnh tình của bố rất trầm trọng, vừa nghe nói nước mắt em đã chảy tràn. Những giọt nước mắt sợ hãi. Em vội vàng lên bệnh viện tỉnh, bác sĩ bảo bố đã hôn mê, không thể cứu chữa. Em đau đớn đứng trước bố, bố cười với em, không nói gì. Năm ngày sau, vào lúc 9 giờ 30 phút, bố lại cười với em và vĩnh viễn xa em...
 
Quyển 3 - Chương 4: Hai bức thư


Thư gửi Trần Tư Tư

Vừa rồi tôi đứng trên mái nhà, nhìn về phương Nam xa xăm, nơi có mộ bố em - sư phụ của tôi, buồn lặng một tiếng đồng hồ. Tôi tin rằng, trên trời sư phụ linh thiêng, có thể nghe thấy lời tiễn biệt của tôi ở trên núi này. Tôi nói rất nhiều, rất nhiều, không thể không nói. Tôi giống như bóng ma, gọi sư phụ hết lần này đến lần khác, hết lần này đến lần khác tôi chân thành gửi lời cầu chúc, gửi tình cảm của tôi. Vì gửi đi quá nhiều, tôi cảm thấy mình trở nên nhẹ tênh như muốn bay lên. Đó là cảm giác xương tan thịt nát nhưng không đau đớn, chỉ cảm thấy thanh thản, dễ chịu. Lúc này tôi ngồi trước bàn viết, chuẩn bị viết thư cho em. Tôi dự cảm sẽ nói với em rất nhiều, nhưng nói thật, tôi không biết bao giờ em mới được đọc thư này. Chắc chắn phải chờ rất lâu. Có thể mấy năm, có thể chục năm, có thể mấy chục năm. Tôi không biết. Chỉ biết rằng bố em chưa đến ngày giải mật, em vẫn chưa thể nhận được thư này. Tức là, thư tôi viết không biết bao giờ mới gửi đi. Nhưng dù vậy, tôi vẫn viết, viết xong nhưng chưa gửi, điều ấy không phải vì tôi không lí trí, mà chính vì lí trí, ấy là tôi nói, tôi tin bí mật của bố em sẽ có ngày được công khai, nhưng chưa biết đó là ngày nào. Bí mật nào cũng chỉ trong một thời gian tương đối, nửa thế kỉ trước,chuyện người Mĩ quyết định tiêu diệt Yamamoto Isoroku, thủ phạm gây ra vụ Trân Châu cảng là một bí mật lớn, nhưng ngày nay bí mật ấy đã được đưa lên màn ảnh, mọi người cùng biết. Thời gian sẽ mở toang cánh cửa của mọi bí mật. Theo một ý nghĩa nào đó, trên đời này bí mật không bao giờ được tiết lộ là không có bí mật nào vĩnh viễn không thể tiết lộ. Nghĩ như vậy, tôi có lí do để mừng cho em. Tôi biết, biết hơn ai hết, em mong tôi nói với em tại sao những năm cuối đời bố em lại làm nhiều chuyện kì quái, sống buồn bã và đau đớn như vậy. Thư này của tôi sẽ nói với em tất cả, có điều sau khi đọc, em đừng trách tôi để em phải chờ đợi quá lâu. Đấy là lá thư phải chờ đợi thật lâu mới được gửi đi, giống như nút thắt cổ xưa, phải kiên nhẫn mới tháo gỡ nổi.

Em đã nói, có dư luận nói rằng 701 là đơn vị nghiên cứu vũ khí bí mật, thật ra không phải. Vậy là gì? Đấy là một tổ chức tình báo, chịu trách nhiệm nghe lén vô tuyến điện của nước X và chịu trách nhiệm dịch nó thành minh mã. Tổ chức tình báo như vậy nước nào cũng có, hiện tại có, trong quá khứ có, nước lớn có, nước nhỏ cũng có. Cho nên nói, bí mật của những tổ chức loại ấy thật ra là bí mật công khai, không có gì khác. Chúng tôi thường nói, biết người biết ta trăm trận trăm thắng, cái gọi là “biết người” tức là thu thập thông tin tình báo. Vị trí tình báo trong chiến tranh giống như điểm tựa của đòn bẩy, một nhà vật lí nổi tiếng từng nói, cho ông ta một điểm tựa, ông ta có thể nâng bổng trái đất lên, có thông tin tình báo chính xác, bất cứ quân đội nào cũng có thể chiến thắng trong chiến tranh. Biện pháp để lấy được tin tức tình báo chỉ có một, đấy là ăn cắp, nghe trộm, ngoài ra không còn cách nào khác. Cho tình báo viên xâm nhập vào hàng ngũ đối phương, hoặc trèo tường vượt rào cũng là một cách ăn cắp; ngồi ở nhà chặn sóng liên lạc của đối phương cũng là một cách ăn cắp. Để so sánh, cách ngồi nhà lấy trộm tin tức của đối phương là an toàn nhất, có hiệu quả nhất. Để chống trộm, ứng dụng kĩ thuật mật mã là tốt nhất,phá khóa mật mã cũng xuất phát từ đấy. Bố của em làm công việc phá khóa mật mã. Đấy là trái tim chuyển vận công tác của chúng tôi, là trái tim của trái tim.

Phá khóa mật mã tương đương với tạo dựng mật mã, nói một cách hình tượng, hai bên chơi trò trốn tìm đuổi bắt. Tạo mật mã là việc giấu kín, phá khóa mật mã là việc của chúng tôi. Bên giấu có cái bí mật riêng, bên phá có cách tìm kiếm riêng, sau hai cuộc Chiến tranh Thế giới “rửa tội”, cả hai phía đều nhanh chóng phát triển mật mã thành một môn khoa học, huy động các nhà toán học đỉnh cao của thế giới vào cuộc. Có người nói, phá khóa mật mã là sự nghiệp của một thiên tài đào xới trái tim của một thiên tài khác, là một sát thủ và đấu sĩ rất rất cao cấp. Nói một cách khác, người phá khóa mật mã là nhân tài đỉnh cao về mặt toán lí, ở những trường đại học và học viện toán học nổi tiếng, mỗi năm hễ đến mùa hè đều chào đón những con người thần bí, họ có đặc quyền tối cao, đến là nghiên cứu cả đống hồ sơ sinh viên, rồi kiếm tìm trong đó một vài sinh viên xuất sắc và đưa đi. Bốn mươi năm nay, khoa toán của đại học S. Chỉ có một người được đưa đi, đó là bố của em. Ba mươi năm sau đấy, trường của ông lại có một người ra đi, đấy là tôi. Không ai biết chúng tôi làm việc gì, kể cả bản thân chúng tôi, cho đến mấy tháng sau mới biết mình làm việc phá khóa mật mã.

Nếu con người có thể chọn lựa số phận, thẳng thắn mà nói, tôi sẽ không chọn nghề phá khóa mật mã, bởi đấy là một ngành khoa học cô đơn, âm thầm, đầy trắc trở và bóp chết nhân tính. Tôi nhớ rõ, tối hôm ấy, người của cấp trên đến đại học S. đưa tôi đi, ban đầu ngồi tàu mười mấy tiếng đồng hồ, sau đấy, tàu dừng lại ở một ga hoang vắng giữa đêm hôm khuya khoắt, không gần làng gần phố. Tiếp theo, chúng tôi lên một chiếc xe Jeep không biển số, lên xe rồi những người đưa tôi đi tỏ ra quan tâm, cho tôi uống một cốc nước. Có ma mới biết trong nước có gì, uống xong tôi ngủ một giấc, lúc tỉnh dậy, tôi đã ở trong một doanh trại yên tĩnh vắng vẻ, đấy là cơ sở bí mật chuyên huấn luyện nhân viên phá khóa mật mã. Cùng tham dự huấn luyện với tôi có năm người, trong đó có một người nữ. Tháng đầu tiên chúng tôi được huấn luyện “quên”, mục đích là để chúng tôi quên quá khứ, tháng tiếp theo là bài học bí mật, sau đấy là ba tháng huấn luyện nghiệp vụ. Suốt nửa năm bí ẩn, căng thẳng, chúng tôi lại bị bịt mắt rời nơi ấy. Cho đến lúc này tôi cũng không biết đấy là đâu, Đông, Tây, Nam, Bắc không biết, chỉ biết đấy là một khu rừng, rừng nguyên sinh.

Trong ba tháng huấn luyện nghiệp vụ cuối cùng, thường xuyên có những chuyên gia phá khóa mật mã đến giảng bài, chủ yếu truyền đạt những kiến thức chung và kinh nghiệm phá khóa mật mã. Một hôm, đồng chí phụ trách nói với chúng tôi, hôm nay đến giảng bài là một cao thủ phá khóa mật mã, tính tình ông rất kì lạ, chúng tôi chăm chú nghe giảng, không để ông nổi nóng. Quả nhiên người này làm chúng tôi thấy kì lạ, bảo là đến truyền đạt kinh nghiệm, nhưng bước vào lớp không thèm nhìn chúng tôi, cứ vậy ngồi trên bục giảng hút thuốc,coi như không có ai, ông không nói năng gì. Chúng tôi nín thở im lặng nhìn ông, thời gian từng giây trôi qua, khói thuốc mù mịt, mười phút trôi qua. Chúng tôi bắt đầu ngồi không yên, có người ho khan chừng như làm ông bừng tỉnh. Ông ngước nhìn chúng tôi, đứng dậy, đi vòng quanh chúng tôi một lượt, sau đấy trở về bục giảng cầm một viên phấn lên, hỏi chúng tôi đây là cái gì. Ông hỏi từng người, tất cả lần lượt trả lời đấy là viên phấn. Sau đấy, ông nắm viên phấn trong tay, nói như đọc thuộc lòng:

“Nếu đây là một viên phấn, chứng tỏ các anh các chị chưa phá được khóa, ngược lại nó không phải là viên phấn. Rất nhiều năm trước, tôi đã ngồi ở vị trí các anh các chị, nghe lời dạy của một vị tiền bối giải mã, ông ấy nói thế này: Trong thế giới mật mã, không có cái cho mắt thường trông thấy, mắt thường trông thấy cái gì, kết quả khẳng định không phải là nó (ông chỉ tay) anh không phải là anh, tôi không phải là tôi, cái bàn không phải là cái bàn, cái bảng không phải là cái bảng, hôm nay không phải hôm nay, ánh nắng không phải là ánh nắng. Mọi vật trên đời này là thế, cái phức tạp nhất sẽ là cái đơn giản nhất. Tôi chỉ nói những điều ấy thôi, bài học đến đây là kết thúc”.

Nói xong, ông đi thẳng ra khỏi lớp học, khiến chúng tôi không hiểu thế nào cả. Chính bài học kì quặc ấy khiến chúng tôi nhớ mãi, không thể quên mỗi động tác, mỗi lời nói của ông. Những ngày sau đó, khi chúng tôi thật sự tiếp xúc với mật mã, tôi phát hiện - càng ngày càng phát hiện - bài học ấy của ông thật ra chỉ một lời đã giải đáp được mật mã và phá khóa mật mã. Người ta nói, phá khóa mật mã là một nghề cô đơn và âm thầm, ngoài tri thức, kinh nghiệm và thiên bẩm, càng cần hơn vận may từ ngoài bầu trời, vận may là thứ tìm kiếm hoặc cầu mong đều không được, chỉ biết nghe theo số trời, cho nên cần phải học được cách nín hơi im lặng, học được cách kiên trì đợi chờ, sốt ruột vẫn phải chờ, chờ cho biển cạn đá mòn. Lí lẽ ấy nói thế nào cũng không thể so với điều ông không nói ra, sự trầm mặc khó hiểu khiến mọi người phải nhớ mãi, nhưng điều ông nói lại thật đơn giản và thấu đáo, chỉ một lời đã nói được cái đạo lí sâu xa, biến cái không trông thấy trở thành cái cụ thể ngay trước mắt, có thể trông thấy, sờ thấy.

Đấy là con người hiểu sâu sắc cái bí mật của mật mã. Người ấy chính là bố của em.

Nửa tháng sau, tôi được phân công về Cục Giải mã của 701, bắt đầu cuộc đời phá khóa mật mã dài lâu với ông. Tôi đã nói, nếu cho lựa chọn tôi sẽ không chọn cái nghề này, nhưng trong tình huống không có sự lựa chọn, tôi đành nhận bố em làm sư phụ, sớm tối bên ông là vận may lớn nhất trong đời tôi. Nói thật, trong giới phá khóa mật mã, tôi chưa từng thấy một ai có độ nhạy phi thường đối với mật mã như thế, hình như ông có linh tính với mật mã, giống như sợi dây liên kết đứa trẻ với mẹ, có nhiều điều tương thông, khí huyết tương thông, đấy là cái siêu phàm của ông khi tiếp cận mật mã. Ông còn một điều siêu phàm khác nữa là phẩm chất kiên nhẫn khác người, càng những việc tuyệt vọng, càng làm ông không nao núng. Trí tuệ của ông và tính hoang dã ngang nhau, gắn bó với nhau, đều gấp đôi người thường. Quan sát tâm linh rộng mở và tĩnh lặng của ông, sẽ được cổ vũ nhưng lại cảm thấy bất lực.

Còn nhớ ngày đầu tiên vào bên trong bức tường đỏ, tôi được bố trí nghỉ ở căn phòng của bố em, thấy bốn bức tường ghi kín dấu x màu đen, những dấu x xếp thành hàng như bài thơ:

X x x x x

X x x x x

X x x x x x x

X x x x x x x

X x x x x x x

X x x x x x x

Nhìn vào nét đen tươi sáng hình như vừa mới viết.

Tôi hỏi đây là cái gì, bố em bảo đấy là mật mã, mật mã có liên quan đến phá khóa mật mã, ông bảo tôi thử giải. Ông thấy tôi im lặng lại giục tôi, bảo đấy là những điều tôi đã nghe ông nói. Tôi nghĩ và hiểu ngay, bởi đấy là mấy câu ông nói trong lớp học, tôi so sánh, biết ngay đấy là mấy câu:

Anh không phải là anh

Tôi không phải là tôi

Cái bàn không phải là cái bàn

Cái bảng không phải là cái bảng

Hôm nay không phải là hôm nay

Ánh nắng không phải là ánh nắng.

Mấy câu ấy ông nói trong lớp học, học viên chúng tôi vẫn nhẩm đọc, không ngờ ông lặng lẽ sống với nó. Về sau tôi biết, hàng ngày trước khi đi ngủ và sáng ngủ dậy, ông đọc mấy lần như cầu kinh. Có lúc rỗi rãi, ông viết lại, cho nên màu sắc luôn luôn mới. Được ông chỉ dẫn, tôi cũng làm theo, bốn bức tường trong phòng cũng viết như vậy, hàng ngày trước khi ngủ và sáng sớm thức dậy cũng đọc vài lần, lâu ngày tôi mới hiểu, điều ấy hết sức quan trọng đối với người phá khóa mật mã.

Có người hỏi, ai là người thích hợp tạo dựng mật mã? Câu trả lời sẽ là người điên. Em có thể tưởng tượng, nếu cứ theo suy nghĩ của người điên - tức là không có tư duy - thiết kế một bộ mật mã, không nghi ngờ gì bộ mật mã ấy sẽ không có ai phá nổi. Tại sao mật mã bây giờ có thể phá khóa, bởi người tạo mật mã không phải là người điên thật sự, mà là giả điên, cho nên không đạt đến độ vô lí. Chỉ cần tồn tại cái có lí nó sẽ có quy luật tuần hoàn, có thể tìm ra, có khóa chắc chắn sẽ mở được. Vậy ai thích hợp cho việc phá khóa mã? Tất nhiên lại là kẻ điên, bời vì người điên đối lập với người tạo mật mã. Nói cho cùng, sự nghiệp tạo và phá khóa mật mã gần với sự nghiệp của người điên, càng gần điên càng xa tâm lí người bình thường, cái họ tạo ra người thường càng khó nắm bắt, giải mã. Phá khóa mật mã cũng giống như vậy, càng gần người điên càng gần tâm lí của người tạo mật mã, càng có thể phá khóa mã. Bởi vậy, càng là người bình thường, càng khó phá khóa mã, bởi vì họ rất dễ bị mê hoặc bởi bề ngoài của mật mã. Cái chân thật của mật mã thường ẩn nấp ở phía sau, xa mười vạn tám ngàn dặm. Nếu không thoát khỏi bề ngoài, tư duy khó được mở ra, đấy là điều quan trọng đối với mật mã.

Nói ví dụ, giống như hai câu dưới đây:

Anh không phải là anh

Tôi không phải là tôi

Chúng ta giả thiết có hai bí mật.

Loại thứ nhất là:

X x x x x

X x x x x

Loại thứ hai là:

Trên trời có một ngôi sao

Dưới đất có một con người

Hoặc là bất kì một mặt chữ nào khác.

Cứ thử nghĩ, loại nào tốt hơn?

Tất nhiên là loại thứ nhất, nó tốt ở bề mặt trắng, không gian tưởng tượng không bị câu thúc. Loại sau tuy đã biết ý nghĩa của những chữ ấy là che giấu, nhưng trong quá trình bóc tách sức tưởng tượng nhiều hay ít, hoặc thế này hoặc thế khác, chắc chắn sẽ bị ý tưởng mặt chữ chi phối và hạn chế suy nghĩ. Nhưng sự cố gắng của bố em mục đích là muốn đạt đến giới hạn của loại thứ nhất, biểu đạt được ý của mặt chữ, có thể có ý hoặc vô tình thoát khỏi nó, vứt bỏ nó. Cái vô thức càng sâu, không gian tưởng tượng càng có thể tự do rộng mở, ngược lại sẽ bị hạn chế. Sự thật thì, phá khóa mật mã có giỏi hay không, trước hết phải kéo xa khoảng cách vô ý và hữu ý. Quả thật, một người bình thường có cái hữu ý triệt để đạt đến cái vô ý là không thể, chỉ có thể cố gắng tiếp cận. Mà cố gắng tiếp cận lại không phải là vô cùng tận, bởi tiếp cận đến một mức độ nào đó, cái sợi dây “hữu ý” giống như sợi tơ nhện, có thể đứt bất cứ lúc nào, đứt thì người cũng coi như xong, bỗng chốc trở thành người điên. Cho nên nói, nghề phá khóa mật mã là hồ đồ, tàn khốc, nó vừa yêu cầu phải vờ điên, cố đạt đến giới hạn của người điên, vừa yêu cầu có cái tinh thông của một nhà khoa học, nắm thật vững ranh giới giữa người thường và người điên, không được vượt quá ranh giới, quá ranh giới tất cả đều hỏng, giống như sợi tóc bóng đèn điện bị cháy. Sợi tóc đèn trước khi cháy luôn luôn loé sáng, người phá khóa mật mã giỏi chính là sợi tóc đèn lúc sáng nhất, bất cứ lúc nào cũng có thể ra đi.

Bố của em là sư phụ giỏi nhất trong nghề phá khóa mật mã được mọi người công nhận. Ông là người cố chấp hiếm thấy, mấy chục năm ngày nào như ngày nào, không một phút nào không đặt mình trong trạng thái phá khóa cao nhất, đó cũng chính là trạng thái của sợi tóc đèn lúc sáng nhất, đấy là sự mạo hiểm điên khùng. Chỉ có người điên mới dám mạnh dạn như thế. Ông đạt đến đỉnh cao vinh quang của một người phá khóa mật mã, mặt khác điều đó cũng đặt ông bên bờ vực bất cứ lúc nào cũng “cháy mất”, bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành người điên. Nói đến đây em nên hiểu tại sao bố em vào những năm cuối đời lại bị chứng bệnh ấy - chứng bệnh em cho là kì lạ - đấy là cái tất yếu xuất hiện trong số phận của ông, không có gì kì lạ. Theo tôi, cái đáng kì lạ là, ông không bị số phận hạ gục đến tận cùng, giống như sợi tóc đèn, trong bóng tối lại từ từ loé sáng.

Đấy mới thật sự là kì tích!

Nhưng với bố em, suốt cuộc đời đều là kì tích, có thêm một kì tích nữa cũng không phải là điều kì lạ.

Về “hiện tượng cờ vây” của bố em, cũng không có gì kì lạ. Từ góc độ nghề nghiệp, người làm công việc phá khóa mật mã, số phận và chơi cờ đều có mối liên hệ tự nhiên, bởi nói cho cùng, kĩ thuật mật mã và nghệ thuật chơi cờ đều là trò chơi toán học, cả hai rất gần nhau, là hai trái trên cùng một cành cây. Khi một người phá khóa mật mã rời khỏi công việc, yêu cầu ông sống trong hưởng lạc, tự nhiên ông sẽ say mê cờ, đấy là hình thức khác của nghề nghiệp, cũng là chốn về mà ông đã thiết kế từ khi lựa chọn nghề nghiệp.

Tất nhiên, so với độ sâu sắc của mật mã, cái sâu sắc bí ẩn cao nhất trên bàn cờ lại quá đơn giản. Cho nên, tài nghệ chơi cờ của bố em có thể tiến bộ một cách thần kì, chơi với ai cũng cao hơn hẳn, giống như chúng ta dùng siêu máy tính trong công việc làm máy tính gia đình, chẳng khác gì dùng dao mổ trâu để giết gà, không con gà nào là không giết được.

Tóm lại, giống như em nói, dù là cái kì quái hay bệnh tật của bố em vào những năm cuối đời đều không tách khỏi công việc bí mật của ông bên trong bức tường đỏ. Nói một cách khác, đấy là một phần trong số phận không thể thay đổi của ông kể từ sau khi làm cái nghề đặc thù này. Trên đời có nhiều nghề khác nhau, nhưng không nghi ngờ gì nữa, nghề phá khóa mật mã vừa thần bí, hoang đường, mà cũng khiến con người đau xót, nó sử dụng cái tinh anh của con người, bắt cái tinh anh của con người làm cái việc của người điên, đêm ngày chìm đắm trong “anh không phải là anh, tôi không phải là tôi”, mà cái họ dồn hết tâm trí để kiếm tìm lại ở trong bóng tối, ở mặt sau của tấm kính, ở một nơi xa thẳm, nơi tận cùng của số phận...

Thư gửi Trần Tư Binh

Thư gửi cho chị Tư Tư cùng đồng thời gửi cho em, bởi anh nghĩ, cho dù anh không gửi cho em, chị Tư Tư nhận được thư cũng sẽ cho em xem. Cho nên lúc viết thư cho chị Tư Tư, anh dùng hai lớp giấy than để có ba bản thư, trong đó một bản gửi cho em (bản thứ ba sẽ giao cho lưu trữ hồ sơ của đơn vị). Em có thể xem trước thư của anh gửi cho chị Tư, như vậy em sẽ rõ ngay tại sao cho đến nay (không ai biết “đến nay” là năm nào, tháng nào) mới nhận được thư của anh. Là bởi, trong thư anh nói đến chuyện của bố em, chuyện chưa đến thời hạn giải mật. Chờ giải mật cũng giống như chờ số phận, anh tin rằng “ngày ấy” nhất định sẽ đến, nhưng “ngày ấy” là lúc nào, chỉ có trời mới biết. Có thể, em đọc thư của anh gửi chị Tư cũng đã phát hiện, thư ấy anh viết từ nửa năm trước, tại sao mãi đến lúc này mới gửi thư cho em? Tuy anh biết, em rất mong anh kể “chuyện ấy” - chuyện mà bố nói trong di chúc là chuyện gì. Nhưng anh cũng biết, anh không thể đáp ứng mong muốn của em. Cho nên, anh vẫn nghĩ mình sẽ không viết lá thư này, không ngờ, sự việc bây giờ đã thay đổi. Chính vì sự thay đổi này nên em có quyền được biết chuyện ấy.

Hai hôm trước, ông Vương, Cục trưởng trên Tổng cục về kiểm tra công tác, ông ấy đã gặp anh, nói rất nhiều chuyện liên quan đến bố em, ông còn nhắc đến “chuyện ấy”. Lúc ấy anh ngớ ra, “chuyện ấy” hoàn toàn là bí mật của anh và bố em, không hiểu sao ông Vương lại biết? Thì ra bố em viết di chúc cho anh xong, đến hôm sau trước khi ông mất, ông lại dùng chút hơi sức cuối cùng nói thẳng với tổ chức. Bởi sự việc có liên quan đến bí mật phá khóa mật mã, trước lúc nói ra không ai biết, cho nên em không thể biết. Lúc ấy, chỉ có ông Vương có mặt, ông kể lại, bố em nói xong “chuyện ấy”, giống như đã hoàn tất mọi việc trong đời, bảo đi là đi, thậm chí suýt nữa mọi người không kịp cáo biệt ông.

Kính thưa sư phụ, kính thưa sư phụ! Xin đừng, xin đừng, xin sư phụ đừng nói đến “chuyện ấy”. Tại sao sư phụ không tin con? Xin sư phụ nghe con nói, những điều sư phụ nghĩ và nói ra đều không phải là sự thật, nói ra chỉ làm con buồn. Con rất buồn...

Lúc này anh rất, rất muốn nói với em về “chuyện ấy”, vì anh nghĩ tuy bố em đã nói ra sự thật, bản di chúc gửi cho anh cũng đã thành tờ giấy loại, hơn nữa điều đó không phải là sự thật, anh phải cải chính.

Binh, hãy đọc thư của anh gửi cho chị Tư, có thể em đã biết, bố em là một chuyên gia phá khóa mật mã, đó là công việc thần bí và âm thầm, giày vò tinh anh của nhân loại đến chết đi sống lại. Có thể nói, bố của em gặp may hết lần này đến lần khác, giữa bố em và mật mã, kẻ bị giày vò đến chết không phải bố em mà là mật mã. Trong đời ông phá được bảy bộ mật mã trung cấp, ba bộ mật mã cao cấp hoặc chuẩn cao cấp, đấy là điều hiếm thấy trong giới phá khóa mật mã. Nếu có giải Nobel về phá khóa mật mã, thì bố của em sẽ là người được giải, thậm chí có thể lập được cú đúp cũng nên.

Mùa hè năm 1973 anh về làm việc ở 701, lúc ấy bố em đã phá được một bộ mật mã chuẩn cao cấp, sáu bộ mật mã trung cấp, vì thế ông đã có thành tích to lớn, nhưng khi phá khóa mật mã Sa mạc số Một ông như một người tù, giam mình trong phòng suốt ngày. Mật mã Sa mạc số Một gọi tắt là mật mã Lửa, là bộ mật mã cao cấp nhất thế giới sử dụng cho ba thứ quân hồi những năm 60 của thế kỉ trước của nước X. Lúc mới đưa vào sử dụng, rất nhiều chuyên gia quân sự trên thế giới đều dự đoán trong thế kỉ XX không ai có thể phá được khóa mật mã này, không phá được là chuyện bình thường, phá được mới là chuyện không bình thường. Bố em trong ba năm vẫn chưa tìm ra đầu mối, những lời dự đoán kia không phải là không có cơ sở. Anh vẫn nhớ, lần đầu tiên bố em nói chuyện với anh, ông bảo ông đang phá khóa một bộ mật mã ma quỷ, nếu anh sợ ma quỷ thì đừng theo ông. Mười năm sau, anh hối hận vì hồi ấy đã không tin lời ông, bởi trong mười năm ấy anh đã nỗ lực gấp đôi, thậm chí nằm mơ cũng nghĩ đến mật mã, nhưng mật mã luôn luôn bí mật, nó ở bên kia núi. Có lúc anh nghĩ, anh và bố em không như nhau, trong hầu bao của bố em đã có đủ vinh quang để hưởng cả đời, cho dù trận này có thua thì suốt đời ông đã thắng. Còn anh vẫn là một người vô danh tiểu tốt, mất mười năm mới có một trận đánh sơ sài và cuồng vọng. Rõ ràng, nếu trận ấy thua, anh sẽ thua cả cuộc đời. Nhưng mười năm sau suy nghĩ tìm tòi những vấn đề ấy là quá muộn, như lời của bố em: Đấy không phải là thông minh mà là ngu xuẩn. Được sự cổ vũ của bố em, những lo lắng cho số phận của anh trở thành sự bực tức và dã tâm. Có một hôm, anh lặng lẽ đem chăn đệm lên phòng Giải mã, bố em thấy liền ném cho anh chìa khóa phòng của ông, bảo anh đưa chăn đệm của ông lên luôn. Tức là anh chuẩn bị bất chấp tất cả, liều một phen, chơi trận cuối cùng.

Sau đấy anh và bố em cùng ăn cùng ngủ, hình bóng không rời. Bố em vẫn mê tín, ông cho rằng đến nửa đêm sẽ là nửa người nửa ma, vừa có khí chất của người, vừa có linh hồn của ma, rất dễ có linh cảm, cho nên trong một thời gian dài ông có thói quen ngủ sớm dậy sớm, đi ngủ từ 8 giờ tối, 1, 2 giờ sáng lại dậy, đi dạo một lúc, sau đấy bắt đầu làm việc. Như vậy thời gian làm việc và nghỉ ngơi của anh và bố em lệch nhau, bởi vậy anh phát hiện được bí mật của bố em: Lúc ngủ hay nói mê.

Nói mê là nói mê, nói lảm nhảm, giống như con vẹt học nói, rất khó hiểu. Nhưng thỉnh thoảng cũng hiểu đôi chỗ, chỉ cần nghe hiểu được là anh nhận ra lời ông nói đều có liên quan đến mật mã. Điều ấy chứng tỏ, trong giấc mơ ông vẫn nghĩ đến việc phá khóa mật mã. Có lúc ông nói mê nghe rất rõ, thậm chí còn rõ hơn cả lúc nói ban ngày, tuy nói ra những điều kì dị nhưng rất quý. Có một hôm, trong mơ ông gọi tên anh, sau đấy rời rác nói ra những suy nghĩ rất quái đản, nói rất cụ thể, có lí có lẽ, giống như đang giảng bài. Anh cảm thấy bố em nói toàn những điều kỳ quặc, nhưng lại có cái đặc biệt. Lấy một ví dụ, bây giờ giả thiết bí mật của mật mãLửa là một bảo bối ở nơi rất xa, chúng ta muốn tìm ra nơi ấy, trước tiên phải lựa chọn đi đường bộ hay đường thủy hoặc đường khác. Lúc ấy anh và bố em đang đứng trước một bãi đá lởm chởm, rộng lớn, không thấy nước, cho nên loại trừ việc đi đường thủy. Đi đường bộ anh và bố của em thử mấy hướng, kết quả đều rơi vào ngõ cụt, không biết đang ở đâu. Không thấy đường thủy, đường bộ cũng không thoát, bố em trong mơ nói với anh, dưới lớp đá kia là một dòng sông, chúng ta thử đi đường thủy xem sao. Anh cảm thấy câu nói thật kì lạ nhưng lại có giá trị, cứ thử xem, cho dù sai thì trong lòng ông đã có hình ảnh của anh. Bởi vậy hôm sau, khi anh xác nhận những lời nói mê của ông không có ấn tượng gì, và xem nó là quan điểm của mình, vừa nói ra liền được ông đánh giá cao.

Xin nhớ, đấy là sự bắt đầu của những thần kì và phức tạp sau này, là tiền đề để anh “lấy cắp” tư tưởng của ông.

Em sẽ không thể ngờ, không ai có thể ngờ, khi anh và bố của em thử nhưng không thể tin nổi, hai người đứng trên bãi đá lộn xộn dưới đó quả nhiên có một dòng sông, có thể đưa hai người đi tìm cái nơi xa xôi trong tưởng tượng kia. Vậy là chúng tôi chuẩn bị xuất phát, thật không thể hiểu nổi, cái mà anh mất mười năm không có cách nào tìm đến, cuối cùng rơi xuống một cách ngẫu nhiên.

Đấy là bước quan trọng trong việc phá khóa mật mã Lửa, có được bước ấy coi như thành công một nửa. Tiếp theo, còn hai vấn đề quan trọng không thể bỏ qua: Thứ nhất, chọn nơi lên bờ; thứ hai, lên bờ rồi sẽ tìm ở trong nhà hay tìm ở ngoài trời. Tất nhiên anh nói thế chỉ là ví dụ, mọi ví dụ đều không thật, nhưng không ví dụ như thế anh biết nói thế nào? Nếu cứ nói rõ, không những em không hiểu mà còn vĩnh viễn không trông thấy. Nếu anh nói cụ thể quá trình phá khóa mật mã Lửa, có thể thư này khó được giải mật để đến tay em.

Trên đây đã nói đến “hai vấn đề” một khi đã giải quyết, anh và bố em có thể đẩy nhanh tiến trình, phá mã ngay trong chớp mắt. Nhưng phải làm thế nào để giải quyết hai vấn đề trên? Anh lại đặt hy vọng ở những lời nói trong mơ của ông, như vậy có vớ vẩn quá không? Vớ vẩn thì vớ vẩn, vì anh không thể nghĩ ra bất cứ giải pháp nào tốt hơn. Vậy là, từ đấy về sau, anh chú ý thu thập những lời nói mê của ông, hễ nghe được gì, cho dù có liên quan đến mật mã Lửa hay không anh đều ghi lại, suy đoán tỉ mỉ những gì có thể có linh cảm trong đó. Nhưng nói thật, trong lòng anh không tin sẽ phát sinh chuyện thần kỳ gì nữa, là bởi sự việc quá kỳ lạ, xuất hiện chỉ một lần cũng đủ khác thường lắm rồi, đâu dám mong có lần thứ hai. Ảo tưởng cũng không dám. Nhưng sự việc tưởng chừng quyết tâm thần kì đến cùng. Mỗi lần anh và bố em đến thời điểm phải lựa chọn, bố em đều kịp thời chỉ điểm cho anh bằng hình thức nói mê, cho anh mạch suy nghĩ, cho anh linh cảm, cho anh sức mạnh và pháp bảo xuất kì chiến thắng, cho anh từng bước từng bước thần kì đến điểm cuối của mật mã Lửa. Trong tăm tối, anh cảm thấy mình đang từng bước biến thành bố em, ít nói năng, tình cảm kì lạ, có lúc có con ruồi theo từ nhà ăn về bay bay trước mặt, cũng khiến anh cảm thấy thân thiết vô cùng, tiếng vo ve của nó như đang thổ lộ với anh những bí mật bên ngoài bầu trời. Cứ như vậy hai năm sau, giống như một giấc mơ, anh và bố em đã phá được mật mãLửa, lập nên một trang kì tích trong lịch sử phá khóa mật mã của loài người. Lúc này anh nghĩ, nếu ngay từ đầu anh ở chung với bố em, chú ý nghe những lời nói mê của ông, có thể đã phá được khóa mật mã Lửa từ lâu; nếu anh có thể hiểu mọi điều ông nói trong lúc ngủ, có khi thời gian phá khóa mật mã còn nhanh hơn. Thậm chí anh nghĩ, tuy phá khóa mật mã Lửa là việc khó nhất trên đời, nhưng nếu có thể giải mật được những lời nói mê của ông, mọi việc có thể đã dễ dàng hơn. Người làm cái nghề này đều biết, phá khóa mật mã không thể phá trong tình huống bình thường, mà từ trong vô tình, trong âm thầm bất ngờ, không biết tại sao. Cái buồn của phá khóa mật mã là ở đấy, cái thần kì của những người phá khóa mật mã cũng ở đấy. Nhưng mật mã Lửa ma sai quỷ khiến, có thể đã sáng tạo nên một kỉ lục thần bí mới trong giới phá khóa mật mã thần bí.

Lúc chiến thắng cũng là lúc rơi vào khó khăn. Vừa thoát khỏi sự trói buộc của mật mã Lửa, một sự trói buộc khác lại trói buộc anh và bố em, đấy là vương miện đội trên đầu ai? Sự việc này nói ra không đơn giản hơn mật mã Lửa, lòng chân thật và lương tâm của anh và bố của em gây nên phức tạp, cả hai người đều nhấn mạnh với tổ chức: Cộng sự đã lập công đầu, đề nghị thường công cho cộng sự của tôi. Giữa anh và bố em, không ai cướp công ai, không ai ích kỉ hại người, không làm chuyện thất đức. Điều này thì anh tuyệt đối tin tưởng ở bố em và tin ở bản thân. Anh đã nói, bố em nói mê lần đầu cho anh linh cảm, anh không nói thật với bố em là bởi lòng háo danh, nhưng mấy lần sau không chỉ như vậy, anh lo nếu nói thật ông sẽ không trao giấc mơ cho anh nữa. Điều này hoàn toàn có thể, vì ông là con người vô tâm, nhưng một khi anh nói ra, cái vô tình sẽ biến thành hữu ý. Có nhiều sự việc không thể cầu mong, cầu mong sẽ biến thành mê tín. Chính vì như vậy anh không dám nói ra những bí mật khi ông nói mê. Nhưng anh đã nghĩ, nếu một ngày nào đó anh và ông phá được mật mã Lửa, nhất định anh sẽ nói với ông. Cho nên, sau khi mật mã Lửa bị phá, khi bố của em chúc mừng anh, anh đã nói rõ với ông. Anh nói với mục đích để ông cảm thấy hạnh phúc khi đón nhận thắng lợi, cũng để chứng minh điều anh vừa nói. Anh khẳng định không nói không phải vì anh muốn cướp công.

Nhưng bố em không tin lời anh nói, kể cả việc đưa những ghi chép lời ông nói mê ra ông cũng không tin, ông nói điều ấy chưa đủ chứng minh. Tóm lại, anh giải thích thế nào ông cũng không chịu hiểu, cho rằng anh đang an ủi ông, là sự khiêm nhường kính trọng ông. Đương nhiên, sự thật này nói ra cũng khó tin, người bình thường cũng thấy khó tin. Những ngày sau đấy, anh cứ ân hận ngay lúc bấy giờ không nói với ông về những lời nói mê đó, nếu ghi âm thì không phải giải thích vòng vo nữa. Máy ghi âm rất dễ có, chắc ông cũng nghĩ như vậy, cho rằng nếu có như vậy nhất định anh sẽ ghi âm, nhưng anh lại không có máy ghi âm. Sự việc mỗi lúc một khác, lúc ấy đâu biết sẽ có ngày hai người nhường nhau vinh quang? Nhưng nhường nhau còn hơn tranh giành, em thấy có đúng không?

Không, sự việc không đơn giản như thế.

Sự việc lên đến lãnh đạo, ghi vào báo cáo nên càng phức tạp. Lần đầu tiên báo cáo, bố em đọc thấy không có tên anh, ông lập tức sửa chữa, khoanh tên mình lại đồng thời thêm tên anh vào. Về sau đến lượt anh xem báo cáo, anh xóa cái vòng tròn khoanh tên ông, xóa cả tên anh. Lần thứ hai duyệt báo cáo, ông thay đổi thứ tự tên hai người, ghi tên ông sau tên anh, anh xem, không do dự gạch tên anh. Có thể các cấp trên thấy anh rất kiên quyết, càng tin rằng ông đã đề cao anh là vì tình cảm và quan tâm đến học trò. Nói một cách khác, hai người nhường công cho nhau, nhưng cấp trên có đủ lí do tin rằng, anh nhường là đúng sự thật, còn ông là giả, là ông muốn trả ơn anh. Nhưng vinh quang đâu phải là chuyện tư tình? Dù có tư tình thì lẽ nào cấp trên không nghi ngờ gì? Cho nên, bản báo cáo đã qua mấy lần sửa chữa, cuối cũng trở về với tình trạng ban đầu: chỗ quan trọng không có tên anh. Đấy là yêu cầu của tổ chức, mà cũng hợp tình hợp lí. Anh là tiểu tốt vô danh đâu dám với sao trên trời? Nhiều lắm cũng chỉ là trợ thủ cho sư phụ, cho dù có chút công lao ghi vào bảng vàng danh dự của sư phụ cũng là lẽ đương nhiên, đâu dám đòi ngang hàng với sư phụ. Có thể đấy là tâm lí cấp trên, về cơ bản cũng là thái độ của anh. Sự thật cuối cùng cũng được làm rõ, anh không có điều gì bất bình, bất mãn, càng không oán trách gì. Anh cảm thấy sự việc nên như thế, trong lòng cũng rất chân thành vui mừng cho ông.

Nhưng bố em vì thế mà chịu sức ép tâm lí, cảm thấy đã cướp công của anh, có lỗi đối với anh. Lúc đầu ông còn cố gắng thay đổi tình hình, tìm lãnh đạo để yêu cầu khen thưởng lại, chia đều vinh quang. Nhưng chuyện đâu có dễ? Nói một câu khó nghe, cho dù cấp trên biết đã khen thưởng nhầm, nhưng đến lúc này cũng đành để vậy, hơn nữa lãnh đạo không nhận ra họ đã nhầm. Anh không phàn nàn gì về việc ấy. Suy nghĩ ấy hoàn toàn đúng. Việc đúng thì cần phải chấp hành, cần tuyên truyền rộng rãi cho mọi người cùng biết. Như vậy mọi vinh quang sẽ như thủy triều, con sóng nọ cao hơn con sóng kia xô đến, danh tiếng anh hùng như gió cuộn, vọng đến từng góc nhỏ. Không ngờ, càng như thế, tâm lí của ông càng không yên. Có thể nói thế này, bắt đầu là sự đồng tình với anh, cho nên ông tỏ ra không bằng lòng, nhưng về sau càng nặng nề, càng khó nói, tưởng như anh nắm được những chuyện không trong sáng của ông, sợ tâm lí anh không cân bằng sẽ nói ra những điều uẩn khúc. Khỏi phải nói, anh càng làm ông buồn hơn, chẳng hóa ra để mọi người và cấp trên cười chê? Sự việc vốn tốt đẹp về sau trở nên không ra gì, khiến cho bố em khó xử, cảm thấy có lỗi với anh, đối với cấp trên ông sợ sẽ xảy ra chuyện lớn, gây khó xử với mọi người. Cho dù anh đã cố gắng, kể cả việc đốt những ghi chép lời nói mê của ông ngay trước mặt ông (không nghi ngờ gì nữa, đấy là vũ khí để anh tấn công ông), nhưng mọi cố gắng của anh đều không thể chữa khỏi bệnh tim của ông. Tất nhiên, về lí thuyết, đốt bản gốc cũng không loại trừ được sự tồn tại bí mật của bản sao, dù anh cứ khăng khăng phủ nhận, liệu có thể bảo đảm được không? Điều này không phải anh nói ông không tin anh, mà ông cho rằng sự việc đã lừa dối nhiều người. Dù là lừa dối người khác, nhưng tình cảm của anh có thể bị rạn nứt, thậm chí biến ông thành kẻ thù, rồi cả hai sẽ mất hết. Cho nên, về sau ông cố gắng bù đắp lại cho anh, mặt khác cố xoa dịu anh, nhắc nhở thậm chí khẩn cầu anh giữ kín “chuyện ấy”, để nó biến mất trong bụng anh, kể cả trước lúc qua đời ông còn dặn lại điều đó.

Ôi, có gì cần nói thêm nữa? Lòng tốt của anh đã phản tác dụng. Trong mọi ngóc ngách của lương tâm, tất cả trở nên phức tạp, rối loạn. Anh ân hận ngay lúc đầu không ghi âm lời nói mê của ông, với lại, nếu biết trước, lúc ấy đứng trước vinh quang anh cũng không đẩy đi đẩy lại. Nhưng như anh đã nói, sự việc mỗi lúc một khác, hồi ấy anh làm như vậy là xuất phát từ sự tôn trọng sự thật, xuất phát từ lòng kính trọng ông, anh không phải là người không cần vinh quang. Bởi kính trọng ông, cảm thấy mình làm như thế là cướp công ông, anh không thể chịu nổi. Không thể ngờ sự việc trở nên như thế, và cũng khiến anh không chịu đựng nổi về mặt tâm lí. Nhưng tất cả, tất cả, những điều anh muốn nói, không phải anh và bố em làm nên chuyện, mà là những vị cấp trên bị thế tục làm hỏng trái tim gây nên. Có lúc, anh nhớ ông từng nói mật mã không đáng sợ, đáng sợ là cái ngoài mật mã, tức là ra khỏi bức tường đỏ không có cách nào để sống khỏe mạnh bình thường, ông ra khỏi phòng giải mã để giải mã thế giới bên ngoài, giải mã tư tưởng, ý nghĩ, việc làm của con người bên ngoài. Đấy là sự giày vò, khó khăn, không yên lòng đối với ông, đấy mới là mật mã thật sự, anh thấy không có mật mã nào khiến ông không yên tâm. Về sau, ông trở về bên trong bức tường đỏ, thật ra là để phá khóa mật mã. Lần này ông phá khóa mật mã Sa mạc số Hai, còn gọi là mật mã Đạm, là mật mã chuẩn bị thay thế mật mã Lửa.

Mật mã Đạm chuẩn bị thay thế mật mã Lửa, mật mã Lửa dùng hai chục năm, về cơ bản nó đã bị lộ, cho dù đối phương biết chúng tôi đã phá được mật mã Lửa cũng không còn tác dụng. Là bởi lúc ấy đối phương đã nghiên cứu thành công mật mã Ánh dương 111, trong tình hình đó, dù đối phương biết chúng tôi đã phá được mật mã Lửa, nhưng dù quyết định thay đổi mật mã họ cũng sẽ không dùng mật mã Đạm cùng hệ với mật mã Lửa. “Ông anh” đã bị phá còn mong chờ gì ở vận may của “chú em”. Tức là, lúc bấy giờ, khả năng đối phương sử dụng mật mã Đạm không còn tồn tại, cho nên phá nó cũng bằng không. Nhưng tại sao vẫn giao cho ông? Theo lời ông Vương, Cục trưởng nói, chỉ để tìm cho ông một việc làm. Lúc ấy em biết rồi đấy, nếu cứ để kéo dài, bệnh tình của ông mỗi ngày một nặng, sẽ đến một lúc nào đó vô phương cứu chữa. Ông Vương nói với anh, ông lo cho bố em nên mới đưa ra kế sách ấy, để bố em phá khóa mật mã Đạm, mục đích là để bố em say sưa công việc, không cho bệnh tật ma quái quật ngã. Nói một cách khác, tổ chức dùng mật mã để nuôi ông, loại trừ khả năng gây bệnh đối với ông, để ông có những ngày an nhàn cuối đời. Nhưng người tính không bằng trời tính, niềm vui phá được khóa mật mã Đạm gây nên cơn đau tim độc ác cướp đi sinh mệnh ông. Từ ngày vào lại bức tường đỏ cho đến khi phá được khóa mật mã Đạm, ông chỉ mất hơn một trăm ngày. Tất nhiên cũng do đã có kinh nghiệm phá khóa mật mã Lửa rồi, mặt khác cũng chứng minh ông là cao thủ trong nghề phá khóa mật mã.

Ôi, sống vì mật mã, chết vì mật mã, đấy là điều ứng với cuộc đời bố em, đúng đến độ hoàn mĩ, nếu nói không hoàn mĩ thì là, đến lúc chết ông vẫn không giải được mật mã của chính bản thân: mật mã “chuyện ấy”. Mật mã ấy chính là chuyện anh nói nhưng ông không tin. Cho nên, lúc này đây, anh mong linh hồn ông ở trên trời đọc được bức thư này, như vậy có thể ông sẽ tin, như vậy linh hồn ông không băn khoăn hổ thẹn với chuyện không có thật đó nữa. Nhưng bất luận thế nào em cũng không nên để chị Tư đọc thư này, nếu như vậy chị ấy sẽ thấy thêm một nỗi buồn của bố, điều đó làm tăng thêm nỗi buồn cho chị ấy.
 
Quyển 4 - Chương 1: Đi trên lưỡi dao


PHẦN BA: NGƯỜI BẮT GIÓ

Hạnh phúc biết bao, mỗi buổi sáng thức dậy thấy mình còn sống! Mỗi hành động của chúng tôi đều có thể là cuối cùng. Nghề của chúng tôi bí ẩn và tàn khốc nhất thế giới, cho dù chỉ một cái hắt hơi không đúng lúc cũng có thể làm đầu chúng tôi rơi. Cái chết không đáng sợ, vì từ lâu chúng tôi đã đặt sinh mệnh ngoài suy nghĩ...

------------------------------------------------------------------------

Sự hợp tác giữa Vi Phu và Lữ - người đồng hương với tôi chặt chẽ không một chút sai sót, rất có khả năng lưu truyền ngàn thu. Lúc này, tiếng nói của Vi Phu từ ngoài bầu trời bay đến. Lữ còn có một người cộng sự khác, đó là Kim Thâm Thủy, nhân vật tuyến trên trong đường dây hoạt động bí mật với Lữ ở Nam Kinh. Hôm ông Thủy tìm được ông Lữ đúng lúc tôi với ông đang ở nhà, lúc ấy đã quá trưa. Tôi nhớ, tiếng gõ cửa rất nhẹ, lắng nghe hồi lâu nhưng cũng không biết có phải gõ cửa nhà mình hay không. Âm thanh nhẹ, nghe không thật, giống như âm thanh trong kí ức hoặc tiếng gõ cửa nhà bên cạnh. Tiếng gõ mạnh dần như tuyệt vọng, cuối cùng chúng tôi nhận ra tiếng gõ cửa nhà mình, liền ra mở cửa. Trước mặt chúng tôi là một người tóc bạc phơ, mặc bộ đồ Tây thẳng nếp, đầu đội mũ phớt đen, tay cầm ba-toong, một phong độ rất lạ, giống như nhân vật trên màn ảnh. Có thể chưa có ai gõ cửa như thế, cho nên ông Lữ không hỏi khách đến có phải tìm mình hay không, mà ngược lại ông hỏi có phải khách của tôi không? Tôi bảo không, hỏi khách đến tìm ai.

Khách chỉ ông Lữ, cười: “Tìm ông kia”.

Lữ bồn chồn nhìn khách: “Bác là ai? Tìm tôi có việc gì?”.

Khách cười thoải mái: “Chó thật, ngay cả tôi mà cũng không nhận ra, tôi là tuyến trên của anh đây”.

Đúng là cuộc trùng phùng sau hơn bốn chục năm. Sau phút vui mừng gặp lại, hai người ngồi ôn chuyện cũ, chuyện gì nói, chuyện gì không nói, tôi chỉ muốn chuyển ngay vào chủ đề chính. Chủ đề chính nào? Nửa tháng sau, ông Lữ bỗng từ Giang Tô gọi điện cho tôi, bảo nếu muốn nghe chuyện ông Kim Thâm Thủy thì về ngay Phúc Châu, ông Thủy sẽ đáp chuyến bay sáng mai về Phúc Châu, mong tôi lên đường ngay, đến đấy cùng ông ra sân bây đón ông Thủy, rồi cùng nhau đi tìm một người.

Nghe thật lí thú.

Sau đấy tôi mới hiểu, ông Thủy về lần này (không biết từ đâu về) để tìm một người. Ông Lữ biết người này đang ở Tô Bắc, vì trước đó hai người đã từng đến đấy. Nhưng đến đấy rồi mới biết, người ấy hiện đang ở Phúc Châu. Vậy là hai người về lại Phúc Châu, nhưng ông Lữ được Tổng cục triệu, nên vội vàng lên Bắc Kinh. Không có khả năng phân thân nên ông mới nghĩ đến tôi, quyết định cho tôi cơ hội này. Sự thật thì hôm đi Tô Châu tôi đã hi vọng được nghe chuyện, muốn theo hai người rồi đi. Nhưng ông Lữ nhìn thấu suy nghĩ của tôi, lặng lẽ bỏ đi không nói gì với tôi. Không ngờ cuối cùng dịp may lại đến. Ngay tối hôm ấy tôi bay đi Phúc Châu, không vào thành phố, mà cứ ở sân bay chờ ông Thủy. 11 giờ hôm sau, ông Thủy đến đúng hẹn, sau đấy chúng tôi cũng không kịp tìm khách sạn, mà vội vã theo dò địa chỉ đi tìm người quen.

Đấy là một phụ nữ trung niên, chúng tôi tìm thấy chị khi chị ở nhà một mình, vừa ăn cơm xong, đang định đi nghỉ. Chị là một quân nhân tại ngũ, mặc quân phục, nhưng nói năng nhẹ nhàng, nhã nhặn, rất lịch sự, không giống một quân nhân khô cứng. Tôi dám nói, chị ta có nằm mơ cũng không nghĩ được buổi chiều nay tôi đưa ông Thủy tóc bạc phơ đến, nói với chị câu chuyện nghe đến rợn người. Chuyện kể về mẹ chị, cũng là chuyện của Cục Hành động thuộc 701 thời kì đầu, trong câu chuyện, có “hình bóng” ông Lữ, nhưng ông Lữ trong câu chuyện không gọi là Lữ, vậy gọi là gì? Mọi người thử đoán xem...
 
Quyển 4 - Chương 2


Tôi tên là Kim Thâm Thủy.

Tôi từ Mĩ về.

Tôi là bạn chiến đấu cùng mẹ cô.

Đấy là tôi nói mẹ đẻ của cô, không phải là người mẹ ở quê của cô. Cô có thấy chuyện của tôi lạ lắm không? Đúng vậy, đấy cũng là điều tôi đã nghĩ, hôm nay tôi vừa từ quê cô ra, tôi biết họ không nói gì với cô. Họ không nói với cô có thể vì họ rất yêu quý cô, nên chờ để tôi nói. Nhưng đến bây giờ tôi mới xuất hiện, họ lại không cho tôi nói. Tôi về quê của cô lần này có gặp cha mẹ bây giờ của cô, lúc chia tay họ dặn tôi đừng đi tìm cô. Tôi hiểu lòng họ. Đúng là đến lúc này mới nhắc lại chuyện cũ quả là quá muộn, chỉ sợ cô sẽ không chịu nổi, họ cũng không chấp nhận nổi. Nếu hai, ba chục năm trước tôi đến tìm, họ sẽ không như thế này. Nhưng tôi đến muộn, nhất định họ nghĩ tôi đã chết, nên không chuẩn bị tư tưởng cho cô. Nhưng tôi vẫn đến tìm, tại sao cho đến nay tôi mới đến, bản thân việc đấy cũng là một câu chuyện. Tôi sẽ nói sau, bây giờ tôi chưa muốn nói.

Vừa rồi tôi nói họ, tức là cha mẹ cô hiện tại, bảo với tôi đừng đến tìm cô, tôi đồng ý. Nhưng tôi vẫn đến tìm. Tôi không tôn trọng ý muốn của họ không phải cố tình làm tổn thương họ, mà vì tôi đã quyết định nói với cô, nói rõ sự việc với cô là nguyện vọng từ lâu của tôi và cũng là của mẹ cô. Tôi phải nhắc lại, đấy là nguyện vọng của mẹ đẻ cô. Tôi biết cô nay đã ở cái tuổi làm mẹ, còn tôi chỉ là người cô chưa bao giờ nghe nói đến, bỗng nói đến chuyện cha mẹ cô, nhất định cô không tin. Cô tin vào kí ức và tình cảm bản thân, tình cảm và kí ức của cô rất trung thực nói với cô, chúng nói cha mẹ hiện tại của cô là cha mẹ đẻ, cô tin họ như tin cái nốt ruồi trên tay mình.

Nhưng tôi nói với cô, một người không có kí ức gì với người đã sinh ra mình, xin cô hãy tin ở sự trung thực của tôi. Cô thấy tôi đã già, đã ở cái tuổi tám mươi, tám mốt, cận kề miệng lỗ, tôi trong chớp mắt. Cô cũng thấy đấy, khuôn mặt tôi đầy nếp nhăn, lại cả cái ba-toong này nữa, một lão già cô độc trong cuộc sống trống trải, bấm ngón tay tính ngày cuối đời, cũng tự hỏi lòng mình còn việc gì phải hoàn thành trong đời, bằng không lúc chết không nhắm mắt nổi. Đúng, đúng vậy, tôi nghĩ đến cô, nghĩ đến mẹ cô, cũng nghĩ rằng để cô biết sự thật là việc cuối cùng của đời tôi. Việc ấy tôi phải làm, vì ở đời này chỉ một mình tôi làm được việc ấy. Tôi là người duy nhất nắm được bí mật của cô, kể cả cha mẹ cô hiện tại cũng không biết gì về cô. Ví dụ, ai là cha đẻ của cô, điều ấy họ sẽ không thể trả lời nổi. Họ chỉ có thể nói với cô rất nhiều năm về trước, tôi, một Thượng tá quân đội Quốc Dân Đảng, trong đêm tối đã gửi cô cho họ thế nào, họ đã làm thế nào để đưa cô về cái thị trấn nhỏ bé kia, làm thế nào để nuôi nấng cô... Nhưng đằng sau đấy có rất nhiều sự việc mà họ không thể biết.

Đúng vậy, tôi là người hoạt động bí mật, hơn nữa còn là người thâm nhập sâu vào Cục Bảo mật của Quốc Dân Đảng. Tôi tên là Kim Thâm Thủy, như vừa nói, cái tên này chừng như đã chìm hẳn ở Đại lục, có thể ở trong cuốn lịch sử Đảng có ghi chép, chỉ vậy thôi. Nhưng ở Đài Bắc - thủ phủ Đài Loan, trong quân đội Quốc Dân Đảng, cái tên này một thời đã vang dội giống như tiếng đinh tai của tấm kính trong Phủ Tổng thống bị đập vỡ, khiến ai ai cũng phải chú ý. Không nhìn thấy ư? Ôi, một đặc vụ lúc nào cũng ở trước mắt mà không thấy sao? Đừng nói đến ai, ngay cả mẹ cô bây giờ, tôi làm việc nhiều năm d ư ới tầm mắt bà, vậy mà bà cũng không hề hay biết thân phận bí mật của tôi, đến bây gi ờ tôi nói mà bà ấy vẫn không tin.

Đúng vậy, tôi biết bà ấy - mẹ hiện tại của cô - từ rất lâu, bà là con gái bà dì họ xa của tôi, vì không chịu ép duyên nên bỏ nhà ra đi và gặp tôi. Lúc bấy giờ tôi đang dạy ở trường sĩ quan cảnh sát Hàng Châu, hơn nữa vừa được làm cha, nhà đang thiếu người trông trẻ, tôi giữ bà ấy lại, sau đấy bà giúp chúng tôi trông cháu, cho đến tối mùng 9 tháng 3 năm 1949. Cô thấy, tôi nhớ rõ thế đấy, tối hôm ấy tôi đưa cô từ nhà tù ra, gửi cho bà ấy, tức cô em họ tôi, mẹ cô hiện tại. Cũng tối hôm ấy, bà ra đi, một tay bế cô, một tay bế thằng con đẻ của bà khi ấy mới được một tuổi. Lúc bấy giờ cô mới được bốn tháng, không thể nhớ được điều gì...

Tối hôm ấy trời cũng mưa như lúc này, tôi cho cô vào cái túi du lịch đưa về nhà, dọc đường tôi cứ lén lút như xách túi đồ ăn cắp, chỉ sợ tiếng khóc của cô sẽ bán rẻ tôi. Cũng may, dọc đường cô không khóc, tôi vô cùng cảm ơn sự im lặng của cô. Nhưng về đến nhà mới giật mình kinh hãi, cô biết tại sao không? Thì ra tôi kéo cái khóa kéo kín quá, không để không khí lọt vào, suýt nữa thì cô chết ngạt. Rất may trời mưa, nước mưa ướt cái túi du lịch, hơi nước lọt vào trong, nếu không tôi sẽ phải ân hận suốt đời với mẹ cô. Cô không biết, mẹ cô vì sinh cô mà phải đánh đổi tất cả. Tối hôm ấy, tên đao phủ Mao Nhân Phượng hạ lệnh giết mẹ cô, mẹ đẻ của cô. Ngày mùng Chín tháng Ba năm 1949, nhất định cô phải nhớ cái ngày ấy, đấy là ngày mẹ cô gặp nạn, suốt mấy chục năm qua, hễ đến ngày ấy tôi đều tưởng niệm tới bà, từ bây giờ cô phải nhớ đến nó. Có thể tôi không sống nổi bao lâu nữa, cô phải nhớ cái ngày ấy...
 
Quyển 4 - Chương 3


Vâng, tôi phải hạn chế cái thói quen kề cà của người già, để nói về mẹ cô. Nói thật, tôi không nhớ lần đầu tiên nghe thấy người ta nói về mẹ cô thế nào, hình như là trong tiệm cắt tóc, một liên lạc viên của tôi, một ông già thọt chân, người Tô Châu, không gia đình vợ con, chỉ có một người học việc bị câm, ông ta mở tiệm cắt tóc để làm địa điểm liên lạc. Một hôm, tôi đến đấy, vẫn như thường lệ, tôi như một khách quen nói chuyện với ông, trong lúc hàn huyên đã kín đáo hỏi ông gần đây làm ăn thế nào, ông trả lời bằng giọng điệu vui vẻ mà tôi mong đợi:

“Thưa quan lớn, con thật có phúc, gần đây có một ông khách giống như quan lớn, vị khách ấy nhận ra tay nghề của con, nên vẫn thường đến cắt tóc ở đây”.

Tôi hiểu ngay: Chúng tôi có thêm một đồng chí nữa.

Tôi nói: “Chúc mừng, chúc mừng bác!”.

Ông nói: “Không dám, không dám! Xin chúc mừng quan lớn, nghe nói quan lớn vừa được tăng lương, quan lớn được tăng nhiều không ạ?”.

Ý ông nói: Đồng chí mới đến có thể sẽ liên hệ với tôi. Lập tức một ngọn lửa bùng cháy trong tôi. Từ tiệm cắt tóc về, tôi vội lấy mảnh giấy ông già nhét vào túi trong lúc gội đầu cho tôi, đấy là nửa trang giấy viết thư, trên đấy viết thế này:

Bồ Câu (nữ) đã bay vào chái nhà, có thể gặp trong một ngày gần đây, mật hiệu liên lạc: Bồ Câu hỏi quê một vị tham mưu họ Tần, anh trả lời thật là được. Bắt tay. A, ngày 7 tháng 5, 1947.

Chái nhà có nghĩa là Cục Bảo mật Quốc Dân Đảng. Nói thật, tôi nằm mơ cũng không dám nghĩ đến, hôm ấy không có dự báo nào, cũng không có mật hiệu, tất cả đều lặng lẽ, bình thường, nhưng là một ngày mà bao năm nay tôi mong đợi. Ngày đó thật kì diệu, kì diệu như thần linh giáng trần, tôi vừa cảm thấy khó tin, lại cảm thấy vui vì không thể không tin. Tôi hiểu thế nào là hạnh phúc, đấy là điều anh mơ tưởng xuất hiện vào lúc không thể ngờ tới, đấy là hạnh phúc. Cảm giác ấy rất chân thật, rất ấn tượng, giống như dùng mũi dao khắc lên xương một con chữ tượng hình khiến toàn thân cuồng dại, cảm giác ngay lúc ấy trở thành điểm sáng trong dòng sông kí ức, vĩnh viễn toả sáng xung quanh, tươi mới như thuở ban đầu. Có thể tôi để cô hiểu hoàn cảnh lúc bấy giờ, như vậy cô sẽ hiểu tâm trạng tôi hơn. Tôi không rõ cô hiểu bao nhiêu về Cục Bảo mật của Quốc Dân Đảng, kể cả những hoạt động của nó, liệu có cần tôi nói sơ qua không? Đấy là tổ chức đặc vụ bí mật của Quốc Dân Đảng, phụ trách ám sát, thu thập tin tức tình báo, nó ra đời vào mùa xuân năm 1932 tại Nam Kinh, lúc đầu có tên “Phòng Đặc vụ phục hưng dân tộc Trung Hoa”, về sau phát triển lớn dần và đổi tên thành “Cục Điều tra Thống kê Ủy ban quân sự Quốc Dân Đảng”, gọi tắt là Cục Điều tra, tổng hành dinh đặt tại Trùng Khánh, dưới có các chi nhánh tỉnh và thành phố. Tổ chức rất lớn, thanh thế rất mạnh, quyền lực rộng khắp, đầu sỏ là đặc vụ Đới Lạp, một tên đặc vụ độc ác thâm hiểm khét tiếng, rất được Tưởng Giới Thạch trọng dụng, dưới quyền hắn Cục này một thời leo lên đến đỉnh cao quyền lực. Tháng Mười năm 1946, Đới Lạp chết ít lâu, Cục Điều tra trở thành Cục Bảo mật của Bộ Quốc phòng, cơ quan đầu não từ Trùng Khánh dời về Nam Kinh, Trưởng phòng Hai của Bộ Quốc phòng là Trịnh Giới Dân được bổ nhiệm làm Cục trưởng, Mao Nhân Phượng đành chấp nhận chức phó. Sau một năm, Trịnh bị Mao hất cẳng, Mao được thăng chức Cục trưởng.

Tổ chức này là bàn tay đen mà Tưởng Giới Thạch rất thích thú, cũng là kẻ thù của những người hoạt động bí mật chúng tôi, rất nhiều tổ chức của chúng ta bị chúng phá vỡ, rất nhiều đồng chí bị sát hại, trong đó có tướng Cát Hồng Xương, Đặng Diễn Đạt, Trương Lộ Bình... Mùa xuân năm nọ, có một người từ miền nam Trúc Lâm cưỡi ngựa đến, người này râu ria tua tủa, mặt đầy nếp nhăn, mặc áo thân đối bóng loáng, súng gài thắt lưng. Người ấy tên là Trương Úy Lâm, đã từng làm hộ vệ cho một quan chức địa phương, chính người này là người đầu tiên kết thúc cục diện bí mật của Cục Điều tra, trở thành người của Đảng ta thâm nhập sâu vào nội bộ của chúng. Tôi không còn nhớ ông đã quen và dẫn dắt tôi thành đồng chí của ông như thế nào, chỉ cảm thấy trên người ông phảng phất một giấc mơ, lúc này nhớ lại vẫn có cảm giác ấy. Trong kí ức của tôi, ông có bộ mặt u tối, với vẻ thâm hiểm, nhưng rất thân thiết. Có thể đấy là hiệu ứng của giấc mơ. Tôi biết cô đã từng công tác ở khu Đỏ tỉnh Giang Tây nhiều năm, ở đấy ông cởi bỏ cái áo đối thân bóng loáng để vào Đảng Cộng sản, rồi chuyển vào chiến tuyến bí mật, đầu tiên là học viên khóa tám huấn luyện điện báo của Trường Cảnh sát Quốc Dân Đảng tại Hàng Châu, sau khi tốt nghiệp vào Cục Điều tra làm việc ở tổng đài điện báo. Ông làm Đới Lạp phải xấu hổ, chỉ mấy năm phát triển tôi, Dương Quang, Phùng Vĩ Khánh, An Vận, Triệu Lực trở thành đồng chí của ông và họ đến chết cũng không đầu hàng. Mấy năm ấy, hoạt động ngầm của Đảng ta trong Cục Điều tra rất có hiệu quả, rất nhiều âm thanh của Cục Điều tra dội về Diên An, trở thành vũ khí bí mật để bộ đội ta khắc chế quân địch. Nhớ lại thời ấy, tôi cảm thấy vô cùng xúc động và hạnh phúc. Trong câu chuyện rất cảm động của mẹ cô xen vào câu chuyện của Trương Úy Lâm, mong cô đừng buồn, vì ông ấy là người đầu tiên tạo nên lịch sử hoạt động ngầm trong Cục Điều tra, không đề cập đến ông là không công bằng. Nửa thế kỉ đã qua, tôi vẫn cảm thấy ý nghĩa của ông ấy rất lớn.

Nhưng không ai ngờ, mùa xuân năm 1941, vì sơ suất trong công tác, Trương Úy Lâm bị lộ, lần theo dấu vết Đới Lạp truy xét đến cùng, hắn thẩm tra từng người, kết quả năm người Trương Úy Lâm phát triển đều bị bắt và tử hình bốn năm sau đấy. Lúc ấy tôi đã rời Cục Điều tra về dạy ở trường Cảnh sát Hàng Châu, Thượng đế cho tôi thoát khỏi cuộc điều tra, trở thành người may mắn lọt lưới. Về sau, ở trường cảnh sát tôi chiêu mộ Đảng viên Cộng sản vào học, mong họ sau khi tốt nghiệp có thể thâm nhập sâu, cắm mũi dao vào tim kẻ địch. Nhưng sau sự kiện Trương Úy Lâm, con cáo già Đới Lạp ra sức đề phòng nên cũng khó thâm nhập, hắn dùng người rất cẩn thận, không phải là người thân không dùng, đồng chí của chúng ta không cách nào lọt vào nổi, trong một thời gian dài nội bộ Cục Điều tra không có người của ta, chúng ta không có nội tuyến.

Mùa thu năm 1945, tổ chức lệnh cho tôi trở về Cục Điều tra. Đấy là biện pháp bất đắc dĩ, bởi lúc ấy ở trường cảnh sát tôi đã leo lên đến chức trưởng phòng huấn luyện, thậm chí có thể còn leo cao nữa, rời bỏ nơi này không phải là thượng sách. Ai cũng biết, ý nghĩa của trường cảnh sát rất sâu xa, chỉ cần tôi ở đấy, hàng năm nhà trường đều có Đảng viên vào học, tốt nghiệp sẽ làm tăng thêm đội ngũ. Nhưng Cục Điều tra không thể không có cơ sở của ta, lúc ấy chỉ có tôi mới có hi vọng lọt vào đấy, nhưng lúc bấy giờ cũng phải sử dụng biện pháp không lấy gì làm tốt lắm. Ít lâu sau, tôi tạo ra nhiều kẻ địch ở trường cảnh sát - tôi cố tình tạo căng thẳng, được Đới Lạp điều về Cục Điều tra, thăng hàm Thượng tá, giữ chức Phó trưởng phòng Phòng Hai. Đới Lạp không nghi ngờ gì vì tôi là người hương của y, cũng có thể coi là một sự tính toán nhầm của y.

Mùa thu năm 1946, Đới Lạp chết được ít lâu, Cục Điều tra chuyển về Nam Kinh, không hiểu tại sao hồi ấy tổ chức lại không kịp thời liên hệ với tôi, thêm vào đấy là địa bàn mới, còn lạ nước lạ cái, trong một thời gian, công tác của tôi trở nên bế tắc, điều duy nhất tôi cảm thấy ấm áp là người liên lạc ông là tia sáng còn lại của tổ chức đối với tôi, đấy là ông già cắt tóc. Một mình đơn độc, ngột ngạt, yếu sức. Tôi cần đồng chí, tôi cần tổ chức, tôi trông chờ, mong ngóng. Cái tôi trông chờ ở rất xa, trong bóng tối. Có thể cô biết đấy, tôi nên tự phát triển đồng chí, tự mình mở địa bàn, giống như Trương Úy Lâm. Nói đến chuyện này tôi cảm thấy xấu hổ, bởi tôi không có cái dũng cảm phi thường của Trương Úy Lâm và tài năng như giấc mơ của tổ chức, tôi chỉ là một bàn tay cần phải gắn trên một cơ thể mới có tác dụng. Tôi lớn lên trong một toà nhà hình bát giác nặng nề, 10 tuổi chưa dám đi phố một mình, sợ đêm tối, nghe tiếng gió rít tưởng tiếng gào của sói. Tôi trung thành, thật thà, tỉ mỉ, có tính kiên nhẫn hơn người bình thường. Có thể trở thành một người lính gác, thư kí, một trợ thủ giỏi, nhưng để tôi chỉ huy, thậm chí tổ chức một chi đội là chuyện khó khăn, vì tay tôi khi giơ cao rất thiếu sức mạnh. Chính trong thời gian đó, tôi cảm thấy rất rõ thiếu sót trong tính cách, tôi tỉnh táo mổ xẻ bản thân chính vì những gì trải qua khiến tôi đau khổ nhận ra bản thân. Cuộc sống luôn luôn làm cho mình tự nhận ra mình. Mỗi lần tôi nhớ đến những năm tháng ấy, tôi đều thấy xấu hổ, đấy là những gì đen tối nhất trong đời, là thời gian khó có thể chịu đựng nổi. Có thể tôi phải dùng hoàn cảnh khắc nghiệt lúc ấy để giải thoát bản thân, tha thứ cho mình, nhưng tôi không cần sự tha thứ, tôi cần được phê bình bởi tôi làm cho Diên An phải thất vọng, lòng trung thành, niềm tin và lí tưởng của tôi đối với Diên An khiến tôi không còn lí do để đòi tha thứ.

Tôi căm thù bản thân, ít nhất là căm thù những năm tháng đen tối ấy.

Cô có thể tưởng tượng, lúc ấy tôi rất cần có sự phối hợp của đồng chí hoặc để tôi phối hợp với người ấy. Tôi biết cánh tay tôi chỉ cần có sự giúp sức thì sẽ nhanh nhẹn và có sức mạnh hơn nhiều, tôi là một phó Trưởng phòng mang hàm Thượng tá, bàn tay tôi có thể nuôi sống hàng ngàn, hàng vạn đồng bào cách mạng. Nhưng nay thì bốc mùi hôi hám, thối rữa, khí độc không tiêu tan đã nuốt chửng đồng chí chúng ta mà cũng nuốt chửng cả tôi. Lòng tôi nóng như lửa đốt, trông mỏi mắt, tôi trở thành con thú bị giam cầm, qua ngày đoạn tháng trong khát khao đáng sợ, ban ngày tôi ngồi trong văn phòng đầy tử khí, lật giở những trang báo, bỗng tìm thấy một mật hiệu, từng đêm từng đêm mòn mỏi trông chờ người thân ở phương xa. Tiệm cắt tóc là mối liên hệ duy nhất của tôi lúc ấy, tôi ra đấy, tóc cắt lại cắt, cắt tóc cũng để cắt luôn cả ngày tháng u ám. Cứ như vậy, tôi phải sống qua biết bao nhiều đêm ngày đằng đẵng, cuối cùng người tôi mong chờ lại là mẹ cô - Bồ Câu.
 
Quyển 4 - Chương 4


Tôi tiếp xúc lần đầu với mẹ cô trong một buổi vũ hội cuối tuần tại Cục Bảo mật.

Như đã biết, Đới Lạp trong Cục Điều tra quy định Thời chiến cấm lấy vợ lấy chồng. Nhưng đấy không phải là quy định cấm dục, vũ hội cuối tuần rất cởi mở, hơn nữa lại rực rỡ nhiều vẻ. Ai cũng bảo Elisabeth trong buổi khiêu vũ của Cục Điều tra cũng sẽ bị tấn công từ nhiều hướng, ở đấy ai cũng bạo dạn, lì lợm, tranh giành, ghen tị. Bọn chúng giấu súng vào trong quần để tán tỉnh yêu đương, giống như đám đàn ông chưa vợ, rất sôi nổi nhiệt tình, giành phần hơn. Bọn chúng dùng những lời lẽ ngon ngọt, có lúc sử dụng những chiêu bẩn, ví dụ truy bức đến cùng, không từ một thủ đoạn nào. Trước mặt bọn chúng, đàn bà con gái không ai dám kiên trinh bất khuất, con gái thường khinh bạc hoặc yếu đuối. Bọn chúng đem chiến lợi phẩm về nhà riêng đầy không khí sợ hãi và chết chóc, để súng dưới gối vui chơi suốt đêm, sáng dậy thu hết những lời ngon ngọt tình ái trong đêm, bắt đầu tính toán âm mưu khác: Giết người. Đới Lạp huấn luyện bọn tay chân này phải phục tùng hắn, trung thành tuyệt đối, đấy chính là chỗ nhìn xa trông rộng của hắn. Đới Lạp chết, tuy hắn không còn, nhưng mọi người đã quen với thói cũ, đàn ông không lấy vợ, vũ hội cuối tuần vẫn tưng bừng.

Tối hôm ấy tôi như có dự cảm, đến sàn khiêu vũ rất sớm. Vì đến sớm, tôi mới tìm được chỗ ngồi tốt, vợ tôi chê ngồi chỗ ấy quá lộ liễu, muốn chuyển sang chỗ khuất một chút. Tôi từ chối, muốn tối nay ngồi ở chỗ mọi người ai cũng có thể trông thấy. Vợ tôi không hiểu ý, nhưng cô ấy vẫn nghe lời, đấy là người vợ hoàn hảo nhất cho người hoạt động bí mật. Vợ tôi người Ninh Tĩnh - Nhã An (tỉnh Tứ Xuyên), có mái tóc đen và khuôn mặt trắng nõn của người Nhã An. Nghe nói con gái Nhã An dịu dàng và đức độ nổi tiếng, oan ức chỉ biết khóc, nhu mì như nước. Nhưng cũng không nhất định, dưới thời Uông Tinh Vệ, ở Vũ Hán tôi đã từng gặp một cô gái Nhã An mới 17 tuổi, làm liên lạc, cô lớn lên trên con thuyền phiêu bạt khắp nơi, tôi có ấn tượng cô gái này có phần hấp tấp. Còn vợ tôi dịu dàng, nhu mì. Hồi ấy, Trương Úy Lâm gặp vợ tôi, cảnh cáo tôi không được phát triển cô vào tổ chức, lí do là ánh mắt vợ tôi có ý thuận phục (không có ý thức phản kháng). Vợ tôi không biết tôi hoạt động bí mật, nhưng Diên An biết, vợ tôi đã giúp tôi làm nhiều việc.

Vẫn như lệ thường, vũ hội tràn ngập không khí thế tục, con gái thì son phấn loè loẹt, điệu đà, nũng nịu; con trai thì tự nhiên, cởi mở, nói năng khéo léo. Trong tiếng nhạc, tôi nhìn những khuôn mặt son phấn đang khiêu vũ, chợt một khuôn mặt như trái táo làm tôi phải chú ý, vì cô này mấy lần nhìn tôi, ánh mắt thân thiết, dịu dàng. Tôi nghĩ, cô ấy sẽ đến bên tôi, ngồi ở cái ghế đối diện nói chuyện thân mật với tôi. Về sau tôi phát hiện ánh mắt cô ta đầy vẻ dâm đãng, đúng lúc ấy, tôi cảm thấy buồn nôn, tưởng như cắn phải con sâu mềm nhũn trong trái táo. Thượng đế biết, cái tôi cần không phải là cuộc diễm ngộ nhục thể, mà là diễm ngộ cách mạng. Xin cho tôi nhấn mạnh như thế. Đúng vậy, có thể đấy là một kĩ nữ, trong vũ trường của Cục Điều tra chả khác nào đám ruồi trên bàn ăn, chỉ cần sơ ý là nó sa vào thức ăn.

Vâng, tôi sẽ cố gắng nói vắn tắt hơn. Lúc vũ hội tạm dừng, tôi vào nhà vệ sinh lúc quay ra thì phát hiện chỗ tôi ngồi đã có một cô gái, cô gái rất trẻ, xinh đẹp, mặc cái áo dài trắng dưới ánh đèn nê-ong trông thật hấp dẫn. Cô ta đang nói chuyện với vợ tôi. Tôi đi tới, cô ngước nhìn rồi hỏi vợ tôi:

“Đây là ông nhà?”.

Giọng nói hơi run run.

Vợ tôi gật đầu, rất tự nhiên. Cô ta đứng dậy, trả chỗ cho tôi, nói thêm một câu khách khí.

Tôi nói: “Không sao, tôi đang hút thuốc, muốn đứng một lúc, cô cứ ngồi chơi”.

Cô ta lại ngồi xuống, đưa cho vợ tôi xem cái đồng hồ vàng óng ánh. Vợ tôi uể oải nhìn, ra vẻ sốt ruột. Lúc ấy, ánh mắt hiếu kì của tôi qua làn khói thuốc, bắt đầu cảm thấy cô ta rất đơn giản, chỉ có thể nói khuôn mặt là xinh đẹp. Xưa nay tôi ít có tình cảm với những người con gái đẹp, có thể vì tâm lí ghen ghét, cũng có thể vì kinh nghiệm dạy bảo. Tôi tin rằng cái đẹp của người con gái chẳng khác gì một vũ khí trong tay đàn ông sẽ có ngày được đưa ra sử dụng, sử dụng một cách độc ác. Đấy là một câu nói ở quê tôi, cô đã nghe thấy bao giờ chưa?

Rất nhanh chóng, tôi phát hiện khuôn mặt người con gái này có cái vẻ mộng ảo, cái đẹp chỉ ở bề mặt, không sâu sắc, có thể tôi đã nhầm. Có lúc tôi như thoáng bắt gặp ánh mắt cô ta, xuất hiện trước mắt tôi là một vùng yên tĩnh giống như một cánh đồng và một dòng sông nhỏ nước trong vắt, lấp lánh nắng vàng. Tôi biết đây là kí ức thơ mộng của quê tôi, nó vẫn thường xuất hiện khi tôi cảm nhận hồn nhạc Strauss, lúc này nó đang gọi dậy một ánh mắt nồng nàn, trên người có cái gì đó đang dần dần bốc cháy. Tôi tham lam nhìn cô ta, mong hiểu được hàm ý bề ngoài của cô.

Một lúc sau tôi có thêm phát hiện mới, người con gái xinh đẹp trước mắt không đơn giản nhạt nhẽo như lúc ban đầu, cô có gì đó rất bí ẩn, phức tạp, muốn nhìn thấu phải nhìn từng phần khuôn mặt cô ta. Khuôn mặt cô gái có hai điểm thật rõ nét: Đôi mắt và hai lúm đồng tiền. Khi ngắm nửa dưới khuôn mặt cô, ta sẽ thấy đôi lúm đồng tiền ngọt ngào và sinh động làm cho khuôn mặt xinh xắn, thân thiết, đáng yêu, trở thành một cô gái đẹp, ngây thơ, không chút ưu tư lo lắng, bề ngoài nồng nhiệt, nội tâm trong sáng, có thể một người con trai có tiền tài và quyền thế sẽ được cô yêu. Nhưng khi ánh mắt của ta xê dịch lên phía trên, tập trung nhìn vào đôi mắt, hồi lâu, sẽ rất kinh ngạc phát hiện một trí tuệ - trí tuệ của người trưởng thành - đang ngự trị trên khuôn mặt, lạnh lùng, bình tĩnh, sâu sắc là tất cả ở cô. Người con trai nhàn rỗi vô vị sẽ chán ghét, bởi sợ trí tuệ thử thách. Từ khuôn mặt này, tôi trông thấy hai thế giới cách biệt, một vui tươi, dí dỏm và cởi mở biểu thị tình cảm của cô; một nữa là sự dồn nén và cô đơn, dồn nén và cô đơn khiến cô trở nên nhạy cảm, hoài nghi, để lại nét u buồn, cảm thương. Kết nối hai thế giới đó lại, tôi cảm thấy nội tâm của cô mang nét phong lưu sang trọng, một nét kiêu sa lắng đọng, không phải là cái kiêu sa thoáng hiện. Lúc ấy tôi muốn cô quay lại để hỏi thăm quê cô ở đâu, bởi tôi đã bị thu hút bởi những nét đặc sắc ở cô.

Tôi rất mong cô tên là Bồ Câu.

Bỗng cô như sực nhớ ra điều gì đó, quay người lại, ánh mắt thay đổi, hỏi tôi:

“Thưa ông Thượng tá, xin được hỏi, phòng Hai của ông có ai người Quế Lâm không ạ, người ấy họ Tần, cùng quê với tôi”.

Trời đất, đúng rồi!

Tôi cố che đậy niềm vui trong lòng, rất bình thản trả lời, có một người họ Tần, tên là Tần Thời Quang, là cấp phó của tôi, Trung tá tham mưu. Cái số phận của người này sẽ là vật hi sinh của chúng tôi. Lúc ấy anh ta cũng đang trong buổi khiêu vũ, tôi dùng một con số Ả-rập trừu tượng để bán rẻ cái đồ chó săn tiền đồ đen tối ấy.

Lại một khúc nhạc nổi lên, tôi chú ý đến Quang như một con ruồi đói lúc nào cũng quanh quẩn bên mẹ cô, mặt tươi cười rạng rỡ. Có thể hình dung, vừa rồi mẹ cô đã cố tình để lộ vài câu địa phương Quế Lâm bên hắn, như phát hiện ra lục địa mới, hắn vội vã xấn tới. Hắn là một đứa trẻ nghèo ở Quế Lâm, con một người thợ giày, tôi rất biết cái tính háo danh và tham lam của hắn, có người ác độc công kích hắn nói đôi mắt híp - cặp mắt chuột rất gian - xưa nay chỉ sáng lên với cấp trên và gái. Tôi nghĩ, lời bình phẩm ấy có phần hơi quá, nhưng đúng là như thế. Hắn đúng là một người như thế, không đáng sợ, nhưng độc ác. Tôi không biết hắn lọt được vào Cục Điều tra bằng cách nào và rất được chú ý, luôn luôn được cấp trên cưng chiều, có người muốn tống cổ hắn đi mà không được. Với đồng nghiệp, hắn tỏ ra giả dối và tâng bốc khiến ai cũng ghét, nhưng bản thân hắn thì không. Một con người không thật thà lại thiếu đi cái vinh quang gia tộc, kiếm ăn trong đám ma quỷ, dựa vào hai cây gậy giả dối và nịnh hót.

Tôi cố tình chào hỏi hắn, gọi hắn đến. Tôi biết thể nào hắn cũng đưa mẹ cô đến để giới thiệu, đồng thời sẽ mời vợ tôi nhảy, tôi cũng sẽ không do dự nắm tay mẹ cô cùng lẫn vào sàn nhảy mờ tối. Quả nhiên Thời Quang đưa mẹ cô đến... Tất cả như tôi hình dung, lúc chia tay, tay phải tôi tiếp nhận một mảnh giấy từ lòng bàn tay trái của mẹ cô đang đẫm mồ hôi. Tôi cho tay vào túi, lấy khăn tay lau miệng, mọi cử chỉ đều rất bình thường nhưng đều mang một nội dung sâu sắc. Sự phối hợp của chúng tôi rất ăn ý, khéo léo.

Tối hôm ấy trăng sáng như bạc. Tại sao tôi lại nhớ rõ? Ánh trắng như nước trải xuống đường phố, tường và mái nhà, thành phố sáng dìu dịu. Về đến nhà, vào thư phòng, tôi phát hiện ánh trăng đã lặng lẽ chờ sẵn, sự xuất hiện của tôi làm nó khẽ lay động, ánh trăng giống như nước. Nhưng cho dù là nước tôi cũng không cảm thấy mát mẻ, chỉ thấy yên tĩnh, cái yên tĩnh hoàn chỉnh, không muốn làm tan vỡ. Tôi đọc mảnh giấy của mẹ cô dưới ánh trăng:

Tìm ngay địa chỉ nhà tù số một và thời gian, địa điểm cụ thể hoặc khả năng tử hình đồng chí Trương Thế Hùng và các đồng chí khác;

Ba ngày sau dự hội nghị Hồng lâu.
 
Quyển 4 - Chương 5


Lần thứ hai gặp mặt ở hội nghị Hồng lâu.

Thật ra hội nghị không phải họp ở một lầu hồng nào mà trên một cái xe cấp cứu có chữ thập đỏ. Từ ngày về Nam Kinh, tôi chưa dự một cuộc họp nào, ba hôm nay tôi cứ suy nghĩ về địa điểm và những người dự họp nhưng vẫn không rõ, rất sốt ruột nhưng lại do dự. Đúng giờ, tôi đến ngõ Thiên Tuệ, ở đấy sẽ có người đưa tôi đi. 8 giờ 30 phút, một chiếc xe cấp cứu hú còi chạy sát bên người tôi, có người mở cửa sau vội vã lôi tôi lên. Lúc đầu tôi nghĩ đã xảy ra chuyện gì, trên xe có một người bị thương đang nằm, đầu quấn băng đẫm máu, chỉ để lộ đôi mắt sáng và cặp môi đỏ tươi. Nhưng xe vừa chạy, người ấy ngồi dậy nhìn tôi bằng ánh mắt thân thiết, đưa tay ra bắt tay tôi. Lúc này tôi mới phát hiện “người bị thương” chính là mẹ cô.

Đây là cuộc họp đầu tiên từ sau ngày tôi về Nam Kinh, tôi nhớ rõ cuộc họp có sáu người, kể cả lái xe. Tôi là người cuối cùng đến cuộc họp, vừa lên xe, mọi người bắt tay tôi nhưng không ai tự giới thiệu. Họ đều là những người tôi không quen mặt, gồm cả mẹ cô đầu băng bó cũng làm tôi thấy xa lạ. Xe chạy vào một cái ngõ tối tăm, mẹ của cô định gỡ băng dưới cằm ra, nhưng có người nói:

“Đừng gỡ!”. Đó là người chủ trì cuộc họp, người này ở độ tuổi trung niên, đeo kính, nói pha giọng Bắc Kinh. Anh tự giới thiệu mình là A, khiến tôi rất xúc động. Tôi biết, A là người đứng đầu tổ chức bí mật của chúng tôi ở Nam Kinh, do Trung ương cử về, anh là một ủy viên trung ương. Anh đến dự cuộc họp nhỏ như thế này làm tôi có cảm giác rất long trọng. Về sau tôi mới biết, A này không phải là A đấy, mà là A đóng thế A, có thể ở Nam Kinh lúc ấy có hai A, ba A, thậm chí nhiều A.

Trong cuộc họp, đầu tiên A xác nhận, từ lúc này quyết định thành lập tổ Hồng lâu, sau sẽ có những cuộc họp bất thường. Quyết định ấy đã cổ vũ tôi, khiến tôi có cảm giác ấm áp như mình được về trong lòng tổ chức. Sau đấy anh phân tích tình hình trong nước, chỉ rõ chẳng bao lâu nữa Quốc Dân Đảng sẽ gây nội chiến, giông bão chiến tranh không thể dừng ngay được, chúng ta phải chuẩn bị mai phục trường kì, đánh lâu dài, anh nói có hai nhiệm vụ trọng tâm là thu thập tình báo quân sự và tổ chức lực lượng vũ trang công nhân. Người ngồi bên trái tôi bỗng nói chen vào: “Vậy phong trào học sinh, sinh viên có còn tiếp tục nữa không?”.

Tôi không nhớ người thay mặt A lúc bấy giờ nói thế nào, có thể anh không trả lời. Nêu vấn đề là một thanh niên, dáng dấp thư sinh, nhưng tính cách có phần nôn nóng, cách nêu vấn đề cũng không thông minh, tôi đoán ngay cậu ta là một sinh viên. Bên khóe mắt của cậu ta có cái bớt đỏ, điều này rất không có lợi cho người hoạt động bí mật. Trong cuộc họp cuối năm tôi không thấy cậu ta, nghe nói bị bắt, ít lâu sau lại nghe tin đã bị tử hình. Cậu ta là người trẻ nhất trong nhóm chúng tôi, nhưng lại là người gặp nạn trước tiên.

Một người Sơn Đông có mật hiệu Râu đỏ lớn tuổi nhất trong số chúng tôi. Có thể đã 50, trước trán có một ít tóc bạc xõa xuống, ám chỉ tính cách cổ quái của anh. Tôi và anh ấy trong cuộc họp để xảy ra một chuyện không vui, nhưng tôi không nhớ, có thể vì bất đồng ý kiến trong chuyện ứng cứu Trương Thế Hùng và những người khác. Sau đấy anh ta rời chúng tôi rất sớm, nghe nói đi Thượng Hải, có thể là Vô Tích. Nói thẳng, tôi không thích người này, anh ta có cái ngạo mạn và vẻ oán hận khó hiểu. Còn một đồng chí nữa lúc ấy ngồi bên tay phải tôi, một người cao lớn, chừng 25, 26 tuổi, có mái tóc đỏ rất kỳ lạ, có thể là nhuộm. Trên xe anh là nhân viên y tế, mặc blu trắng, nhưng lại có mật hiệu ngành Lưỡi Dao. Trong cuộc họp hôm ấy anh không phát biểu gì, chỉ lắng nghe. Rất không may, anh bị bại lộ thân phận chỉ mấy ngày trước giải phóng Nam Kinh, trúng đạn trong khi chống trả địch đến vây bắt. Mẹ cô lúc ấy ngồi trên cáng, giữa chúng tôi, mặc bộ đồ đen trông rất cứng rắn, lạnh lùng, không hòa với mọi người, đầu quấn băng như tôi vừa nói trông rất thánh thiện, trong trắng, nhìn chung hôm ấy trông mẹ cô có cái vẻ lạnh lùng không hòa hợp. Mẹ cô vẫn im lặng, tôi cứ nghĩ mẹ cô không phát biểu gì, nhưng trên đường từ ngoại thành về, cũng là mười phút cuối của cuộc họp, bỗng mẹ cô lên tiếng:

“Tôi nói cuối cùng là để nói nhiều một chút”.

Vậy là mẹ cô nói, ngữ điệu, lời lẽ hoàn toàn không giống với cách nói của một tiểu thư ở buổi khiêu vũ. Lúc này mẹ cô nói rất kiên quyết, kịch liệt, nồng nhiệt, như đang diễn thuyết. Mẹ cô nói, gỡ băng dưới cằm, tưởng như không có ai gỡ cho mẹ cô. Theo tôi, động tác ấy là sự bùng nổ của tính cách, tôi bắt đầu ý thức được cái thông minh, tao nhã, dịu dàng của một tiểu thư trong buổi khiêu vũ quyết không phải tất cả là của mẹ cô. Ngọn lửa âm ỉ trong người mẹ cô hễ đụng đến là bùng cháy, dũng cảm thúc đẩy, không bị trói buộc. Nói như Kinh thánh là: (về sau vợ tôi trở thành tín đồ đạo Cơ đốc), mẹ cô là cô gái vàng nung chảy, cô gái bạc mềm nhũn chỉ ở hình thức bề ngoài. Là bạn chiến đấu của mẹ cô, tôi được thấy mẹ cô như vàng trên lửa, dù bọn giết người có thể mê say cái bề ngoài “bạc mềm nhũn” ấy.

Quả nhiên mẹ cô nói rất nhiều, có thể còn nhiều hơn năm người chúng tôi cộng lại. Bây giờ tôi không nhớ, chỉ nhớ một việc có liên quan đến tôi. Mẹ cô nói, hoàn cảnh của mẹ cô không thích hợp cho công tác. “Bên cạnh tôi bây giờ là một lũ mê gái, có bổ đầu chúng ra cũng không moi được một tin tình báo nào”. Mẹ của cô nói như thế.

Sự thật đúng là như vậy, lúc bấy giờ mẹ cô đã thâm nhập được vào trái tim của Quốc Dân Đảng, nhưng chỉ giữ một vị trí rất thấp, làm ở trạm thông tin, chuyên nhận và phát điện báo, điện báo đều là mật mã giống như sách trời, không ai hiểu nổi. Hồi trước tôi ở phòng điện tín thường đến đây làm việc, tôi rất quen địa bàn và con người ở đấy, giống như mẹ cô, tất cả đều là những tiểu thư ăn mặc thời thượng, rất lãng mạn, đi làm đều đem theo son phấn, những lúc rảnh rỗi chỉ lo bàn chuyện thời trang, sắc đẹp, minh tinh, vũ hội, hào hứng với những cái lãng mạn, ngọt ngào đã mất hoặc đang đến, hoặc còn trong tương lai. Các cô gái này giống như thầy phù thủy, cứ bàn luận không chán về cuộc sống không thực. Lúc khiêu vũ, các cô dùng tuổi trẻ để trình diễn các vũ điệu, khao khát những tiếng vỗ tay, khao khát những chàng bạch mã hoàng tử, khao khát tuổi xuân mãi mãi tồn tại, đối với những gì bên ngoài sàn khiêu vũ, các cô thường tỏ ra thiếu kiên nhẫn, chỉ thờ ơ nói: “Mặc kệ nó!”.

Sống trong đám con gái thiếu lòng căm thù địch, thậm chí không hình dung nổi kẻ thù ấy, mẹ của cô cảm thấy cô đơn, vô vị và rất nôn nóng vì phải đứng ngoài cuộc, cho nên mẹ cô yêu cầu được đi khỏi nơi đó, đến một phòng quan trọng, mong tổ chức tạo điều kiện và cơ hội. Tôi nhớ rõ, hồi ấy mẹ cô nói: “Thà rằng đâm mũi dao vào chỗ không quan trọng còn hơn phải cầm con dao trong tay, vì như thế chỉ có thể làm tăng thêm nguy hiểm cho bản thân mà không uy hiếp nổi kẻ địch. Đã là dao thì phải cắm vào trái tim kẻ địch”.

Lời nói của mẹ cô lập tức được người đại diện đồng chí A tán thưởng, anh ấy giao yêu cầu của mẹ cô (được vào làm việc ở một phòng quan trọng) cho tôi giải quyết. Miệng tôi đồng ý, nhưng trong bụng biết rõ không dễ dàng chút nào, đây là nhiệm vụ rất khó hoàn thành.

Trước khi tan họp, niềm tin cháy bỏng trong chúng tôi thúc đẩy, mọi người quây thành vòng tròn, đưa cả mười hai bàn tay nắm lấy nhau, cùng đồng thanh: “Quốc Dân Đảng nhất định thất bại! Đảng Cộng sản tất thắng!”.

_________________
 
Quyển 4 - Chương 6


Phân tích tình hình Cục Bảo mật lúc bấy giờ không khó để hình dung, muốn hoàn thành nhiệm vụ của đồng chí A hoặc người đại diện A giao phó, giúp mẹ cô thâm nhập vào trung tâm Cục Bảo mật thật sự không dễ. Sở dĩ tôi đồng ý không phải vì tôi có điều kiện hoàn thành, mà không có lí do từ chối. Chúng tôi thậm chí không có quyền từ chối cả cái chết, liệu còn từ chối điều gì khác nữa? Tình hình Cục Bảo mật lúc ấy như thế này: Tháng 10 năm 1946, Cục Bảo mật di chuyển về Nam Kinh, do nội bộ Quốc Dân Đảng chống lại Tưởng Giới Thạch và trong Cục Bảo mật chống lại Đới Lạp, Mao Nhân Phượng thân tín của Đới Lạp không nắm được chức Cục trưởng, ngai vàng Cục trưởng rơi vào Trịnh Giới Dân, Mao Nhân Phượng chỉ làm Cục phó, nhưng Mao dựa vào lòng tin của Tưởng và lực lượng hùng hậu của phái Triết Giang trong nội bộ Cục Bảo mật, không coi Trịnh ra gì. Trịnh cảm thấy bị Mao uy hiếp, Cục Bảo mật hình thành hai phái: Mao thuộc phái Triết Giang, Trịnh thuộc phái Quảng Đông, Trịnh - Mao bằng mặt nhưng không bằng lòng, đấu đá ngầm, kéo bè kéo cánh, hạ đòn độc lẫn nhau. Lúc ấy, bọn chúng dùng người trị người đều thận trọng, chỉ chọn người thân thuộc, một người không dây mơ rễ má muốn đột nhập vào trái tim Cục Bảo mật là rất khó khăn. Tôi phải thăm dò mãi, thậm chí có lúc còn gần như tuyệt vọng.

Trong một buổi khiêu vũ, tôi nói với mẹ cô về cách nhìn nhận của tôi và cả những khó khăn, mẹ cô không nói gì, tâm trạng nặng nề, hình như đang chìm vào những suy nghĩ không vui, vẻ mặt đau khổ. Nhưng mẹ cô cũng ý thức được sự luống cuống của mình giữa đám hoa tươi đang nở rộ, liền cầm ly rượu trên mặt bàn uống cạn, rồi cười khanh khách, giống như một đóa hoa độc kiều diễm và đa tình, che khuất sự luống cuống vừa rồi trong tiếng cười. Tôi chợt có cảm giác không yên bởi có một ánh mắt cháy bỏng đâm thẳng vào tôi, đó là ánh mắt ghen tuông của Tần Thời Quang, đồng hương với mẹ cô. Lúc ấy hắn đang khiêu vũ với vợ tôi, nhưng tiếng cười của mẹ cô làm hắn bối rối, không chờ bản nhạc chấm dứt, hắn liền rời khỏi sàn khiêu vũ, đến bên chúng tôi. Mẹ cô nói: “Có thể em phải sử dụng con dao này (chỉ vào Tần Thời Quang), hắn đang thích em”.

Tôi nói: “Hắn là tay sai của Mao Nhân Phượng, cẩn thận đừng làm hắn nổi giận, hắn sẽ cắn cho đấy”.

“Không đâu”. Mẹ cô nói: “Hắn đang mơ, một con chó đang mơ”. Mẹ cô lại cười khanh khách.

Thời Quang đến hỏi chúng tôi cười gì, mẹ cô cười nói: “Chúng tôi đang nói câu chuyện vui về con chó nằm mơ. Ôi, người đồng hương, anh cố tìm cho em một con chó như thế nhé, nó không cắn người, không biết sủa, suốt ngày nằm dưới hiên nhà, mắt nhắm mắt mở mơ một giấc mơ đẹp, không bao giờ đứng dậy, vì không bao giờ đứng dậy nên có một con chim én làm tổ ngay trong lồng ngực nó”.

Thời Quang tỏ ra thông minh, nói: “Một con chó như vậy phải chặt đứt ba cẳng chân, chọc thủng một con mắt, còn phải cắt lưỡi, nhổ răng nó nữa”.

Vợ tôi nói: “Như thế ác quá”.

Mẹ của cô nói: “Không, em muốn một con chó như vậy”. Chừng một tháng sau, một buổi chiều chủ nhật, tôi và mẹ cô có cuộc gặp quan trọng, trên núi Thần mà mọi người dựng lên đủ thứ chuyện, ngọn núi giống hình móng ngựa, ai cũng bảo đấy là thiên ấn Ngọc hoàng đại đế đánh rơi xuống trần gian, cho nên gọi đấy là núi Ấn. Ba trăm năm trước, một vị đạo sĩ định xây trên đỉnh núi một pháp trường bất hủ, nhưng ngôi miếu bằng đá vừa xây xong, chỉ trong một đêm đã bị đổ ụp. Hôm chúng tôi đến đấy còn thấy một ngọn tháp nhọn đã cũ và cái nền nhà, hình ảnh cuối cùng về pháp trường đã mất. Chúng tôi ngồi lên bậc đá lịch sử, trên đầu là nắng nóng ba giờ chiều, xung quanh là cỏ dại tháng sáu, không khí tràn ngập mùi đất và hương thơm của cỏ cây. Trong tầm mắt chúng tôi là thành phố tản mạn trong vòng ôm của núi rừng, lộn xộn như đống bát đĩa ngổn ngang trên mặt bàn.

Tôi không nhớ chừng một tháng trước đấy đã xảy ra chuyện gì, có thể không có chuyện gì. Có lúc không xảy ra chuyện gì, nhưng có lúc xảy ra lắm chuyện. Chiều hôm ấy chừng như không có chuyện gì xảy ra, hoặc là chuyện gì cũng có thể xảy ra.

Cô biết đấy, do mâu thuẫn giữa Trịnh Giới Dân và Mao Nhân Phượng, tôi không có cách nào để hoàn thành nhiệm vụ A giao cho là cài mẹ cô vào tim kẻ địch. Chiều hôm ấy mẹ cô bảo với tôi, mẹ cô có được một bí mật quan trọng, vì Tưởng Giới Thạch không tin Trịnh Giới Dân, nên để Trịnh ngồi chơi xơi nước nhưng lại giấu không muốn cho y biết Mao Nhân Phượng và Tưởng Giới Thạch lập riêng một điện đài để bí mật liên lạc. Đấy là bí mật của Cục Bảo mật, trong bí mật lớn có bí mật lớn hơn, cả Cục Bảo mật to lớn mà chỉ có Mao Nhân Phượng và Tần Thời Quang biết, mẹ cô biết tin này qua Thời Quang, tôi hết sức kích động, phấn khởi nói:

“Đúng là một đầu mối, cô có thể từ đấy để leo lên cái cây Trịnh Giới Dân”.

“Đúng vậy”. Mẹ cô nói. “Em cũng nghĩ vậy, nhưng chỉ biết thì không để làm gì, chúng ta phải tìm ra tần số điện đài, mật hiệu, thời gian liên lạc và mật mã, quan trọng là mật mã không có không xong, nếu không, Trịnh Giới Dân không có cách nào để trọng dụng em”.

Tôi nói: “Những thứ đó làm sao lấy được?”.

Mẹ cô nói: “Ăn cắp”.

“Ăn cắp? Mạo hiểm quá” Tôi nói. Mẹ cô đáp: “Em nghĩ rồi, không còn cách nào khác, chỉ có nước mạo hiểm”.

Tôi nói: “Ăn cắp ở đâu?”.

Mẹ cô nói: “Bên cạnh văn phòng của anh, phòng bảo mật của Tần Thời Quang”.

Hôm ấy tôi mới biết Thời Quang suốt ngày chui vào phòng bảo mật không phải để ngủ và viết thư tình như tôi vẫn nghĩ, mọi người đều ghét hắn, chỉ trích hắn, bảo hắn là người thừa, đòi chuyển hắn đi nơi khác, chuyển xuống dưới.

Vậy là không đúng. Bây giờ tôi biết hắn còn quan trọng hơn, vất vả hơn bất cứ ai, một mình ôm lấy điện đài, vừa làm người phát tín hiệu, vừa làm người dịch điện, công việc rất cực nhọc. Ai cũng hiểu nhầm và xem thường hắn ta.

Trước khi chia tay, mẹ cô đưa cho tôi mười bốn chiếc chìa khóa làm bằng thép mới tinh và một cái máy ảnh hiệu Listh của Mĩ, nói:

“Em mời hắn tối nay đến làm khách ở nhà em, mong anh thành công”.

Tối hôm ấy với tôi thật đáng quý và rất kinh khủng. Cô biết không, mỗi hành động của chúng tôi đều có thể là cuối cùng, hành động lần này của tôi rất nguy hiểm khiến cái “cuối cùng” trở thành khả năng cực lớn. Tôi phải đụng vào trái tim của Mao Nhân Phượng, ai biết trong đó có những bí mật gì, biết đâu chìa khóa mô phỏng vừa tra vào lỗ khóa, phòng ngủ của Mao Nhân Phượng sẽ có tiếng còi báo động hú vang. Mười bốn cái chìa khóa là quá nhiều, cũng quá mới, có thể không phải chìa khóa của mỗi phòng Tần Thời Quang, cũng có thể là chìa khóa địa ngục của tôi. Mạo hiểm làm việc này chả khác gì đánh bạc, bất cứ hành động hoặc suy tính nào cũng không thể nói trước thành bại, thành bại chỉ có thể trông chờ ở hai chữ may mắn.

Nhưng tối hôm ấy Thượng đế giơ cánh tay nhân từ ra cho tôi, tôi gặp may, không có chìa khóa nào (hai chìa khóa cửa, ba chìa khóa két sắt, cộng lại năm chìa) trong số mười bốn chìa khóa mới tinh khiến tôi phải sợ hãi và chờ quá lâu, không một động tác nào của tôi để lại dấu vết, không ai trông thấy, cũng không ai nghe thấy tôi bấm máy ảnh nhiều lần. Tôi cảm thấy tiếng bấm máy ảnh tanh tách như tiếng súng chói tai. Khi mẹ cô gọi điện thoại báo cho tôi biết Thời Quang đã ra về, tôi vô cùng vui sướng báo tin cho mẹ cô biết, một phút trước tôi đã ghi tất cả, kể cả dấu chấm to như giọt nước mắt, vào ống kính của mẹ cô rồi.

Sau đấy là một việc không thể tưởng tượng nổi, mẹ cô “bám đuôi” Mao Nhân Phượng để “dựa” vào Cục trưởng Trịnh Giới Dân, được y điều lên làm việc bên cạnh, bề ngoài là thư kí, thực tế là con mắt thứ ba của y, là “Tần Thời Quang” của y, nhiệm vụ hàng ngày là nghe Tưởng - Mao nói gì. Lúc ấy thân phận của mẹ cô đã thay đổi thần kì, là cánh tay “thân ái” của Trịnh Giới Dân, và là “cái đuôi” độc ác của Mao Nhân Phượng, xung quanh mẹ cô là thị giác và xúc giác. Vậy là hai thế giới của Cục Bảo mật bị mẹ cô xâu chuỗi thành một khối, không có một âm thanh nào của Cục Bảo mật không lọt qua chúng tôi, không một hành động nào chúng tôi không biết. Tôi đã nói, bất cứ việc gì cũng có thể phát sinh trong một thời gian, cũng như vậy, bất cứ sự việc nào cũng có thể xảy ra ở một con người, mẹ cô là người như thế, những sự việc tưởng như không thể mẹ cô vẫn làm được, mẹ cô xòe bàn tay là có thể dựng cả thế giới ngầm trong Cục Bảo mật, thế giới ngầm ấy không ngừng lớn mạnh. Hoạt động của chúng tôi rất thuận lợi, không bị hạn chế, không bị bưng bít và mạo hiểm. Chúng tôi vươn thẳng, vừa trông thấy kì quan bên ngoài bầu trời, trông thấy cả dưới biển sâu, những diệu kì trong lòng đất. Mẹ cô như tấm gương khổng lồ, mọi chi tiết nhỏ nhặt đều hiện rõ trong đó.

Về sau, mẹ cô làm việc trong tòa nhà của Trịnh Giới Dân, hàng ngày đi làm hoặc tan giờ làm việc đều đi qua con đường rải đá bên cửa sổ phòng tôi. Ngoài những buổi liên lạc thường kì trong vũ hội, có lúc chúng tôi liên hệ khẩn cấp với nhau, ví dụ những lúc mẹ cô đi qua, cửa sổ phòng tôi bỗng mở cửa, hoặc mẹ cô đến trước cửa sổ của tôi vờ trang điểm, đấy là những mật hiệu thông báo chúng tôi có tin khẩn cấp. Tôi nhớ có một lần vào buổi chiều, mẹ cô đứng lại trước cửa sổ phòng tôi, lấy gương ra soi và tô lại son môi, động tác cố tình rất lâu, ngay tối hôm ấy, lần đầu tiên tôi nghe được cái tên Dương Phong Mậu.
 
Quyển 4 - Chương 7


Không biết trên đây tôi đã nói đến Dương Phong Mậu hay chưa, tôi phải nói về người này và cả A thật, họ đều có quan hệ mật thiết với mẹ cô, cũng là nhân vật quan trọng trong tổ chức của chúng tôi. Tôi có thể biến mất trong kí ức của mẹ cô, nhưng họ thì không, không thể.

Cô nên biết, mẹ cô đến Cục Bảo mật vào tháng 5, sang tháng 6 chúng tôi gặp nhau trên núi Thiên Ấn, bắt đầu vạch kế hoạch hành động, tháng 7 mẹ cô trở thành “Tần Thời Quang” của Trịnh Giới Dân. Tháng 8 mẹ cô tổ chức hôn lễ rất lớn với Dương Phong Mậu. Có thể nói cả thành phố Nam Kinh lúc bấy giờ không ai không biết đám cưới ấy, đám cưới long trọng như một chiến dịch. Theo một ý nghĩa nào đấy, nó cũng là một chiến dịch.

Tôi không dự hôn lễ của mẹ cô, vì không đủ tư cách. Nhưng đọc trên báo, tôi biết Dương Phong Mậu là một nhân vật tiếng tăm trong giới thương gia, một triệu phú, có biệt thự sang trọng ở Thủy Tây Môn. Mẹ cô về đấy ở, lập nên trung tâm đầu não của tổ chức chúng tôi, mọi tin tức tình báo đều tập trung cả về đấy, rồi biến thành chữ, biến thành sóng điện, truyền đi khắp nơi.

Về sau, trong vũ hội, tôi nhiều lần được gặp Dương Phong Mậu, trong ấn tượng của tôi, anh ta là con người ngạo mạn, để râu quai nón, hoặc vờ như con người ngạo mạn, người cao, mặt vuông chữ điền, mặc đồ Tây, tóc chải bóng mượt, miệng ngậm xì gà, vẻ lạnh lùng, hiên ngang, vừa có phong độ của một trí thức, lại có chất thô bạo của một thủy thủ. Một hôm, mẹ cô giới thiệu cho tôi làm quen, tôi với anh ta nói chuyện, nói đến chuyện Cộng sản có nên chấp nhận đàm phán hòa bình hay không, ý kiến của anh là kiến giải của người Mĩ thời đó, cho rằng Cộng sản chấp nhận hoà đàm là thông minh.

Anh ta ba hoa: “Cộng sản chỉ có hai khẩu đại bác và ba khẩu súng bắn chim, họ đã nhiều lần đánh bại chúng tôi trong mơ, nhưng hiện thực thì không bao giờ. Nhân lúc thế giới phản đối chiến tranh, chấp nhận hòa đàm, chia nhau cai trị, theo tôi đấy là tặng phẩm của Thượng đế ban cho họ”.

Đấy là lập luận của báo chí thời đó.

Trước khi chia tay, anh ta đưa cho tôi một tấm danh thiếp, trên đó có bốn năm chức vụ rất to, tôi chỉ nhớ có một: Chủ tịch Hiệp hội Hải dương Trung Hoa. Sở dĩ tôi chỉ nhớ chức danh này là bởi Hiệp hội Hải dương hồi ấy rất nổi tiếng, kinh doanh phi pháp không cần che giấu, bí mật buôn bán vũ khí (giống như kĩ viện đền Phụ tử), đứng đằng sau là một nghị sĩ Mĩ. Hồi ấy có rất nhiều người yêu nước hô hào Chính phủ cấm thương hội này, vì nó làm chuyện phi pháp “lấy báu vật của người Trung Quốc đổi về đồng nát sắt vụn”.

Không biết tại sao, ngay từ đầu tôi đã có dự cảm Dương Phong Mậu chính là A. Không ai nói với tôi điều ấy, cũng không có bằng chứng nào, nhưng tôi vẫn nghĩ, hơn nữa từ đấy về sau mọi khâm phục và ngưỡng mộ nhân vật A đều lặng lẽ trao cả cho Dương Phong Mậu và mẹ cô. Cho đến nửa năm sau, khi cầm trên tay tấm hình vẽ khuôn mặt của người có tên là A tôi mới rõ không phải vậy.

Như đã nói, từ ngày mẹ cô được Trịnh Giới Dân trọng dụng, công việc của chúng tôi rất thuận lợi, kết quả thu về rất lớn. Giống như những người cày cấy, thu hoạch đưa lại cho chúng tôi niềm vui rất chân tình. Nhưng qua Tết, đến tháng Ba năm 1948, chúng tôi liên tiếp gặp phải mấy chuyện phiền phức và không may, đầu tiên là hình đồng chí A dán khắp nơi, treo thưởng cho ai bắt được.

Ảnh người ấy có lẽ căn cứ vào trí nhớ của ai đó và nhờ một thợ truyền thần vẽ lại, bức hình rất lớn, chừng nửa mét. Trên bức hình đó, A đeo kính cận màu nâu nhạt, trán rộng, đầu to, rẽ ngôi giữa, khuôn mặt trên vuông dưới tròn, má đầy đặn, mũi cao, hai bên rõ hình chữ bát. Tóm lại, có thể vì trí nhớ của ai đó hoặc dụng ý của người vẽ, cố vẽ đồng chí A có khuôn mặt “đặc vụ lợn”, nhấn mạnh mái tóc dài và rối, trên má là các thớ thịt, cho nên trông rất quái dị, vừa có cái cương nghị của người đứng đầu tổ chức bí mật, lại giống như một tên thổ phỉ hoang dã. Dù sao thì hình người này vẽ cực kì vụng về, bất luận là người nhớ lại hay thợ vẽ, trong sáng tác đã có màu sắc chủ quan, vì vậy không thật là điều chắc chắn. Tôi còn nhớ, hồi mới về Nam Kinh đã nghe thấy nhiều quan chức trong Cục Bảo mật nói đến cái tên A, bảo người này đã từng làm diễn viên, rất giỏi cải trang, thường thay đổi diện mạo, điều này đã làm tăng thêm cái khó cho người mô tả và cả người vẽ. Nhưng dù sao thì Dương Phong Mậu và người trong hình vẽ không phải là một, người vẽ kém nhất và người cải trang cao siêu nhất cũng không thể biến một người thành hai người thế này. Cái hình đầu người có ý nghĩa với tôi như thế đó, nó làm tôi hiểu Dương Phong Mậu và A không phải là một.

Bức ảnh mặt người này về sau in thành vô số bản dán khắp nơi. Tôi tin rằng, quá trình họ lùng sục bắt bớ sẽ không phát huy tác dụng, là bởi - theo họ nói - A rất giỏi cải trang, chắc chắn sẽ cải trang không giống với hình vẽ. Tôi cho rằng, cái hình đầu người kia trừ cặp kính và vầng trán, còn lại, chắc chắn nhớ không chính xác hoặc diễn tả không đúng. Đã vậy, tôi nghĩ, chỉ cần gỡ cặp kính hoặc thay đổi cặp kính khác và thay đổi vầng trán là đủ, như vậy rất dễ dàng.

Về việc này mẹ cô không lạc quan như tôi, mẹ cô chỉ ra rằng, tuy có thể thay đổi cặp kính, vầng trán và mái tóc, “nhưng thớ thịt hình chữ bát hai bên mũi thì khó có thể thay đổi”. Mẹ cô nói vậy khiến tôi nghĩ mẹ cô đã từng gặp A. Nhưng mẹ cô chỉ nhận mới được trông thấy ảnh A.

Mẹ cô đau khổ gật đầu, nói: “Giống!”.

Rất có thể giống, nếu không tổ chức không để A tạm rời Nam Kinh. Quyết định là một chuyện, làm cách nào để rời Nam Kinh lại là chuyện khác. Bởi lúc bấy giờ tình hình rất căng thẳng, hình A dán khắp nơi, dọc đường lượm một mảnh giấy rơi vãi nào đấy đều có thể thấy hình A. Với lại, không biết cô đã đến thành phố Nam Kinh bao giờ chưa, đó là một thành phố cổ, tường thành bao bọc chung quanh, cổng thành là cửa ra, cứ canh giữ cổng thành thì chỉ còn cách biến thành con chim mới bay ra nổi. Tôi nhớ, để A qua khỏi thành phố, tôi phải cố gắng hết sức, nhưng cũng không tìm được kế nào chắc chắn nhất. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cũng vẫn phải dùng cách cũ, bỏ tiền mua chuộc tên đứng đầu kíp gác cổng Quang Hoa, để A chui vào một cái hòm gỗ, coi như buôn lậu cổ vật. Đấy là chuyện hơn một tháng sau, đồng chí A coi như thoát nạn, chúng tôi cũng nhẹ lòng, nhưng bất ngờ có chuyện đối với mẹ cô.

_________________
 
Quyển 4 - Chương 8


Vâng, người già, kí ức cũng già, đầu lưỡi cũng già đi, máu trong thịt da cũng già, làm gì cũng không nhanh nhẹn như thời trẻ. Cô thấy người già có tệ không? Bước một bước lại nghỉ, đi một bước lại lùi nửa bước, rất phiền hà. Nhưng bản thân người già lại không cảm thấy có điều gì phiền hà, đúng vậy, họ không còn tài cán gì khác. Tôi tin, từ lâu mình đã là một người già, thành một người lôi thôi, cái gậy này là một ví dụ, nó chứng tỏ tôi già và lôi thôi, không rời nó, nó vừa thừa, lại là một cái chân của tôi. Tôi dựa vào nó để đi lại, ra phố, đề phòng bị ngã. Có lúc tôi dùng nó để đánh con chó xồ đến cắn, có thể ngoài phố không có nổi một con chó thật sự, nhưng tôi có thể như một con chó. Ôi, cô thấy đấy, tôi lại nói linh tinh rồi.

Hôm ấy là chủ nhật, tôi nhớ rất rõ, buổi sáng tôi ở nhà đọc mấy tờ báo của khu giải phóng và một tờ tạp chí có đóng dấu (đều bí mật chuyển đến), khiến tôi như được động viên, cổ vũ. Buổi trưa rất đẹp trời, vợ bảo tôi đưa hai đứa con đi công viên Hồng Sơn xem xiếc, tôi lấy cớ có việc bận, không đưa lũ trẻ đi chơi. Thật ra tôi không bận gì, chỉ muốn yên tĩnh, muốn ở nhà một mình, để cái cô đơn yêu quý vây bọc, để những cái bình thường say ngủ lúc này thức dậy (giống như tia nắng yếu ớt xao động trái tim tôi, khiến tôi trông thấy cái nhỏ nhất, nghe thấy âm thanh tĩnh nhất). Làm cái nghề chúng tôi, tĩnh tâm là điều quan trọng. Về sau, tôi ngồi dưới nắng, đưa mắt tiễn vợ con đi xa. Nắng đầu xuân ấm áp và dễ chịu nhảy múa trên người đám trẻ con, vợ tôi một tay dắt đứa con trai, một tay dắt đứa con gái rất tình cảm, ra dáng một người mẹ, một gia đình hạnh phúc. Lúc ấy tôi chợt nghĩ, cuộc chiến tranh này bao giờ kết thúc? Trong cái bồn chồn không yên vô cớ, tôi lặng lẽ đi về phòng, giở mấy trang báo khu giải phóng sáng nay để xem lại một lần nữa, tưởng chừng nó sẽ đem lại dũng khí cho tôi, khiến tôi yên lòng. Sự thật là thế, bởi những trang báo rất thân thiết nói với tôi: Trận chiến đã bắt đầu, chúng tôi đã nhận được sự phối hợp đầu tiên. Tôi vừa tiếp nhận sự động viên, cổ vũ nhiệt thành (đây là lần thứ hai), vừa với con mắt của người hạnh phúc nhìn về tương lai, tôi nghĩ quân đội của chúng ta sẽ sớm tấn công Nam Kinh, có thể chiến tranh sẽ nhanh chóng kết thúc.

Chừng hơn một tiếng đồng hồ sau, như có linh tính, mẹ của cô xuất hiện trước mắt tôi, tôi lập tức ý thức được rằng, nhất định có tin khẩn cấp gì đây, tôi đi xuống tầng dưới cài cửa cẩn thận. Quay lại, thấy mẹ cô nằm dài trên sofa, mắt hé mở, vẻ mặt mệt mỏi giống như người ốm. Tôi nghĩ, có thể đã có chuyện gì khiến mẹ cô sợ hãi, cho nên tâm lí mới căng thẳng như thế. Mẹ cô lắc đầu, thái độ không rõ ràng, tâm trí rối ren. Tôi lại hỏi:

“Sắc mặt cô tái nhợt rồi, người không khỏe à?”.

Lúc này mẹ cô mới ngước lên nhìn tôi, bỗng cất tiếng nói, giọng rất kiên cường: “Em có mang”.

“Có mang?”. Tôi như bị bỏng, bối rối nói: “Sao lại thế được?”.

“Sáng nay em đến bệnh viện rồi”. Mẹ cô lắc đầu: “Đúng vậy, đã hơn hai tháng”.

Tôi đi đi lại lại trong phòng, suy nghĩ và biết đấy là một tin không bình thường. Mẹ cô đến không phải báo cho tôi một tin mừng, theo một ý nghĩa nào đó, đây là chuyện khó xử, thử thách lí trí và tình cảm của chúng tôi. Không phải là quá khi nói cái sinh mệnh ấy đã đưa tay ra nắm lấy lương tâm chúng tôi, một tay khác nắm chặt lấy niềm tin của chiến sĩ ta, nó đặt cả hai cái chúng tôi vô cùng quý trọng vào một chỗ, đồng thời bắt chúng tôi phải lựa chọn một trong hai thứ đó một cách vô tình. Không nghi ngờ gì nữa, mỗi chiến sĩ của chúng ta rất sợ phải lựa chọn, sợ hơn cả cái chết. Cái chết đối với chúng tôi không đáng sợ, bởi từ lâu chúng tôi đã đặt sống chết ra ngoài suy nghĩ, mọi người vẫn thường nói thế và chúng tôi làm như thế.

“Anh ấy có biết không?”. Tôi hỏi.

“Ai?”.

“Đại Hải”. Đại Hải là tên gọi khác của Dương Phong Mậu.

“Anh ấy đi Mianma rồi”.

“Bao giờ về?”. Tôi nghĩ, tin này cần cho bố đứa trẻ biết trước.

“Không biết”. Mẹ cô nói: “Mới đi, có thể còn lâu”.

Tôi lại hỏi: “Lúc này đã ai biết?”.

Mẹ cô nói: “Chưa ai biết, chỉ có một mình anh”.

Tôi hỏi: “Cô dự tính thế nào?”.

Mẹ cô nói: “Theo anh?”.

Tôi nói: “Chuyện này chỉ có cô và tổ chức mới có quyền trả lời”.

Liền mấy hôm tôi chờ câu trả lời của mẹ cô. Tôi mong có cuộc họp, nhưng tôi và mẹ cô không có quyền triệu tập, chỉ có A hoặc người đại diện A mới có quyền triệu tập. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ là đồng chí A (anh Cả), nhưng mấy hôm ấy tôi bỗng muốn mình là A, để có quyền triệu tập cuộc họp Hồng lâu.

Một hôm tôi sang khu nhà của Trịnh Giới Dân để đưa văn bản, đi qua phòng làm việc của mẹ cô, tôi cố tình ho vài tiếng, thông báo cho mẹ cô tôi đã đến, nếu có chuyện gì thì tìm cách liên hệ. Hồi ấy chúng tôi có phương thức liên hệ hẹn nhau: Chỉ cần mẹ cô bói bài Tây cho ai đó ở sảnh lớn, đấy là tín hiệu cảnh báo có chuyện, phải chú ý nhận mật hiệu. Tôi không biết mẹ cô học được ở đâu thuật bói bài Tây, rất nổi tiếng, nói rất đúng, khắp Cục Bảo mật bảo mẹ cô bói còn đúng hơn Hòa thượng Thiên Giác ở đền thờ Khổng Tử. Nghe nói ngay cả Mao Nhân Phượng cũng kín đáo mời mẹ cô bói (chắc chắn đấy là kết quả khi bị Thời Quang mê hoặc). Chỉ cần mẹ cô xuất hiện ở những nơi nghỉ ngơi sẽ có người đến nhờ bói. Nhờ chuyện ấy mà mẹ cô kết thân với khá nhiều người, thu lượm được nhiều tin tức ngoài lề. Khi tôi ở văn phòng Trịnh Giới Dân ra, đi qua phòng nghỉ ở hành lang, trông thấy có mấy người ngồi quanh cái bàn với mẹ cô, tôi biết mẹ cô đang dùng cỗ bài để bói, thật ra là chờ tôi đi qua để phát tín hiệu. Tôi lập tức đứng vào chỗ đám đông, cố tình lên tiếng để mẹ cô biết. Sau đấy, mẹ cô phe phẩy mấy quân bài, góc mấy quân bài hiện lên ba chữ JQK giống với tín hiệu điện đài báo cho đối phương biết để nhận điện. Tiếp theo, sẽ xuất hiện mấy quân bài có chữ số (tức JQK không có nội dung, có thể tùy ý) tôi nhớ nội dung, về phòng chuyển những con số đó thành số chẵn đổi thành số lẻ theo minh mã quốc tế để phiên dịch ra nội dung. Do chỉ có thể ghi nhớ, nên nội dung thông báo rất ngắn gọn, chỉ vài chữ với một nhóm từ.

Hôm ấy nội dung mẹ cô thông báo cho tôi là: Dập lửa mong muốn. Ý mẹ cô bảo với tôi, đã quyết định bỏ cái thai. Nhưng ai đã quyết định cho mẹ cô? Bố đứa bé biết không? Lẽ nào nhất định phải như thế? Nói thật, lúc bấy giờ tôi suy nghĩ rất nhiều, thậm chí nghĩ đến quyết định của mẹ cô bỏ đứa bé ấy đi, tôi lại muốn khuyên mẹ cô cứ sinh. Có thể mẹ cô sẽ đưa ra quyết định ngược lại, có thể tôi sẽ có nguyện vọng ngược lại. Không còn cách nào khác, có những việc không biết đáp án thế nào là đúng, nên không thể thỏa mãn với bất cứ đáp án nào.

Hai hôm sau, chúng tôi lại gặp nhau trong vũ hội, không biết xuất phát từ đồng tình hay là sự quan tâm, hoặc từ tâm lí trách nhiệm với một sinh mệnh, tôi rất ngu xuẩn đề xuất một chuyện đau đớn, yêu cầu mẹ cô nghĩ lại, không nên quá kích động, tôi còn nói đến chuyện chiến tranh sắp kết thúc, như vậy có thể giữ đứa bé lại.

Tôi chưa nói xong thì người mẹ cô bỗng run lên, một giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống áo tôi. Một lúc sau, mẹ cô bảo, đấy không phải là quyết định của mẹ cô, mẹ cô đã liên hệ với tổ chức, chính A ra lệnh, mẹ cô phải bỏ ngay đứa bé.

Anh A?

Anh A?

Ngay lúc ấy, không thể cưỡng lại, tôi rất căm giận cái khuôn mặt dã man ngang ngược của A. Trong lúc bất mãn và bất an, tôi nghĩ, đồng chí Anh Cả này thật giống với Mao Nhân Phượng, lạnh lùng vô tình! Tôi hiểu điều gì khiến anh ta trở nên lạnh lùng, vô tình. Nhưng lúc bấy giờ tôi không thể nào lí giải nổi, vì đau khổ của một người - cho đến nay tôi vẫn nhớ mẹ cô nói câu ấy với vẻ cam chịu và đau khổ - khiến tôi mất lí trí. Tối hôm ấy, lần đầu tiên tôi mất thiện cảm với tổ chức và đồng chí A bí ẩn.

Nhưng một tuần lễ sau, lời trách móc nặng nề kia lại giày vò chính tôi.
 
Quyển 4 - Chương 9


Tôi cảm thấy nếu kể một câu chuyện, thì bây giờ nó đang phát triển theo hướng thê thảm dần, càng ngày càng giống một bi kịch. Tôi biết, trong một thời gian vô hạn, mọi thứ đều có thể xảy ra, nhưng chỉ trong thời gian hai tháng đã xảy ra bao nhiêu chuyện mà tôi không biết.

Buổi chiều hôm ấy, hết giờ làm việc tôi về nhà, vợ nói với tôi, ông già thường cắt tóc cho tôi đến tìm, bảo đến trả lại tiền. Vợ tôi không biết, trả lại tiền chỉ là cái cớ, đưa tin tình báo đến cho tôi mới là chính. Ông già này giống như ngọn đuốc trong đêm tối, chiếu sáng tôi, sưởi ấm tôi, khiến tôi những lúc cô đơn nhất vẫn cảm thấy có tổ chức bên mình. Nhưng từ ngày mẹ cô đến, tôi rất lâu không liên hệ với ông. Ông ấy đột ngột xuất hiện khiến tôi giật mình. Tôi ngồi trên sofa lòng dạ như lửa đốt, có thể tưởng tượng tôi sờ thấy mảnh giấy ông già để dưới đệm như thế nào. Tâm lí sợ hãi vô thức khiến tôi lập tức mở tờ giấy ra xem, trên đó chỉ có hơn chục chữ, thông báo cho tôi tối nay dự buổi họp Hồng lâu. Vậy là tôi cảm thấy nhẹ nhàng, giống như đã tránh khỏi nguy hiểm, nghĩ bụng, mình đang mong có cuộc họp, nhân đấy có thể đề nghị tổ chức xét lại quyết định đối với mẹ cô. Hồi ấy, tôi mong mẹ cô sinh con, thứ nhất vì biết mẹ cô có nguyện vọng ấy, chúng tôi phải tôn trọng; ngoài ra, như tôi vừa mới nói, cách mạng có thể sắp thắng lợi, không cần phải hi sinh như thế.

Nhưng khi nhìn kĩ mảnh giấy trong tay, tôi lại cảm thấy có gì đó không hợp lý. Bởi, bình thường cuộc họp do mẹ cô thông báo, có lúc không báo cho tôi, mẹ cô đi họp về, sẽ truyền đạt những ý kiến có liên quan đến tôi. Nhớ lại chỉ một lần, mẹ cô có việc không thể đi dự, tôi đi thay, đấy là chuyện nửa năm trước. Tôi còn nhớ, trong cuộc họp ấy, cuộc họp lần thứ ba tôi tham dự, tôi phát hiện thiếu một đồng chí, thiếu đồng chí sinh viên trẻ, cô vẫn nhớ chứ?

Đúng, chính là cậu ta, cậu ta có cái bớt đỏ trên trán. Tôi nhớ ra rồi, biệt danh của cậu ta là Bán Nguyệt. Có thể trên đây tôi đã nói, cậu ta trẻ nhất trong số chúng tôi nhưng là người gặp nạn đầu tiên, hi sinh năm hai mươi tuổi, sự hi sinh của cậu ta khiến tôi hiểu rằng, những người công tác bí mật chúng tôi không sợ chết, vì cái chết không thật, rất mờ nhạt. Có một câu nói thế này: Luồn sâu vào lòng địch, buổi sáng dậy thấy mình còn sống, đấy là điều vô cùng hạnh phúc.

Đúng vậy, sinh mệnh đối với chúng tôi giống như cầu vồng trên trời dễ tan biến. Ánh nắng, hơi nước, thậm chí vị trí đứng, góc nhìn, tất cả những thứ đó chỉ cần lệch đi một chút đều có thể làm cho cầu vồng biến mất. Sinh mệnh của chúng tôi quý báu và buồn như vậy là bởi mỗi hành động của chúng tôi đều có thể là mối nguy hiểm không thể vãn hồi. Có lúc, chúng tôi phải tự cắt động mạch, cổ họng, cắn lưỡi hoặc uống một viên thuốc cực độc để kết liễu đời mình. Cho nên, mọi người nói, làm một tình báo chẳng khác nào cho một chân vào cửa địa ngục, chân kia rất có thể một buổi sáng hay buổi tối nào đó cho vào nốt. Đấy là hiện thực không có gì phải bàn cãi. Còn như việc tôi rút được chân ở cửa địa ngục ra, trở thành một ông già 80 tuổi, có thể nói là trường hợp hiếm có, rất thấy.

Mảnh giấy trên tay tôi trở nên nặng trịch, cứng lại, như một mảnh sắt, tay tôi run run. Tôi nghĩ, lẽ nào đây là tín hiệu mẹ cô xảy ra chuyện gì rồi chăng? Nếu mẹ cô không có vấn đề gì thì tại sao ông già xuất hiện? Mẹ cô có chuyện gì? Xảy ra chuyện gì trong khi xử lí cái thai, hay là bị lộ rồi? Cảm giác tai họa rơi xuống cứ bám chặt lấy tôi, giày vò tôi, tôi thấy ớn lạnh và sợ hãi. Bên ngoài, trời đang dần tối, tôi không đủ dũng khí để đi, nhưng cũng không dám dùng điện thoại ở nhà. Rốt cuộc tôi vẫn phải đến một khách sạn gần đấy gọi điện thoại cho biệt thự Thủy Tây Môn.

Điện thoại kêu u u như một chiến hạm đang chìm dần. Vào lúc tôi định cúp máy, đầu dây đằng kia mới có người nghe máy: “Đây là nhà riêng của ông Dương Phong Mậu, xin hỏi ông tìm ai ạ?”

Tôi nhận ra giọng người giúp việc, liền hỏi: “Xin hỏi, bà Mậu có nhà không?”

Chị ta trả lời: “Bà Mậu mệt, đang nghỉ, ông có việc gì không ạ?”

Tôi bảo không có việc gì, chỉ hỏi thăm vài câu rồi cúp máy, cảm thấy như trút được gánh nặng. Tôi nghĩ, có việc gì chứ? Không có việc gì cả mẹ cô chỉ mệt, cho nên bảo tôi đi họp. Thậm chí tôi nghĩ, mẹ cô mệt có phải vì mới nạo thai chăng? Ý nghĩ ấy làm tôi đau lòng, tưởng như chính tôi là bác sĩ xử lý cái thai. Tôi cảm thấy đáng tiếc, bởi tôi định tối nay sẽ nói giúp mẹ cô. Nói thật, tôi đã làm cha rất hiểu đứa con quan trọng biết chừng nào đối với người làm cha mẹ.

Tối hôm ấy, trời trong, vầng trăng bàng bạc đã hiện lên nơi chân trời, dọc đường phố là bóng nhà lô xô và bóng cây lay động như nước. Ánh trăng vằng vặc, chiếc xe cứu thương màu trắng ẩn mình trong ánh trăng làm giảm đi sự chú ý của mọi người, cho nên tôi không trông thấy nó chạy tới, khi nó đến gần và dừng lại, tôi mới bỗng nhận ra, vội vã bước lên xe. Xe rú còi lao vào bóng tối đường phố, nhưng không chạy ra ngoại thành mà loanh quanh trong các phố. Lúc đầu tôi nghĩ có thể là đón ai đó, nhưng xe lại đến khu vực Thủy Tả Cương, người thay mặt đồng chí A giơ tay chỉ vào một con ngõ hẹp, nói:

“Số hai mươi tám, ngõ Song Tỉnh đã bị theo dõi, từ nay về sau không được đến đấy”.

“Số mười bảy, phố Quế Hoa đã phản bội, không được liên hệ với hắn”. Xe đến Minh Cố Cung, người đại diện A lại nói.

Đến cổng Quan Hoa, người đại diện A nói đồng chí nào đó đã bị bắt, sau này không được liên lạc nữa. Anh còn chỉ mấy địa điểm, rồi xe ra khỏi thành phố, lên núi Tử Kim. Xe vòng vèo theo con đường núi chừng nửa tiếng đồng hồ, cuối cùng đến trước cổng một tòa biệt thự. Một ông già râu bạc phơ mở cổng, rồi loanh quanh đưa chúng tôi vào một cái nhà tắm mái bằng. Trong nhà đã có ba người chờ sẵn, trong đó có ông già cắt tóc, ông tỏ ra không biết tôi, tôi cũng không để lộ mình biết ông. Ngoài ra còn có hai người nữa, một người là nữ, chừng 30 tuổi, khuôn mặt rất to, tóc cắt ngắn làm khuôn mặt như càng to hơn, chị mặc bộ đồ dân tộc thiểu số. Kể cả ông già chân thọt cắt tóc và hai người vừa rồi lên xe tôi đã gặp, buổi họp hôm nay phần lớn tôi không quen, một lúc gặp nhiều người không quen, tôi có phần chột dạ, nhưng rất phấn khởi, vì đồng chí của tôi rất đông. Chúng tôi vừa ngồi xuống thì ông già râu bạc ra ngoài, có thể là ra cảnh giới. Không biết do xúc động hay căng thẳng, tôi thấy ánh mắt ông già lộ vẻ run rẩy.

Cuộc họp vừa bắt đầu, người thay mặt đồng chí A vẻ mặt nghiêm trọng, nói với chúng tôi, vừa rồi có hai người phản bội (trong đó có số mười bảy phố Quế Hoa), tổ chức bị tổn thất nặng nề, có bảy đồng chí bị bắt, tổ chức yêu cầu mọi người không được mạo hiểm, không có lệnh của tổ chức không được tự tiện hành động.

“Nhưng,” người đại diện đồng chí A trở nên sắc sảo: “Hai kẻ phản bội phải bị trừ khử, phải vượt qua nguy hiểm để trừ khử chúng! Phải giết người diệt khẩu!”. Anh nhìn mọi người, nói tiếp: “Tổ chức quyết định giao việc này cho “Kính Viễn Vọng” phải hoàn thành trong thời gian nhanh nhất”.

“Hiện tại chúng ở đâu?”. Một người tuổi trung niên ngồi trước mặt tôi hỏi. Tôi nghĩ, có thể anh này là Kính Viễn Vọng.

“Ở trong tay Mao Nhân Phượng”. Người thay mặt đồng chí A nói: “Nhưng nghe nói chúng sắp đi khỏi Nam Kinh, không biết đi đâu, có thể là Trùng Khánh”.

“Ở chỗ Mao Nhân Phượng có người của chúng ta đấy thôi?”. Người trung niên nghi ngờ hỏi lại: “Để họ làm có tiện hơn không?”.

Người đại diện A nhìn anh ta, hỏi: “Nghe anh hay nghe tổ chức đây?”.

Người đứng tuổi cúi đầu, không nói gì.

Lúc ấy, người đeo kính ngồi giữa nữ đồng chí và ông già cắt tóc, tức là một trong ba người chờ sẵn chúng tôi trong nhà, nói chen vào: “Họ bị bắt rồi, vừa bị bắt xong”.

Người này là ai? Tại sao anh ta nói chúng tôi bị bắt? Tôi cảm thấy kì lạ. Tôi nghĩ, lẽ nào mẹ cô bị bắt? Điều này chứng tỏ chiều nay tôi gọi điện đến nhà đã bị vào bẫy? Đồng thời, giọng nói của tôi cũng đã được ghi âm. Bỗng tôi sốt ruột không yên, tay chân bối rối không sao kìm lại được. Để ổn định tinh thần, tôi lấy thuốc ra hút. Tôi vừa châm thuốc thì bên ngoài có tiếng kêu to, chúng tôi chưa kịp nghe rõ,thì tiếng kêu im bặt. Điều ấy khiến chúng tôi cảnh giác, tiếp theo là những âm thanh bị nén lại, giống tiếng chim vỗ cánh càng làm chúng tôi cảnh giác: Có chuyện rồi! Lúc ấy, đồng chí đeo kính vừa nói “họ bị bắt” dẫn đầu chạy như bay ra cửa, tắt đèn, đồng thời hét to:

“Chạy mau!”.

Có tiếng động trên mái nhà, muốn chạy cũng đã muộn. Khi chúng tôi tắt đèn ngoài kia đã có tiếng bước chân. Không thể bỏ chạy, chúng tôi đành tản mác ngay trong nhà, đứng sát bờ tường, ánh mắt tập trung cả vào người đại diện A. Tối hôm ấy sáng trăng, tôi trông thấy người đại diện A rút súng lục, chĩa ra ngoài cửa nơi có tiếng hô và nổ súng, tiếp theo tiếng súng trong nhà ngoài sân thi nhau nổ. Đến lúc này tôi không còn sợ, rất trấn tĩnh, tay phải tìm khẩu súng giắt thắt lưng, mở chốt an toàn, chĩa ra ngoài cửa sổ. Một tấm kính bị tôi bắn vỡ. Trong lúc tôi đang nhắm bắn, đồng chí nữ đứng bên cạnh bỗng đá tôi một cái, nói:

“Nhanh, trốn nhanh!”.

Tôi chạy theo hướng chị chỉ tay. Người đeo kính vừa chạy đang vẫy chúng tôi. Tôi vấp ngã, chồm vào chân anh, trông thấy sau quần anh có một đôi chân co lại như làm xiếc, giống như bị bức tường nuốt chửng. Một lúc sau, không thấy đôi chân kia nữa, chỉ để lộ một lỗ thủng đen ngòm, người đeo kính đá vào cái lỗ đen, nói với tôi:

“Nhanh, nhanh lên!”.

Tôi chui ngay vào cái lỗ đen xuống lòng đất, không còn nghe thấy tiếng súng.

Lối ra của đường hầm ở giữa hai vách đá, rất kín đáo. Tôi không biết mình chạy trong đường hầm bao lâu, dù sao thì lúc chui ra không còn nghe tiếng súng, không biết có phải vì xa hay cuộc chiến đã kết thúc. Tôi từ trong đường hầm chui ra, trông thấy ông già cắt tóc đứng bên ngoài, bên cạnh ông không có ai. Điều này chứng tỏ không có ai đi trước ông, đôi chân như làm xiếc mà tôi trông thấy là của ông. Ông đi tới ôm tôi, rồi thò đầu vào cửa đường hầm lắng nghe, quay lại hỏi tôi đi sau là ai, tôi nói không biết.

Một lúc sau, mọi người lần lượt chui ra, đấy là Lưỡi dao, cậu thanh niên có mái tóc nhuộm đỏ lần đầu tiên tôi gặp trên xe cấp cứu. Cậu ta thoát nạn lần này, nhưng như tôi nói, rất không may, chỉ trước ngày Nam Kinh được giải phóng ít hôm, cậu ta hi sinh. Nhiệm vụ trừ khử hai tên phản bội được giao cho cậu ta, vì Kính Viễn Vọng đã hi sinh trong trận chiến đấu này.

Cậu ta chui ra hồi lâu mà không còn ai ra tiếp, chúng tôi không biết có còn ai nữa không, mặt khác sợ chờ ở đây quá lâu sẽ gặp rắc rối, cho nên tôi quyết định để ông già cắt tóc và Lưỡi dao đi trước, tôi chờ. Điều làm tôi ngạc nhiên là lúc họ đi, tôi nghe thấy bước chân chắc nịch của ông già cắt tóc, không phải chân thọt... Bỗng tôi cảm thấy vô cùng kính trọng ông già khiêm tốn này.

Họ vừa đi một lúc lại có người chui ra, đó là chị phụ nữ. Chị vừa chui ra liền ôm lấy vai tôi mà khóc. Trước đấy tôi chưa hề gặp chị, tôi nghĩ chị cũng không biết tôi, chị làm như vậy khiến tôi bối rối. Tôi khuyên chị, dìu chị đến ngồi trên một mỏm đá, sau đấy tôi thò đầu vào hang như ông già cắt tóc vừa rồi.

Chị hỏi tôi: “Anh làm gì thế?”.

Tôi nói: “Xem có còn ai nữa không”.

Chị lại bật khóc, nói: “Hết rồi... không còn ai đâu. Tôi vừa vào đường hầm thì họ bịt ngay cửa, ngồi ở cửa hầm tôi nghe họ chiến đấu, cho đến khi dứt tiếng súng tôi mới đi”.

Tôi hỏi: “Có ai bị bắt không?”.

Chị nói: “Không rõ, chắc là hi sinh cả rồi”.

Cái buổi tối ma quỷ và thiên sứ bắt tay nhau cùng xuống trần, chỉ một cuộc đọ súng ngắn ngủi, tôi đã biết chết là gì, sống là gì, sống và chết cận kề bên nhau, bí ẩn không sao hiểu nổi. Tôi cảm ơn Thượng đế đã cho tôi con đường sống vào lúc nguy nan, nhưng tôi vẫn chửi rủa Thượng đế đã cướp đi sinh mạng của các đồng chí. Tôi còn nhớ cuộc họp hôm ấy có mười một người, tức là tối hôm ấy chúng tôi hi sinh bảy đồng chí. Nếu tính cả người canh gác ngoài sân thì số người hi sinh lên đến tám. Nhưng tôi không biết người ấy có hi sinh hay không. Tôi cũng không biết đấy có phải là ông già râu bạc hay không, có thể là ông. Thật tình, cho dù chỉ mới gặp lần đầu, tôi đã băn khoăn và nghi ngờ ông già này rồi. Tôi không thể quên lúc ông đi ra, ông ta đã để lộ ánh mắt run rẩy. Nếu nói có người bán rẻ chúng tôi là người trong nội bộ thì chính là ông ta, đồ hèn hạ! Nhưng không ai biết kẻ đê hèn ấy lại ở ngay trong chúng tôi, lúc này tôi cũng không biết, cho nên tôi nghi ngờ cũng là việc không công bằng.
 
Quyển 4 - Chương 10


Cho tôi nghỉ một lúc để nhớ lại, đang định nói gì thì bỗng quên mất. Người già mọi thứ đều già, kể cả những ký ức cũng già, già đến mức có thể mất đi bất cứ lúc nào. Tôi có thể nói những việc về mẹ cô rất rõ, nhưng lúc này thì không thể, bây giờ chỉ nhớ được một nửa là khá lắm rồi, còn một nửa nữa không thể nhớ nổi, nó biến mất trong trí nhớ của tôi, cái chết giống như những cành cây khô trên thân cây. Không còn cách nào khác. Ở cái tuổi tôi, đừng nói gì những chuyện trong kí ức rời bỏ tôi, ngay cả hàm răng chắc khỏe như thế mà cũng rời bỏ tôi. Cô xem, toàn là răng giả. Kí ức con người giống như nước sông, chảy càng xa càng mất nhiều. Nước trong dòng sông của tôi mỗi ngày một cạn. Nói thật, lúc này tôi không sao nhớ nổi cái buổi tối hôm ấy đã chia tay nữ đồng chí kia để về nhà như thế nào. Buổi tối hôm ấy giống như bức màn tối, không những ngăn cách sống và chết của các đồng chí chúng tôi mà còn ngăn cách kí ức của tôi, kể cả những sự việc mấy hôm sau đấy tôi cũng không thể nhớ nổi.

Vừa rồi tôi nói kí ức con người giống như nước sông, đấy là để hình dung kí ức mất đi. Thật ra, nói như vậy cũng không đúng. Nếu tôi khẳng định cách nói ấy, vậy chúng ta phải thừa nhận đại não là cái máy quay phim (lại như cái máy chiếu phim), ghi lại tỉ mỉ từng sự việc xảy ra trong mỗi phút mỗi giây. Sự thật thì đại não của chúng ta không ghê gớm thế đâu, ít ra là năng lực ghi nhớ, nhiều lắm cũng chỉ như một cái máy ảnh. Nói về quá khứ, đại não chỉ như một tập sách ảnh, hồi ức của chúng ta dựa vào những tấm ảnh để tưởng tượng, tự do tưởng tượng và có thành công hay không là ở chỗ có bao nhiêu tấm ảnh được chụp. Lúc này tôi trông thấy một tấm ảnh, ảnh tôi và Dương Phong Mậu vào một đêm khuya ngồi với nhau trong phòng khách biệt thự Thủy Tây Môn, đấy cũng là “tấm ảnh” tiếp theo sau khi chạy thoát qua đường hầm. Trước đấy không có tấm ảnh nào ghi lại. Cho nên tôi không biết ai bảo tôi đến đấy, đến lúc nào, đến như thế nào...

Những tấm ảnh sau đấy càng ngày càng nhiều, cho nên tôi có thể kể lại với cô thật rõ ràng. Chúng tôi ngồi với nhau một lúc thì mẹ cô từ phòng bên cạnh bước ra, bước chân nặng nề, sắc mặt tái nhợt, vẻ ốm yếu, vừa thấy tôi, mẹ cô gục đầu vào người tôi như gặp được cứu tinh, mẹ cô khóc, khiến tôi nghĩ ngay chắc chắn mẹ cô đã bỏ đứa bé đi rồi. Cho nên tôi an ủi mẹ cô đừng khóc, bảo mẹ cô còn trẻ, chờ cách mạng thành công rồi sinh con sẽ tốt hơn, hãy chờ đợi.

Mẹ cô càng khóc thương tâm hơn, vừa khóc vừa nói: “Em phải sinh cháu... hu hu... bố cháu hi sinh rồi... hu hu... em phải sinh cháu... hu hu...”. Giọng nói vô cùng đau khổ.

Cô thử nghĩ xem, lúc ấy Dương Phong Mậu đang ngồi bên tôi, mẹ cô nói như vậy tất nhiên tôi không thể nào hiểu nổi.

Dương Phong Mậu đi tới đỡ mẹ cô dậy, bảo mẹ cô ngồi lên sofa, rồi đến trước mặt tôi, nói rất nghiêm túc: “Đồng chí Thủy, tôi đã nhận được chỉ thị của cấp trên, từ nay về sau công tác bí mật do tôi phụ trách, tôi sẽ là đồng chí A. Bây giờ tôi cử đồng chí làm đại diện của A, đây là thư ủy nhiệm (anh đưa cho tôi một bản chứng nhận), từ nay về sau đồng chí có quyền thay tôi xử lí công việc. Bây giờ tôi quyết định công khai với đồng chí về bí mật của tôi và Bồ Câu, tôi và Bồ Câu không phải là vợ chồng, mà là anh em, chẳng qua để che đậy thân phận nên giả làm vợ chồng thôi”.

Hai anh em giả làm vợ chồng, bây giờ nhìn lại không có gì là không thể, vì như vậy coi như hai trái bom buộc lại làm một, sức công có thể lớn gấp đôi. Nhưng hồi ấy như thế rất cần thiết, một mặt như vậy tiện cho những tin tình báo của Cục Bảo mật chuyển đi kịp thời, lúc ấy chúng tôi chỉ có một bộ điện đài ở biệt thự Thủy Tây Môn, nếu mẹ cô không sắm vai phu nhân mà cứ ra vào nơi này rõ ràng là rất khó, cũng không an toàn; mặt khác, là để tránh cho đám Tần Thời Quang cứ đeo bám mẹ cô. Cái lũ khốn kiếp ấy liệu có dám sàm sỡ với phu nhân Dương Phong Mậu không?

Vậy ai là bố đẻ của cô?

Phong Mậu nói với tôi: “Chính là đồng chí A”.

“Anh biết đấy”. Phong Mậu để tôi đứng đấy, anh vừa đi vừa nói: “Bồ Câu mang thai, tổ chức đã từng đề nghị cô không sinh đứa bé ấy, nhưng bây giờ đồng chí A bố đứa bé mất rồi. Có thể anh không biết, đồng chí A hôm ấy cũng có mặt trong buổi họp, hơn nữa vì yểm hộ cho các anh nên đã hi sinh. Bồ Câu rất mong tổ chức đồng ý để cô ấy sinh con, vì đấy là con đồng chí A. Tôi là anh trai của Bồ Câu, không có quyền quyết định, bây giờ anh đại diện cho A nên sẽ là người ra quyết định, quyết định của anh là quyết định của tổ chức”.

Đối với tôi đây lại là một buổi tối kinh khủng. Tôi rất lấy làm tiếc, rất lấy làm tiếc, đồng chí A, đồng chí A - cũng là bố của cô - người mà tôi hằng ngưỡng mộ, buổi tối hôm ấy tôi cũng không biết là ai. Mẹ cô nói, bố của cô đeo kính, tối hôm ấy có một người đeo kính, tôi muốn mẹ cô kể cho tôi thêm những đặc điểm, mẹ cô bảo cũng khó nói rõ, vì bố cô từng làm diễn viên nên rất giỏi cải trang, mẹ cô không biết tối hôm ấy bố cô cải trang thế nào. Hơn nữa, nói thật, cho dù mẹ cô có nói rõ đặc điểm tôi cũng không có cách nào để nhận ra đâu là đồng chí A, bởi cuộc họp ngắn ngủi, tôi chưa kịp nhận ra ai với ai cũng như đặc điểm riêng của từng người. Nhưng tôi nghĩ, có thể là người đeo kính chờ chúng tôi ở trong nhà tắm, tức là người sau đấy nói chúng tôi bị bắt, cũng tức là người đeo kính chạy ra tắt đèn, cũng tức là người đưa chúng tôi xuống hầm chạy trốn, có thể đấy là đồng chí A.

Chính là người ấy, nhưng tôi không chú ý người ấy thế nào, chỉ mơ hồ cảm thấy đấy là một người cao lớn, mặc cái quần rộng thùng thình màu ghi nhạt rất mốt thời bấy giờ, bởi tôi chui qua chân anh ấy, cho nên chỉ nhớ đặc điểm cái quần. Quả thật là một chuyện tức cười, một người tôi ngưỡng mộ, một người rất muốn làm quen, hơn nữa cơ hội để tôi làm quen ngay gần kề, nhưng tôi chỉ nhớ nổi màu sắc và hình dáng cái quần. Ôi, đời người là vậy, nhầm lẫm sai sót chết người, thật sự đáng tiếc. Trong đời có nhiều chuyện đáng tiếc, ngồi với bố cô dưới một mái nhà mà không nhận ra, quả là việc đáng tiếc trong đời tôi.

Theo lời mẹ cô kể, mẹ cô quen bố cô trên chuyến tàu thủy đi Pháp, đấy là mùa xuân năm 1939 hoặc 1940, tôi không nhớ rõ lắm. Hồi ấy, bố cô đã là một diễn viên điện ảnh nổi tiếng, 30 tuổi, mẹ cô mới hơn hai mươi, du học tại Mĩ. Khi tàu đến Tây Ban Nha, bố cô lên bờ trước, vậy là hai người chia tay. Về sau, bố cô về Nam Kinh, đi lại thân thiết với Dương Phong Mậu, bác của cô, rõ ràng đã tạo điều kiện để mẹ cô gặp lại bố cô. Tôi nghĩ, bác Mậu của cô là nhân vật quan trọng tác thành cho hôn sự của hai người. Nhưng họ gặp lại nhau hồi nào, yêu nhau hồi nào, cưới nhau hồi nào... tất cả những chuyện ấy tôi đều không biết. Tôi đoán chừng, hai người cưới nhau trước khi mẹ cô đến Nam Kinh, sở dĩ mẹ cô về Nam Kinh công tác là để cùng chồng kề vai chiến đấu. Theo tôi biết, trước đấy mẹ cô làm việc trong Sở Hiến binh Quốc Dân Đảng tại Thượng Hải, mẹ cô về đây là do Dương Gia Hổ, Tư lệnh Hiến binh đề xuất.

Tôi vừa nói, bác Mậu của cô ủy nhiệm cho tôi làm đại diện của A, đồng thời giao quyền sinh quyền sát cho tôi. Cô biết đấy, xưa nay tôi không tán thành việc hi sinh trẻ con, bây giờ quyền vào tay, tất nhiên tôi không chút do dự để mẹ cô sinh con.

Sau đấy, tôi, mẹ của cô, cả bác cô, đều không ngờ, quyết định không do dự của tôi đã đưa đến những tổn thất không lường trước, không thể nào bù đắp nổi. Không ai có thể phủ nhận, cuộc họp trong nhà tắm làm chúng tôi hi sinh bảy tám đồng chí là tổn thất to lớn, nhưng để cô ra đời, tổn thất của chúng tôi còn lớn hơn nhiều, thê thảm hơn nhiều tổn thất cuộc họp trong nhà tắm.

_________________
 
Quyển 4 - Chương 11


Chúng ta không ai sinh ra lại muốn phạm sai lầm. Đúng vậy, chúng ta sinh ra không ai muốn phạm sai lầm, nhưng điều ấy không có nghĩa là chúng ta không phạm sai lầm. Chúng ta có thể không làm việc xấu, nhưng không thể không làm sai. Mỗi chúng ta sẽ có lúc làm sai, làm sai là một bộ phận không thể tách rời trong cuộc sống. Nếu một người chưa bao giờ phạm sai lầm, điều ấy có nghĩa là người ấy không có cuộc sống, không trưởng thành, không có tất cả. Sự thật thì không có, không tồn tại con người ấy. Nói như vậy có nghĩa chúng tôi không sợ sai lầm, có lúc sự việc sai lầm khiến chúng tôi càng cứng rắn, càng có sức mạnh hơn.

Nhưng tôi phải chỉ ra một mâu thuẫn, chúng tôi hoạt động bí mật, quyết không thể sai lầm, tính chất công việc của chúng tôi không cho phép điều ấy, vì mỗi sai lầm đến tay chúng tôi đều trở thành vấn đề, nhỏ cũng thành vấn đề, thậm chí chỉ một chút không hợp thời cơ cũng là một sai lầm lớn, có thể dẫn đến mất mạng, thậm chí là hàng vạn sinh mạng. Đấy là mâu thuẫn của những người hoạt động bí mật, một mặt chúng tôi là con người, không thể không sai, mặt khác chúng tôi không được phép sai, sai lầm có thể cướp đi tính mạng duy nhất của chúng tôi. Cho nên, theo một ý nghĩa nào đó, nghề của chúng tôi làm là một nghề tàn bạo nhất, bí ẩn nhất thế giới, bất cứ một biến cố nào, bất cứ một sơ suất nào, thậm chí một sai sót bình thường đều có thể kết thúc tính mạng của chúng tôi. Không có cách nào khác, cách tốt nhất là đặt tính mạng của mình ở ngoài công việc. Tôi tin rằng mỗi chúng tôi đều thế, chúng tôi cũng chỉ có thể như thế.

Tháng Ba hoặc tháng Tư năm 1948, chúng tôi gặp rất nhiều rắc rối, không ai ngờ mùa xuân năm ấy lại buồn đến thế. Một hôm, toàn thể nhân viên Cục Bảo mật làm lễ truy điệu Lữ Triển, cấp trên của chúng tôi tại phòng họp nhỏ lầu hai (người này chết lâu rồi), giữa chừng tôi đi nhà vệ sinh, chỉ một lúc sau đã nghe thấy tiếng chân mẹ cô theo sau, biết ngay mẹ cô có điều gì đó cần thông báo. Tôi cố tình nán lại trong nhà vệ sinh, chờ mẹ cô vào một lúc rồi tôi mới xả nước, báo cho mẹ cô biết tôi sắp ra. Quả nhiên tôi vừa vào phòng rửa tay mẹ cô cũng theo vào, đứng rửa tay với tôi, đồng thời nhét một mảnh giấy vào túi áo tôi, thông báo: Trịnh Giới Dân rất tức giận khi biết mẹ cô mang thai hắn bảo mẹ cô phải bỏ ngay cái thai, hỏi tôi phải làm thế nào.

Cô xem, cô chưa ra đời đã gây rắc rối cho chúng tôi thế đấy!

Tôi suy nghĩ mãi, quyết định mặc kệ hắn ta. Không nghi ngờ gì nữa, làm như vậy nghĩa là mẹ cô đã làm ngược lại yêu cầu của Trịnh Giới Dân. Thật ra, trải qua một thời gian dài âm thầm đấu đá, thế lực của Trịnh Giới Dân ở Cục Bảo mật chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, tuy hắn nắm được thóp và bí mật của Mao Nhân Phượng, nhưng phái chống Tưởng lại rất mỏng, Trịnh Giới Dân có trong tay rất nhiều tài liệu đen nhưng cũng khó quật ngã Mao Nhân Phượng, không đấu nổi với hắn. Trong tình hình đó, chúng tôi nghĩ thà va chạm nhỏ còn hơn va chạm lớn, phải chơi đến cùng, bèn tố giác với Mao việc Trịnh lập điện đài riêng, bảo mẹ cô nghe lén “đường dây Tưởng - Mao”.

Suy nghĩ của tôi được mẹ và bác cô tán thành, vậy là bác cô ra mặt, mời Mao Nhân Phượng đến ăn cơm, dùng Trịnh Giới Dân và Tần Thời Quang làm “mồi nhắm rượu,” khiến cho Mao Nhân Phượng nổi nóng. Tố cáo Trịnh Giới Dân đồng thời tố cáo luôn Tần Thế Quang (vu cáo hắn bị phần tử Cộng sản mua chuộc). Đấy là ý kiến của mẹ cô đề xuất, như vậy vừa hạ được Tần Thời Quang, hơn nữa có thể từ nay về sau mẹ cô thay thế vị trí của Tần Thời Quang. Không nghi ngờ gì nữa, suy nghĩ của tôi trở thành cao kiến.

Chiêu thức ấy rất hiệu nghiệm, chưa đầy nửa tháng sau, Trịnh Giới Dân bị điều khỏi Cục Bảo mật, “thăng chức” Phó Chủ tịch ủy ban quân sự. ủy ban quân sự chỉ là cái chức hờ, “vinh thăng” Trịnh Giới Dân thực chất là giáng chức. Trịnh Giới Dân đi rồi, Mao Nhân Phượng làm một cuộc thanh trừng nội bộ Cục Bảo mật để quét hết tay chân của Trịnh. Tần Thời Quang hồ đồ đáng thương bị cử đi Bắc Bình triển khai công tác đặc vụ, vừa xuống tàu bị ngay người của ta trừ khử. Đáng đời tên chó săn!

Tần Thời Quang đi rồi, quả nhiên Mao Nhân Phượng điều mẹ cô lên làm thay việc của Thời Quang. Mao Nhân Phượng không muốn cho nhiều người biết chuyện mình liên hệ với Tưởng, nhưng mẹ cô đã biết và tỏ ra trung thành với hắn, cho nên mẹ cô là sự lựa chọn thích hợp nhất. Khi mẹ cô lướt qua tôi như con bướm, vào phòng mật mã Thời Quang, tôi vui mừng mỉm cười châm biếm. Tôi nghĩ, sẽ có ngày Mao Nhân Phượng tính toán sai và tự tát vào mặt mình, như vậy sẽ làm cho mọi người hả lòng hả dạ hơn là để chúng tôi tát hắn. Bởi suy nghĩ hả dạ như vậy, tất cả những gì của buổi sáng hôm ấy, kể cả việc chửi cho Mao Nhân Phượng một trận và việc vấp ngã nơi cầu thang, đều trở thành niềm vui của tôi.

Đấy là chuyện tháng Năm.

Tháng Sáu, tôi được phong hàm Thiếu tướng, lên chức trưởng phòng. Tôi tin rằng, điều này có liên quan đến mẹ cô. Sự thật thì Mao Nhân Phượng cài cắm tai mắt ở bất cứ phòng ban nào, trước đây tai mắt của tôi là Tần Thời Quang, bây giờ là mẹ cô, điều này xác định tôi có “quá trình thăng tiến”.

Tháng Bảy, tháng Tám, tháng Chín tôi đi Trùng Khánh, lúc ấy trong chính phủ Nam Kinh thế lực muốn “luận tội” Tưởng Giới Thạch ngày càng mạnh, theo ý Tưởng, Mao Nhân Phượng bắt đầu chuyển một bộ phận Cục Bảo mật lên Trùng Khánh. Vậy là tôi đi Trùng Khánh, phụ trách công tác tiếp đón.

Ngày 9 tháng 10, Mao Nhân Phượng thưởng công cho tôi ở Trùng Khánh, dùng chuyên cơ đón tôi từ Trùng Khánh về Nam Kinh để dự lễ Quốc khánh “Song Thập”. Tối hôm ấy, trong buổi chiêu đãi tại Cục Bảo mật, tôi không thấy mẹ cô, khiến lòng thấp thỏm không yên. Cho đến tối hôm sau, trong buổi bác cô chiêu đãi quan chức Cục Bảo mật, lúc tôi gặp mẹ của cô mới hiểu tại sao tối hôm qua mẹ cô không dự chiêu đãi là bởi vì cô. Lúc ấy cô đã 8 tháng tuổi, cái bụng kềnh càng không thích hợp để mẹ cô xuất hiện trước mọi người.

Tôi nghĩ vì thế mà mẹ cô không đi làm, hôm sau đế n văn phòng, mẹ cô nặng nề như con chim cánh cụt đi qua bên tôi nhìn thấy là tôi muốn khóc. Tôi nghĩ, nếu không phải vì nhiệm vụ, cách mạng, mẹ cô là con gái nhà giàu lúc này có thể đang ở trong công viên nào đấy, được chồng và một lô người hầu kẻ hạ săn sóc, trông nom, nhàn nhã và hạnh phúc như không khí bao bọc xung quanh, suốt đời nhớ mãi cảnh chứa chan ngọt ngào, ấm áp. Nhưng lúc ấy, mẹ cô không được trông thấy một nụ cười chân tình, mà nụ cười của mẹ cô cũng lụi tàn vì nỗi bất hạnh của bố cô. Cách mạng có lúc là như thế, còn tệ hơn ngồi tù, nhất là đối với những người hoạt động bí mật. Tôi không nghi ngờ cuộc đời mình, nhưng nếu con người có thể tái sinh, tôi sẽ chọn cho bản thân, thà làm một người lính chứ không muốn làm cái nghề tàn khốc, mất nhân tính này.

Cuối tháng ấy, một loạt tội phạm chính trị bị bí mật giải đi Trùng Khánh, đến bến tàu Phong Đô thì được cứu thoát, quan trọng nhất có sư trưởng Trương Thiên Lâm, giáo sư Lư Học Đông, tất cả mười một người. Tất nhiên sự việc do chúng tôi bố trí, một việc làm hết sức thành công! Việc này khiến Mao Nhân Phượng tức điên người, hắn gào thét từ tầng một lên tầng bốn, từ nhà vệ sinh chạy vào phòng họp, giống như bị chó dại cắn. Tôi chui vào văn phòng, bề ngoài tỏ ra tức giận, chửi đám tay chân, thậm chí đá vỡ hai bình nước nóng, nhưng trong bụng thì hả hê sung sướng. Tôi có dự cảm, Mao Nhân Phượng sẽ cử tôi đi giải quyết sự việc, như vậy mười một đồng chí của chúng ta sẽ được bình an rời khỏi Phong Đô (họ vẫn tạm thời lưu lại đấy), vì tôi biết họ ở đâu, họ trốn trong mười một cái hòm đạn màu xanh đen trong kho đạn của đại đội cảnh vụ bến cảng, tôi sẽ cử người của đồn công an đi tìm khắp nơi, đồng thời chuẩn bị thuyền để đưa họ qua sông. Quả nhiên, hai bình nước nóng bị tôi đá vỡ vẫn chưa được thu dọn thì điện thoại trên bàn làm việc của tôi đổ chuông. Tôi cầm máy, cố tình chửi vào máy, thì nghe tiếng giận dữ của Mao Nhân Phượng, lệnh cho tôi đáp chuyên cơ của hắn đi Trùng Khánh ngay. Vậy là tôi đi Phong Đô, rất bình tĩnh đưa các đồng chí của ta sang sông. Vì chưa bắt được người (sẽ không bao giờ bắt được), tôi không thể về ngay, cho nên phải ở lại Trùng Khánh.

Một buổi trưa, tôi đang ăn cơm với hai người Mĩ trong khách sạn Hành Sơn, cần vụ của tôi vội vàng chạy vào báo cáo, Mao Nhân Phượng sẽ đến Trùng Khánh, lúc này đang trên máy bay. Tôi vội ra ngay sân bay, sân bay đã có nhiều vị trong chính giới chờ sẵn, tôi hỏi thăm thì được biết, Mao Nhân Phượng đi cùng Tưởng Kinh Quốc, tôi chỉ là chức trưởng phòng nhỏ bé, không đủ tư cách đón tiếp. Tối hôm ấy Mao Nhân Phượng xong việc lớn, gọi tôi đến chỗ hắn ở, vừa thấy tôi hắn hùng hổ nói: “Anh không bắt được Cộng sản, nhưng tôi bắt được một con cá lớn, một con cá lớn. Anh biết ai không?”. Tôi lắc đầu, hắn nói tiếp: “Lâm Anh. Thật không thể ngờ, cái con đĩ ấy!”. Lâm Anh chính là tên mẹ cô lúc bấy giờ.

Tôi nói: “Lâm Anh? Không thể, cô ấy là phu nhân của ông Dương Phong Mậu, liệu có thể thế được không?”.

Mao Nhân Phượng chửi đổng: “Hừm, phu nhân cái đếch gì, chúng nó không phải vợ chồng, mẹ kiếp, đều là Cộng sản cả lũ!”.

Tôi nghĩ, thế là hết! Nhưng tại sao lại có thể như thế? Tôi cố moi tin, hỏi hắn làm sao mà phát hiện. Hắn cười sằng sặc, nói: “Cái lũ đi giày rách ấy không chỗ nào không vào, chẳng mất bao nhiêu công sức, chính cái con đĩ ấy tự bán mình! Hà hà, cái của nợ trong bụng nó bán rẻ nó, hà hà”. Hắn ề à một lúc rồi rất hứng thú, nói: “Anh biết không, lúc nó sinh đứa bé, cứ mê man gọi cái tên Hà Khoan, cấp dưới phản ánh với tôi, tôi cố nhớ lại cái tên Hà Khoan là thế nào với nó, tại sao nó gọi cái tên thằng ấy? Chắc chắn trong đó có bí mật gì, là điều mà nó không nói được với ai...

“Thoạt đầu, tôi cứ ngỡ Hà Khoan là tình nhân của nó, đứa nhỏ là con riêng với thằng ấy. Nghĩ vậy, tôi cảm thấy bất bình cho thằng Mậu bị cắm sừng. Nhưng về sau tôi cứ suy nghĩ, cái tên Hà Khoan nghe rất quen, đã nghe thấy ở đâu rồi, ai nhỉ? Thằng Uông ở phòng tình báo quân sự cho tôi biết, cái tên Hà Khoan này đã từng là một diễn viên điện ảnh nổi tiếng ở Thượng Hải. Anh có biết Hà Khoan là ai không, ha ha, là kẻ mấy tháng trước chúng ta lùng bắt, về sau trong cuộc bố ráp trên núi Tử Kim, hắn chống cự quyết liệt, bị chúng ta bắn chết, chính là Vương Lập, đầu sỏ Cộng sản, biệt hiệu là A. Ha ha, vậy là vấn đề đã rõ, không coi nó là con đĩ nữa, tôi nghi ngờ quan hệ của nó với thằng Mậu, nghi nó là Cộng sản...”.

“Tất nhiên rồi, tôi cho người bí mật theo dõi biệt thự Thủy Tây Môn, theo dõi ngày đêm. Ha ha, vậy là cái đuôi lòi ra... Một đêm, quản gia của nó là một mụ đàn bà, đêm hôm khuya khoắt chui vào một cái nhà gỗ nhỏ của người làm vườn, mãi không thấy ra, người của tôi nghĩ chúng đang làm tình vụng trộm, lén đến xem trò mèo, nhưng trong đó không có ai. Chuyện kì quái, rõ ràng người làm vườn ở trong đó, hơn nữa rõ ràng ả quản gia đi vào, tại sao không thấy ai? Người theo dõi báo cáo lại, tôi nghĩ có vào phải có ra, dặn chúng nó đừng đánh rắn động cỏ, phải theo dõi suốt đêm. Kết quả là, sáng hôm sau, hai đứa chúng nó lần lượt chui từ dưới đất lên... Ha ha, dưới lòng đất có chuyện...”.

Tôi biết, trong căn nhà ấy có một đường hầm, điện đài của chúng tôi dặt dưới hầm, hầm ngầm bị lộ tất nhiên tất cả đều lộ.

Thật không ngờ, cô ra đời làm thân phận mẹ cô bị lộ. Mẹ cô trong lúc sinh đã không kìm nổi, gọi tên bố cô nên bị lộ. Theo lời Mao Nhân Phượng, cô đã bán rẻ mẹ cô. Một phụ nữ sinh con là chuyện bình thường, ai ngờ... Thôi, bây giờ tôi có thể nói với cô, hoạt động bí mật là một nghề tàn khốc nhất, nguy hiểm nhất thế giới, bất cứ một hành động, một ánh mắt, một giọt lệ, thậm chí một lời nói mê sảng đều có thể bất ngờ bán rẻ bản thân, khiến tất cả những gì khổ cực gây dựng trong bao nhiêu năm chỉ một chốc, một nháy mắt là tiêu tan...

Ôi, con gái, con gái của bác, cho phép bác gọi con như thế, con đừng trách bác nói ra những điều đó, bác nói với con những điều đó, nói với con tất cả những việc có liên quan đến mẹ con, bác đã nói hết với con, để con biết, để con nhớ. Con phải ghi nhớ trong lòng, vì con là người thân duy nhất của mẹ con. Bác vẫn thường nghĩ, trên đời này trừ con ra, bác không tìm đâu ra người thứ hai để nhớ mẹ con. Người thân, bạn bè, đồng chí của mẹ con đều hi sinh trong trận chiến đấu ấy, chỉ còn lại một ông già này, hoặc nói một người đang chết, ấy là bác. Ôi, con gái, con gái của bác, đã bao nhiêu năm nay bác đã làm rơi vãi nhiều điều muốn nói. Tại sao mười năm trước, hai mươi năm trước, ba mươi năm trước không nói với con những điều ấy? Đấy là chuyện của bác, nếu con thấy muốn, rồi bác sẽ nói với con. Là một người suốt đời hoạt động bí mật trong lòng Quốc Dân Đảng, những năm còn lại có thể bác không có cách nào kể hết mọi chuyện của bác...

Tháng 5/2003 hoàn thành bản thảo.

Tháng 11/2007 sửa chữa lại.

Chú thích

[1] Trong tiếng Trung Quốc, chữ Mecca đọc cùng âm Mạch Gia. - ND

[2] Có ý nghĩa “Ba lỗ tai”. - ND

[3] Tổ Xung Chi (429 - 500): nhà toán học cổ đại của Trung Quốc. - ND

[4] Janos Neumann (1903 - 1957): người Mĩ gốc Hungary, nhà toán học, người đi tiên phong sáng tạo máy tính kĩ thuật số hiện đại. - ND

[5] Bàn tính đệ nhất của hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. - ND

[6] Mật mã siêu cấp thao tác trên máy do Arthur Schebius thiết kế, quân Đức dùng trong Thế chiến thứ hai. - ND

[7] George Smith Patton (1885 - 1945): tướng bốn sao người Mĩ. - ND

[8] Chữ Thi (shi) và chữ Tư (si) trong tiếng Trung Quốc đọc gần giống nhau. - ND

HẾT.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom