Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Lắng Nghe Trong Gió

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
797,928
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Lắng Nghe Trong Gió

Lắng Nghe Trong Gió
Tác giả: Mạch Gia
Tình trạng: Đã hoàn thành




Tác giả: Mạch Gia
Người dịch: Sơn Lê
Nhà phát hành: Phương Đông
Nhà xuất bản: NXB Phụ Nữ
Khối lượng: 500g
Kích thước: 14,5x20,5 cm
Ngày phát hành: 03/2012
Số trang: 476
Giá bìa: 95.000đ
Thể loại: Tiểu thuyết Đương đại
Nguồn: tve-4u.org
Thực hiện ebook: t hanhbt
Ngày hoàn thành: 29/08/2017
Dự án ebook #306 thuộc Tủ sách BOOKBT​


Giới thiệu

Lắng Nghe Trong Gió - Tác phẩm đạt giải Mao Thuẫn 2008 của tác giả Mạch Gia đi sâu vào miêu tả những gì sâu sắc nhất thuộc về nhân tính và trí tuệ con người. Tác phẩm là câu chuyện về đề tài phản gián, phần 1 của Phong Thanh, mang đến cho người đọc những kiến thức mới mẻ về hoạt động của đơn vị làm công tác thu thập thông tin tình báo của Trung Quốc.

Bằng những chi tiết ly kỳ, những logic chặt chẽ và cách kể chuyện hấp dẫn như một mê cung huyền bí, Mạch Gia đã đưa người đọc vào một không gian đóng đến cực độ và đột ngột mở ra những khả năng phong phú của câu chuyện. Từ Lắng Nghe Trong Gió đến Phong Thanh, Mạch Gia giống như một người điều tra tinh thần tài tình, từ những góc độ mà người khác không thể tưởng tượng, từ những chỗ tưởng chừng như đã kết thúc, ông đã đem lại những kì tích cho bạn đọc. Ông đã dùng trí tuệ của mình để đặt những bước chân vững chắc lên mảnh đất nhân tính của con người.

Ngòi bút của Mạch Gia trong tiểu thuyết này có một lực hút kì lạ, nếu bạn đã cầm sách lên đọc thì lập tức sẽ bị lôi cuốn vào câu chuyện khó mà có thể thoát ra được. Đây là câu chuyện phi thường về những con người phi thường, tác giả sẽ dẫn dắt bạn đi hết hồi hộp này tới lo lắng khác trong suốt cả câu chuyện. Nó chỉ kết thúc khi đã gấp lại trang sách cuối cùng.
 
Chương 1: Lời tựa (1)


Một người mười năm không gặp, bỗng một hôm gặp lại ở ngoài phố, hoặc một người không quen biết, bỗng một hôm trở thành bạn tâm giao, sau đấy cuộc đời anh như nước gặp nước, hoặc như nước gặp lửa, sự thay đổi không thể nào hiểu nổi bắt đầu xuất hiện. Tôi tin rằng, những chuyện như vậy ai cũng có. Tôi cũng có. Nói thẳng ra, quyển sách này bắt nguồn từ một lần gặp gỡ tình cờ của tôi.
 
Chương 2: Lời tựa (2)


Cuộc gặp gỡ tình cờ này thật sự rất có ý nghĩa.

Chuyện xảy ra vào mười hai năm trước, khi đó tôi còn là một thanh niên chưa đầy 30 tuổi, làm công việc bình thường, đi công tác chưa có tiêu chuẩn đi máy bay. Nhưng có một lần, sếp của tôi lên Bắc Kinh báo cáo công việc với cấp trên, nội dung báo cáo đã được viết trên giấy trắng mực đen, chỉ cần sếp dọc đường đọc đi đọc lại cho nhớ, khỏi cần tôi đi theo. Nhưng sau đấy cấp trên thay đổi ý kiến, muốn nghe báo cáo trực tiếp, sếp tôi lúng túng, vội vã triệu tôi “bay” tới, để tôi chuẩn bị tài liệu tại chỗ cho ông. Vậy là lần đầu tiên tôi được bước lên máy bay. Giống như các nhà thơ vẫn nói, nhờ vào sức mạnh của bầu trời, chỉ hai tiếng đồng hồ sau tôi đã đến Bắc Kinh. Sếp cuối cùng vẫn là sếp, ông ra tận sân bay đón tôi, tất nhiên không phải vì yêu quý gì nhau mà, chủ yếu là để tôi “nhanh chóng nắm bắt tình hình”. Nhưng vừa ra khỏi sân bay, một đồng chí công an rất ngang nhiên đứng chắn giữa chúng tôi, không cần hỏi lôi thôi, yêu cầu tôi đi theo anh ta. Tôi hỏi có chuyện gì, anh ta bảo cứ đi rồi sẽ biết. Nói xong, anh ta đẩy tôi đi, khiến vị sếp còn bối rối hơn cả tôi. Dọc đường, ông hỏi tôi có chuyện gì xảy ra, tôi đâu biết. Có thể khẳng định đây là cuộc “đưa đi” đầy bí mật, nếu không chỉ là chuyện nhầm lẫn. Tôi phải nhắc đi nhắc lại với “hai vị” công an tên tôi là Mạch Gia - Mạch là lúa mạch, Gia trong chữ gia đình, chứ không phải gia giảm. Thật ra, bố tôi đặt tên cho tôi trước tiên là do kém hiểu biết, không biết trên đời này có Thánh địa Mecca[1], thứ nữa để tỏ ra khiêm tốn, ông yêu cầu tôi phải khiêm tốn, vì ý nghĩa của hai chữ Mạch Gia, nói thẳng ra là đồng ruộng, là cày cấy, là nông dân, rất chất phác.

Cũng phải nói lại, “hai vị” ấy không buồn để tâm về sự đúng sai của tên tôi, họ bảo dù là gia đình hay gia giảm thì, đúng là anh rồi, không thể sai được. Nghe chừng họ không muốn nói lí, thật ra tất cả đều là lí, bởi có người đủ cả mắt mũi chỉ vào tôi và bảo họ đưa tôi đi, đâu có sai? Gọi họ đến bắt tôi đi là hai người, cùng dãy ghế trên máy bay với tôi, họ thì thầm trao đổi, giọng nhà quê nghe rất quen, tưởng như về đến quê tôi. Sau khi nghe cái giọng quê quen thuộc của hai vị, tôi chủ động bắt chuyện với họ. Thật bất ngờ, câu chuyện lại là mồi lửa tự thiêu, khiến hai vị công an coi tôi là kẻ xấu, tóm cổ tôi đi.

Họ là công an sân bay, có quyền bắt tôi hay không lại là chuyện khác. Vấn đề này cũng không quan trọng, quan trọng là tôi phải thoát ra bằng cách nào. Công an đưa tôi và sếp đến trụ sở của họ, trụ sở chia ra phòng trong và phòng ngoài, phòng ngoài không lớn, khi bốn người chúng tôi bước vào, căn phòng càng trở nên nhỏ hơn. Sau khi ngồi xuống, hai vị công an bắt đầu thẩm vấn tôi, hỏi tên, nơi làm việc, gia đình, chính trị, quan hệ xã hội... chừng như tôi trở thành kẻ khả nghi cần phải xem xét. Cũng may, sếp của tôi, rất kiên quyết và đầy quyền uy chứng minh tôi không phải phần tử phức tạp trong xã hội, mà là người tôn trọng kỉ luật cơ quan, luật pháp Nhà nước. Cho nên sau khi thẩm vấn những điều liên quan, mọi chuyện đều thuận lợi, nhanh chóng giải quyết.

Tiếp theo, hai người chuyển sang chuyện khác, tập trung hỏi tôi đã nghe và thấy gì trên máy bay, tôi bất ngờ, không biết phải nói thế nào. Bởi đây là lần đầu tiên tôi được vinh dự đi máy bay, “nghe thấy” bao nhiêu chuyện, toàn chuyện vụn vặt, linh tinh, chẳng đâu vào đâu, biết nói gì bây giờ? Họ bắt đầu hỏi tôi theo một hướng, thật ra, nói đi nói lại cũng chỉ một vấn đề, tức là, tôi đã nghe thấy hai người “đồng hương” trao đổi gì đó với nhau trên máy bay. Lúc ấy tôi mới hiểu, hai người đồng hương tình cờ gặp trên máy bay không phải là nhân vật bình thường, từ sự gặp gỡ không bình thường ấy tôi nghe được - vấn đề là nghe hiểu - những điều có liên quan đến câu chuyện riêng của họ. Họ cho rằng thứ tiếng địa phương của họ người khác nghe mà không hiểu nên họ có thể mạnh dạn nói chuyện bí mật riêng tư ngay chỗ đông người, nhưng không ngờ ngay bên cạnh lại có người nghe rõ, hiểu rõ.

Vậy là họ không yên tâm.

Vậy là “mất bò mới lo làm chuồng”.

Nhưng nói thật, tôi cũng chẳng nghe thấy từ miệng họ nói ra chuyện gì li kì. Ban đầu họ không nói tiếng địa phương, mà tôi cũng không thấy người là nhận quen biết ngay, với lại lần đầu đi máy bay, có lắm chuyện li kì, nhưng lại không thấy li kì. Máy bay cất cánh, tôi cảm thấy rỗi rãi khi ngồi một chỗ, tôi đeo tai nghe lên để nghe đài. Lúc bỏ tai nghe xuống mới nghe thấy họ nói tiếng quê mình, vừa nghe tôi cảm thấy như được gặp cha mẹ nên lập tức làm quen chứ đâu biết họ nói chuyện gì. Tôi nói tưởng như cố tình nói dối, nhưng có trời biết, đất biết, tôi biết, tôi tuyệt đối không nói dối.

Cứ thử nghĩ mà xem, nếu tôi có điều gì gian dối, liệu có thể chủ động nhận đồng hương với họ? Với lại, cho dù có nhận, liệu có thể họ nói chuyện rất lâu rồi tôi mới nhận không? Cũng cần nói lại, tôi vừa nghe họ nói, liền nhận ngay là đồng hương, vậy làm thế nào có thể nghe được toàn bộ câu chuyện của họ? Tuy rằng khẩu thiệt vô bằng, nhưng cứ bình tâm suy xét thì cách giải thích của tôi - không nghe thấy họ nói gì - không thể không đáng được xem xét. Tôi cứ kiên trì giải thích, thêm vào đấy nhờ có những lời tốt đẹp của sếp, cuối cùng hai vị công an cũng thả tôi ra. Nhưng tôi phải hứa: nếu nghe thấy gì có liên quan đến bí mật quốc gia, không được nói lại với bất cứ ai, bất cứ ở đâu, nếu không, sẽ gánh chịu mọi hậu quả. Tất nhiên tôi vâng vâng dạ dạ cam kết, sau đấy coi như xong chuyện.
 
Chương 3: Lời tựa (3)


Thật ra, làm thế nào để xong chuyện được?

Những ngày sau, chuyện đó như một dị vật nằm vắt ngang trong tim tôi, khiến tôi thấy sởn tóc gáy, cảm giác thật khó tả. Tôi không thể tưởng tượng hai người đồng hương là nhân vật vừa quyền uy vừa bí hiểm đến mức mà ngay cả một câu nói cũng không được phép nghe. Tôi được coi là người hiểu đời, nhưng ở đời này, chưa nói gì đến việc không biết có chuyện như vậy, mà trong lòng tôi cũng rất sợ gặp những chuyện như thế. Sau khi ra khỏi đồn công an việc đầu tiên tôi làm là tìm trong túi hai tấm danh thiếp của hai người đồng hương, xé vụn vứt vào sọt rác của sân bay. Khỏi phải nói, đấy là những tấm danh thiếp giả, cho nên có thể nói chúng chính là rác. Tôi vứt chúng đi, không chỉ vì chúng là rác, mà tôi còn mong hai người đồng hương đã gây phiền phức cho tôi cũng biến thành rác nốt. Điều này đối vô cùng quan trọng với tôi, vì tôi là người bình thường, sợ nhất xảy ra chuyện này chuyện khác.

Nhưng tôi có dự cảm họ sẽ lại tìm tôi.

Quả nhiên như vậy. Từ Bắc Kinh về được ít lâu, tôi nhận được điện thoại của hai người đồng hương (tôi cho họ địa chỉ và số điện thoại thật), hai vị thay nhau giải thích với tôi qua điện thoại, hỏi thăm, xin lỗi, an ủi, còn rất khách khí mời tôi đến chơi. Đơn vị của họ ở gần huyện lị trực thuộc thành phố chúng tôi, có thể họ ở trong núi. Trước đây tôi đã nghe nói, ở đấy có một đơn vị rất lớn đấy, rất bí mật, từ khi họ vào đóng trong núi, không ai được vào núi nữa, kể cả dân miền núi trước đây vẫn ở đấy, cũng phải di dời đi nơi khác. Cũng chính vì vậy nên không ai biết rõ về họ. Có nhiều chuyện khác nhau, có người nói họ chế tạo bom nguyên tử, có người kháo đấy là hành cung của một vị lãnh đạo Trung ương, người lại thì thào đấy là đơn vị bí mật của Nhà nước... không ai biết đích xác đấy là đơn vị nào. Được một đơn vị bí mật mời đến chơi, nói chung ai cũng cảm kích, tuy trong lòng vẫn sợ. Mặc dù rất cảm động, nhưng dùng dằng mãi tôi vẫn không đi được, có thể vì vẫn còn sợ.

Vào một ngày trong kì nghỉ Quốc khánh, có một người lái xe đến nhà tôi, bảo có người mời tôi ăn cơm. Tôi hỏi ai, người ấy bảo là thủ trưởng của anh ta. Tôi lại hỏi, thủ trưởng của anh là ai, anh ta bảo, cứ đến rồi sẽ biết. Câu nói này giống như lời công an sân bay nói, tôi lập tức nghĩ ngay đến là hai người đồng hương. Tôi đến, quả nhiên đúng như vậy, ngoài ra còn có mấy người nữa cũng nói toàn tiếng địa phương, có trai có gái, có già có trẻ, tổng cộng bảy, tám người. Thì ra đây là buổi họp mặt giữa những người đồng hương, năm nào họ cũng tổ chức, cuộc họp mặt đã thành lệ từ năm, sáu năm nay, khác chăng là năm nay có thêm tôi.

Sau cuộc họp mặt đó, tôi gặp gỡ người đồng hương bí ẩn này nhiều hơn và thế là cuốn sách này ra đời.
 
Chương 4: Lời tựa (4)


Cuốn sách này kể lại chuyện đơn vị đặc biệt mang bí số 701.

“7” là con số kì quái, ứng với nó là màu đen. Màu đen là màu đẹp, nhưng nó không phải là màu bình thường. Nó nặng nề, mang trên mình một thứ bực tức, căm giận, một thứ thần bí, huyễn tưởng. Theo tôi được biết, các tổ chức có sứ mệnh đặc biệt của các nước trên thế giới hầu như đều liên quan đến con số 7, ví dụ Cục 7 của Đông Đức trước đây, Cố vấn thứ Bảy của Tổng thống Pháp, Cục 7 của KGB Liên Xô, đơn vị 731 của Nhật Bản, Hạm đội 7 của Mĩ. Nói đến Trung Quốc, đấy là đơn vị đặc biệt 701, đơn vị tình báo xây dựng theo hình mẫu Cục 7 của KGB Liên Xô trước đây, tính chất và nhiệm vụ của nó gồm: Cục Thám thính, Cục Giải mã, Cục Hành động.

Cục Thám thính chủ yếu phụ trách kĩ thuật dò sóng đài đối phương, Cục Giải mã làm nhiệm vụ phá khóa và dịch mật mã, Cục Hành động tất nhiên là hành động, tức là đi làm trinh sát. Thám thính chuyên nghe những âm thanh trên trời, những âm không có thanh, những âm bí mật; giải mã tức là giải mật, tức là đọc sách trời, đọc sách không có chữ; thám báo tức là cải trang, thâm nhập hang cọp, đón đầu chiến đấu. Trong nội bộ, những người làm công tác thám thính đều được gọi là là “người nghe gió”; những người giải mã gọi là “người xem gió”; người làm công tác trinh sát gọi là “người bắt gió”. Nói cho cùng, những người làm tình báo đều là những người làm bạn với gió, chỉ khác nhau về bộ phận và cách thức làm việc.

Hai người đồng hương bí mật của tôi, trong đó có một vị là thủ trưởng số một của đơn vị 701, ông ta họ Tiền, mọi người vẫn quen gọi Thủ trưởng Tiền, nhưng sau lưng họ gọi ông ta là sếp; một vị khác là nhân viên trinh sát kì cựu, ông ta họ Lữ, làm công tác tuyên huấn bí mật ở Nam Kinh, mọi người gọi ông là “Khoai Lang”, bởi hồi xưa ông hoạt động ngầm. Hai vị đều là nhân vật cách mạng gạo cội gắn mác “Giải phóng”, khoảng trên dưới 60 tuổi, ở đơn vị 701 họ được coi là những hạt giống còn sót lại. Thời gian sau đó, quan hệ giữa tôi và hai người đồng hương ngày thêm sâu sắc, khiến tôi dần dần trở thành khách đặc biệt của đơn vị 701, có thể tự do lên núi dạo chơi.

Núi ấy tên là núi Ngũ Chỉ, chỉ cần nghe tên là đã có thể hình dung ra cấu tạo của nó, giống như năm ngón tay của một bàn tay xoè trên mặt đất. Tất nhiên nó có bốn thung lũng. Thung lũng thứ nhất gần phố huyện, cách chừng hai, ba cây số, ra khỏi thung lũng là có thể đến cửa ngõ phố huyện, một phố núi dựa vào lưng núi. Thung lũng này cũng rộng nhất, khu gia đình cán bộ nhân viên đơn vị 701 đều sống ở thung lũng này, ở đấy có bệnh viện, trường học, cửa hàng, quán ăn, nhà khách, sân vận động, đầy đủ giống như một xã hội thu nhỏ, người trong đó cũng tương đối phức tạp, ra vào không có gì khó khăn. Vì để viết cuốn sách này nên tôi thường xuyên đến đây, mỗi lần đến đều ở nhà khách mấy hôm, chỉ sau vài lần người ở đây đã quen mặt, vì tôi đeo kính đen (từ năm 23 tuổi mắt bên phải của tôi bị chứng nhạy cảm với ánh sáng mạnh, dưới ánh sáng ban ngày vẫn phải đeo kính đen để bảo vệ mắt), mọi người gọi tôi là phóng viên kính đen.

Những thung lũng tiếp theo càng thu hẹp dần, ra vào những nơi ấy cũng khó hơn. Tôi có may mắn ba lần vào thung lũng thứ hai, hai lần vào thung lũng thứ ba, thung lũng thứ tư trong cùng thì chưa được vào lần nào. Nghe nói, đấy là địa bàn của Cục Giải mã, cũng là nơi tuyệt mật trong toàn bộ dãy núi này. Cục Hành động nằm bên phải thung lũng thứ hai, bên trái là Trung tâm huấn luyện, là đơn vị cấp phó, hai đơn vị ấy giống như đôi cánh dang rộng từ núi, nhưng cánh bên trái lớn hơn cánh bên phải. Nghe nói, Cục Hành động không nhiều người, họ phần lớn đều đi công tác bên ngoài.

Trong thung lũng thứ ba cũng có hai đơn vị, thứ nhất là Cục Thám thính, thứ hai là cơ quan đầu não của 701. Hai đơn vị này không bố trí đối diện như Cục Hành động và Trung tâm huấn luyện, mà một trước một sau, phía trước là cơ quan đầu não của 701, phía sau là Cục Thám thính, giữa là khoảng trống, có những công trình công cộng như sân bóng, nhà ăn, nhà vệ sinh...

Vì dân địa phương không được vào vùng núi này nên cây cối không bị ai giẫm đạp, phá hủy, cứ năm này qua năm khác cây cối um tùm, chim thú thành đàn, ngồi trên xe vẫn thấy chim bay thú chạy. Đường toàn là đường núi, mặt đường nhựa đen bóng, rất đẹp, có điều rất hẹp, nhiều khúc quanh gấp như để thử thách tài nghệ lái xe. Nghe nói, trong núi còn có đường hầm để các đơn vị có thể qua lại nhanh chóng. Lần thứ hai vào Cục Thám thính, tôi thử đề nghị với ông Thủ trưởng cho tôi đi xuyên hầm một chuyến, ông ta nhìn tôi tỏ ra hờ hững, hình như yêu cầu ấy của tôi có phần quá đáng.

Có thể là như thế chăng.

Nhưng nói thật, trong quá trình tiếp xúc với người của 701, kể cả Thủ trưởng của họ, tôi cảm thấy rất rõ tâm trạng phức tạp của họ đối với tôi, bề ngoài sợ tôi gần họ, nhưng trong cốt tủy lại mong tôi tới gần. Thật khó tưởng tượng, nếu chỉ sợ thì cuốn sách này của tôi làm thế nào để hoàn thành? Chắc chắn không thể.

Nhưng vẫn còn hi vọng.

Tất nhiên, may mắn là hàng năm còn có Ngày Giải mật, đó là một ngày đặc biệt.
 
Chương 5: Lời tựa (5)


Tôi muốn nói, là một đơn vị tuyệt mật, tính chất đặc biệt của 701 được thể hiện ở mọi mặt, có những cái kì lạ không thể hình dung nổi, ví dụ hàng năm họ có một ngày đặc biệt, người ở đấy gọi là Ngày Giải mật.

Chúng ta biết công việc của những người trong đơn vị 701 là giữ an toàn quốc gia làm mục tiêu cuối cùng, nhưng về tự thân nghề nghiệp có tính bảo mật rất nghiêm ngặt khiến bản thân họ mất đi sự tự do cá nhân cơ bản nhất, thậm chí tự do nhận và gửi một lá thư cũng không còn, thư đến thư đi phải qua kiểm duyệt, thấy không có vấn đề mới được gửi hoặc trao cho người nhận thư. Ấy là nói nếu bạn gửi thư, người nhận có được đọc hay không quyết định bởi nội dung bức thư viết gì, nếu lời lẽ trong thư có chút nghi vấn, họ sẽ không được nhận mà không cần lí do nào cả. Cho dù được đọc thì khi đọc xong, lá thư ấy sẽ do tổ chức giữ trong hồ sơ, cá nhân không được cất giữ. Nói thêm, nếu lùi lại hai mươi năm, bạn may mắn nhận được thư của họ (phải nói khả năng ấy rất ít, trừ phi bạn là thân nhân trực hệ của họ), có thể bạn sẽ lấy làm lạ tại sao họ lại viết trên giấy than. Thật ra, không có gì kì lạ cả, vì những lá thư gửi đi đều phải lưu một bản cất giữ. Vào những năm chưa có máy photocopy, nếu cần có một bản sao tốt nhất là viết lên giấy than. Chuyện càng có ý nghĩa hơn nữa là, mỗi khi ai đó rời đơn vị, tất cả những gì có chữ, kể cả nhật kí đều phải nộp lại cho cấp trên, và được bộ phận lưu trữ bảo quản, cho đến một ngày những bí mật trên những con chữ kia không còn, chủ nhân của nó mới được nhận lại.

Đấy là Ngày Giải mật.

Đấy là một ngày để những bí mật cũ phơi bày giữa ban ngày.

Cái ngày ấy không phải có từ xa xưa, mà khởi thủy từ năm 1994, tức là ba năm sau ngày tôi tình cờ gặp hai người đồng hương. Đấy là năm ông Tiền rời chức vụ, cũng là năm tôi định viết cuốn sách này. Như vậy, không có gì khó để hình dung, tôi viết cuốn sách này không phải vì quen biết với hai người đồng hương, mà bởi có may mắn được đón Ngày Giải mật chưa từng có trong lịch sử đơn vị 701. Bởi có Ngày Giải mật tôi mới có quyền vào núi. Vì có Ngày Giải mật mà những người của 701 vốn nghiêm túc mới đón tiếp tôi đến thăm.

Khỏi phải nói, không có Ngày Giải mật thì không có cuốn sách này.
 
Chương 6: Lời tựa (6)


Bản thân tôi chẳng có gì quan trọng, như đã nói, người ở đây quen gọi tôi là nhà báo kính đen. Tên tôi là Mạch Gia, điều này tôi cũng đã nhắc đến. Tôi còn nói, trong cuộc sống tình cờ gặp gỡ một ai đó, hoặc tình cờ gặp một việc nào đó cũng chỉ là chuyện. Tôi cho rằng, tình cờ gặp gỡ chỉ là một phần trong cuộc sống bình thường, một thứ hình thái, một thứ trải nghiệm, không chút đặc sắc, không đem lại cho cuộc sống điều gì mới mẻ hoặc đặc biệt, nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ tình cờ sẽ làm bạn thay đổi về cơ bản. Lúc này tôi buồn lòng cảm thấy, sự tình cờ gặp gỡ hai người đồng hương đã làm tôi thay đổi về cơ bản. Tôi viết văn là vì niềm vui, vì vinh dự, là đau khổ, vì cha mẹ, vì con cái, vì tất cả. Tôi không cảm thấy như vậy là tốt, nhưng không còn cách nào khác. Bởi đấy là số phận, tôi không có sự lựa chọn nào khác. Về cuốn sách này, tôi dự cảm sẽ là đây cuốn sách hay, bí mật, thần kì, tình cảm, vừa mang hơi hướng cổ điển, lại có phong cách hiện đại, có nỗi chua cay và cả những số phận. Đáng tiếc là ông Tiền, Thủ trưởng đơn vị 701, người cổ vũ tôi viết, đã qua đời, mà không kịp đọc sách khi nó được xuất bản. Cái chết của ông khiến tôi cảm thấy số phận có chút gì đó không thật, giống như tình yêu, hôm qua còn tốt với nhau, hôm nay đã tan vỡ, không còn gì, sống biến thành chết, yêu biến thành hận, có biến thành không. Nếu nói cuốn sách này đã an ủi chút nào vong linh của ông, thì đó là nguyện vọng lớn nhất của tôi vào lúc này.

Xin dâng tặng Thủ trưởng Tiền và toàn thể đơn vị 701 cuốn sách này!
 
Quyển 1 - Chương 1: Bỉnh mù


PHẦN MỘT: NGƯỜI NGHE GIÓ

Cầm tấm giấy thông hành đặc biệt do Thủ trưởng cấp, chuyến đi bí mật của tôi được ưu ái và trọng thị chưa từng có, hoàn thành công việc như mong muốn, được mọi người kính nể.

Chỉ có một việc khiến tôi không thỏa mãn đó là số phận không chiều lòng người.

Đúng vậy, tôi có giấy thông hành thần bí, nhưng không có số phận thần bí.

------------------------------------------------------------------------------------

Câu chuyện Bỉnh mù là do ông Tiền, Thủ trưởng đơn vị 701, và cũng là người đồng hương, kể cho tôi nghe. Đây là câu chuyện đầu tiên về đơn vị 701 mà tôi được biết. Lúc kể chuyện này với tôi, ông vẫn chưa rời chức vụ và tất nhiên vẫn là con người của bí mật. Hơn nữa, hồi ấy chưa có Ngày Giải mật, thậm chí đến nay ông vẫn chưa có trong danh sách giải mật. Theo thông lệ, thời gian giải mật của người đứng đầu đơn vị 701 thường phải trên dưới mười năm sau khi rời vị trí tính ra, sang năm ông mới đến thời điểm giải mật. Cho nên chuyện liên quan đến ông tôi biết rất ít, nếu có cũng không dám nói ra. Đây không phải bạo gan hay nhát gan mà là vấn đề thường gặp. Con người ta phạm phải sai lầm cơ bản không gọi là bạo gan, mà là ngu xuẩn.

Vậy thì ông có dám kể chuyện của Bỉnh mù cho tôi trước khi có quyết định về Ngày Giải mật không? Hình như lúc bấy giờ ông đã biết sắp có Ngày Giải mật, hơn nữa, Bỉnh phải là một trong những người đứng đầu danh sách giải mật. Sự thật là thế. Điều ấy gọi là “nghệ thuật bạo gan”. Ông bạo gan ở vị trí cao - đứng cao, nhìn xa. Lúc ấy ông đứng trên tất cả mọi người trong đơn vị 701, biết trước những điều bí mật cũng là chuyện bình thường. Nhưng theo tôi, đấy không phải là lí do để ông quyết định vội vã kể chuyện Bỉnh mù với tôi, mà có thể có hai lí do: Thứ nhất, ông là người trực tiếp biết chuyện, tất nhiên cũng có quyền thuật lại; thứ hai, tôi ngờ rằng, ông băn khoăn với số phận đầy rẫy bất hạnh của mình, lo sẽ có ngày nào đấy nói đi là đi, nên ông cho rằng cứ nói trước sẽ tốt hơn. Về sau, quả nhiên ông “nói đi là đi”, một buổi tối như mọi, ông gọi điện cho ai đó để ôn chuyện cũ, rồi đi ngủ, cứ thế ngủ vĩnh viễn, không bao giờ dậy nữa! Bây giờ tôi thuật lại câu chuyện ông để lại, chợt có cảm giác linh thiêng.

Dưới đây là những ghi chép lời ông kể.

Cha mẹ tôi đã qua đời từ lâu nên hai cụ không biết vợ chồng tôi trước kia và hiện nay, gồm ba người con, kể cả chàng rể. Tôi là người đặc biệt của đơn vị 701, đấy là bí mật của tôi. Nhưng trước hết là bí mật quốc gia. Quốc gia nào cũng có bí mật, đơn vị bí mật, vũ khí bí mật, nhân vật bí mật... những bí mật không thể nào kể hết. Thật khó tưởng tượng một quốc gia không có bí mật sẽ tồn tại bằng cách nào? Có thể không tồn tại, giống như núi băng, nếu không có phần chìm dưới nước, liệu nó có thể tồn tại hay không? Có lúc tôi nghĩ, nếu giấu người thân mười năm hoặc cả đời một bí mật sẽ là không công bằng. Nhưng nếu không như vậy, rất có thể nước ta không tồn tại, hay ít ra cũng tiềm ẩn nguy cơ không tồn tại, như vậy cho dù không công bằng cũng đành chịu.

Bí mật không có nghĩa là không được gặp người. Trong cuộc đời bí mật của tôi, tôi chưa làm bất cứ việc gì để không dám nhìn mặt người khác. Anh biết đơn vị của tôi, nó không phải là tổ chức khủng bố, mà là đơn vị tình báo quan trọng, làm nhiệm vụ dò sóng vô tuyến và giải mã. Nếu nói những cơ cấu ấy nước nào, quân đội nào cũng có, cho nên sự tồn tại bí mật của nó có thể nói là một bí mật công khai, bí mật thật sự của nó ở vị trí địa lí, biên chế, cách thức làm việc và cả khó khăn, kết quả công việc... Những điều đó dù có đánh chết tôi cũng không nói. Chúng còn quan trọng hơn cả sinh mệnh tôi.

Ở đơn vị 701, mọi người coi những người như Bỉnh, những nhân viên thám thính, là “người nghe gió”. Họ dựa vào lỗ tai để có cơm ăn, lỗ tai là vũ khí mà cũng là bát cơm, là câu chuyện của họ. Khỏi phải nói, là một cơ cấu chuyên làm công việc nghe trộm, 701 là nơi tập trung những người có khả năng đặc biệt về thính giác, họ có thể nghe thấy những âm thanh người thường không nghe thấy, có thể phân biệt những khác biệt rất nhỏ trong âm thanh mà người thường không phân biệt nổi. Cho nên, tai của họ được mọi người gọi là “tai thuận gió”. Tai thuận gió đi theo gió, gió đi đến đâu thính giác của họ theo đến đấy, không một âm thanh nào không nghe thấy, không điều gì là không biết. Nhưng, năm ấy, lần ấy, những đôi tai thuận gió của chúng tôi lại bị đối phương bịt lại, những người nghe gió có tai mà như điếc.

Sự việc như thế này: Mùa xuân năm ấy, chúng tôi phụ trách nghe lén sóng vô tuyến điện của các đơn vị quân đội từ cấp lữ đoàn, sư đoàn trở lên của nước X, thì sóng vô tuyến bỗng lặng đi năm mươi hai tiếng đồng hồ. Một khoảng rộng như thế, một thời gian dài như thế, nhiều đài như thế, tất cả đều im lặng, đấy là kỉ lục trong lịch sử vô tuyến điện. Nếu nói đấy là yêu cầu chiến lược, thì mưu lược quân sự này cũng là chuyện chưa từng có. Cứ thử nghĩ, trong năm mươi hai tiếng đồng hồ ấy trên đời này đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện? Chuyện lớn đến đâu cũng có thể xảy ra! Cho nên nói, đấy là tuyệt chiêu điên cuồng của đối phương!

Nhưng kết quả lần chơi điên cuồng ấy, họ là người được lớn, năm mươi hai tiếng đồng hồ yên tĩnh qua đi mà không xảy ra việc gì. Đó là cái được thứ nhất, có thể nói là vận may. Cái được thứ hai, ấy là được cái vốn ban đầu. Trong năm mươi hai tiếng đồng hồ ấy, họ thay đổi toàn bộ thiết bị liên lạc, tần số liên lạc, thời gian, mật hiệu của các đơn vị từ cấp lữ đoàn, sư đoàn trở lên. Như vậy nói lên điều gì? Điều ấy nói lên tất cả những tư liệu, kinh nghiệm và thủ đoạn, kĩ thuật... chúng ta lén lút mò mẫm suốt mười năm trời, chỉ qua một đêm mất sạch, trở về con số không. Họ đã bỏ nơi chúng ta chỉ trong một thời gian ngắn, nhân viên, kĩ thuật, thiết bị tuy còn đấy nhưng không tác dụng gì. Trong nghề chúng tôi gọi đấy là 701 mù!

Thử nghĩ mà xem, trong những năm tháng bất cứ lúc nào chiến tranh cũng có thể bùng nổ, điều ấy đáng sợ biết chừng nào!
 
Quyển 1 - Chương 2


Mọi việc phải báo cáo với cấp trên, cấp trên cao nhất chỉ truyền đạt một câu: Chúng ta không muốn đánh nhau, nhưng càng không muốn bị động.

Ý nghĩa câu nói thật rõ ràng, tức là chúng tôi phải thay đổi cục diện.

Nhưng chỉ trông chờ đơn vị 701 thay đổi cục diện trong một thời gian ngắn là điều bất khả thi. Tổng cục đành khẩn cấp sử dụng tình báo mặt đất, tức là người của Cục Hành động. Nhưng làm như vậy quả là nguy hiểm, nhiều rủi ro, hơn nữa tin tình báo thu được cũng rất hạn chế, chỉ có thể là kế sách tạm thời. Muốn xoay chuyển cục diện, trừ phi phải tìm và bắt sóng lại đài địch, không còn cách nào khác. Để nhanh chóng dò ra đài địch, đơn vị 701 thành lập một văn phòng tạm thời, chuyên lùng sục khắp nơi, tìm kiếm người tài. Văn phòng tạm thời do Thủ trưởng Thiết, nhân vật số một của đơn vị 701 trực tiếp phụ trách, ông Ngô, Cục trưởng Cục Thám thính trực tiếp lãnh đạo, dưới họ còn có bảy thành viên khác. Tôi là một thành viên, hồi ấy tôi đang là trưởng phòng Một của Cục Thám thính.

Được sự hỗ trợ của Tổng cục, chúng tôi nhanh chóng điều động hai mươi tám chuyên gia giỏi từ các đơn vị bạn, lập thành nhóm hành động đặc biệt, ngày nào cũng lùng sục trong biển sóng vô tuyến điện, cực khổ truy lùng đài địch mất tích. Chúng tôi cố gắng gấp bội, nhưng những gì thu được không chút khả quan, thậm chí càng đáng lo lắng hơn. Nhất là trong nhóm hành động có thêm hiệu thính viên của chúng tôi, tất cả gồm X... người, bận rộn suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ trong ngày, sau một tuần lễ, mới nghe được âm thanh của bốn mươi lăm tần số đài địch, nhưng rồi cũng biến mất trong nháy mắt.

Nên nhớ, đài quân sự khác với đài dân sự dùng để phát thanh, đài phát thanh dùng tần số cố định; còn đài quân sự mỗi ngày thay đổi ít nhất ba lần, buổi sáng một tần số, buổi chiều một tần số, đêm thay đổi lại một lần nữa; ba ngày một chu kì. Một điện đài quân sự có mật độ thấp nhất ít ra cũng có chín tần số (3 tần số x 3 ngày), một điện đài bình thường có mười lăm hoặc hai mươi tần số, một điện đài đặc biệt chu kì thay đổi tần số có thể là một tháng cho đến một năm, thậm chí không lặp lại chu kì, không bao giờ dùng lại tần số cũ.

Theo chúng tôi đoán, các đơn vị từ lữ đoàn, sư đoàn trở lên của đối phương có ít nhất hơn một trăm điện đài hoạt động. Nói một cách khác, chúng tôi phải nghe âm thanh của một trăm điện đài đối phương mới nắm được tương đối tình hình của địch để cấp trên có thể đưa ra chiến lược chính xác. Nếu mỗi điện đài trung bình có mười tám tần số, vậy thì trong một tuần lễ vừa qua chúng tôi chỉ tìm được bốn mươi lăm tần số, chỉ khoảng 2,5%. Từ con số đó suy ra, chúng tôi ít ra phải làm việc ba mươi lăm tuần, tức là gần chín tháng mới có thể lập lại trật tự công việc bình thường, trên Tổng cục cho chúng tôi thời hạn ba tháng.
 
Quyển 1 - Chương 3


Cũng thật lạ, tuy cùng một đơn vị, ông là lãnh đạo cấp trên, tôi là lãnh đạo cấp dưới, lẽ ra có những cuộc tiếp xúc qua lại thường xuyên. Nhưng lại không, thật kì lạ! Ấy là tôi nói, trước đây tôi chưa tiếp xúc với ông Thiết, Thủ trưởng đơn vị, mà chỉ thỉnh thoảng gặp ông, gật đầu chào nhau rồi đi. Trong ấn tượng của tôi, người ông cao, có cái đầu to, rất đẹp trai, nhưng đối với mọi người ông tỏ ra lạnh nhạt, lúc nào cũng có vẻ kiêu ngạo, không cười không nói, giống như một võ sĩ lục lâm. Người trong đơn vị đều sợ ông, sợ ông nổi nóng trong im lặng, thậm chí có người đặt cho ông biệt hiệu Địa Lôi, ý là đừng nên đụng vào ông. Hôm ấy, tôi đang gọi điện thoại, bỗng ông giận dữ đến văn phòng của tôi, vừa bước vào cửa không nói một hai gì hết, cứ thế đến trước mặt tôi, giật phắt ổng nghe trên tay tôi, mắng luôn:

“Tôi gọi điện cho các anh từ nửa tiếng đồng hồ trước, đường dây lúc nào cũng bận. Các anh gọi điện đến đâu, nếu không phải điện thoại công việc, tôi sẽ cách chức các anh”.

Rất may có ông Ngô, Cục trưởng làm chứng tôi đang gọi điện liên hệ với bộ phận thám thính, nên ông ta không thể mắng tôi, nếu không cái chức Trưởng phòng của tôi cũng bay đi rồi. Có thể thấy, cái tên Địa Lôi thật xứng với ông.

Sau khi đã bình tĩnh, Thủ trưởng Thiết hỏi chúng tôi về chuyện tuyển mộ nhân tài, ông cho rằng chúng tôi chỉ chọn đi chọn lại người trong ngành, quanh quẩn cũng chỉ là những hiệu thính viên giỏi, mà 701 hiện tại cần những quái nhân có thính giác hơn người, thậm chí là thiên tài. Ông yêu cầu chúng tôi mạnh dạn suy nghĩ vượt ra khỏi ngành, ra xã hội hoặc tìm quái nhân trong dân gian.

Vấn đề là tìm ở đâu?

Ở một ý nghĩa nào đó, muốn tìm được người như thế còn khó hơn tìm điện đài mất tích.

Thủ trưởng nêu yêu cầu vô lí với chúng tôi, khiến ai cũng cảm thấy dường như ông mất hết lí trí. Thật ra ông đã thăm dò được một người như thế, đó là La Sơn, người chuyên hiệu chỉnh âm thanh trong dàn nhạc Trung ương của Quốc Dân Đảng, nghe nói ông ta đã từng chỉnh âm cho cây đàn piano của Tống Mỹ Linh, bà ta rất phục và đã, tự tay đề tặng ông ba chữ: “La Tam Nhĩ”[2]. Trước ngày giải phóng, ở Nam Kinh, cái tên La Tam Nhĩ đi liền với Tưởng phu nhân, thậm chí còn nổi tiếng hơn. Sau ngày giải phóng, ông đổi tên thành La Sơn, chuyển về Thượng Hải, làm giảng viên ở Nhạc viện Thượng Hải. Trước khi đi, Thủ trưởng dặn dò Cục trưởng của chúng tôi cách thức liên lạc với người ấy và trao một giấy giới thiệu đặc biệt do chính Thủ trưởng Tổng cục (một nhân vật vô cùng nổi tiếng) kí, yêu cầu chúng tôi cử người đi đón ông La Sơn về đơn vị 701.

Tôi đã từng công tác ở Thượng Hải mấy năm, khá quen thuộc tình hình ở đấy. Có thể vì thế mà Cục trưởng trao nhiệm vụ này cho tôi.
 
Quyển 1 - Chương 4


Cầm tờ thông hành đặc biệt của Thủ trưởng tối cao, chuyến công tác bí mật của tôi nhận được sự ưu ái và trọng thị vô cùng, công việc nào tôi cũng hoàn thành theo ý muốn, đồng thời được mọi người kính nể. Chỉ có một thứ không coi tôi ra gì, đó là vận may, tôi có giấy thông hành thần bí, nhưng vận may không mỉm cười với tôi. Chừng nửa tháng trước ngày tôi đến Thượng Hải, ông La Sơn, hay La Tam Nhĩ, người tôi phải đưa về, cái đồ hư đốn ấy để xảy ra chuyện quan hệ nam nữ bất chính, bị một nhân vật nổi như cồn trong giới văn nghệ Thượng Hải tống vào tù - vì ông ta làm một cô to bụng!

Tôi đã nghĩ, nếu chuyện chỉ có vậy, tấm giấy thông hành đặc biệt này có thể giúp tôi xoay chuyển tình thế. Nhưng cái đồ chết tiệt ấy có thêm cái đuôi “La Tam Nhĩ”, tất nhiên lúc ấy lại được nhắc đến. Nợ mới cộng nợ cũ, tuyệt vọng nghĩ mình không còn có ngày ngóc nổi đầu, vậy là ông ta nhằm lúc vắng người, nhảy từ tầng ba nhà giam ra ngoài.

Coi như ông ta tốt số, không chết. Nhưng cũng gần như chết. Tôi đến bệnh viện thăm ông, thấy một người chỉ còn cái miệng là hoạt động được, còn nửa cơ thể đã tàn phế, chân gãy nát, đại tiện, tiểu tiện không còn tự chủ, chắc hẳn thần kinh cột sống bị tổn thương.

Tôi ngồi bên giường bệnh ông ta nửa tiếng đồng hồ, nói với ông hai việc: Thứ nhất, tôi bảo, lẽ ra tôi thay đổi số phận của ông, nhưng bây giờ thì không thể, vì ông bị thương quá nặng, không có cách nào làm việc cho chúng tôi, ít nhất trong thời gian này; thứ hai, tôi hỏi ông, trong số những người ông quen hoặc biết, có ai có cái lỗ tai cực thính như ông không?

Ông chỉ lặng lẽ nghe tôi nói, nằm bất động, không nói gì, như người chết. Cho đến khi tôi chào ông chuẩn bị ra về, bỗng ông gọi “Thủ trưởng”, rồi nói với tôi thế này:

“Qua bên kia sông Hoàng Phố, đến nhà máy lọc dầu, ở đấy có một nhánh của sông Hoàng Phố, đi xuôi theo nhánh sông ấy chừng năm dặm, có một làng gọi là Lục Gia Yến, ở đấy có người anh cần”. Tôi hỏi người ấy tên gì, là nam hay nữ? Ông nói, nam, tên gì ông không biết, rồi ông giải thích: “Điều ấy không cần thiết, anh cứ hỏi bất cứ ai trong làng, họ đều biết anh ta”.
 
Quyển 1 - Chương 5


Làng Lục Gia Yến ở ven sông, chừng như xưa hơn và cần cù chân chất hơn dân Thượng Hải, nhà cửa ở đây thường là một tầng xây gạch hoặc xây đá, đường lát đá xanh bóng hoặc sỏi to. Hơn hai giờ chiều, tôi đi theo con đường lát đá xanh từ bến đò Lục Gia Yến vào làng, chỉ một lúc sau đã trông thấy bờ giếng xây to như một sân khấu, một đôi trai gái đang múc nước giặt áo quần. Khi tôi hỏi họ người tôi cần tìm, hai người chừng như biết tôi cần tìm ai. Một phụ nữ lớn tuổi hơn nói với tôi:

“Người anh tìm tên là Bỉnh, anh ta rất rất thính tai, rất thính, chưa biết chừng chúng ta đang nói chuyện ở đây anh ấy cũng nghe thấy. Chắc anh ấy đang ở ngôi từ đường kia, anh cứ đến đấy mà tìm”.

Chị này vừa nói vừa đưa tay chỉ đường. Tôi cứ ngỡ chị chỉ một căn nhà màu xám gần đấy, nhưng chị bảo không phải, rồi chị lại chỉ tay, nói với tôi:

“Ở kia kìa nhà có hai cái cột tròn to, có cái xe đạp dựng ở cửa đấy”.

Chị chỉ cái nhà lầu hình bát giác trong tận cùng ngõ, từ đây đến đấy phải một trăm mét. Xa như vậy mà anh ta có thể nghe thấy tiếng chúng tôi nói chuyện, làm gì có người như thế? Máy nghe CR-60 của Mĩ còn kém xa.

Chợt tôi cảm thấy vô cùng bí ẩn.

Từ đường là nới biểu tượng cho sự giàu có và cổ xưa của làng Lục Gia Yến, mái cong, diềm tường và cột còn khắc long li quy phượng, hổ phù sư tử bởi những người duy mĩ thời xưa khắc, đến nay đã trải qua bao thăng trầm. Chỗ nào cũng trông thấy tì vết, không khó để hình dung từ rất lâu rồi, ngôi từ đường này không được sửa chữa. Nhưng trông nó vẫn bề thế, không hề có cảm giác bị hư hỏng, có điều nhiều người nhàn rỗi, có phần phức tạp tụ tập tại đây. Người nhàn rỗi chủ yếu là các ông già, phụ nữ bế con, có cả người tàn tật. Xem ra chỗ này đã trở thành nơi công cộng cho những người nhàn rỗi tụ tập.

Tôi đi đi lại lại trước từ đường một lúc, sau đấy mới bước vào trong sân. Có hai nhóm đang chơi tam cúc, một loại bài dân gian rất thịnh hành ở miền Nam, một nhóm khác đang chơi cờ tướng. Tuy tôi ăn mặc đơn giản, nói tiếng Thượng Hải, nhưng sự xuất hiện của tôi cũng khiến người xung quanh phải chú ý. Tôi đi vòng quanh, lén nhìn, chỉ mong nhận ra Bỉnh trong đó. Nhưng không có cảm giác gì. Một đứa trẻ chừng mười một, mười hai tuổi, tay băng bó, nó phát hiện tay tôi đeo đồng hồ, rất hiếu kì bám theo để nhìn. Tôi tháo cái đồng hồ đưa cho nó xem, xem xong, tôi hỏi nó, anh Bỉnh có ở đây không? Nó bảo có, ở nhà ngang ngoài kia, nói xong nó đưa tôi đi ra, vừa đi vừa tò mò hỏi tôi:

“Chú tìm anh Bỉnh làm gì?”

“Nghe nói anh ấy rất thính tai, phải không?”

“Chú biết cả chuyện ấy cơ à? Xem ra chú không phải người làng cháu?”. Thấy tôi gật đầu, nó liền tỏ ra bí mật, cảnh cáo tôi: “Chú đừng nói với anh ấy chú không phải người làng này nhé, để xem anh ấy có nhận ra không”. Nó cười, nói tiếp: “Cháu nghĩ, anh ấy biết”.

Ra đến nhà ngoài, thằng nhỏ nhìn quanh, rồi đưa tôi đến trước một người mù:

“Anh Bỉnh, em đố anh, người này là ai?”

Lúc mới đến tôi đã chú ý người mù này rồi, anh ta ngồi trên cái ghế dài, tay cầm cái gậy tre thô kệch, cười ngượng ngùng, xem ra không những mù còn giống như người ngớ ngẩn. Thật sự tôi không nghĩ ông La Sơn lại giới thiệu cho tôi con người này, một người vừa mù vừa ngớ ngẩn. Anh ta nghe thằng nhỏ đố, tưởng chừng đấy là điều đang mong đợi, lập tức không cười nữa, vẻ mặt nghiêm túc chờ tôi lên tiếng, khiến tôi bối rối, không biết phải làm thế nào.

“Nói đi, chú nói xem nào”. Thằng nhỏ giục tôi.

“Cháu bảo chú nói gì?”

“Chú nói gì cũng được”. Tôi hơi do dự, thằng nhỏ lại giục: “Nhanh lên, chú nói đi”.

Tôi cảm thấy như vậy không tiện, giống như tôi hùa với trẻ con để lừa dối người mù, cho nên tôi không kịp nghĩ ngợi, nói với giọng khách khí: “Chào anh... anh Bỉnh, nghe nói tai anh rất thính, tôi đến...”. Tôi chưa kịp nói hết câu thì Bỉnh giơ hai tay lên trời vung mạnh, kêu lên: “Không đúng! Người này không phải người làng ta”. Giọng anh buồn buồn, nghe như từ trong hòm gỗ vọng ra. Nói thật, tôi chưa thấy thính lực của anh có gì khác, vì tiếng Thượng Hải của tôi không chính gốc, khá giống với người ở đây, nhưng cũng có đôi chỗ khác. Thậm chí tôi nghĩ, nếu bảo tôi nhắm mắt, Bỉnh và kể cả người ở đây, chỉ cần lên tiếng là tôi có thể nhận ra họ không phải người thành phố Thượng Hải, mà là người nhà quê. Đấy là một nhẽ. Lẽ nào đấy là thế mạnh của anh? Trong lúc tôi đang nghi ngờ, thằng nhỏ lại gây rắc rối cho tôi. Tôi phát hiện nó là đứa bé nghịch ngợm, cố tình chọc Bỉnh, một mực bảo Bỉnh đã nhầm.

“Ha ha, nhầm rồi, chú ấy là người làng ta đấy”.

“Không thể thế được...”.

“Tại sao không? Chú ấy là người làng ta nhưng công tác ở Bắc Kinh mới về”.

“Không thể thế được”.

Lần này thì cậu ta kiên quyết phủ nhận, hơn nữa còn tỏ ra cáu giận, mỗi lúc một cáu giận hơn, nghiến răng nghiến lợi, cuối cùng hét lên như điên: “Không đúng! Nhất định không đúng! Mày... mày nói dối! Đồ nói dối! Mày dối tao! Mày... mày... cả nhà, cả họ mày nói dối! Không phải là người tốt! Đồ nói dối! Lừa dối!”.

Cậu ta chửi mắng, mặt mày tím tái, toàn thân run lên như trúng gió.

Những người đứng quanh đấy vây lại, một ông già giống như người thành phố dỗ dành Bỉnh như dỗ trẻ con, một chị phụ nữ giả vờ tát dọa thằng nhỏ, vừa ra hiệu bảo nó xin lỗi Bỉnh, thằng nhỏ cũng đi tới giả vờ xin lỗi nhận sai, như vậy mới làm cho Bỉnh bình tĩnh trở lại.

Tôi thấy vô cùng kì lạ. Nếu như vừa rồi tôi xem Bỉnh là ngớ ngẩn, thì bây giờ nên nói Bỉnh làm tôi trở thành ngớ ngẩn, chỉ trước sau mấy phút tôi đã thấy Bỉnh không còn như đứa trẻ, cũng không ngớ ngẩn, lại đáng thương, tuy ngang bướng, nhưng lại rất yếu đuối.

Tôi cảm thấy vừa bí ẩn, vừa quái dị.

_________________
 
Quyển 1 - Chương 6


Thế giới có lúc rất bé nhỏ, ông già ra dáng người thành phố lại là người cùng công tác với ông La Sơn, vừa về hưu mấy năm trước. Khỏi phải nói, La Sơn qua ông già này mới biết Bỉnh.

Ông già bảo với tôi, Bỉnh là một quái nhân, đẻ ra đã ngớ ngẩn, 3 tuổi chưa biết đi, 5 tuổi mới biết gọi mẹ. Lên 5, Bỉnh sốt cao, nằm mê man suốt ba ngày ba đêm, lúc tỉnh lại mở miệng nói chuyện, nhưng đôi mắt bị mù, chữa chạy thế nào cũng không khỏi. Kì lạ nữa là, không trông thấy gì, nhưng những thứ cậu ta biết không kém gì người sáng mắt trong làng, thảm hoạ cào cào, châu chấu phá mùa màng cũng biết, nửa đêm nửa hôm trộm vào làng cũng biết, chị nào trong làng đưa trai về nhà Bỉnh cũng biết, thậm chí nền nhà của nhà nào bị lún sụt cậu ta cũng biết. Tất cả những thứ đó có được là từ đôi tai thính một cách kì lạ của Bỉnh, trong làng có chuyện gì, mọi người chưa biết, đôi tai của cậu ta đã biết. Có người nói tai cậu ta mọc từ gió, hễ có gió, mọi âm thanh cực nhỏ, cực nhỏ đều theo gió chui vào lỗ tai cậu ta. Cũng có người nói, mỗi sợi lông tơ trên người cậu ta là một lỗ tai, vì mọi người phát hiện cho dù tai cậu ta bịt chặt, bịt hết lại, thì thính lực của cậu ta vẫn hơn người khác, tai cậu ta thật siêu, tuy mắt bị mù, nhưng vẫn có thể dựa vào âm thanh để biết mọi chuyện.

Ông già cho rằng, Bỉnh có thính lực như thế, tốt nhất là nên đi làm nghề chỉnh âm nhạc cụ, cho nên đã có thời ông La Sơn định nhận Bỉnh học nghề, để cậu ta kiếm bát cơm, nhưng về làng thấy Bỉnh như vậy (vừa mù vừa ngớ ngẩn) ông không nhận, mặc dù mẹ của Bỉnh và nhiều người trong làng đã van xin ông. Ông già cho rằng, La Sơn là con người ích kỉ, với hậu quả của ông ta như ngày nay (tôi kể lại) ông già không vui mừng vì tai hoạ nhưng cũng không tỏ ra buồn bã hoặc phàn nàn điều gì.

Trong lúc tôi với ông già nói chuyện, có người bế đứa con đến “thử” Bỉnh, đứa bé mới hơn 1 tuổi, chưa biết nói, chỉ mới biết gọi chú, gọi cô như con vẹt. Theo cách ăn mặc, đứa bé hình như không phải người trong làng, nó nói tiếng phổ thông. Người ta để đứa bé trước mặt Bỉnh, bảo nó gọi “chú Bỉnh”, vừa bảo Bỉnh đoán xem nó là con nhà ai. Sau khi đứa bé như con vẹt gọi “chú Bỉnh”, nó cầm cái gậy thô ráp của Bỉnh, bi bô đùa nghịch. Ngay lúc ấy, Bỉnh không chút do dự nói:

“Đây là con nhà Quan Lâm bên Lục Thủy Căn, nó là con trai. Nếu tôi không nhầm, nhà Lâm đã đi khỏi làng chín năm hai tháng mười hai ngày, đi bộ đội ở Phúc Châu, từ ngày ra đi đến nay đã về bốn lần, lần gần đây nhất là dịp Tết Đoan Ngọ năm kia, anh ta đưa vợ đi theo. Vợ anh ta đã có lần nói chuyện với tôi, tôi còn nhớ, chị ta là người miền Bắc. Giọng thằng nhỏ này giống mẹ, rất sạch sẽ, cứng cáp”.

Tuy giọng nói còn ồm ồm, nhưng không căng thẳng, lắp bắp như vừa rồi, cảm giác như cậu ta học thuộc lòng, lại như cái máy nói. Tưởng như tất cả đã thuộc trong bụng, chỉ cần há miệng là những lời nói kia lập tức tuôn ra.

Ông già giải thích với tôi, Lục Gia Yến là một làng lớn nổi tiếng mấy chục dặm quanh vùng, có ba trăm hộ, hơn hai ngàn nhân khẩu cả lớn bé già trẻ, trong làng không ai có thể nhớ hết họ tên, nhà cửa của từng người trong làng, chỉ có Bỉnh, bất kể là người lớn hay trẻ con, bất kể là sống trong làng hay đi làm ăn xa, chỉ cần đó là người làng, đời cha hoặc bản thân sống ở đây, sau đấy chỉ cần nói với Bỉnh vài câu, nghe giọng nói là biết ngay anh là người nhà nào, cha mẹ là ai, có mấy anh chị em, là hàng thứ mấy, gia đình đã xảy ra việc gì... mọi chuyện lớn nhỏ, chuyện hay chuyện dở trong nhà, cậu ta đều kể ra bằng hết, kể không sai, không sót. Đứa bé vừa rồi đẻ trong quân đội, lớn lên trong quân đội, lần đầu tiên về làng, nhưng vẫn được lỗ tai Bỉnh xới tận gốc rễ.

Tôi kinh ngạc vô cùng.

Tôi nghĩ, Bỉnh vừa mù vừa ngớ ngẩn nhưng đúng là một quái nhân, có một thính lực kinh người và một trí nhớ tài tình, tất nhiên đấy là người tôi cần tìm. Trong làng không có điện thoại, ngay tối hôm ấy tôi về thành phố, gọi điện cho Cục trưởng của tôi, báo cáo rõ tình hình Bỉnh và ông La Sơn. Người muốn tìm thì không thể được, người cần dùng lại mù và ngớ ngẩn. Cục trưởng của tôi đắn đo do dự mãi, ông đưa điện thoại cho Thủ trưởng đơn vị, Thủ trưởng nghe tôi báo cáo rồi nói:

“Tục ngữ có câu, mười người tài thì chín người ngớ ngẩn, mười người ngớ ngẩn thì có một thiên tài, nghe anh nói như vậy, có thể người này là thiên tài trong số ngớ ngẩn, đưa người ấy về đây”.
 
Quyển 1 - Chương 7


Sáng sớm hôm sau tôi lại về Lục Gia Yến. Trong lòng cứ suy nghĩ mãi chuyện hôm qua, với lại hôm nay phải đưa Bỉnh mù đi, tôi thuê một chiếc thuyền.

Thuyền chờ ở bến đò.

Lần thứ hai tôi vào làng Lục Gia Yến nhà cửa san sát. Cách từ đường không xa có một khu nhà gồm bảy tám hộ, trước cửa có bảy bậc thềm, bên trong là một hành lang chạy vòng quanh sân. Người làng bảo tôi, vào một đêm cách đây ba chục năm, khuôn viên này đã từng tiếp nhận một đơn vị bộ đội, đêm khuya đến, sáng sớm đi, người làng không biết đấy là đơn vị bộ đội nào. Nhưng ai cũng biết, trong số họ chắc chắn có một người làm cho cô con gái nhà thợ may phải chịu thiệt thòi. Mười tháng sau, cô con gái nhà thợ may kia chưa lấy chồng đã phải làm một người mẹ đau khổ, không có cách nào khác. Ba mươi năm sau, ở nơi này có một gia đình vẫn mở cửa, tiếng máy khâu từ trong vọng ra, trong ngôi nhà này, mẹ Bỉnh tiếp tôi. Ai cũng để xem bà là thợ may giỏi nhất làng, đồng thời cả làng công nhận bà là một phụ nữ đáng thương, suốt đời sống dựa vào đứa con vừa mù vừa ngớ ngẩn, không có nổi một tiếng cười. Trên khuôn mặt bà hằn lên những nếp đau buồn và cam chịu, tôi trông thấy số phận đang ngày đêm giày vò con người này. Chưa đến 50, nhưng bà như một bà già 70, dựa vào nghề tổ truyền, hai mẹ con cũng kiếm đủ miếng ăn, nhưng cũng chỉ thế mà thôi.

Lúc đầu mẹ Bỉnh tưởng tôi đến may quần áo, khi tôi nói tìm Bỉnh, bà hiểu ngay tôi không phải người trong làng. Bởi người trong làng đều biết sáng nào Bỉnh cũng không có nhà. Vì tai cậu ta rất thính, cứ đêm khuya thanh vắng, trong khi mọi người đã ngủ say, nhưng cả đêm Bỉnh không ngủ yên vì những “âm thanh lặng lẽ” của làng quấy nhiễu. Để ngủ được một giấc, tối tối Bỉnh phải ra vườn dâu ngoài làng qua đêm, cho đến tận trưa mới về. Ông già trông coi vườn dâu là anh em với mẹ Bỉnh, tối nào ông cũng chuẩn bị cho Bỉnh một bó củi dâu để cậu đưa về nhà. Đấy là củi cho hai mẹ con Bỉnh nấu nướng, mà cũng là công việc duy nhất cậu con trai làm được cho mẹ. Hôm ấy, Bỉnh bị tôi gọi về, cậu vội vã quên cả đưa củi dâu về cho mẹ. Một tiếng đồng hồ sau, Bỉnh cùng tôi lên thuyền, khi thuyền vừa rời bến, Bỉnh như chợt nhớ ra điều gì, hớt hải ngước lên bến, gọi to:

“Mẹ, hôm nay con quên, quên... quên đưa củi về, làm... làm thế nào?!”. Thuyền vừa rời bến, tôi vẫn còn kịp lấy ra hai chục đồng, nhét vào bao thuốc, ném lên bờ. Bỉnh biết tôi làm gì rồi, cậu ta cảm động rơi nước mắt, nói với tôi: “Anh là người tốt!”

Sự việc ấy khiến tôi tin rằng Bỉnh không phải là người ngớ ngẩn, chẳng qua chỉ khác người mà thôi.

Hôm ấy có đến mấy chục người trong làng, trai có gái có, già có, trẻ có, ra bến sông tiễn Bỉnh và tôi. Khi mọi người thấy chiếc thuyền đi mỗi lúc một xa mới tin rằng tôi không phải là kẻ lừa dối, mà thật sự đưa Bỉnh đi (đi bồi dưỡng thành người chỉnh âm thanh). Tôi nghĩ, họ cho rằng tôi cũng ngớ ngẩn như Bỉnh. Nếu không cũng là người xấu. Trong làng, người già vẫn nói, lấy xương của người bệnh đem sấy khô, nghiền thành bột, làm thuốc sẽ chữa được người cùng bệnh. Nói khác đi, lấy xương của Bỉnh làm thuốc, có thể chữa cho người ngớ ngẩn thành người thông minh. Tôi có thể là người như thế, một người xấu định lấy xương Bỉnh để làm thuốc. Nếu không, tôi có đủ lí do giống như Bỉnh, cũng là một người ngớ ngẩn.

Nhưng dù sao đi nữa, tôi nghĩ, bà con dân làng Lục Gia Yến không thể ngờ được rằng, Bỉnh sẽ trở thành một đại anh hùng chấn động trời đất.
 
Quyển 1 - Chương 8


Cho dù Thủ trưởng Thiết và cả Cục trưởng Ngô của tôi đã có sự chuẩn bị tâm lí đối với người khuyết tật do tôi đưa về, nhưng khi Bỉnh xuất hiện, họ vẫn thấy thất vọng, khó tiếp nhận nổi.

Bởi đi đường mệt nhọc, dọc đường Bỉnh không hề chợp mắt, giữa tiếng ồn ào đông người, cậu ta làm sao ngủ nổi? Đi đường bẩn thỉu, thậm chí tâm trạng quá căng thẳng khiến cho da thịt trên khuôn mặt như bị tê liệt, thêm vào đó là cái vẻ xấu xí do con mắt bị mù nên trông dáng vẻ Bỉnh lúc bấy giờ thật thảm hại, không sao nhìn nổi. Có thể nói cậu ta lôi thôi lếch thếch hết cỡ, trông như người mất hồn, quái dị cực kì.

Đúng là không nhìn nổi!

Tôi lo nhất là, ở quê cậu ta có đôi tai thần kì, về đến đơn vị 701 chỉ sợ nó không còn thính nhạy. Cho nên, trước đấy tôi trao đổi với cậu ta, đến lúc ấy - đến lúc các vị thủ trưởng gặp mặt - nhất định phải để cho các vị ấy biết tài của mình. Về sau, điều tôi dặn dò cậu ta lại trở thành chuyện ngớ ngẩn, vì cậu ta cho rằng tôi là một người tốt, nên nghe theo lời tôi, ở bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào cậu ta cũng để lộ ngón nghề của mình. Kết quả những người đến gặp cậu ta, bất kể nói giọng nào, bất kể có nói chuyện với cậu ta hay không, cậu ta đều cho là “thử” tài. Thế là, chỉ nói chuyện bình thường nhưng mọi người buộc phải nghe cậu ta “trả bài”.

“Bác già rồi, ít ra cũng 60, lại còn hay uống rượu...”.

“Bác là con sâu thuốc, giọng nói khê đặc...”.

“Bác cũng già...”.

“À, anh còn trẻ, chừng 30, nhưng lưỡi hơi ngắn...”.

“Hình như anh đã từng luyện giọng, giọng nói bay bổng như diều...”. “Ha ha, bác cũng là con sâu thuốc...”.

Trong lúc nói chuyện, bỗng ngoài sân có tiếng chó sủa, Bỉnh lập tức im lặng, tỏ ra cố lắng nghe, thậm chí đôi tai đang căng lên cũng khẽ động đậy. Lát sau cậu ta cười bẽn lẽn, nói:

“Tôi dám chắc, hai con chó ngoài kia đều là chó cái, con chó mẹ ít ra cũng 7, 8 tuổi, con kia là con của con chó mẹ, hình như chưa đến 2 tuổi”.

Chó là của nhà khách nuôi trông nhà, lúc này người phụ trách nhà khách đang ở bên cạnh Thủ trưởng, Thủ trưởng hỏi anh ta: “Anh thấy có đúng như thế không?”.

“Cũng đúng mà cũng không đúng”. Người phụ trách nhà khách trả lời: “Con chó nhỏ kia là chó đực”.

Bỉnh lập tức mặt đỏ tía tai, kêu thất thanh: “Không đúng! Nhất định không đúng! Anh... anh nói dối! Anh... là người xấu! Đùa, đùa giỡn tôi, một người mù. Anh... chả là cái thứ gì! Anh... anh là người xấu...”.

Cái vẻ giận dữ tức tối giống như hôm tôi gặp ở Lục Gia Yến.

Tôi vừa vội an ủi cậu ta, vừa trách móc người phụ trách nhà khách mới làm cậu ta bình tĩnh. Sau đấy, tôi ra hiệu cho mọi người ra xem. Vừa bước ra khỏi cửa, người phụ trách nhà khách vừa khẽ nói với chúng tôi: “Con chó con kia từ lúc sinh ra, nó là đực hay cái tôi cũng chưa biết”. Nhưng khi chúng tôi ra ngoài sân, trông thấy hai con chó, người phụ trách nhà khách bỗng ngớ ra, cái con chó đực mà anh ta nói không ở đấy, ở đấy có hai con chó, một là con chó mẹ là của nhà khách, còn con kia của nhà ăn tập thể đơn vị. Con chó này là anh em cùng mẹ với con chó đực (lúc này không có ở đấy) đúng là chó cái.

Nghe người phụ trách nhà khách nói, mọi người đều giật mình.

Thủ trưởng vỗ vai tôi, nói: “Xem ra, anh đưa về cho chúng tôi một báu vật sống”. Rồi ông nói với giọng ra lệnh: “Bố trí chỗ ăn ở cho cậu ta theo tiêu chuẩn cán bộ, ngoài ra, tìm cho cậu ta một cặp kính đen, tối nay tôi sẽ nói chuyện”.
 
Quyển 1 - Chương 9


Tối hôm ấy, Thủ trưởng và Cục trưởng của tôi cùng mấy người nữa đến nhà khách, họ đem theo hai chục máy ghi âm và hai chục tín hiệu moóc khác nhau, bày ra trong phòng họp, chuẩn bị trắc nghiệm thính lực của Bỉnh. Trắc nghiệm thế này: Để Bỉnh nghe một tín hiệu, rồi cho cậu ta một khoảng thời gian để phân biệt đặc điểm tín hiệu, sau đấy cho cậu ta hai chục tín hiệu khác nhau, xem cậu ta có nhận ra tín hiệu đầu tiên không. Cảm giác ấy giống như lúc này ngồi trước mặt Bỉnh có hai chục người, tuổi tác và giọng nói cơ bản giống nhau, ví dụ cùng lứa tuổi 20, người cùng một vùng, đầu tiên để anh A nói với cậu ta vài câu, sau đấy hai chục người trong đó có cả A, lần lượt nói chuyện, để xem giữa đám người như vậy Bỉnh có nhận ra giọng của A hay không.

Tất nhiên, nếu hai mươi người này đều là người Trung Quốc, nói tiếng Trung Quốc thì tôi rất tin Bỉnh. Nhưng tình hình lại không thế, bởi Bỉnh không hiểu tín hiệu moóc, có lẽ cậu ta cũng chưa nghe bao giờ, chẳng khác nào hai mươi người này nói tiếng nước ngoài. Tôi cảm thấy rất khó khăn. Hơn nữa, sự thật càng khó khăn hơn, vì dù có nói tiếng nước ngoài cũng là người nói, nói từ miệng người, trong đó còn có cộng hưởng âm thanh. Chó cũng như vậy, rất nhiều tối ở Lục Gia Yến từ tiếng cho sủa Bỉnh có thể nhận ra kẻ trộm vào làng. Ấy là nói, Bỉnh rất quen với tiếng chó sủa, nhưng sóng vô tuyến đối với cậu ta thuần túy thuộc về âm thanh ngoài bầu trời, vật thể ngoài thế gian, có thể cậu ta cũng chưa bao giờ nghĩ đến, càng không thể nói đến chuyện giao tiếp. Cho nên, đối với buổi trắc nghiệm tối nay, tôi tỏ ra bi quan, thậm chí cảm thấy làm như thế có phần không đúng.

Nhưng Bỉnh rất thính!

Có thể đối với một người phi thường, cuộc sống hàng ngày của họ được tạo nên bởi vô số sự việc kì quái, không bình thường, khó hiểu trong con mắt của nhiều người, bạn lo họ không làm nổi những việc kì lạ, khác nào người nghèo lo người giàu không mua nổi vật quý, khác nào mất ngủ vì lo trời sập, đồng thời chứng minh bản thân hiện tại và mai sau khó trở thành kì nhân hoặc một người giàu có.

Quá trình trắc nghiệm có chút phức tạp, nhưng kết quả rất đơn giản, tức là Bỉnh đã thắng. Không phải thắng 1/1, không phải thắng 3/5 mà toàn thắng. Toàn thắng, cũng không phải thắng 5/5, mà là 10/10. Có một lúc Bỉnh hút thuốc liên tục, tưởng chừng không có điểm tựa xuất kì hoặc ma thuật thần bí.

Phải nói, trắc nghiệm rất khó khăn, nhưng không vì khó khăn mà né tránh. Có thể bạn đã biết, moóc là ngôn ngữ điện tín quốc tế, bất kể điện minh mã hay điện mật mã đều chuyển dịch thành nhóm mã, mỗi nhóm mã đều do bốn chữ số Ả rập tạo nên, thường gọi là “mã ngàn số”. Vì Bỉnh không quen với tín hiệu moóc, trắc nghiệm lần thứ nhất nhân viên công tác cho cậu ta nghe mười nhóm mã, nếu tính thời gian mất gần nửa phút, đó là thời gian nghe mẫu phẩm, nếu trong khoảng thời gian đó không để lại trong kí ức đặc điểm của “mẫu phẩm”, coi như sau này sẽ không thể nhận ra nó trong một đống sóng vô tuyến. Cho nghe xong mẫu phẩm, nhân viên công tác bắt đầu xáo trộn, lần lượt mở tám máy ghi âm, tức là phát ra tám sóng vô tuyến, mỗi sóng gồm mười nhóm mã. Bỉnh nghe xong, cậu ta lắc đầu phủ nhận. Lần thứ chín phát ra “mẫu phẩm” mà cậu ta vừa nghe, vẫn là mười nhóm mã, nhưng mới phát đến nhóm thứ tư, Bỉnh liền tắt điếu thuốc, nói:

“Chính nó”.

Đúng vậy, chính nó.

Bỉnh thắng vòng một.

Vòng thứ hai so với vòng thứ nhất trình tự và nội dung giống nhau, có điều là mẫu phẩm lần lượt giảm bớt, ví dụ mã mẫu phẩm, vòng thứ hai giảm còn chín nhóm, sau đấy giảm dần, đến vòng thứ mười, mã mẫu phẩm chỉ còn một nhóm. Không nghi ngờ gì nữa, mã mẫu phẩm càng giảm, thời gian nghe càng giảm, nhận biết càng khó hơn, nhưng đối với Bỉnh chừng như không có gì là khó, tất cả đều rất đơn giản. Từ vòng một đến vòng mười kết thúc, không vòng nào cậu ta kêu khó, cũng không hề nói sai. Không sai. Chẳng những không sai, mà cứ mỗi vòng cậu ta lại càng rút ngắn thời gian. Nhanh nhất là vòng thứ năm, cậu ta chỉ nghe một nhóm mã liền vỗ tay reo lên:

“Chính nó!”

Tất cả những người có mặt trong buổi trắc nghiệm đều kinh ngạc và phấn chấn vô cùng.
 
Quyển 1 - Chương 10


Mong muốn chiến thắng là nỗi bức xúc, là tâm trạng của mọi người thuộc đơn vị 701.

Với khả năng thiên phú của Bỉnh, Cục trưởng Ngô của chúng tôi đề nghị với Thủ trưởng sớm đưa Bỉnh vào công tác trinh sát thực tế, điều này được mọi người có mặt tán thành. Đằng sau lời đề nghị có đủ lí do ủng hộ, chủ yếu có ba điểm:

Thứ nhất, tuy Bỉnh không hiểu tín hiệu moóc, nhưng sự thực của buổi tối hôm ấy đã chứng minh, hiểu hay không hiểu không thành vấn đề, dù không hiểu nhưng cậu ta vẫn loại bỏ cái giả để giữ lại cái thật, trăm cái chọn một, nếu hiểu, có thể lên máy tác chiến, thì đâu còn là kì nhân Bỉnh nữa.

Thứ hai, là hệ thống thông tin quốc gia và quân đội, cho dù có biến động thế nào đi nữa, hoặc ít hoặc nhiều đều tồn tại những điểm chung hoặc riêng nhất định. Hiện tại chúng tôi đã tìm thấy hơn năm chục tần số của đối phương (chỉ trong mấy hôm lại thêm mấy tần số nữa), có nghĩa là, chúng tôi đã có đủ số mẫu phẩm. Tuy nhiên những âm thanh của đài địch không hoàn toàn giống với âm thanh mẫu phẩm, thậm chí người thường nghe hoàn toàn không giống nhau, nhưng với Bỉnh có thể phân biệt được quan hệ huyết thống của hai con chó, người và nhận ra nó là đực hay cái, chúng tôi tin cậu ta rất có thể tìm ra chút dấu vết cái chung và cái ngẫu nhiên trùng hợp trong sự khác biệt.

Thứ ba, về việc Bỉnh không biết thao tác máy móc lại càng không thành vấn đề. Vì chúng tôi cử hiệu thính viên xuất sắc của đơn vị phối hợp làm việc, họ có thể giải quyết những vấn đề thao tác cụ thể trong khi tác chiến. Sự thật thì sự thần kì của Bỉnh là ở hai lỗ tai, chúng tôi chỉ sử dụng tai cậu ta.

Tôi là người phản đối duy nhất. Nhưng ông Cục trưởng và những người tán thành đều một mực nói được, thậm chí suýt nữa thì thuyết phục được tôi. Nhưng để cẩn thận hơn, tôi vẫn nêu lí do phản đối. Tôi nói với mọi người thế này:

“Có thể tôi hiểu Bỉnh hơn mọi người. Bỉnh là người thế nào? Kì tài hay quái nhân. Kì ở đâu, quái ở đâu? Không khó gì để nhận ra. Một mặt cậu ta tỏ ra thiên tài, mặt khác tỏ ra kém trí tuệ, hai mặt này rất nổi bật và không thể nghi ngờ. Tôi cho rằng, cậu ta thiếu khả năng suy nghĩ bình thường và năng lực tư biện, đó là đặc trưng kém trí tuệ của Bỉnh. Trong cuộc sống, phương thức nhận biết sự vật và hiện tượng rất đơn giản, hơn nữa sự vật mà cậu ta nhận thức được là không thể thay đổi và hoài nghi. Điều này nói lên cậu ta rất tự tin, rất mạnh mẽ. Nhưng đồng thời cậu ta cũng rất yếu đuối, yếu đuối đến độ không chấp nhận mọi câu hỏi và mọi sự đối kháng. Khi anh có chuyện đối kháng với cậu ta, ngoài việc gào lên, cậu ta không có bất cứ sự kháng cự và đất lùi nào. Về điểm này, Cục trưởng mới gặp cậu ta một buổi chiều, còn chúng tôi đã tiếp xúc mấy hôm nay và hiểu sâu hơn. Hãy tin ở cảm giác của chúng tôi, thiên tài và yếu đuối của Bỉnh đều xuất chúng như nhau, không có gì so sánh được. Cậu ta như cái cốc thủy tinh trong suốt, không chịu nổi va đập, nếu bị va đập thể nào cũng vỡ. Đấy là điều tôi muốn nói”.

“Điểm thứ hai, căn cứ vào những biểu hiện của Bỉnh, chúng ta có đủ lí do tin rằng, nếu không có sự chuẩn bị, đưa cậu ta vào tác chiến trên máy, tuy không nhất thiết có ảnh hưởng đến việc cậu ta phát huy khả năng trời phú, lách mũi kiếm, giành thắng lợi bất ngờ, điều này là có thể, hơn nữa khả năng ấy rất lớn. Nhưng tôi cho rằng, chỉ khả năng thôi chưa đủ, có khả năng lớn cũng không được, mà phải trăm phần trăm. Vì nếu có điều gì sơ suất, thì khả năng thất bại sẽ là trăm phần trăm. Như mọi người nói, chúng ta không coi Bỉnh là người bình thường, nếu là người bình thường, sao cậu ta có khả năng cao siêu như vậy, mà chúng ta lại đang nôn nóng muốn giành thắng lợi, không ngần ngại cứ để cậu ta mù quáng thử việc, nếu được thì rất tốt; không được thì quay lại rèn luyện cho cậu ta, luyện xong ra trận cũng không muộn. Vấn đề cậu ta không phải là người bình thường, chúng ta không thể lấy cậu ta ra làm thí nghiệm, rất mạo hiểm, vì ngộ nhỡ không thành, Bỉnh sẽ không thể xóa nổi cảm giác sợ hãi và chán ghét công việc thám thính, thậm chí rất có thể sau đấy hễ nghe thấy tiếng sóng vô tuyến điện cậu ta sẽ hét lên, run sợ, phát điên. Như vậy khả năng kì tài của cậu đối với 701 chúng ta coi như hỏng hẳn. Ai dám khẳng định cậu ta lên máy chỉ trong một thời gian ngắn sẽ dò ra đài địch? Liệu ai biết cậu ta có thể kiên nhẫn trong bao lâu, một ngày, hai ngày, hay nửa ngày? Hay là vài tiếng đồng hồ? Cho nên tôi đề nghị mọi người hãy kiên trì chút, cho cậu ta một thời gian luyện tập, để nắm vững tình hình trăm phần trăm sau đấy mới tham gia tác chiến...”.

Giọng nói của tôi vang vọng trong phòng họp tĩnh lặng, mọi người lặng lẽ chờ Thủ trưởng phát biểu. Ông Thiết, Thủ trưởng đơn vị đứng dậy trọng ánh mắt chờ đợi của mọi người, ông đi từng bước đến chỗ tôi, sau đấy dằn từng tiếng một, nói với tôi:

“Tôi nghe anh, giao cậu ta cho anh. Từ lúc này trở đi, anh có thể sử dụng bất cứ ai và bất cứ thiết bị nào có ở 701, chỉ cần có lợi cho luyện tập đối với cậu ta”.

“Cho tôi bao lâu?”.

“Anh cần bao lâu?”.

Tôi suy nghĩ rồi nói: “Nửa tháng”.

Thủ trưởng nghiến răng: “Tôi không có nhiều thời gian như thế, chỉ cho anh một tuần lễ. Sau một tuần lễ anh phải đưa người vào phòng máy, hơn nữa, không thể để xảy ra một sai sót nào, nói như anh, trăm phần trăm, không mạo hiểm”.
 
Quyển 1 - Chương 11


Một tuần lễ có bảy ngày.

Bảy ngày có một trăm sáu mươi tám tiếng đồng hồ.

Trừ thời gian ăn ngủ ra, còn lại bao nhiêu tiếng đồng hồ?

Để trở thành một hiệu thính viên nghe gió, tôi phải qua tám tháng huấn luyện, nếu tính theo giờ học cũng phải hai nghìn giờ. Các hiệu thính viên khác cũng đều thế cả. Có một người miền Bắc tên là Lâm, đó là một cô gái, lúc đầu làm nhân viên tổng đài điện thoại, một tháng sau, cô nhận biết và nhớ được tất cả tiếng nói của mọi người trong đơn vị 701. Có được bản lĩnh ấy tất nhiên nên làm hiệu thính viên. Vậy là ba tháng trước khi chúng tôi tốt nghiệp, Lâm được xếp kèm vào đội chúng tôi. Hồi đó, các sĩ quan huấn luyện không tin Lâm có thể tốt nghiệp cùng chúng tôi, nhưng khi tốt nghiệp, điểm số của Lâm cao hơn hẳn, nhất là tốc độ ghi moóc (đó là bài học chính của chúng tôi), bỏ xa mọi người, mỗi phút có thể nhận và ghi hai trăm hai mươi bốn mã điện báo, bình quân gấp đôi số mã toàn đội chúng tôi lúc bấy giờ. Một năm sau, trong cuộc thi nhận và ghi tín hiệu moóc của toàn ngành bưu điện cả nước, Lâm giành vô địch với thành tích nhận và ghi hai trăm sáu mươi mốt mã điện báo, một thời được mệnh danh là “Thiên binh thần tướng”.

Tôi nói những chuyện ấy là để biết, dù sao đi nữa thì một tuần sẽ không đủ để huấn luyện được một hiệu thính viên, cho dù Bỉnh có tài gấp mười lần Lâm thần tướng. Nhưng tôi không thể xin thêm thời gian, không ai có thể. Cho nên, tôi nghĩ, khả năng duy nhất của tôi là “giảm bớt bài học”, không mong Bỉnh trở thành một hiệu thính viên đúng tiêu chuẩn, mà dùng thời gian ngắn ngủi ấy nhồi nhét cho cậu ta những thứ căn bản nhất, ví dụ tín hiệu moóc, ít nhất cậu ta phải nghe hiểu được; ngoài ra, đối với những đài địch chúng tôi đã tìm thấy, cậu ta phải nghe đi nghe lại băng ghi âm, phân biệt được đặc trưng và sự khác nhau của chúng. Cái trước là thường thức, cái sau là cảm giác. Cả hai cái phải đầy đủ để đến khi ngồi vào máy không bị bỡ ngỡ. thì chỉ như thế. Nhưng với bảy ngày chỉ có thể đủ để bắt đầu.

Một ngày.

Hai ngày.

Ba ngày.

Đến chiều ngày thứ tư, tôi đến văn phòng Cục trưởng, báo cáo với ông về tình hình huấn luyện. Tôi nói: “Trình độ của Bỉnh về mặt nào đó không thua kém Lâm thần tướng. Tôi nói: Nếu không có gì trở ngại, Cục trưởng có thể mời Thủ trưởng đến xem”.

Cục trưởng vội cầm điện thoại, báo cáo tình hình với Thủ trưởng Thiết. Ông Thiết cứ nghĩ mình nghe nhầm, bảo Cục trưởng nhắc lại, Cục trưởng nhắc lại lời mời vừa nãy của tôi, ông nói:

“Cứ phải mắt thấy tai nghe, anh có thời gian xin mời đến chứng kiến”.
 
Quyển 1 - Chương 12


Vẫn là phòng họp mấy hôm trước.

Nếu về sau có ai hỏi Bỉnh học được cái nghề hiệu thính này ở đâu, câu trả lời là từ một phòng họp đơn giản.

Để Cục trưởng Ngô và Thủ trưởng Thiết không còn bất cứ nghi ngờ gì, tôi tắt hết máy ghi âm, để Cục trưởng tự tay bật ít nhất tám nhóm tín hiệu điện báo. Sau đấy tôi yêu cầu nhân viên phát tín hiệu gửi Cục trưởng một văn bản với tốc độ mỗi phút một trăm mã.

Tích tích tè, tích tích tích tè tè, tè tích tích, tích tè...”.

Phát xong, chúng tôi nhìn Bỉnh, vẻ mặt cậu ta như đang ngái ngủ, không có biểu hiện gì.

Cục trưởng sốt ruột nhìn tôi rồi lại nhìn Bỉnh, miệng ông mấp máy định nói gì. Tôi vội ra hiệu cho ông đừng nói. Đúng lúc ấy, Bỉnh giật mình vì tay tôi ra hiệu, cậu ta như tỉnh cơn mơ, thở dài, sau đấy đọc rất rõ ràng

“x... x... x...”.

Tám nhóm mã.

Ba mươi hai chữ số. Không sót nhóm nào.

Không sai chữ nào.

Đúng với nguyên văn.

Nói chung, tay viết không nhanh bằng tai nghe, vừa ghi, vừa nhớ những chữ số nghe nhưng chưa kịp ghi, ghi vào bụng, kĩ thuật ấy người trong nghề gọi là “áp mã”. Với hai điện báo viên trình độ tương đương, trong khi thi, nói cho cùng là thi kĩ thuật áp mã, ai áp được nhiều người ấy sẽ thắng. Tôi nhớ, “Lâm thần tướng” đã áp được sáu nhóm mã trong một lần thi toàn quân, bây giờ Bỉnh áp được tám nhóm mã. Tuy tốc độ không giống nhau, hai bên không như nhau, nhưng chúng ta không khó hình dung, Bỉnh đã thành thạo tín hiệu moóc đến mức nào. Thậm chí, có băng ghi âm mẫu phẩm của hơn năm mươi đài địch, cậu ta không cần phải nghe đi nghe lại, chỉ nghe hai băng, cậu ta đã phân biệt rõ ràng đặc tính chung và đặc điểm riêng trong đó. Tóm lại, tuy mới qua một nửa thời gian nhưng Bỉnh đã hoàn thành xuất sắc nội dung huấn luyện, hoàn thành đến độ mĩ mãn. Mĩ mãn tới mức người ta tưởng là giả.

Sau một tiếng đồng hồ, tôi đưa Bỉnh vào khuôn viên cơ quan lãnh đạo đơn vị, đến toà nhà Cục Chính trị, để Bỉnh tiến hành nghi thức tuyên thệ gia nhập đơn vị đặc biệt 701. Nghi thức rất trang trọng, đối với Bỉnh điều này hết sức thần bí, đứng trước những “yêu cầu” và “phải” không tính đến sống chết, Bỉnh tưởng như mình sắp lao vào chiến trận lửa khói mịt mùng, cậu ta một nửa kích động, một nửa hoang mang, hoang mang và kích động đến cao độ. Cuối cùng, ông Trưởng phòng Cán bộ phụ trách tuyên thệ hỏi Bỉnh có yêu cầu gì đối với tổ chức hay không, Bỉnh “bi tráng” yêu cầu hai điểm:

Thứ nhất, nếu từ hôm nay cậu không được về nhà (Lục Gia Yến), mong tổ chức giải quyết tốt chuyện củi đuốc của mẹ.

Thứ hai, nếu cậu ta chết (chết trên chiến trường), không ai được phép cắt tai cậu ta để nghiên cứu.

Đúng là chuyện dở khóc dở cười.

Nhưng yêu cầu của người tình nguyện 701 đề xuất là một phần nội dung trong nghi thức, tổ chức trịnh trọng cam kết và ghi vào hồ sơ.

Nghi thức tuyên thệ kết thúc, có ba văn bản yêu cầu đương sự phải kí tên, xét thấy Bỉnh không biết chữ, tổ chức bảo cậu điểm chỉ, tên do tôi viết thay, lúc này tôi mới hỏi đến tên thật của cậu ta, cậu ta trả lời: Không có.

“Tôi tên là Bỉnh”. Bỉnh nói: “Tôi không có tên gì khác”.

Nhưng tôi biết, Bỉnh không phải là tên cậu ta, gọi Bỉnh là bởi có một anh mù nổi tiếng tên là Bỉnh, anh mù kéo nhị nghe như khóc, anh mù để lại bản nhạc “Ánh trăng Nhị tuyền” nổi tiếng. Vì có cái tên ấy, cho nên Bỉnh là tên chung của những người mù, chứ không thể là tên riêng của người nào.

Khỏi phải nói, đây lại là một chuyện khóc dở cười dở. Cuối cùng, căn cứ họ Lục của mẹ và quê cậu ta là Lục Gia Yến, chúng tôi tạm thời đặt cho cậu cái tên Lục Gia Bỉnh và ghi ngay vào ba văn bản để báo cáo lên cấp trên, đồng thời cho vào hồ sơ mật.
 
Quyển 1 - Chương 13


Hôm ấy, trời vừa rạng sáng, tôi đưa Bỉnh vào trong khuôn viên Cục Thám thính có tường cao hào sâu. Hai bên cổng vào có hai tấm biển một lớn một nhỏ, trên đó ghi rõ:

Phòng nghiên cứu vũ khí lục quân số...

Khu quân sự, không nhiệm vụ cấm vào.

Tất nhiên đấy chỉ là vật che tai mắt thiên hạ.

Nói thật, đấy là khu vực cấm, kể cả một số nhân viên văn phòng hành chính của 701, như vệ binh, nhân viên y tế, lái xe, anh nuôi... không được vào. Ở đây hôm qua cũng như hôm nay. Ở đây không thuộc về thời gian và không gian. Ở đây chỉ thuộc về bí mật và tuyệt mật. Ai bước vào khuôn viên này, người ấy sẽ vĩnh viễn thuộc về bí mật và tuyệt mật, thuộc về nhà nước và nhân dân, vĩnh viễn không có cách nào để một con người tồn tại thực sự.

Tất cả những gì dưới đây đều là trống không, nhưng xin đứng trách tôi. Tất cả những gì ở đây, nhà cửa, cây cỏ, bộ máy, thiết bị, thậm chí chim bay trên trời, sâu bò dưới đất tôi đều không thể nói ra, bởi vì bất cứ lời nào ở đây đều được đặt dưới ánh đèn pha để nghiền ngẫm, cân nhắc kĩ lưỡng. Ấy là, mọi lời nói ở đây đều có thể bán rẻ tôi, bạn có thể hành hình tôi, thậm chí có thể lấy cái chết để đe dọa, cũng có thể dụ dỗ, nhưng đừng hòng cậy miệng tôi. Vì tôi đã tuyên thệ, vì đấy là tín điều duy nhất trong cuộc đời tôi.

Không nghe thấy tiếng súng.

Không ngủi thấy mùi khói súng.

Bỉnh hỏi tôi đây là đâu.

Tôi bảo đây là chiến trường không khói súng.

Chiến trường thực sự là phòng máy, sàn lát gỗ, cửa sổ lớn, vào phòng phải thay giày, vì máy rất quý và khó tính, sợ bụi, sạch sẽ hơn cả người. Bỉnh vào phòng, tôi để cậu ta ngồi ở sofa, bên phải cậu ta là một nhân viên thao tác máy thuộc loại giỏi của Cục Thám thính, vẫn gọi là Trần, chức vụ Trưởng phòng; bên trái là một bàn trà, trên bàn để một cái li, một bao thuốc lá, một hộp diêm, một cái gạt tàn. Tôi giới thiệu Trần với Bỉnh, rồi nói:

“Anh Bỉnh, bắt đầu từ lúc này, anh Trần là cánh tay của anh, mong hai người vui vẻ hợp tác”.

Theo yêu cầu, Trần mời Bỉnh một điếu thuốc, châm lửa cho cậu ta, đồng thời nói với giọng nịnh nọt, tỏ vẻ rất vui được làm trợ thủ cho Bỉnh. Bỉnh rút ra kết luận: Anh Trần này giống như mình, cũng là người tốt. Nên biết rằng, điều này rất quan trọng để Bỉnh phát huy tài năng của mình. Trước mặt một người không thích, Bỉnh run rẩy, rất dễ nổi nóng, hễ nổi nóng trí lực giảm sút nhanh chóng. Tôi không mong tình huống đó xảy ra, tôi sợ trí lực của Bỉnh một ngày nào đó xuống rồi không lên được nữa, giống như dây tóc đèn bị cháy. Với Bỉnh, một con người thần kì, bất cứ một sự việc thần bí quái đản nào cũng có thể xảy ra ở con người cậu ta. Cho nên nói thật, cái thiên bẩm của Bỉnh cũng không dễ sử dụng, từ lúc phát hiện cho đến lúc này cậu ta vui vẻ ngồi trong phòng máy, ở giữa còn có chúng tôi, đấy cũng là vận may của chúng tôi.

Hai người trao đổi sơ qua, tay Trần nhanh nhẹn đặt lên nút dò tần số. Ngón tay anh nhẹ nhàng xoay, nút dò tần số chuyển động theo, vậy là tiếng sóng điện, tiếng phát thanh, tiếng hát, tiếng máy, tiếng ồn trong biển âm thanh vô tuyến điện bỗng đua nhau ào đến. Bỉnh ngồi ngay ngắn trên sofa, hút thuốc, với vẻ mặt không thay đổi, cậu ta lắng nghe, ngón giữa và ngón trỏ bên tay phải cứ gõ gõ lên tay vịn sofa.

“Có thể cho nhanh hơn được không, chậm quá”.

“Vẫn chậm, cho nhanh hơn”.

“Còn nhanh được nữa không?”

“Nhanh hơn một chút...”.

Nhiều lần yêu cầu nhưng vẫn chưa vừa ý, Bỉnh sốt ruột, cậu ta đứng lên, đòi tự điều chỉnh. Cậu ta thử xoay nút điều khiển mấy vòng, cuối cùng cũng xác định được tốc độ xoay, đồng thời yêu cầu Trần giữ nguyên tốc độ này. Ngay lúc ấy tôi và Trần cùng ngớ ra, bởi tốc độ xoay mà cậu ta yêu cầu nhanh gấp năm lần tốc độ bình thường. Với tốc độ này chúng tôi không còn nghe rõ tiếng sóng vô tuyến tích tè nữa vì vừa xuất hiện đã mất ngay. Nói một cách khác, ở mức độ này, mọi âm thanh đều biến thành tiếng ồn. Cũng có thể ví dụ thế này, tìm điện đài trong sóng vô tuyến, như tìm gì đó trong băng ghi hình, cái cần tìm lẫn trong cả đống hình thù giống nhau, thậm chí mở băng với tốc độ bình thường chưa chắc đã tìm thấy, vậy mà có người yêu cầu tua nhanh để thử. Tất nhiên, thời gian chạy băng rút ngắn, nhưng mọi hình ảnh đều lướt qua rất nhanh, làm sao tìm được cái cần tìm?

Điều này thật sự vớ vẩn.

Trần không biết phải làm thế nào, nhìn tôi.

Tôi suy nghĩ, cứ để cậu ta làm chuyện vớ vẩn này còn hơn khiến cậu ta nổi nóng. Mãi cũng đến lúc kết thúc, hơn nữa chúng tôi cho đấy là vớ vẩn, nhưng với cậu ta thì không. Vậy là, theo yêu cầu của Bỉnh, Trần xoay thật nhanh nút dò tìm tần số, trong tai tôi chỉ còn những âm thanh kì quái, đặt mình trong hoàn cảnh ấy, tôi hoang mang bối rối, đứng ngồi không yên. Nhưng Bỉnh vẫn bình tĩnh ngồi trên sofa, vẻ mặt vẫn không đổi, lắng tai nghe, ngón giữa và ngón trỏ bên tay phải vẫn thỉnh thoảng gõ trên tay vịn sofa.

Mười phút.

Hai mươi phút.

Nửa tiếng đồng hồ trôi qua.

Bỗng Bỉnh kêu lên: “Dừng lại!”... Cậu ta bảo Trần: “Cho ngược lại chỗ có tiếng tích để tôi nghe... chậm một chút... đúng, chính nó, giữ lấy, chỉnh âm thanh rõ hơn...”.

Trần chỉnh âm thanh cho rõ.

Bỉnh nghe một lúc, cậu ta gật đầu vừa ý, nói: “Không thể nhầm, chính nó”. Cậu ta cười lặng lẽ, nói với tôi: “Còn khó hơn tìm sóng trong máy thu thanh”. Điện đài đang phát tín hiệu, chúng tôi khó đoán có phải đây là đài địch cần tìm hay không, đành ghi lại đưa đi giải mã. Trần chép xong một bản rồi đưa cho tôi, cậu ta tiếp tục chép. Tôi cầm tờ giấy chạy nhanh sang Cục Giải mã, yêu cầu giải mã thật nhanh để xem có phải đấy là đài địch mất tích lâu nay. Tôi vừa quay về ít phút thì có điện thoại của Cục Giải mã, tôi đặt điện thoại xuống, chạy ngay đến trước mặt Bỉnh, ôm chầm lấy cậu ta, kêu lên:

“Bỉnh, anh thật vĩ đại!”.

Tôi phát hiện mình chảy nước mắt.

_________________
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom