Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Đừng Nói Một Ai

Chương 19


Tôi ngồi trước cái máy tính chết tiệt đó và bắt đầu uống khá dữ. Tôi cố đăng nhập vào trang đó hàng chục lần khác nhau. Tôi dùng Explorer rồi tôi dùng Nestscape. Tôi xóa sạch bộ nhớ đệm và chạy lại các trang và tắt mạng đi rồi kết nối lại.

Không ích gì. Tôi vẫn nhận thông báo lỗi.

Lúc mười giờ, Shauna vào lại phòng. Má cô hây hây đỏ vì rượu. Má tôi cũng vậy, tôi tưởng tượng. “Không tiến triển chút nào?”

“Về nhà đi,” tôi nói.

Cô gật đầu. “Phải, tớ nghĩ tốt hơn là thế.”

Chiếc limousine đến trong vòng năm phút, Shauna lảo đảo trên lề đường, bị rượu bourbon và Rolling Rock làm chuếnh choáng thực sự. Tôi cũng thế.

Shauna mở cửa xe và quay lại tôi. “Cậu có bao giờ ham muốn ngoại tình chưa? Ý tớ là, khi hai đứa cậu đã kết hôn rồi ấy.”

“Chưa,” tôi nói.

Shauna lắc đầu, thất vọng. “Cậu không hề biết làm rối tung cuộc đời cậu lên như thế nào cả.”

Tôi hôn tạm biệt cô và trở vào trong. Tôi tiếp tục dán mắt vào màn hình như thể nó là thứ gì đó linh thiêng lắm. Không có gì thay đổi.

Vài phút sau, Chloe từ từ tiến lại gần. Cô nàng huých huých tay tôi bằng cái mũi ướt. Qua cả rừng lông của cô nàng, mắt bọn tôi gặp nhau và tôi thề Chloe hiểu được tôi đang cảm thấy gì. Tôi không phải là loại người cho rằng loài chó có những đặc điểm của con người - nhưng tôi thực sự tin chúng có được hiểu biết cơ bản rằng cái phần tương ứng với con người ở chúng đang cảm thấy gì. Người ta bảo chó có thể ngửi thấy nỗi sợ. Có phải là một thứ suy rộng ra khi tin chúng cũng có thể ngửi thấy cả niềm vui hay giận dữ hay nỗi buồn?

Tôi mỉm cười với Chloe và nựng nựng đầu nó. Cô nàng đặt một chân lên tay tôi cử chỉ an ủi. “Cô em muốn ra ngoài đi dạo à?” tôi nói.

Câu đáp của Chloe là nhảy loạn lên như một con chó điên trong gánh xiếc. Như tôi bảo với bạn lúc trước rồi đấy, đó chỉ là những thứ nhỏ nhặt thôi.

Không khí ban đêm làm phổi tôi bị kích thích. Tôi cố tập trung vào Chloe - bước đi vui nhộn của nó, cái đuôi lúc lắc - nhưng tôi thì, thế đấy, ỉu xìu. Ỉu xìu. Đó không phải là một từ tôi hay dùng. Nhưng tôi nghĩ nó hợp.

Tôi vẫn không hoàn toàn tin vào giả thuyết thủ thuật kỹ thuật số quá mức tinh xảo của Shauna. Đúng vậy, ai đó có thể tạo ra một bức ảnh và biến nó thành một phần của một đoạn phim. Và đúng vậy, ai đó có thể biết thời điểm hôn. Và đúng vậy, ai đó có thể tạo ra cả lời thì thầm bằng môi “Em xin lỗi”. Và đúng vậy, cơn đói khát của tôi chắc hẳn đã giúp biến cái ảo tưởng đó thành sự thực và khiến tôi dễ bị mắc vào trò lừa như vậy.

Và cái đúng vậy to nhất: giả thuyết của Shauna hợp lý khủng khiếp hơn rất nhiều sự trở về từ huyệt mộ.

Nhưng có hai điều quan trọng hơn cả một loạt những cái trên. Trước tiên, tôi không phải là loại ưa thích những ý tưởng viển vông. Tôi nhàm chán đến phát sợ và thực tế hơn bất cứ ai. Thứ hai, cơn đói khát có thể làm mờ lý trí của tôi, và ảnh kỹ thuật số có thể tạo ra rất nhiều thứ.

Nhưng đôi mắt đó thì không...

Đôi mắt của nàng. Mắt của Elizabeth. Không có cách nào, tôi nghĩ, chúng có thể là những bức ảnh cũ được chế tác đưa vào một đoạn video kỹ thuật số. Đôi mắt đó thuộc về vợ tôi. Liệu đầu óc đầy lý trí rạch ròi của tôi có chắc chắn chuyện đó? Không, dĩ nhiên không. Tôi không phải một gã ngốc. Nhưng giữa cái nhìn thấy và tất cả những câu hỏi đặt ra, tôi đã gạt bỏ gần hết cuộc trình diễn video của Shauna. Tôi đã về nhà và vẫn tin mình nhận được một lá thư của Elizabeth.

Bây giờ tôi không biết phải nghĩ gì. Say xỉn có lẽ có ích ở mặt này.

Chloe dừng lại hít hít ngửi ngửi gì đó. Tôi đợt dưới ánh đèn đường và nhìn cái bóng bị kéo dài ra của mình.

Thời điểm hôn.

Chloe sủa một cái bóng chuyển động trong bụi rậm. Một con sóc chạy vụt qua đường. Chloe gầm gừ và vờ đuổi theo. Con sóc dừng và quay về phía chúng tôi. Chloe sủa lên một tiếng như muốn nói thằng-kia-mày-may-mắn-đấy-tao-đang-bị-xích. Cô nàng không có ý thế. Chloe là một cô em thuần chủng yếu đuối nhút nhát.

Thời điểm hôn.

Tôi nghiêng đầu về một phía như Chloe khi nó nghe thấy tiếng động lạ. Tôi nghĩ một lần nữa về cái tôi đã thấy hôm qua trên máy tính - và tôi nghĩ đến những khó khăn ai đó phải trải qua để giữ bí mật cho toàn bộ chuyện này. Cái email vô danh đó bảo tôi nhấn vào một hyperlink vào “thời điểm hôn”. Cái email thứ hai tạo ra một tài khoản mới đứng tên tôi.

Chúng đang theo dõi...

Ai đó đã phải làm việc rất vất vả để giữ cho những liên lạc này không bị lộ ra.

Thời điểm hôn...

Nếu ai đó - được rồi, nếu Elizabeth - chỉ muốn gửi cho tôi một thông điệp, sao nàng không đơn giản gọi điện thoại hay viết nó ra trong một cái email. Sao lại khiến tôi nhảy qua một đống những cái vòng thử thách này?

Câu trả lời rõ ràng: bí mật. Ai đó - tôi không nói Elizabeth một lần nữa - muốn giữ bí mật tất cả những chuyện này.

Và nếu bạn có một bí mật, sẽ không có gì là lạ khi bạn muốn giữ không cho ai đó biết bí mật này. Và có thể kẻ được coi là “ai đó” đang theo dõi hay tìm kiếm hay cố gắng tìm ra bạn. Hoặc là thế, hoặc là bạn bị hoang tưởng. Thông thường tôi sẽ về phe với bệnh hoang tưởng nhưng...

Chúng đang theo dõi...

Chính xác thì cái đó có nghĩa gì? Ai đang theo dõi? FBI? Và nếu FBI thực sự đứng đằng sau những cái email kia, tại sao bọn họ lại cảnh báo tôi bằng cách đó? FBI muốn tôi hành động.

Thời điểm hôn...

Tôi sững người. Đầu Chloe quặt theo hướng tôi.

Ôi Chúa ơi, sao tôi lại có thể ngu ngốc đến thế?

Bọn chúng không buồn dùng dây trói.

Rebecca Schayes giờ đây nằm trên bàn, rên rỉ như một con chó sắp chết bên vệ đường. Thỉnh thoảng, cô thốt ra vài từ, hai hay thậm chí ba từ cùng một lúc, nhưng chúng không tạo thành một chuỗi mạch lạc. Cô đã ở quá mức có thể khóc được. Màn van xin đã chấm dứt. Mắt cô vẫn mở to và thất thần hoàn toàn; giờ đây không nhìn thấy gì cả. Trí óc cô đã vỡ vụn giữa những tiếng kêu gào thất thanh mười lăm phút trước.

Đáng kinh ngạc, Wu không để lại dấu vết nào. Không dấu vết nào, nhưng trông cô già đi hai mươi tuổi.

Rebecca Schayes không biết chút gì. Bác sĩ Beck đến gặp cô ta bởi vì một tai nạn ôtô cũ mà thật ra không phải là một tai nạn ôtô. Có cả những bức ảnh nữa. Beck đã cho rằng cô ta chụp chúng. Cô ta không chụp.

Cảm giác đang phát sinh trong bụng Larry Gandle - cái cảm giác bắt đầu chỉ là hơi gai gai khi gã lần đầu tiên nghe chuyện những thi thể được tìm thấy ở cái hồ - cứ mạnh dần lên. Có thứ gì đó không ổn đêm hôm đó. Cái đó thì chắc chắn. Nhưng bây giờ Larry Gandle còn sợ có lẽ mọi thứ đều hóa ra không ổn.

Đã đến lúc sự thật phải được hé lộ.

Gã đã kiểm tra với người theo dõi của gã. Beck đang dắt chó đi dạo. Một mình. Theo bằng chứng Wu sắp đặt sẵn, đó sẽ là một chứng cứ ngoại phạm rất tồi.

Bọn FBI sẽ xé vụn nó bằng những tràng cười lớn.

Larry Gandle tiến đến cái bàn. Rebecca Schayes ngước lên và thốt ra một âm thanh khủng khiếp, một thứ giao thoa giữa rên rỉ the thé và tiếng cười bi đát.

Gã gí súng lên trán cô. Cô thốt ra thứ âm thanh đó một lần nữa. Gã bắn hai phát và toàn bộ thế giới chìm vào im lặng.

Tôi bắt đầu về lại nhà, nhưng tôi nghĩ về lời cảnh báo.

Chúng đang theo dõi...

Tại sao lại liều lĩnh thế? Có một cửa hiệu Kinko cách đây ba tòa nhà. Họ mở cửa hai tư giờ một ngày. Khi mở cửa ra, tôi hiểu tại sao. Nửa đêm, cửa hiệu đông nghẹt. Lô lốc những người kinh doanh đã mệt lử mang theo giấy tờ, slide cho máy chiếu và những tờ poster.

Tôi đứng trong một hàng lộn xộn được ngăn bằng dây nhung nhàu nhĩ và đợi đến lượt mình. Nó khiến tôi nhớ cái hồi đến ngân hàng những ngày chưa có thẻ ATM. Người phụ nữ đứng trước tôi diện một bộ vest công sở - lúc nửa đêm nhé - và những cái bọng to thù lù dưới mắt đủ để có thể bị nhầm thành một tay khuân hành lý trong khách sạn. Đằng sau tôi, một người đàn ông tóc xoăn, quần áo sậm màu rút điện thoại di động và bắt đầu bấm bấm.

“Thưa ông?”

Một người mặc áo khoác đồng phục của Kinko chỉ vào Chloe.

“Ông không được mang theo chó vào đây.”

Tôi toan bảo anh ta tôi đã mang vào rồi nhưng nghĩ tốt hơn là thôi. Người phụ nữ mặc bộ vest công sở không phản ứng gì. Ông tóc xoăn áo quần sậm màu nhún vai với tôi kiểu đồng-chí-sẽ-làm-gì-đây. Tôi vụt ra ngoài, buộc Chloe vào một cái cột tính tiền chỗ bãi đậu xe, rồi lại vào trong. Ông tóc xoăn nhường lại chỗ của tôi trong hàng. Vấn đề cư xử có giáo dục đấy.

Mười phút sau, tôi đứng đầu hàng. Nhân viên Kinko trẻ này xăng xái một cách thái quá. Anh ta chỉ cho tôi máy tính ở cuối phòng và giải thích chậm hơn rùa cách tính tiền theo phút của cửa hàng.

Tôi gật đầu suốt trong bài diễn từ nho nhỏ của anh ta và đăng nhập vào web.

Thời điểm hôn.

Nó, tôi nhận ra, là chìa khóa. Email đầu tiên đã nói đến thời điểm hôn, không phải 6:15 P.M. Tại sao? Câu trả lời rõ rành rành. Đó là một mật mã - phòng khi những kẻ không phù hợp mó tay vào cái email. Người gửi đã nhận ra nó có khả năng bị đọc lén. Người gửi đã biết chỉ mình tôi hiểu cái thời điểm hôn nghĩa là thế nào.

Đó chính là lúc tôi nghĩ ra.

Trước hết, tên tài khoản Bat Street. Khi Elizabeth và tôi lớn lên, chúng tôi thường đạp xe xuôi phố Morewood Street tới sân Little League. Có một mụ phù thủy gì sống trong căn nhà màu vàng đã bạc màu. Bà ta sống một mình và quắc mắt nhìn những đứa trẻ đi ngang qua. Thành phố nào cũng có một bà già ghê rợn kiểu đó. Bà ta thường được đặt biệt danh. Trong trường hợp của bọn tôi, bọn tôi gọi bà ta là Bat Lady.

Tôi mở trang Bigfoot một lần nữa. Tôi gõ Morewood vào ô tên đăng nhập.

Đứng cạnh tôi, tay nhân viên trẻ và xăng xái thái quá của cửa hiệu Kinko đang nhai lại bài diễn văn về web cho gã đàn ông tóc xoăn toàn thân sậm màu. Tôi nhấn phím tab và chuyển xuống ô gõ mật khẩu.

Đầu mối Teenage thì dễ hơn. Vào năm học lớp 11, chúng tôi đến nhà của Jordan Goldman một tối muộn ngày thứ Sáu. Có lẽ khoảng mười đứa. Jordan đã tìm ra chỗ bố nó giấu phim sex. Chưa có đứa nào trong lũ bọn tôi từng xem phim đó cả. Cả lũ xem, cười gượng gạo, phun ra vài nhận xét ác ý như thường lệ và cảm thấy tục tĩu sung sướng.

Khi bọn tôi cần một cái tên cho đội bóng chày của trường, Jordan gợi ý dùng cái tên ngu ngốc của bộ phim kia:

Teenage Sex Poodles.

Tôi gõ Sex Poodles vào ô mật khẩu. Tôi khó nhọc nuốt khan và nhấp chuột vào biểu tượng Đăng nhập.

Tôi liếc qua gã đàn ông tóc xoăn. Gã đang chăm chú vào một mục tìm kiếm trên Yahoo! Tôi nhìn lên cái bàn phía trước. Người phụ nữ vận vest công sở đang nhăn nhó với một nhân viên khác của Kinko cũng hơi-quá-phởn-vào-cái-lúc-nửa-đêm-này.

Tôi đợi thông báo lỗi. Nhưng lần này chuyện đó không xảy ra... Một bảng chào mừng xuất hiện. Phía trên cùng viết:

Xin chào, Morewood!

Phía dưới viết:

Bạn có một email trong hộp thư.

Tim tôi như một con chim đập thình thình lên lồng ngực.

Tôi nhấp chuột vào biểu tượng Thư mới và lại rung chân. Không có Shauna ở bên làm nó dừng lại. Qua cửa sổ cửa hàng tôi có thể nhìn thấy Chloe đang bị xích lại của tôi. Nó nhìn thấy tôi cất tiếng sủa. Tôi đưa một ngón tay lên môi và ra hiệu cho nó im lặng.

Nội dung lá thư xuất hiện:

Washington Square Park. Gặp em ở góc phía Đông Nam.

Năm giờ ngày mai.

Anh sẽ bị bám đuôi.

Và cuối thư:

Dù thế nào đi nữa, em yêu anh.

Hy vọng con chim bị giam trong lồng kia sẽ không chết và phá lồng để được tự do. Tôi ngả người ra sau. Nước mắt giàn giụa, nhưng lần đầu tiên trong một khoảng thời gian dài đằng đẵng, tôi nở được một nụ cười thực sự.

Elizabeth. Nàng vẫn là người thông minh nhất tôi từng biết.
 
Chương 20


Lúc 2:00 A.M, tôi bò được lên giường và nằm ngửa ra. Trần nhà bắt đầu tạo ra những cú xoay tròn nốc-nhiều-quá-mức. Tôi bám chặt lấy cạnh giường và tì người lên đó.

Shauna trước đó hỏi tôi có từng ham muốn ngoại tình sau khi kết hôn không. Cô thêm đoạn sau - đoạn “sau khi kết hôn” - bởi vì cô biết một vụ khác.

Theo lý thuyết mà nói, tôi thực sự có lừa dối Elizabeth một lần, mặc dù lừa dối nghe không đúng cho lắm. Lừa dối có nghĩa là làm điều hại cho người khác. Nhưng việc đó không gây tổn hại Elizabeth - tôi chắc chắn thế - năm thứ nhất đại học, tôi có dự vào một bước ngoặt đáng khinh được gọi là mối-tình-sinh-viên-một-đêm. Vì tò mò, tôi nghĩ thế. Thử nghiệm hoàn toàn và xác thịt thuần túy. Tôi không thích chuyện đó lắm. Tôi sẽ tránh cho bạn cái sáo ngữ cũ rích tình-dục-không-tình-yêu-là-vô-nghĩa. Không phải vậy. Nhưng trong khi tôi nghĩ khá dễ dàng để quan hệ tình dục với một ai đó mà mình không biết hay thích một cách đặc biệt, thì ở lại qua đêm là cả một khó khăn. Sự ham muốn như nó là thế, thuần túy sinh lý. Một khi sự, e hèm, bức xúc được giải tỏa, tôi muốn biến luôn. Tình dục là cho tất cả mọi người; hậu tình dục thì chỉ cho người tình mà thôi.

Biện minh khá ổn, phải không?

Nếu nó quan trọng, tôi ngờ Elizabeth chắc hẳn cũng làm việc gì đó tương tự. Chúng tôi đều đồng ý cả hai nên thử “gặp gỡ” - “gặp gỡ” là một từ thật mập mờ, hàm chứa tất cả - những người khác khi chúng tôi mới vào đại học. Bất cứ sự không chú ý nào, vì thế sẽ được đưa thêm vào cuộc thử nghiệm sự ràng buộc trong mối quan hệ. Mỗi lần nói đến chuyện đó, Elizabeth đều chối chưa từng có một ai khác. Nhưng rồi lại một lần nữa, tôi cũng thế.

Cái giường cứ xoay tròn khi tôi băn khoăn: Mình làm gì bây giờ?

Việc đầu tiên, tôi đợi đến năm giờ chiều ngày mai. Nhưng tôi không thể chỉ ngồi không cho đến lúc đó. Tôi đã ngồi không đủ rồi, cám ơn rất nhiều. Sự thật là - một sự thật tôi không thích thú nhận ngay cả với chính mình - tôi đã do dự ở chỗ cái hồ. Bởi vì tôi sợ. Tôi lên khỏi nước và ngập ngừng. Việc đó tạo cơ hội cho kẻ kia đánh tôi. Và tôi không đánh trả sau cú đập đầu tiên. Tôi không đâm bổ vào kẻ tấn công mình. Tôi không túm chặt hắn, thậm chí tung một cú đấm cũng không. Tôi chỉ gục xuống. Tôi che người và đầu hàng và để kẻ mạnh hơn kia mang vợ mình đi.

Không phải một lần nữa.

Tôi suy xét việc hỏi chuyện bố vợ tôi một lần nữa - rõ mồn một là Hoyt không hồ hởi giúp đỡ mấy khi tôi đến thăm lần trước - nhưng làm vậy có ích gì không? Hoyt hoặc đang nói dối hoặc... hoặc tôi không biết gì. Nhưng lá thư rất rõ ràng. Đừng nói một ai. Cách duy nhất tôi có thể làm để khiến ông nói ra là nói cho ông biết tôi nhìn thấy cái gì đó ở camera trên phố. Nhưng tôi vẫn chưa sẵn lòng làm thế.

Tôi ra khỏi giường và nhảy đến chỗ máy tính. Tôi lại bắt đầu lướt mạng. Đến sáng, tôi đã gần lên được kế hoạch.

Gary Lamont, chồng Rebecca Schayes, không hoang mang ngay lập tức. Vợ anh thường làm việc khuya, rất khuya, thỉnh thoảng còn ngủ qua đêm trên một cái võng ở góc xa bên phải của studio. Vì vậy khi đã đến bốn giờ sáng và Rebecca vẫn chưa về nhà, anh chỉ hơi lo chứ không hoang mang.

Ít nhất đó là điều anh thầm nghĩ.

Gary gọi đến studio, nhưng máy tự động trả lời. Một lần nữa, chuyện đó không phải là hiếm. Khi đang làm việc, Rebecca ghét bị làm phiền. Cô thậm chí không đặt điện thoại phụ trong phòng tối. Anh để lại tin nhắn và ra giường nằm lại.

Giấc ngủ đến chập chờn. Gary suy tính làm thứ gì khác, nhưng việc đó sẽ chỉ khiến Rebecca phát cáu. Cô là người tinh thần tự do, và nếu có tình trạng căng thẳng trong mối quan hệ trọn vẹn của họ, thì đó hẳn là do kiểu sống khá “truyền thống” của anh “chặt đứt” đôi cánh tự do sáng tạo của cô. Từ của cô.

Vì vậy anh tạo không gian cho cô. Để không chặt cánh của cô hay bất cứ thứ gì.

Vào lúc bảy giờ sáng, lo lắng cất cao lên thành thứ gì đó gần với nỗi sợ hãi thực sự. Gary gọi điện đánh thức Arturo Ramirez, tay trợ lý gầy nhẳng vận đồ đen của Rebecca.

“Tôi vừa mới về nhà,” Arturo chệnh choạng than phiền.

Gary giải thích tình huống. Arturo, ngủ quên mặc nguyên quần áo, chẳng buồn thay đồ. Anh ta lao ra khỏi cửa. Gary hứa sẽ gặp anh ta tại studio. Anh vội đi xuống khu trung tâm A.

Arturo đến trước và thấy cửa studio mở hé. Anh ta đẩy mở rộng ra.

“Rebecca?”

Không có tiếng trả lời. Artuno gọi tên cô một lần nữa. Vẫn không có tiếng trả lời. Anh ta bước vào và lướt mặt nhìn khắp studio. Cô không có ở đó. Anh ta mở cửa phòng tối. Mùi axit tráng phim gắt như mọi khi vẫn còn nồng nặc, nhưng có thứ gì khác nữa, một thứ mờ mờ và cảm thấy được rõ ràng, vẫn có khả năng khiến anh ta dựng tóc gáy.

Thứ gì đó mang tính người rõ rệt.

Gary rẽ qua góc đường vừa kịp nghe tiếng hét.
 
Chương 21


Buổi sáng, tôi chộp vội một miếng bánh mì và đi về hướng Tây trên Đường 80 trong vòng bốn mươi lăm phút. Đường 80 ở New Jersey là một tuyến đường khá nhàm chán. Một khi bạn qua khỏi Saddle Brook hay cỡ đó, nhà cửa biến sạch và bạn được đối mặt với những hàng cây giống hệt nhau cả hai bên đường. Chỉ những biển báo hiệu giữa các tiểu bang là phá vỡ cái trạng thái đơn điệu nhàm chán đó.
Khi rẽ khỏi Đường 163 ở một thị trấn tên là Gardensville, tôi cho xe chạy chậm lại và nhìn ra đám cỏ cao. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Tôi không bao giờ đến đây - tôi cố tình tránh cái đoạn đường nối giữa hai tiểu bang này trong tám năm qua - nhưng tại đây, chưa đầy một trăm mét cách chỗ xe tôi bây giờ, họ đã tìm thấy thi thể Elizabeth.
Tôi xem hướng đi mà tôi đã in ra tối qua. Văn phòng điều tra những vụ chết bất thường Hạt Sussex có trên trang Mapquest.com, vì vậy từ cách đó trăm mét tôi đã biết đường đến chỗ này thế nào. Văn phòng là một dạng nhà kho có rèm che kín, không bảng hiệu hay chữ viết trên cửa sổ, một khối chữ nhật bằng gạch trơn không khung bảo vệ, nhưng mà này, bạn có cần những thứ như thế ở một nhà chứa xác không? Tôi đến trước tám rưỡi và dịch xe ra sau một chút. Văn phòng vẫn khóa im ỉm. Càng hay.
Một chiếc Seville Cadillac vàng ánh xanh chạy vào ô ghi Timothy Harper, Nhân viên giám định pháp y Hạt. Người đàn ông trong xe dập điếu thuốc lá trước khi bước ra - việc có bao nhiêu nhân viên giám định pháp y hút thuốc chưa bao giờ thôi đeo đẳng tôi. Harper cao bằng tôi, chưa tới 1,8 mét, da màu ô liu và tóc mỏng, màu xám. Ông ta thấy tôi đứng ở cửa và nghiêm mặt lại. Không ai muốn nghe tin tốt lành mà mới đầu buổi sáng đã đến nhà xác.
Ông ta chậm rãi tiến lại phía tôi. “Tôi giúp gì được ông?” ông ta nói.
“Bác sĩ Harper?”
“Phải, tôi đây.”
“Tôi là bác sĩ David Beck.” Bác sĩ. Vậy chúng tôi là đồng nghiệp. “Tôi xin ông một chút thời gian.”
Ông không phản ứng gì khi nghe tên tôi. Ông lấy ra một chìa khóa và mở cửa. “Sao chúng ta không vào văn phòng của tôi nhỉ?”
“Cám ơn ông.”
Tôi theo ông đi dọc hành lang, Harper bật các công tắc đèn. Những bóng đèn huỳnh quanh trên trần nhà miễn cưỡng sáng lên từng cái một. Sàn nhà sột soạt lớp lót sàn. Nơi này trông giống một trung tâm y tế vô danh hơn là nhà của cái chết, nhưng có lẽ đó mới là mục đích của nó. Tiếng bước chân của chúng tôi dội lại, hòa lẫn với tiếng vo vo của bóng đèn như thể đang theo nhịp. Harper nhặt một chồng thư lên và mau chóng phân loại chúng trong lúc chúng tôi bước đi.
Phòng riêng của Harper cũng không có khung chắn bảo vệ. Phòng được trang bị loại bàn kim loại bạn có thể thấy giáo viên dùng tại trường tiểu học. Ghế gỗ được đánh véc-ni hơi quá tay, thiết kế đơn giản. Một vài văn bằng treo trên một bức tường. Ông cũng học y ở Columbia, tôi nhìn thấy, tuy nhiên tốt nghiệp trước tôi khoảng hai mươi năm. Không có ảnh người thân trong gia đình, không cúp đánh golf, không bằng khen trong khung kính, không gì riêng tư. Khách đến văn phòng này không phải để trò chuyện thân mật. Thứ cuối cùng mà họ cần thấy là ảnh thằng cháu nội đang mỉm cười của ai đó.
Harper gập tay lại và đặt trên bàn. “Tôi có thể làm gì cho ông, bác sĩ Beck?”
“Tám năm trước,” tôi bắt đầu, “vợ tôi được đưa đến đây. Cô ấy là nạn nhân của một tên giết người hàng loạt tên là KillRoy.”
Tôi không giỏi mấy ở khoản đọc nét mặt. Giao tiếp bằng mắt chưa bao giờ là sở trường của tôi. Với tôi, ngôn ngữ cơ thể có rất ít ý nghĩa. Nhưng khi nhìn Harper, tôi không thể ngăn mình tự hỏi điều gì khiến một nhân viên giám định pháp y lão luyện, một người luôn ngụ trong thế giới của cái chết, tái nhợt đi như vậy.
“Tôi nhớ,” ông khẽ nói.
“Ông đã khám nghiệm tử thi?”
“Phải. Một phần.”
“Một phần?”
“Phải. Cảnh sát liên bang cũng có tham gia. Chúng tôi hợp tác trong vụ đó, tuy nhiên FBI không có nhân viên điều tra những cái chết bất thường, vì vậy chúng tôi tiến hành trước.”
“Gượm đã,” tôi nói. “Nói cho tôi ông nhìn thấy gì khi họ đưa thi thể vào đây lần đầu tiên.”
Harper nhấp nhổm trên ghế. “Tôi có thể hỏi vì sao ông muốn biết điều đó không?”
“Tôi là một người chồng đang đau đớn.”
“Chuyện đó đã qua tám năm rồi.”
“Tất thảy chúng ta đều đau đớn theo cách riêng của mình, bác sĩ ạ.”
“Phải, tôi biết chắc chắn là vậy, nhưng...”
“Nhưng sao?”
“Nhưng tôi muốn biết ông muốn gì ở đây.”
Tôi quyết định vào đề trực tiếp. “Ông chụp ảnh tất cả tử thi được đưa vào đây, phải không?”
Ông lưỡng lự. Tôi cảm nhận thấy. Ông thấy tôi nhận ra và hắng giọng. “Phải, hiện tại, chúng tôi dùng kỹ thuật số. Nói cách khác, một máy ảnh số. Nó cho phép chúng tôi lưu giữ ảnh và nhiều hình khác nhau trên máy tính. Chúng tôi thấy nó hữu ích cho cả việc chuẩn đoán và lên danh mục thống kê.”
Tôi gật đầu, không quan tâm. Ông đang huyên thuyên. Khi ông dừng, tôi nói, “Ông có chụp ảnh vợ tôi khi khám nghiệm tử thi không?”
“Đương nhiên là có. Nhưng... ông nói cách đây bao lâu rồi?”
“Tám năm.”
“Khi ấy chúng tôi dùng máy ảnh chụp lấy ngay.”
“Và những tấm ảnh lấy ngay đó giờ phút này đang ở đâu, bác sĩ?”
“Trong hồ sơ.”
Tôi nhìn cái tủ cao đựng hồ sơ đứng trong góc phòng như một anh lính gác.
“Không phải ở đó,” ông nhanh miệng nói thêm. “Vụ vợ ông đã đóng. Kẻ giết cô ấy đã bị bắt và kết án. Hơn nữa cách đây hơn năm năm.”
“Vậy nó ở đâu?”
“Phòng lưu trữ. Ở Layton.”
“Tôi muốn xem những tấm ảnh đó, nếu có thể.”
Ông viết vội thứ gì đó và cúi đầu xuống mảnh giấy. “Tôi sẽ xem kỹ.”
“Bác sĩ?”
Ông ngước lên.
“Ông nói ông nhớ vợ tôi.”
“Phải, ý tôi là, một chút. Chúng tôi không có nhiều vụ án mạng ở đây, đặc biệt là những vụ nghiêm trọng quá mức.”
“Ông có nhớ tình trạng cơ thể cô ấy?”
“Không nhớ lắm. Ý tôi là, không nhớ chi tiết hay bất cứ thứ gì.”
“Ông có nhớ ai đã nhận dạng cô ấy không?”
“Không phải ông ư?”
“Không.”
Harper gãi gãi thái dương. “Cha cô ấy, phải không?”
“Ông có nhớ ông ấy mất bao lâu để nhận dạng được không?”
“Bao lâu ư?”
“Ngay lập tức à? Hay mất một vài phút? Năm phút, mười phút?”
“Tôi thực sự không nói được.”
“Ông không nhớ là ngay lập tức hay không à?”
“Tôi xin lỗi, tôi không nhớ.”
“Ông vừa nói đây là một vụ lớn.”
“Phải.”
“Có lẽ vụ lớn nhất của ông?”
“Chúng tôi có vụ giết người đưa bánh pizza tàn bạo một vài năm trước,” ông ta nói. “Nhưng, đúng vậy, tôi nói đây là một trong những vụ lớn nhất.”
“Vậy mà ông không nhớ cha cô ấy có gặp khó khăn gì khi nhận dạng thi thể không ư?”
Ông không thích thế. “Bác sĩ Beck, với tất cả sự kính trọng, tôi không hiểu ông đang muốn gì.”
“Tôi là một người chồng đang đau đớn. Tôi đang hỏi một vài câu hỏi đơn giản.”
“Giọng điệu của ông,” ông ta nói. “Nó có vẻ hung hăng.”
“Có một lý do nào cho chuyện đó không?”
“Nghĩa là thế quái nào?”
“Làm thế nào ông biết cô ấy là nạn nhân của KillRoy?”
“Tôi không biết.”
“Vậy làm thế nào mà FBI lại có liên đới?”
“Có những dấu vết nhận dạng...”
“Ý ông là cô ấy bị đánh dấu bằng chữ cái K?”
“Phải.”
Hiện giờ tôi đang trên đà lăn, và thấy nó đúng một cách kỳ quặc. “Vậy là cảnh sát đưa cô ấy vào đây. Ông bắt đầu khám nghiệm cô ấy. Ông phát hiện thấy chữ cái K...”
“Không, họ đến đây ngay lập tức. Ý tôi là cảnh sát liên bang ấy.”
“Trước khi thi thể được đưa vào đây?”
Ông ngước lên, hoặc đang nhớ lại hoặc đang phịa ra. “Hoặc sau đó ngay lập tức. Tôi không nhớ.”
“Làm thế nào họ biết về thi thể nhanh đến vậy?”
“Tôi không biết.”
“Ông không có chút ý tưởng nào ư?”
Harper khoanh tay trước ngực. “Tôi phỏng đoán rằng một trong những nhân viên tại hiện trường vụ án đã phát hiện thấy chữ đóng dấu và gọi FBI. Nhưng đó chỉ là một ước đoán hơi có chút cơ sở thôi.”
Máy nhắn tin trên hông tôi lại rung lên. Tôi mở ra xem. Phòng khám có một ca cấp cứu.
“Tôi rất lấy làm tiếc cho mất mát của ông,” ông nói bằng một giọng đầy kinh nghiệm. “Tôi hiểu nỗi đau ông phải trải qua, nhưng hôm nay lịch làm việc của tôi rất bận. Có lẽ ông có thể hẹn vào ngày khác...”
“Ông phải mất bao lâu để lấy được hồ sơ của vợ tôi?” tôi hỏi.
“Tôi thậm chí không chắc mình có thể làm vậy được. Ý tôi là, tôi sẽ phải kiểm tra...”
“Quyền tự do được biết thông tin.”
“Xin thứ lỗi, ông nói gì cơ?”
“Tôi đã tra cứu về nó sáng nay. Vụ vợ tôi hiện giờ đã đúng. Tôi có quyền xem hồ sơ của cô ấy.”
Harper phải biết điều đó - tôi không phải là người đầu tiên yêu cầu xem hồ sơ khám nghiệm tử thi - và ông ta bắt đầu gật đầu nhiệt tình hơn. “Tuy nhiên, vẫn có một vài việc ông phải thực hiện theo đúng quy tắc, điền một số giấy tờ.”
“Ông đang muốn trì hoãn?” tôi nói.
“Thứ lỗi cho tôi, sao kia?”
“Vợ tôi là nạn nhân của một tội ác khủng khiếp.”
“Tôi hiểu điều đó.”
“Và tôi có quyền xem hồ sơ của vợ tôi. Nếu ông dính mũi vào chuyện này, tôi sẽ tự hỏi tại sao. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với báo chí về vợ tôi hay kẻ giết cô ấy. Bây giờ tôi sẽ rất vui mừng làm việc này. Và tất cả chúng tôi sẽ tự hỏi tại sao một nhân viên giám định pháp y địa phương lại làm khó tôi quá mức với một yêu cầu đơn giản đến như vây.”
“Nghe như một lời đe dọa, bác sĩ Beck.”
Tôi đứng dậy. “Tôi sẽ quay lại đây sáng mai,” tôi nói. “Xin vui lòng chuẩn bị sẵn hồ sơ của vợ tôi.”
Tôi đang hành động. Cảm giác thích thú khủng khiếp.
 
Chương 22


Thanh tra Roland Dimonte và Kevin Krinsky của bộ phận phụ trách những vụ án mạng của Sở cảnh sát thành phố New York đến hiện trường đầu tiên, thậm chí trước cả cảnh sát mặc đồng phục. Dimonte, một người đàn ông tóc dầu đam mê bốt da rắn gớm guốc và tăm xỉa răng bị nhai nát, tiến lên trước. Anh ta hét lên ra lệnh. Hiện trường tội ác ngay lập tức được khoanh lại. Một vài phút sau, các kỹ thuật viên phòng lab từ Đơn vị Hiện trường Tội ác đến và tản ra làm việc.

“Cách ly nhân chứng,” Dimonte nói.

Chỉ có hai người: một ông chồng và một kẻ lập dị bí ẩn vận đồ đen. Dimonte nhận thấy người chồng có vẻ quẫn trí, mặc dù có thể là giả vờ. Nhưng cái gì quan trọng thì làm trước.

Dimonte, vẫn nhai tăm, dẫn kẻ lập dị bí ẩn - tên hắn, chẳng lấy gì làm lạ, Arturo - sang một bên. Tên nhóc xanh mét. Thông thường, Dimonte sẽ đoán là ma túy, nhưng hắn đã nôn ra mật xanh mật vàng khi tìm thấy thi thể.

“Cậu ổn chứ?” Dimonte hỏi. Như thể anh ta quan tâm.

Arturo gật đầu.

Dimonte hỏi nó có gì bất thường xảy ra liên quan đến nạn nhân gần đây không. Có, Arturo trả lời. Việc gì? Hôm qua, Rebecca có nhận một cú điện thoại khiến cô bị xáo trộn. Ai gọi? Arturo không rõ, nhưng một giờ sau, có thể chưa đến, Arturo không chắc - một người đàn ông ghé đến gặp Rebecca. Khi người đó đi rồi, Rebecca khủng hoảng tột độ.

“Cậu có nhớ tên người đàn ông đó không?”

“Beck,” Arturo nói. “Cô ấy gọi anh ta là Beck.”

Shauna bỏ tấm ga trải giường của Mark vào máy sấy. Linda đến sau cô.

“Nó lại đái dầm,” Linda nói.

“Chúa ơi, em thật am tường.”

“Đừng xấu tính thế.” Linda bước đi. Shauna mở miệng xin lỗi, nhưng không nói được gì. Khi cô chuyển đi lần đầu tiên - lần duy nhất - Mark đã phản ứng rất tồi tệ. Bắt đầu đái dầm. Khi cô và Linda tái hợp, việc đái dầm chấm dứt. Cho đến bây giờ.

“Nó biết chuyện gì đang xảy ra,” Linda nói. “Nó có thể cảm nhận thấy sự căng thẳng.”

“Thế em muốn tớ làm thế nào, hả Linda?”

“Bất cứ điều gì cần phải làm.”

“Tớ sẽ không chuyển đi nữa đâu. Tớ hứa.”

“Rõ ràng như thế chưa đủ.”

Shauna ném một miếng làm mềm vải vào máy sấy. Nỗi mệt mỏi hằn lên khuôn mặt cô. Cô không cần cái này. Cô là một người mẫu kiếm bộn tiền. Cô không thể đến chỗ làm mà dưới mắt sưng húp thâm quầng hay tóc không óng mượt được. Cô không cần cái thứ phải gió này.

Cô chán ngấy tất cả rồi. Chán việc nội trợ không hợp với cô chút nào. Chán sức ép do những tay cải cách xã hội khốn nạn gây ra. Quên đi sự cố chấp, điều đó thì dễ. Nhưng sức ép lên một cặp đồng tính nữ với một đứa trẻ - do những kẻ ủng hộ được cho là có thiện chí đặt ra - còn quá mức ngạt thở. Nếu mối quan hệ này tan vỡ, nó sẽ là sự thất bại cho toàn bộ chủ nghĩa đồng tính hay thứ gì đó chết tiệt như vậy, như thể mấy cặp đôi không đồng tính chả bao giờ chia tay nhau ấy. Shauna không phải là một chiến sĩ tham gia thập tự chinh. Cô biết điều đó. Ích kỷ hay không, hạnh phúc của cô sẽ không bị hy sinh trên bệ thờ của “điều thiện vĩ đại hơn”.

Cô tự hỏi không biết Linda có cảm thấy thế không.

“Em yêu cậu,” Linda nói.

“Tôi cũng yêu em.”

Họ nhìn nhau. Mark lại đang đái dầm. Shauna không thể hy sinh bản thân vì điều thiện vĩ đại hơn. Nhưng cô sẽ hi sinh vì Mark.

“Vậy mình làm gì đây?” Linda hỏi.

“Mình sẽ giải quyết được.”

“Cậu nghĩ mình có thể ư?”

“Em có yêu tớ không?”

“Cậu biết em có mà,” Linda nói.

“Em có vẫn nghĩ tớ là sinh vật tuyệt vời, thú vị nhất trên hành tinh xanh của Chúa không?”

“Ồ, vẫn ạ,” Linda nói.

“Tớ cũng thế.” Shauna mỉm cười với cô. “Tớ là cái gai ở mông bị chứng ái kỷ.”

“Ừ, đúng thế.”

“Nhưng tớ là cái gai ở mông bị chứng ái kỷ của em.”

“Quá chuẩn.”

Shauna dịch lại gần hơn. “Tớ không dành cho một cuộc đời với những mối quan hệ dễ dàng. Tớ hay thay đổi.”

“Cậu gợi cảm chết đi được khi thay đổi,” Linda nói.

“Và ngay cả khi tớ không thế.”

“Ngậm miệng lại và hôn em đi.”

Chuông cửa ở dưới kêu. Linda nhìn Shauna. Shauna nhún vai. Linda nhấn nút trên máy điện đàm nội bộ và nói, “Vâng?”

“Đó có phải là Linda Beck?”

“Ai đấy?”

“Tôi là đặc vụ Kimberly Green của Cơ quan điều tra Liên bang. Tôi đi cùng đồng sự, đặc vụ Rick Peck. Chúng tôi xin phép lên trên và hỏi cô vài câu.”

Shauna vươn người tới trước khi Linda kịp trả lời. “Luật sư của chúng tôi tên là Hester Crimstein,” cô hét vào máy điện đàm nội bộ. “Ông có thể gọi cho bà ấy.”

“Cô không bị tình nghi phạm tội gì cả. Chúng tôi chỉ muốn hỏi cô vài câu hỏi...”

“Hester Crimstein,” Shauna ngắt lời. “Tôi chắc là ông có số của bà ấy. Một ngày thực sự tốt lành nhé.”

Shauna nhả nút nhấn ra. Linda nhìn cô. “Cái quái gì thế?”

“Em trai em gặp rắc rối.”

“Sao cơ?”

“Ngồi xuống nào,” Shauna nói. “Chúng mình cần nói chuyện.”

Raisa Markov, nữ y tá chăm sóc ông nội của bác sĩ Beck, mở cửa sau tiếng gõ mạnh. Đặc vụ Carlson và Stone, giờ đây liên kết làm việc với thanh tra Dimonte và Krinsky của Sở cảnh sát thành phố New York, đưa cho cô ta tờ giấy.

“Lệnh của liên bang,” Carlson tuyên bố.

Raisa bước qua một bên không phản ứng. Cô đã lớn lên ở Xô viết. Sự hung hăng của cảnh sát không khiến cô sợ hãi.

Tám tay nhân viên của Carlson ùa vào nơi ở của Beck và tản ra.

“Tôi muốn tất cả mọi thứ được ghi lại,” Carlson hét lớn. “Không sai sót.”

Họ nhanh tay hy vọng đi trước Hester Crimstein nửa bước. Carlson biết rằng Crimstein, giống như nhiều luật sư biện hộ đỏm dáng trong thời đại hậu OJ Simpson này, như một bên nguyên liều mạng, sẽ bám lấy những luận chứng về sự kém cỏi và/hoặc hành vi sai trái của cảnh sát. Mọi bước đi/di chuyển/hơi thở sẽ được ghi chép lại và được đưa ra làm chứng.

Khi Carlson và Stone đầu tiên xông vào studio của Rebecca Schayes, Dimonte không vui vẻ gì mấy khi nhìn thấy họ. Đã có trò vật tay thường lệ giữa những đấng nam nhi hàng xóm cảnh-sát-địa-phương-đối-đầu-với-FBI. Rất ít thứ hợp nhất được lực lượng FBI và cảnh sát địa phương, đặc biệt trong một thành phố lớn như New York.

Nhưng Hester Crimstein là một trong những thứ đó.

Cả hai bên biết rằng Crimstein là một mụ che đậy lão luyện và chó săn trong công chúng. Cả thế giới sẽ theo dõi. Không ai muốn bị loại ra vì kém cỏi. Đó chính là lực đẩy ở đây. Vì vậy họ thành lập một liên minh bằng tất cả sự tin tưởng của một cái bắt tay Palestine-Israel, bởi vì cuối cùng, cả hai bên biết họ cần chụm đầu lại và neo chặt được bằng chứng thật nhanh - trước khi Crimstein làm đục nước.

FBI đã có được lệnh khám nhà. Với họ đây chỉ là chuyện đơn giản, đi qua Tòa nhà Liên bang tới tòa án liên bang ở quận phía Nam. Nếu Dimonte và Sở cảnh sát thành phố New York muốn có một cái lệnh, họ phải đi đến trụ sở tòa án của Hạt ở New Jersey - quá mất thời gian trong khi Hester Crimstein ẩn náu ngay dưới gót chân họ.

“Đặc vụ Carlson!”

Tiếng hét gọi cất lên từ góc phố. Carlson chạy hết tốc lực ra ngoài, Stone lạch bạch theo sau. Dimonte và Krinsky chạy theo. Tại chỗ gờ đường, một đặc vụ liên bang trẻ đứng cạnh một thùng đựng rác đang mở ra.

“Cái gì thế?” Carlson hỏi.

“Có thể không phải thứ gì, thưa ngài, nhưng...” Tay đặc vụ liên bang trẻ chỉ xuống một thứ trông giống như một đôi găng tay bằng nhựa bị vứt bỏ vội vã.

“Gói chúng lại,” Carlson nói. “Tôi muốn ngay lập tức kiểm tra xem có vân tay dùng súng hay không.” Carlson quay sang Dimonte. Thời điểm để hợp tác hơn nữa - lúc này, bằng cách cạnh tranh. “Sẽ mất bao lâu để tiếng hành xong lại phòng lab chỗ anh?”

“Một ngày,” Dimonte nói. Bây giờ anh ta ngậm một cây tăm mới trong miệng và lại bắt đầu nhá nó khá nhiệt tình. “Có thể hai.”

“Không được. Chúng tôi sẽ phải đưa mẫu này ngay xuống phòng lab của chúng tôi tại Quantico.”

“Anh sẽ làm dở hơi như thế,” Dimonte cắm cảu bác lại.

“Chúng ta đã đồng ý theo cái gì nhanh nhất.”

“Ở lại đây là nhanh nhất,” Dimonte nói. “Tôi sẽ chịu trách nhiệm.”

Carlson gật đầu. Như anh ta đã mong đợi. Nếu bạn muốn cảnh sát địa phương ưu tiên hàng đầu một vụ, hãy đe dọa tước nó đi khỏi tay họ. Cạnh tranh. Mọi thứ đều tuyệt vời.

Nửa giờ sau, họ nghe thấy một tiếng hét khác, lần này đến từ gara. Một lần nữa họ chạy hết tốc lực theo hướng đó.

Stone huýt sáo khe khẽ. Dimonte nhìn chằm chằm. Carlson cúi xuống để nhìn kỹ hơn.

Ở đó, dưới những tờ báo trong một sọt rác, có một khẩu súng ngắn 9 ly. Hít qua một phát, họ biết khẩu súng vừa mới được dùng.

Stone quay sang Carlson. Anh ta chắc chắn để nụ cười của mình không bị máy quay bắt được.

“Bắt được hắn rồi,” Stone khẽ khàng nói.

Carlson không nói gì. Anh ta nhìn kỹ thuật viên gói khẩu súng lại. Rồi, khi đã nghĩ xong xuôi, anh ta bắt đầu cau mày.
 
Chương 23


Cuộc gọi khẩn cấp vào máy nhắn tin của tôi liên quan đến TJ. Nó va tay vào cạnh cửa. Với hầu hết bọn nhóc, bị thế nghĩa là một phát xịt Bactine chống đau nhức; với TJ, bị thế nghĩa là một đêm trong bệnh viện. Khi tôi đến, họ đã gắn bình truyền cho nó. Bạn chữa trị chứng máu không đông bằng cung cấp những sản phẩm máu như cryoprecipitate hay huyết thanh đông lạnh. Tôi bảo một y tá gắn bình truyền cho nó ngay lập tức.

Như tôi đã nói lúc trước, tôi gặp Tyrese lần đầu tiên sáu năm trước khi anh ta bị còng tay và chửi rủa tục tĩu. Một giờ trước đó, anh ta vội vã đưa thằng con trai lúc đó mới chín tháng tuổi, TJ, vào phòng cấp cứu. Tôi có mặt ở đó, nhưng không đảm nhận vai trò chính. Một bác sĩ chuyên điều trị lo cho TJ.

TJ không phản ứng lại và bị hôn mê. Nó thở không sâu. Tyrese, người cư xử theo biểu đồ thất thường (tôi tự hỏi, làm thế nào, một người cha vội vã đưa đứa con trai bé bỏng của mình vào phòng cấp cứu lại có thể đóng kịch được?) bảo với bác sĩ trực ban thằng bé mỗi lúc một yếu đi suốt cả ngày.

Bác sĩ trực liếc nhìn cô y tá vẻ ra hiệu. Cô y tá gật đầu và đi gọi điện thoại. Chỉ là để phòng khi.

Kiểm tra con ngươi cho thấy đứa trẻ bị xuất huyết rất nhiều trên cả hai võng mạc mắt, nghĩa là, những mạch máu ở phía trong cả hai mắt đã bị vỡ. Khi bác sĩ tập hợp các triệu chứng lại - chảy máu võng mạc, hôn mê sâu, và, à ừm, người cha - ông chuẩn đoán:

Hội chứng trẻ em bị ngược đãi.

Lực lượng bảo vệ có trang bị súng đến. Họ còng tay Tyrese, và đó là lúc tôi nghe những tiếng gào thét chửi rủa tục tĩu. Tôi chạy đến góc phòng xem chuyện gì xảy ra. Hai thành viên mặc đồng phục của Sở cảnh sát thành phố New York đến. Cùng với một phụ nữ vẻ mỏi mệt từ ACS - được gọi là Trung tâm Hỗ trợ Trẻ em. Tyrese cố gắng nài xin cho trường hợp của mình. Mọi người đều lắc đầu theo kiểu chúng-ta-đang-sống-trong-thế-giới-nào-cơ-chứ.

Tôi chứng kiến những cảnh tượng như thế này hàng chục lần ở bệnh viện. Thực ra, tôi còn thấy những thứ tồi tệ hơn nhiều. Tôi đã chữa trị cho một bé gái ba tuổi bị bệnh lây qua đường tình dục. Tôi có lần phải dùng bộ dụng cụ kiểm tra tìm bằng chứng bị cưỡng hiếp trên cơ thể một bé trai bốn tuổi bị chảy máu trong. Trong cả hai trường hợp - và tất cả những vụ lạm dụng tình dục tương tự vậy mà tôi có tham gia chữa trị - thủ phạm hoặc là người thân trong gia đình hoặc là người bạn trai gần nhất của bà mẹ.

Kẻ xấu không núp ở những sân chơi, các em bé ạ. Hắn sống ngay trong nhà bạn.

Tôi cũng biết - và số liệu thống kê này chưa bao giờ thôi làm tôi choáng váng - hơn chín mươi lăm phần trăm những ca chấn thương sọ não nghiêm trọng ở trẻ em là do bị bạo hành. Điều đó tạo ra một xác xuất cao - hoặc thấp khủng khiếp, phụ thuộc vào điểm nhìn của bạn - rằng Tyrese đã đánh đập con trai mình.

Trong phòng cấp cứu này, chúng tôi nghe đủ mọi loại lý do. Đứa bé ngã từ đi văng xuống. Nắp lò nướng đập vào đầu đứa bé. Anh trai thằng bé ném đồ chơi vào nó. Bạn làm việc ở đây đủ lâu, bạn trở nên tàn nhẫn hơn một tay cảnh sát thành phố tha hóa biến chất nhất. Sự thật là, những đứa trẻ khỏe mạnh chịu đựng được các loại đánh đập đột ngột này khá tốt. Rất hiếm khi, chẳng hạn, bị ngã mỗi từ đi văng xuống khiến chảy máu võng mạc.

Tôi không có vấn đề gì với chẩn đoán đứa trẻ bị đánh đập. Dù sao không phải là mới nhìn thấy lần đầu.

Nhưng có gì đó ở cái cách Tyrese nài xin khiến tôi băn khoăn dữ dội. Không phải tôi nghĩ anh ta vô tội. Tôi không tránh khỏi việc đưa ra những đánh giá nóng vội dựa trên vẻ bề ngoài - hay dùng một thuật ngữ phổ biến nghe có vẻ chính xác hơn, phản xạ tự nhiên. Chúng ta đều làm vậy. Nếu bạn sang đường để tránh một toán choai choai da đen, bạn đang phản xạ tự nhiên; nếu bạn không sang đường vì bạn sợ mình sẽ trông giống như một kẻ phân biệt chủng tộc, bạn đang phản xạ tự nhiên; nếu bạn thấy toán choai choai đó và thấy chẳng làm sao cả, bạn đến từ một hành tinh nào đó mà tôi chưa bao giờ đặt chân lên.

Điều khiến tôi phải suy nghĩ ở đây chính là cái gọi là đạo thiện ác thuần túy. Tôi đã chứng kiến một trường hợp kinh hãi tương tự trong một lần luân phiên đi làm việc bên ngoài gần đây ở vùng ngoại ô giàu có Short Hills, New Jersey. Một ông bố và một bà mẹ da trắng, cả hai diện không chê vào đâu được và lái một chiếc Range Rover nội thất trang bị hoàn hảo, vội vã đưa đứa con gái sáu tháng tuổi vào phòng cấp cứu. Bé gái, đứa con thứ ba của họ, hiện trạng như TJ.

Không một ai còng tay ông bố.

Vì vậy tôi tiến về phía Tyrese. Anh ta liếc nhìn tôi bằng ánh mắt của những kẻ ở trong khu ổ chuột. Trên đường phố, nó sẽ khiến tôi bối rối; tại đây, nó giống như một con sói lớn nguy hiểm đang thổi một ngôi nhà bằng gạch. “Con trai anh sinh ở bệnh viện này?” tôi hỏi.

Tyrese không trả lời.

“Con trai anh sinh ở đây, phải hay không?”

Anh ta đủ bình tĩnh lại để nói: “Phải.”

“Nó có được cắt bao quy đầu?”

Tyrese lại nhìn bằng ánh mắt lúc nãy. “Anh thuộc loại gay nào đó?”

“Ý anh là có hơn một loại?” Tôi đáp trả. “Nó được cắt bao quy đầu ở đây, phải hay không?”

Miễn cưỡng, Tyrese nói, “Phải.”

Tôi tìm số an sinh xã hội của TJ và nhập vào máy. Hồ sơ của nó hiện ra. Tôi xem mục cắt bao quy đầu. Bình thường. Chết tiệt. Nhưng rồi tôi thấy một mục khác. Đây không phải là lần đầu tiên TJ đến bệnh viện. Khi mới được hai tuần, bố nó đưa nó vào đây vì bị chảy máu ở rốn - chảy máu từ núm rốn.

Kỳ lạ.

Chúng tôi cho tiến hành một vài xét nghiệm máu khi đó, mặc dù cảnh sát khăng khăng đòi bắt giam Tyrese. Tyrese không tranh cãi. Anh ta chỉ muốn các xét nghiệm được hoàn thành. Tôi cố để chúng được tiến hành thật nhanh, nhưng tôi không có chút quyền lực nào trong bộ máy hành chính quan liêu này. Rất ít người làm được thế. Tuy nhiên, phòng xét nghiệm có thể xác định qua các mẫu máu rằng xét nghiệm kiểm tra thời gian máu đông bị kéo dài, mặc dù cả thời gian máu đông và số lượng tiểu huyết cầu đều bình thường. Được rồi, được rồi, nhưng hãy chịu đựng tôi một chút.

Điều tốt nhất - và tồi tệ nhất - được khẳng định. Thằng bé không bị ông bố ăn mặc như ở trong khu ổ chuột đánh đập tàn tệ. Chứng máu loãng khó đông gây ra việc xuất huyết trên võng mạc mắt. Nó cũng khiến thằng bé bị mù.

Lực lượng bảo vệ thở dài và tháo còng cho Tyrese rồi bỏ đi không nói một lời. Tyrese xoa xoa cổ tay. Không một ai xin lỗi hay nói một lời cảm thông với người đàn ông vừa bị buộc tội lầm là đánh đập đứa con trai giờ đây đã bị mù của mình.

Hãy tưởng tượng việc đó ở những khu ngoại ô giàu có.

TJ trở thành bệnh nhân của tôi từ đó.

Bây giờ, trong phòng bệnh của nó, tôi vuốt đầu TJ và nhìn vào đôi mắt không nhìn thấy gì. Bọn trẻ thường nhìn tôi bằng vẻ kính sợ tuyệt đối, một sự giao thoa mạnh mẽ giữa sợ hãi và thành kính. Đồng nghiệp của tôi tin rằng trẻ con hiểu rõ hơn người lớn chuyện gì đang xảy ra với chúng. Tôi nghĩ câu trả lời chắc hẳn đơn giản hơn. Trẻ con coi cha mẹ chúng vừa gan dạ vừa có quyền hạn tuyệt đối - vậy mà cha mẹ chúng đây, ngước nhìn tôi chằm chằm, vị bác sĩ, với niềm khao khát mãnh liệt tràn đầy sợ hãi thông thường chỉ có ở phấn khích tôn giáo.

Với một đứa nhỏ, điều gì có thể khiến kinh hãi hơn được nữa?

Một vài phút sau, mắt TJ nhắm lại. Nó ngủ thiếp đi.

“Nó chỉ va vào cạnh cửa thôi mà,” Tyrese nói. “Thế thôi. Nó bị mù. Có thể xảy ra, đúng không?”

“Chúng tôi cần giữ thằng bé qua đêm,” tôi nói. “Nhưng nó sẽ khỏe thôi.”

“Bằng cách nào?” Tyrese nhìn tôi. “Bằng cách nào nó có thể bình thường trong khi nó không ngừng chảy máu?”

Tôi không có câu trả lời.

“Tôi sẽ đưa nó ra khỏi đây.”

Ý anh ta không phải là bệnh viện.

Tyrese cho tay vào túi và bắt đầu lôi ra những tờ dollar. Tôi không vui lắm. Tôi giơ một tay lên và nói, “Tôi sẽ kiểm tra lại sau.”

“Cám ơn vì đã đến, bác sĩ. Tôi rất cảm kích.”

Tôi toan nhắc tôi đến vì con trai anh, không phải vì anh, nhưng tôi chọn im lặng.

Thận trọng, Carlson nghĩ khi tim anh ta đập dồn. Phải thật thận trọng.

Bốn người - Carlson, Stone, Krinsky và Dimonte - ngồi tại bàn họp cùng với Phó phòng công tố quận Lance Fein. Fein, một con chồn đầy tham vọng với đôi lông mày nhướng cong lên không ngừng và khuôn mặt quá giống sáp đến nỗi nó trông có vẻ sẵn sàng tan chảy trong sức nóng cực đại, đang nhăn nhó.

Dimonte nói, “Ập tới bắt cái thằng chó chết đó đi.”

“Một lần nữa,” Lance Fein nói. “Tập trung bằng chứng cho tôi để ngay cả Alan Dershowitz cũng muốn giam hắn lại.”

Dimonte gật đầu với cộng sự của mình. “Trình bày đi, Krinsky. Làm anh sướng cái.”

Krinsky lấy sổ ghi chép ra và bắt đầu đọc:

“Rebecca Schayes bị bắn hai phát vào đầu ở cự ly rất gần bằng một khẩu súng lục tự động 9 ly. Theo lệnh khám nhà được chính quyền liên bang ban ra, một khẩu 9 ly được xác định nằm trong gara nhà bác sĩ David Beck.”

“Có dấu vân tay trên súng?” Fein hỏi.

“Không. Nhưng xét nghiệm đạn bắn khẳng định khẩu 9 ly tìm thấy trong gara bác sĩ Beck chính là vũ khí giết người.”

Dimonte mỉm cười và nhướng mày lên. “Ai khác nữa đang sướng không?”

Mày Fein nhíu lại rồi giãn ra. “Xin tiếp tục,” ông ta nói.

“Cũng theo lệnh khám do chính quyền liên bang ban ra đó, một đôi bao tay bằng nhựa được tìm thấy trong một thùng rác tại khu nhà của bác sĩ David Beck. Thuốc súng còn sót lại được tìm thấy trên chiếc bao tay phải. Bác sĩ Beck thuận tay phải.”

Dimonte kéo đôi bốt da rắn lên và đẩy cái tăm hết bên khóe miệng này qua bên khóe miệng kia. “Ôi, đúng thế, em ơi, nữa đi, nữa đi. Anh thích anh thích thế.”

Fein cau mặt. Krinsky, mắt không rời khỏi quyển sổ, liếm một ngón tay và lật sang trang.

“Cũng trên chiếc bao tay phải bằng nhựa, phòng xét nghiệm tìm ra một sợi tóc đã được khẳng định chắc chắn là khớp với màu tóc của Rebecca Shayes.”

“Ôi Chúa ơi! Ôi Chúa ơi!” Dimonte bắt đầu la hét giả vờ như khi đạt được cực khoái. Hoặc có thể là thật.

“Xét nghiệm AND để xác định sẽ mất thêm nhiều thời gian,” Krinsky nói tiếp. “Hơn nữa, dấu vân tay của bác sĩ David Beck được tìm thấy tại hiện trường vụ án mạng, mặc dù không phải trong phòng tối nơi thi thể cô ta được phát hiện.”

Krinsky gấp cuốn sổ của anh ta lại. Mọi con mắt đổ dồn về Lance Fein.

Fein đứng dậy và xoa xoa cằm. Mặc cách cư xử của Dimonte, tất cả bọn họ đều nén biểu lộ chút ít choáng váng. Căn phòng rộn rạo những cảm xúc tiền-bắt giữ lên đến cao trào và có sức hút dữ dội, loại cảm xúc thường đi đôi với vụ án chắc chắn có mức án chung thân - tử hình. Sẽ có họp báo, những cú điện thoại của chính khách và những bức ảnh trên báo.

Chỉ Nick Carlson vẫn còn hơi sợ hãi. Anh ta ngồi hết vặn rồi mở, rồi lại vặn cái kẹp giấy. Anh ta không thể dừng được. Thứ gì đó đã lê lết vào vùng thần kinh ngoại biên của anh ta, bám chặt chỗ rìa, vẫn chưa rõ hình, nhưng ở đó, và gây cảm giác khó chịu chết đi được. Thứ nhất là vì, có thiết bị nghe trộm trong nhà bác sĩ Beck. Ai đó đang theo dõi anh ta. Nghe lén điện thoại nữa. Có vẻ không ai biết hay quan tâm tại sao.

“Lance?” Dimonte nói.

Lance Fein hắng giọng. “Anh có biết bác sĩ Beck ngay lúc này ở đâu không?” ông ta hỏi.

“Phòng khám của anh ta,” Dimonte nói. “Tôi đã bố trí hai cảnh sát mặc đồng phục canh chừng anh ta.”

Fein gật đầu.

“Thôi nào, Lance,” Dimonte nói. “Trao nó cho tôi đi, đại nhân.”

“Đầu tiên hãy gọi bà Crimstein đã,” Fein nói. “Một động thái xã giao lịch sự.”

Shauna kể gần như toàn bộ với Linda. Cô bỏ đi phần Beck “nhìn thấy” Elizabeth trên máy tính. Không phải vì cô có tin tí gì vào câu chuyện đó. Cô đã chứng minh khá rõ ràng đó chỉ là một trò lừa kỹ thuật số. Nhưng Beck vẫn cứng đầu. Đừng nói một ai. Cô không giữ bí mật với Linda, nhưng làm thế thích hợp hơn là phản bội lòng tin của Beck.

Linda dõi nhìn mắt Shauna trong suốt cuộc nói chuyện. Chị không gật đầu hay lên tiếng, thậm chí không cả cử động. Khi Shauna nói xong, Linda hỏi, “Cậu có nhìn thấy những bức ảnh không?”

“Không.”

“Cảnh sát lấy đâu ra chúng?”

“Tớ không biết.”

Linda đứng dậy. “David không bao giờ đánh Elizabeth.”

“Tớ biết mà.”

Linda khoanh tay lại. Chị bắt đầu hít vào thật sâu. Mặt chị tái mét.

“Em ổn chứ?” Shauna lo lắng.

“Cậu không kể với em những gì?”

“Điều gì khiến em nghĩ còn có điều cậu không kể cho em?”

Linda chỉ nhìn cô.

“Hỏi em trai em ấy,” Shauna nói.

“Tại sao?”

“Việc kể không phải của tớ.”

Chuông cửa lại kêu một lần nữa. Lần này Shauna trả lời.

“Vâng?”

Qua máy liên lạc nội bộ: “Hester Crimstein đây.”

Shauna nhấn nút nhả để cửa mở. Hai phút sau, Hester hối hả vào phòng.

“Hai người có biết một thợ chụp ảnh tên là Rebecca Schayes?”

“Có chứ.” Shauna nói. “Ý tôi là, tôi không gặp cô ấy lâu lắm rồi. Linda?”

“Hàng bao năm rồi,” Linda đồng ý. “Cô ấy và Elizabeth sống cùng với nhau ở trung tâm thành phố. Sao cơ?”

“Cô ta bị giết tối qua,” Hester nói. “Họ nghĩ Beck giết cô ta.”

Cả hai người phụ nữ sững người lại cứ như thể ai đó vừa tát họ. Shauna trấn tĩnh lại trước.

“Nhưng tôi ở cùng Beck tối qua,” cô nói. “Tại nhà cậu ấy.”

“Cho đến mấy giờ?”

“Chị cần đến mấy giờ?”

Hester nhíu mày. “Đừng đùa với tôi, Shauna. Chị rời ngôi nhà đó lúc mấy giờ?”

“Mười, mười rưỡi. Cô ta bị giết lúc mấy giờ?”

“Tôi vẫn chưa biết. Nhưng tôi có nguồn tin trong. Anh ta bảo họ có bằng chứng rất vững chắc chống lại cậu ấy.”

“Điên rồ.”

Một chiếc di động đổ chuông. Hester Crimstein túm lấy gí lên tai mình. “Sao?”

Người ở đầu dây bên kia nói trong một khoảng thời gian có vẻ dài. Hester nghe không nói gì. Nét mặt bà ta bắt đầu giãn ra như kiểu gặp thất bại. Một hai phút sau, không nói tạm biệt, bà gập điện thoại lại đánh tách một phát.

“Một cú điện thoại xã giao,” bà ta lúng búng.

“Sao cơ?”

“Họ đang bắt em trai chị. Chúng ta có một giờ để giao cậu ấy cho cảnh sát."
 
Chương 24


Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là Washington Square Park. Đúng là phải bốn giờ nữa tôi mới nên có mặt ở đó. Nhưng mặc cho những cuộc gọi khẩn cấp, hôm nay tôi nghỉ. Tự do như một chú chim, như Lynyrd Shynyrd sẽ hát - và chú chim này muốn bay xuống Washington Square Park.
Tôi đang trên đường ra khỏi phòng khám thì máy nhắn tin lại một lần nữa réo cái bài hát bi ai của nó. Tôi thở dài và xem số. Số di động Hester Crimstein. Và nó được đánh dấu khẩn cấp.
Không thể là tin tốt lành.
Trong một lúc, tôi cân nhắc không gọi lại - chỉ tiếp tục bay - nhưng có chuyện gì nhỉ? Tôi quay về phòng khám. Cửa đóng, và cái cần màu đỏ được gạt lên. Điều đó có nghĩa là một bác sĩ khác đang sử dụng phòng.
Tôi xuống cầu thang, rẽ trái và tìm thấy một phòng trống ở khu sản - phụ khoa của phòng khám. Tôi thấy mình như một tay trinh thám trong doanh trại kẻ thù. Căn phòng sáng lóa lên bởi quá nhiều kim loại. Được vây quanh bởi bàn đạp chân và những dụng cụ trông rất khiếp như từ thời trung cổ, tôi quay số điện thoại.
Hester Crimstein không buồn nói xin chào: “Beck, chúng ta gặp rắc rối lớn. Cậu đang ở đâu?”
“Tôi ở phòng khám. Có chuyện gì thế?”
“Trả lời cho tôi một câu hỏi,” Hester Crimstein nói. “Lần cuối cùng cậu gặp Rebecca Schayes là khi nào?”
Tim tôi bắt đầu thình thịch chầm chậm. “Hôm qua. Sao?”
“Và trước đó?”
“Cách đây tám năm.”
Crimstein buông một câu chửi thề.
“Chuyện gì thế?” tôi hỏi.
“Rebecca Schayes bị giết tối qua trong studio của cô ta. Kẻ nào đó đã bắn hai phát vào đầu cô ta.”
Cảm giác bị chìm đi, như giây phút trước khi bạn rơi vào giấc ngủ. Chân tôi run run. Tôi ngồi thụp xuống một cái ghế đẩu. “Ôi Chúa ơi...”
“Beck, nghe tôi nói này. Nghe thật kỹ.”
Tôi nhớ Rebecca ngày hôm qua trông như thế nào.
“Tối qua cậu ở đâu?”
Tôi bỏ điện thoại ra và hít vài hơi. Chết. Rebecca chết rồi. Kỳ quặc là tôi vẫn cứ nhìn thấy mái tóc đẹp óng lên của cô. Tôi nghĩ đến chồng cô. Tôi nghĩ đến đêm tối sẽ mang đến những gì, nằm trên giường, hồi tưởng mái tóc kia thường xõa trên gối như thế nào.
“Beck?”
“Ở nhà,” tôi nói. “Tôi ở nhà với Shauna.”
“Và sau đó?”
“Tôi đi dạo.”
“Ở đâu?”
“Quanh quanh.”
“Quanh quanh là đâu?”
Tôi không trả lời.
“Nghe tôi này, Beck, được không? Họ tìm thấy vũ khí giết người trong nhà cậu.”
Tôi nghe những lời đó, nhưng ý nghĩa của chúng gặp rắc rối trong quá trình chạy đến não tôi. Căn phòng đột nhiên trở nên ngột ngạt. Không có cửa sổ. Thật khó thở.
“Cậu nghe tôi chứ?”
“Có,” tôi nói. Rồi, hơi hơi hiểu ra, tôi nói, “Không thể thế được.”
“Nghe này, chúng ta không có thời giờ cho chuyện đó bây giờ. Cậu sắp bị bắt. Tôi đã nói chuyện với Phó phòng công tố quận. Lão ta là một thằng ngu, nhưng lão ta đồng ý để cậu tự thú.”
“Bị bắt?”
“Chịu khó một chút, Beck.”
“Tôi không làm gì cả.”
“Chuyện đó ngay giây phút này không quan trọng. Họ sẽ bắt giam cậu. Họ sẽ buộc tội cậu. Rồi chúng tôi sẽ bảo lãnh cho cậu ra. Tôi đang trên đường tới phòng khám đây. Để đón cậu. Ngồi yên đó. Đừng nói bất cứ điều gì với bất cứ ai, cậu nghe tôi chứ? Không nói với cảnh sát, với bọn FBI, với anh bạn mới quen trong phòng tạm giam. Cậu hiểu chứ?”
Ánh mắt tôi va vào cái đồng hồ trên bàn khám. Hai giờ hơn một chút. Washington Square. Tôi nghĩ đến Washington Square. “Tôi không thể bị bắt, Hester ạ.”
“Sẽ ổn thôi.”
“Bao lâu?” tôi nói.
“Cái gì bao lâu?”
“Đến khi tôi được bảo lãnh ra.”
“Không nói chắc được. Tôi nghĩ bảo lãnh ngay lập tức thì sẽ không có vấn đề gì. Cậu không có tiền án tiền sự. Cậu là một thanh niên đáng kính trọng trong cộng đồng, gia đình cơ bản và có các mối quan hệ. Cậu có lẽ sẽ phải nộp hộ chiếu...”
“Nhưng bao lâu?”
“Bao lâu cho đến lúc nào, Beck? Tôi không hiểu.”
“Cho đến khi tôi được ra ngoài.”
“Nghe này, tôi sẽ cố thúc họ, được chứ? Nhưng thậm chí nếu họ làm gấp - và tôi không nói họ sẽ thế - họ vẫn phải gửi dấu vân tay cậu đến Albany. Quy tắc là thế. Và nếu chúng ta may mắn - ý tôi là cực kỳ may mắn - chúng tôi có thể đưa cậu ra trước nửa đêm.”
Nửa đêm?
Nỗi sợ hãi quấn lấy ngực tôi như những đai thép. Ở tù có nghĩa là lỡ cuộc gặp tại Washington Square Park. Mối liên hệ của tôi với Elizabeth mỏng manh quá mức, như những sợi dây thủy tinh Venetian. Nếu tôi không có mặt tại Washington Square lúc năm giờ...
“Không được,” tôi nói.
“Sao cơ?”
“Bà phải trì hoãn họ lại, Hester. Để họ bắt tôi vào ngày mai.”
“Cậu đang đùa, phải không? Nghe này, họ có thể đã ở đó rồi đấy, đang theo dõi cậu.”
Tôi thò đầu ra khỏi cửa và nhìn xuống hành lang. Tôi chỉ có thể nhìn thấy một phần cái bàn lễ tân từ góc này, góc gần bên phải, nhưng thế là đủ.
Có hai cảnh sát, có thể nhiều hơn.
“Ôi Chúa ơi,” tôi nói, rút lại vào phòng.
“Beck?”
“Tôi không thể vào tù,” tôi nói lại một lần nữa. “Không phải hôm nay.”
“Đừng có làm tôi điên lên bây giờ, Beck, được chứ? Hãy chỉ ở yên đó. Đừng đi đâu, đừng nói chuyện, đừng làm bất cứ thứ gì. Ngồi tại văn phòng cậu và đợi. Tôi đang trên đường đến rồi.”
Bà ta gác máy.
Rebecca chết rồi. Họ nghĩ tôi giết cô. Dĩ nhiên là thật lố bịch, nhưng phải có một mối liên quan. Tôi đến gặp cô ngày hôm qua lần đầu tiên sau tám năm. Ngay đêm đó cô chết.
Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra ở đây thế này?
Tôi mở cửa và thò đầu ra. Cảnh sát đang không nhìn về phía tôi. Tôi lẻn ra và bắt đầu đi dọc hành lang. Có một lối ra khẩn cấp ở phía sau. Tôi có thể lẻn ra bằng lối đó. Tôi có thể đi đến Washington Square Park.
Chuyện này là thực ư? Tôi đang chạy trốn cảnh sát ư?
Tôi không biết. Nhưng khi đến cửa, tôi mạo hiểm nhìn lại phía sau. Một cảnh sát phát hiện được tôi. Anh ta chỉ tay rồi vội đi về phía tôi.
Tôi đẩy cửa mở và vắt chân lên cổ chạy.
Tôi không thể tin được chuyện này. Tôi đang chạy trốn cảnh sát.
Cửa ra sập mạnh vào một con phố tối đen ngay phía sau phòng khám. Phố này tôi không rành. Nghe có vẻ lạ nhưng khu này không thuộc về tôi. Tôi đến, tôi làm việc, tôi đi về. Tôi giam mình trong một không gian không cửa sổ, nhược người đi vì thiếu ánh nắng như con cú khắc khổ nào đó. Một khu nhà song song với chỗ tôi làm việc và tôi hoàn toàn xa lạ trong địa phận này.
Tôi rẽ phải không vì lý do cụ thể nào. Phía sau, tôi nghe tiếng cửa bị đẩy ra.
“Đứng lại! Cảnh sát đây!”
Họ thực sự hét lên thế. Tôi không đứng lại. Họ có bắn không nhỉ? Tôi ngờ là không. Họ chẳng dám đâu, nếu xét tới tất cả những hậu quả khi bắn một người không có vũ khí đang chạy trốn. Không phải là họ không thể làm vậy - ở đâu khác chứ trong khu này thì không - nhưng không chắc lắm đâu.
Không có nhiều người ở trong khu phố này lắm, nhưng những người ở đó chỉ hơi để ý tới tôi theo kiểu một tên đang chạy ngang qua, quan tâm hời hợt. Tôi tiếp tục chạy. Thế giới xung quanh băng qua trong một lớp mờ mờ. Tôi chạy hết tốc lực qua một gã trông nguy hiểm với một con chó trông nguy hiểm. Người già ngồi ở góc phố và than vãn về tháng ngày. Phụ nữ xách quá nhiều túi. Trẻ con lẽ ra phải đến trường thì lại vạ vật dựa vào bất cứ cái gì có thể dựa, đứa sau trông tệ hơn đứa trước.
Tôi, tôi đang chạy trốn cảnh sát.
Trí óc tôi gặp khó khăn khi tiêu hóa những chuyện này. Chân tôi tê dại, nhưng hình ảnh Elizabeth nhìn vào cái camera kia vẫn cứ đẩy tôi về phía trước, kích thích tôi dữ dội hơn.
Tôi đang thở quá gấp.
Bạn đã nghe đến chất adrenaline, cái cách nó kích thích bạn và cho bạn sức mạnh phi thường, nhưng có một mặt trái khác. Nó kích thích quá mức, vượt quá tầm kiểm soát. Nó làm các giác quan của bạn tăng lên đến mức mất khả năng điều khiển một bộ phận nào đó. Bạn phải đè nén nội lực xuống, nếu không nó sẽ nuốt trọn bạn.
Tôi chạy vào một ngõ nhỏ - họ luôn làm thế trên TV - nhưng nó là một cái ngõ cụt bị chặn bởi một đống thùng đựng rác Dumpster hôi thối nhất trên cái hành tinh này. Mùi hôi thối khiến tôi lồng lên như một con ngựa. Vào thời, có lẽ thời gian LaGuardia làm thị trưởng, những thứ Dumpster này có khi màu xanh lá cây. Ngày nay, tất cả những gì còn lại là gỉ sắt. Ở nhiều chỗ, gỉ sắt ăn mòn kim loại, tạo cơ hội thuận tiện cho lũ chuột tràn vào như nước cống chảy trên một đường ống.
Tôi tìm lối ra, một cánh cửa hay một thứ gì đó, nhưng không có gì. Hoàn toàn không có cửa sau. Tôi nghĩ đến chuyện đập vỡ một cái cửa sổ để lấy lối đi, nhưng tất cả những cửa thấp đều bị đóng chấn song.
Lối thoát duy nhất chính là lối tôi vừa vào - chỗ mà tay cảnh sát kiểu gì cũng sẽ nhìn thấy tôi.
Tôi bị mắc kẹt.
Tôi nhìn trái, phải và rồi, đủ kỳ quặc, tôi nhìn lên.
Lối thoát hiểm khi có hỏa hoạn.
Có vài cái thang trên đầu tôi. Tiếp tục khai thác nguồn adrenaline trong người, tôi nhảy lên bằng tất cả sức lực, vươn hai tay thật cao, và ngã đập mông xuống đất. Tôi làm lại lần nữa. Thậm chí không đến gần nổi. Cái thang ở cao quá.
Giờ sao đây?
Có lẽ tôi đã kéo một cái thùng Dumpster lại theo cách gì đó, đứng lên, và nhảy lại lần nữa. Nhưng nắp mấy cái thùng Dumpster kia bị ăn mòn sạch rồi. Ngay cả khi tôi đứng lên trên đống rác thì vẫn thấp quá.
Tôi hít thở và cố nghĩ. Cái mùi hôi thối khó chịu đang chiếm lấy tôi; nó bò lê bò lết vào mũi tôi và dường như làm tổ luôn ở đó. Tôi đi dịch lại phía đầu con ngõ.
Tiếng bộ đàm. Như thứ bạn nghe thấy từ bộ đàm cảnh sát.
Tôi ngay lập tức áp sát lưng vào tường lắng nghe.
Trốn. Phải trốn.
Tiếng bộ đàm to hơn. Tôi nghe những giọng nói. Cảnh sát đến gần. Tôi bị lộ hoàn toàn. Tôi áp chặt người hơn vào tường, như thể là sẽ có ích. Như thể họ sẽ rẽ qua góc phố và nhầm tôi với một bức phù điêu.
Còi báo động làm vỡ tan không gian yên tĩnh.
Còi báo động tìm tôi.
Những tiếng bước chân. Họ rõ ràng đang đến gần.
Chỉ một chỗ trốn duy nhất.
Tôi nhanh chóng tìm ngay cái thùng Dumpster nào ít thối nhất, nhắm mắt lại và nhảy vào trong.
Sữa chua. Sữa rất chua. Đó là mùi đầu tiên choảng tôi. Nhưng không phải thứ duy nhất. Thứ gì đó gần giống với chất nôn mửa còn tệ hơn. Tôi đang ngồi trong nó. Thứ gì đó ướt và thối rữa. Nó đang dính vào tôi. Cổ họng tôi quyết định phản ứng bằng cách muốn ọe ra. Bụng tôi quặn lên muốn nôn.
Tôi nghe tiếng ai đó chạy tới đầu con ngõ. Tôi cúi thấp người.
Một con chuột bò qua chân tôi.
Tôi suýt hét lên, nhưng thứ gì đó trong tiềm thức giữ giọng tôi lại trong cuống họng. Chúa ơi, thế này không thực chút nào. Tôi nín thở. Chỉ được mỗi một lúc. Tôi cố thở bằng miệng, nhưng tôi bắt đầu ọe ra. Tôi gí áo sơ mi lên mũi và miệng. Thế khá hơn, nhưng không nhiều lắm.
Hết tiếng bộ đàm. Rồi hết những bước chân. Tôi lừa được họ rồi ư? Nếu được thế, sẽ không lâu lắm. Thêm nhiều tiếng còi báo động của cảnh sát, hòa âm với những tiếng khác, một điệu rhapsody buồn bã thực thụ. Cảnh sát sẽ có thêm lực lượng hỗ trợ bây giờ. Sẽ có người nhanh chóng quay lại thôi. Họ sẽ kiểm tra con ngõ. Rồi sao?
Tôi bám chặt vào vành cái thùng Dumpster kéo mình ra ngoài. Gỉ sắt cắt vào lòng bàn tay. Tôi vội đưa tay lên miệng. Chảy máu. Tay bác sĩ nhi khoa trong tôi ngay lập tức cảnh báo nguy cơ bị uốn ván; phần còn lại trong tôi nhận thấy bị uốn ván là mối bận tâm thấp nhất trong những lo lắng của tôi.
Tôi lắng nghe.
Không có tiếng bước chân. Không có tiếng rè rè của bộ đàm. Còi báo động rền rĩ, nhưng tôi đã mong đợi gì cơ chứ? Thêm lực lượng hỗ trợ. Một tên giết người đang chạy rông trong thành phố đầy công lý của chúng ta. Những người tốt sẽ lũ lượt kéo ra ngoài. Họ sẽ niêm phong khu vực và rà soát từng ngóc ngách một.
Tôi đã chạy được bao xa?
Tôi không biết được. Nhưng tôi biết một điều. Tôi phải tiếp tục di chuyển. Tôi phải tạo ra khoảng cách giữa phòng khám và con người tôi.
Việc đó có nghĩa là ra khỏi con ngõ này.
Tôi trườn về phía đầu ngõ một lần nữa. Vẫn không có tiếng bước chân hay tiếng bộ đàm. Dấu hiệu tốt. Tôi cố nghĩ trong một lúc. Chạy trốn là một kế hoạch vĩ đại, nhưng có một đích đến sẽ làm kế hoạch đó thậm chí còn hoàn hảo hơn. Vẫn đi về hướng Đông, tôi quyết định, mặc cho như thế có nghĩa là đi vào những khu dân cư ít an toàn hơn nhiều. Tôi nhớ nhìn thấy những đường ray tàu hỏa ở trên mặt đất.
Tàu điện ngầm.
Đó sẽ là thứ đưa tôi ra khỏi đây. Tất cả những gì tôi phải làm là lên một cái tàu, chuyển vài ga đột ngột, và tôi có thể chắc chắn biến mất được. Nhưng lối vào ga gần nhất là ở đâu?
Tôi đang cố nhớ lại bản đồ tàu điện ngầm trong đầu thì một tay cảnh sát rẽ vào ngõ.
Anh ta trông quá trẻ, quá sáng sủa, sạch sẽ và mặt đỏ hồng. Tay áo sơ mi màu xanh được xắn lên gọn gàng, hai garo trên bắp tay căng phồng. Anh ta giật nảy mình khi nhìn thấy tôi - ngạc nhiên khi thấy tôi như tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta.
Cả hai bọn tôi sững người lại. Nhưng anh ta sững lại lâu hơn một phần giây.
Nếu tôi tấn công anh ta như một võ sĩ quyền anh hay cao thủ kung-fu, tôi chắc hẳn xơi tái đối thủ ngay khi chúng xuất hiện. Nhưng tôi không làm thế. Tôi hoảng sợ. Tôi bị nỗi sợ thuần túy chế ngự.
Tôi đứng thẳng người dậy trước anh ta.
Hàm nghiến chặt, tôi cúi đầu và nhắm vào bụng anh ta, lao tới như rocket. Elizabeth chơi tennis. Nàng từng bảo tôi khi đối thủ của bạn ở ngay chỗ lưới, tốt nhất thường là quật quả bóng ngay vào bụng họ bởi vì anh ta hay cô ta sẽ không biết di chuyển đằng nào. Bạn khiến thời gian phản ứng của họ chậm lại.
Đó là thứ xảy ra tại đây.
Cơ thể tôi lao sầm vào anh ta. Tôi túm chặt lấy vai anh ta như một con khỉ đu mình lên hàng rào. Bọn tôi loạng choạng vật nhau. Tôi thu gối lên và đè lên ngực anh ta. Hàm tôi vẫn nghiến chặt, đỉnh đầu tôi ở dưới hàm của tay cảnh sát trẻ.
Chúng tôi ngã xuống đất đánh uỵch một cái.
Tôi nghe một tiếng rắc. Một cơn đau nhói lan xuống từ chỗ sọ tôi đập vào hàm anh ta. Tay cảnh sát trẻ kêu lên khe khẽ “pluuu”. Không khí thoát ra khỏi phổi anh ta. Hàm anh ta, tôi nghĩ, đã bị vỡ. Nỗi hoảng loạn chạy trốn bây giờ được kiểm soát hoàn toàn. Tôi trườn xuống khỏi người anh ta như thể anh ta là một cái dùi cui điện.
Tôi đã tấn công một nhân viên cảnh sát.
Không có thời gian chăm chú vào chuyện đó. Tôi chỉ muốn chạy xa khỏi anh ta. Tôi cố đứng lên, toan quay đi và chạy thì thấy anh ta bám vào mắt cá chân mình. Tôi nhìn xuống và ánh mắt bọn tôi gặp nhau.
Anh ta đang trong cơn đau đớn. Đau đớn do tôi gây ra.
Tôi giữ thăng bằng và đá một phát. Chân nhằm vào sườn anh ta. Lần này anh ta kêu lên tiếng “pluuuu” rền rĩ. Máu chảy nhỏ giọt từ miệng anh ta. Tôi không thể tin mình đang làm cái gì. Tôi đá anh ta phát nữa. Chỉ đủ mạnh để anh ta buông tay ra. Tôi được tự do.
Và rồi tôi chạy.
 
Chương 25


Hester, Shauna đi taxi tới phòng khám. Linda đã đi tàu điện ngầm để gặp tư vấn viên tài chính của họ tại Trung tâm Tài chính Thế giới để xem xét việc thanh lý tài sản đóng tiền bảo lãnh.

Một chục xe cảnh sát vây phía trước phòng khám của Beck, bủa vây từ mọi phía như những cái phi tiêu do một gã say phóng ra. Đèn của họ quay tít ở mức báo động đỏ - xanh cao nhất. Tiếng còi rền rĩ. Rất nhiều xe cảnh sát kéo đến nữa.

“Chuyện quái gì đang xảy ra thế?” Shauna hỏi.

Hester nhìn thấy Phó phòng công tố quận Lance Fein, nhưng là sau khi ông ta nhìn thấy bà. Ông ta sầm sầm lao về phía họ. Mặt ông ta đỏ gay và mạch máu trên trán giật giật.

“Tên chó chết đó bỏ chạy,” Fein phun ra không một câu mào đầu.

Hester nhận câu chửi rồi đáp trả: “Người của ông hẳn đã làm cậu ấy hoảng sợ.”

Hai xe cảnh sát nữa kéo đến. Thêm cả xe tải quay tin tức của kênh Channel 7. Fein lầm bầm chửi rủa. “Báo chí. Mẹ kiếp, Hester. Bà biết chuyện này sẽ khiến tôi trông thế nào không?”

“Nghe này, Lance...”

“Như một tên làm mướn chết tiệt đối xử đặc biệt với người giàu, như thế đấy. Làm thế nào bà có thể gây ra chuyện này với tôi, Hester? Bà biết thị trưởng sẽ làm gì với tôi không? Ông ta sẽ đem tôi ra làm chuyện tán dóc. Và Tucker” - Tucker là công tố viên khu vực Manhattan - “Chúa ơi, bà có thể tưởng tượng ông ta sẽ làm gì không?”

“Ngài Fein!”

Một nhân viên cảnh sát đang gọi ông ta. Fein nhìn cả hai một lần nữa rồi bất thần quay đi.

Hester nhanh chóng quay sang Shauna. “Beck điên rồi à?”

“Cậu ấy sợ,” Shauna nói.

“Cậu ta chạy trốn cảnh sát,” Hester hét lên. “Chị hiểu không? Chị có hiểu thế có nghĩa là thế nào không?” Bà ta chỉ về phía cái xe tải của cơ quan báo chí. “Báo chí truyền thông đang ở đây, Chúa ơi. Bọn họ sẽ nói về chuyện một tên giết người đang chạy trốn. Thật nguy hiểm. Việc đó sẽ khiến cậu ấy như có tội. Việc đó sẽ khiến bồi thẩm đoàn khó chịu.”

“Bình tĩnh đi nào,” Shauna nói.

“Bình tĩnh ư? Chị có hiểu cậu ta vừa làm cái gì không?”

“Cậu ấy chạy trốn. Thế thôi. Như OJ, phải không? Có vẻ với bồi thẩm đoàn thì anh ta chả có vấn đề gì cả.”

“Chúng ta không nói chuyện về OJ ở đây, Shauna. Chúng ta nói về một bác sĩ da trắng giàu có.”

“Beck không giàu.”

“Chuyện đó không quan trọng, mẹ kiếp. Mọi người sẽ muốn ghim chặt mông cậu ấy vào tường sau chuyện này. Quên chuyện bảo lãnh đi. Quên một phiên tòa công bằng đi.” Bà ta hít vào một hơi, khoanh tay lại. “Và Fein không phải là kẻ duy nhất danh tiếng sẽ bị tổn hại.”

“Nghĩa là?”

“Nghĩa là tôi!” Hester rít lên. “Bằng một cú đánh mạnh, Beck đã hủy hoại uy tín của tôi với văn phòng công tố quận. Nếu tôi hứa giao một người, tôi phải giao anh ta.”

“Hester?”

“Cái gì?”

“Ngay giờ phút này tôi đếch quan tâm đến danh tiếng của bà.”

Một âm thanh đột ngột rền vang làm cả hai giật nảy mình. Họ quay lại và nhìn thấy một chiếc xe cấp cứu lao xuống khu nhà. Ai đó gào thét. Rồi một tiếng thét khác. Cảnh sát bắt đầu lao vụt đi như quá nhiều những quả bóng được ném ra cùng một lúc vào cái máy trò chơi bắn đạn.

Xe cấp cứu lao vút đến rồi đỗ lại một chỗ. Nhân viên cấp cứu - một người đàn ông và một phụ nữ - nhảy ra khỏi xe. Nhanh. Quá nhanh. Họ mở cửa sau và kéo một cái cáng ra.

“Lối này!” ai đó hét lên. “Anh ta ở chỗ này!”

Shauna thấy tim mình lỗi một nhịp. Cô chạy về phía Lance Fein. Hester theo sau. “Chuyện gì thế?” Hester hỏi. “Xảy ra chuyện gì?”

Fein tảng lờ mặc kệ bà ta.

“Lance?”

Ông ta cuối cùng đối diện với họ. Những thớ thịt trên mặt ông ta run lên giận dữ. “Thân chủ của bà.”

“Cậu ấy làm sao? Cậu ấy bị thương?”

“Anh ta vừa tấn công một nhân viên cảnh sát.”

Thế này thật điên rồ.

Tôi đã vượt quá giới hạn khi chạy trốn, khi tấn công viên cảnh sát trẻ tuổi kia... Bây giờ không còn đường quay lại. Vì vậy tôi chạy. Tôi chạy hết tốc lực.

“Cảnh sát nằm xuống!”

Ai đó thực sự hét lên như thế. Nhiều tiếng hét sau đó. Nhiều tiếng rè rè của bộ đàm nữa. Nhiều tiếng còi báo động nữa. Tất cả họ đều đang đổ về phía tôi. Tim tôi nảy bật lên cổ họng. Tôi vẫn cuồng chân chạy. Chúng bắt đầu không tuân lệnh và nặng nề, như thể những múi cơ và dây chằng đang đông thành đá. Tôi mệt rã rời. Mũi tôi chảy nước. Nước nhầy đó trộn lẫn với bất cứ thứ bụi nào mà tôi gom góp đầy ở môi trên và trườn hết vào miệng tôi.

Tôi chạy ngoặt từ khu nhà này sang khu nhà khác như thể làm thế sẽ lừa được đám cảnh sát. Tôi không quay ngang quay ngửa nhìn xem họ có đang đuổi theo không. Tôi biết họ đang đuổi theo. Tiếng còi báo động và tiếng bộ đàm bảo cho tôi biết vậy.

Tôi không có cơ hội thoát nào cả.

Tôi lao qua những khu dân cư tôi thậm chí không bao giờ lái xe tới. Tôi nhảy qua một hàng rào và chạy hết tốc lực qua đám cỏ cao của cái có lẽ từng là một sân chơi. Người ta nói về việc giá đất ở Manhattan leo thang. Nhưng ở đây, không xa Harlem River Driver là mấy, có những khu đất trống chất ngất mảnh thủy tinh vỡ và những tàn tích gỉ nát của cái có lẽ từng là những bộ xích đu và khung sắt đu quay cho trẻ em chơi, và có lẽ cả xe ôtô.

Phía trước một dãy nhà cao tầng rẻ tiền, một toán choai choai da đen, đi khệnh khạng sóng hàng ngang với nhau như bọn găngxtơ, nhìn tôi như chỗ thức ăn thừa ngon lành. Bọn chúng toan làm gì đó - tôi không biết làm gì - thì nhận thấy cảnh sát đang đuổi bắt tôi.

Chúng bắt đầu cổ vũ tôi.

“Chạy đi, anh chàng da trắng!”

Tôi đại khái gật đầu khi lao qua chúng, một vận động viên marathon biết ơn nhờ một chút khích lệ từ đám đông. Một đứa trong bọn hét lên, “Diallo!” Tôi tiếp tục chạy, nhưng tôi biết, dĩ nhiên rồi, Amadou Diallo là ai. Ai ở New York chả biết. Anh ta đã bị cảnh sát bắn bốn mươi mốt phát - và anh ta không mang vũ khí. Trong một thoáng, tôi nghĩ nó tựa như là lời cảnh báo cảnh sát có thể nổ súng vào tôi.

Nhưng chẳng phải thế chút nào.

Luật sư bên bị trong phiên tòa của Amadou Diallo cả quyết khi Diallo đưa tay lấy ví của anh ta, cảnh sát nghĩ đó là một khẩu súng. Kể từ đó, mọi người phản kháng bằng cách đút vội tay vào túi mình, rút ví ra, và hét “Diallo!” Cảnh sát đường phố báo cáo lại, mỗi lần tay một ai đó đút vào túi như thế, họ vẫn cảm thấy hoảng sợ.

Bây giờ chuyện đó xảy ra. Những đồng minh mới của tôi - đồng minh được xây dựng trên thực tế, họ chắc hẳn nghĩ tôi là kẻ giết người - rút ví của họ ra. Hai cảnh sát bám đuôi tôi do dự. Như thế đủ để tôi vụt nhanh về phía trước.

Nhưng vậy thì sao?

Cổ họng tôi bỏng rát. Tôi đang hít vào quá nhiều không khí. Giày tôi như đôi bốt bằng chì. Tôi dần lờ đờ. Ngón chân tôi kéo lê, làm tôi vấp ngã. Tôi mất thằng bằng, trượt trên vỉa hè, đập tay, mặt và đầu gối xuống mặt đường.

Tôi cố đứng dậy, nhưng chân tôi run bần bật.

Họ đang bám sát tôi.

Mồ hôi làm áo sơ mi dính chặt vào da. Như có sóng vỗ ù ù xuyên từ tai này sang tai kia. Tôi luôn ghét chạy. Những tay sùng bái chạy bộ mô tả họ bị nghiện trạng thái phấn khích mê ly khi chạy như thế nào, họ đến cõi niết bàn được coi là trạng thái thăng hoa của người chạy như thế nào. Phải rồi. Tôi vẫn luôn tin chắc rằng - cũng giống hệt như đỉnh cao của tự sướng - cực khoái là do thiếu oxy lên não hơn là bất kỳ hình thức sung sướng bạo khổ dâm nào.

Tin tôi đi, thế này không sướng chút nào đâu.

Mệt. Quá mệt. Tôi không thể cứ chạy mãi được. Tôi liếc ra sau. Không có cảnh sát. Đường phố vắng tanh. Tôi thử đẩy một cái cửa. Không vào được. Tôi thử cái khác. Tiếng bộ đàm lại réo lên. Tôi chạy. Ở cuối khu nhà, tôi nhìn thấy một cánh cửa hầm chứa mở ra đường hơi khép hờ. Cũng gỉ. Mọi thứ ở chỗ này đều gỉ.

Tôi cúi xuống và kéo thanh cầm bằng kim loại. Cánh cửa gãy rắc một phát không sung sướng lắm. Tôi hé nhìn vào phía trong tối đen.

Một cảnh sát hét, “Chặn nó lại phía bên kia!”

Tôi không buồn ngoái lại. Tôi vội bước xuống cái lỗ. Tôi đặt chân lên được bậc thang đầu tiên. Run run. Tôi đưa chân ra tìm bậc thứ hai. Nhưng không có bậc nào.

Tôi giơ chân lơ lửng trong một giây, như Wile E. Coyote sau khi chạy xuống một đỉnh núi, rồi tôi bất lực nhảy xuống cái hố đen ngòm.

Cú rơi chắc hẳn không quá ba mét, nhưng có vẻ như tôi mất rất nhiều thời gian để chạm được đất. Tôi vung hai cánh tay. Không ích gì. Cơ thể tôi đập xuống nền xi măng, cú va chạm làm răng tôi kêu lách cách.

Giờ tôi đang nằm ngửa, nhìn lên. Cánh cửa đóng sầm lại phía trên. Một việc tốt, tôi nghĩ, nhưng bóng tối giờ đây gần như bao trùm tất thảy. Tôi sờ vội khắp người, tay bác sĩ tiến hành khám bên trong cơ thể. Chỗ nào cũng đau.

Tôi lại nghe tiếng cảnh sát. Tiếng còi báo động không bớt đi, hoặc có thể bây giờ âm thanh chỉ đang rung rung trong tai tôi. Rất nhiều giọng nói. Rất nhiều tiếng rè rè.

Họ đang bám sát tôi.

Tôi lật người sang bên. Tay phải tôi tì xuống, làm những chỗ rách trên lòng bàn tay đau nhói, và cơ thể tôi bắt đầu đứng lên. Tôi để cho cái đầu kéo toàn thân lên; nó gào thét phản đối khi tôi đứng trên đôi chân mình. Tôi suýt nữa ngã xuống một lần nữa.

Giờ sao đây?

Tôi chỉ nên trốn ở đây? Không, thế không được. Rồi cuối cùng họ sẽ bắt đầu tìm từng nhà một. Tôi sẽ bị bắt. Hay thậm chí nếu họ không làm thế, tôi sẽ không chạy được với cái ý định lẩn trốn trong một tầng hầm tối đen. Tôi chạy để tôi có thể giữ cuộc hẹn của mình với Elizabeth ở Washington Square.

Phải di chuyển.

Nhưng đi đâu?

Mắt tôi bắt đầu quen dần với bóng tối, dù sao cũng đủ để nhìn thấy những hình thù hắt bóng. Hộp chất thành đống bừa bãi. Có hàng đống giẻ rách, một vài cái ghế quầy bar, một cái gương vỡ. Tôi nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình trong gương và suýt nhảy bật lại phía sau. Trên trán tôi có một vết rách dài, sâu. Quần tôi rách toạc ở cả hai đầu gối. Áo sơ mi tả tơi như trong Incredible Hulk. Người tôi bẩn thỉu đầy bồ hóng đủ để làm việc như một thợ quét ống khói.

Đi đâu?

Cầu thang. Phải có một cái cầu thang xuống đây ở chỗ nào đó. Tôi mò mẫm tiến về phía trước, di chuyển theo kiểu điệu nhảy giật giật, đẩy chân trái bước trước như thể nó là một cây ba toong trắng. Chân tôi giẫm lạo xạo lên một vài mảnh thủy tinh vỡ. Tôi vẫn bước tiếp.

Tôi nghe thấy cái mà tôi nghĩ là tiếng lầm bầm, và một đàn chuột khổng lồ ngoi lên chạy về phía tôi. Cái gì đó như một bàn tay víu lấy tôi, giống như thứ ngóc lên từ một ngôi mộ. Tôi hét lên cắn lại.

“Himmler thích cá ngừ nướng!” ông ta hét lên với tôi.

Một người đàn ông - phải, giờ tôi nhìn thấy rõ là một người đàn ông - bắt đầu đứng lên. Ông ta cao, đen, râu xám trắng và quăn tít đến độ trông như thể đang ăn một con cừu.

“Mày có nghe tao nói không?” người đàn ông hét. “Mày nghe tao vừa bảo với mày cái gì không?”

Ông ta bước về phía tôi. Tôi lùi lại.

“Himmler! Nó thích cá ngừ nướng!”

Người đàn ông có râu này rõ ràng không hài lòng về chuyện gì đó. Ông nắm tay thành nắm đấm và dứ dứ nhắm vào tôi. Tôi bước sang bên cạnh mà không nghĩ gì. Nắm đấm lao qua tôi với đủ xung lực - hoặc có thể là đủ rượu - khiến ông ta ngã nhào. Ông ta ngã sấp xuống. Tôi không buồn đợi. Tôi tìm thấy cầu thang và chạy lên.

Cửa bị khóa.

“Himmler!”

Ông ta nói to, quá to. Tôi đẩy cửa. Không lối thoát.

“Mày nghe tao nói không? Mày nghe tao đang nói cái gì không?”

Tôi nghe một tiếng rắc. Tôi liếc ra sau và thấy một thứ rọi thẳng vào đầu tôi.

Ánh nắng.

Ai đó đã mở đúng cái cửa bảo vệ chống mưa gió mà từ đó tôi chui vào.

“Ai dưới đó thế?”

Một giọng cảnh sát. Đèn pin bắt đầu rọi khắp sàn. Nó rọi đến người đàn ông có râu.

“Himmler thích cá ngừ nướng!”

“Ông hét đó à, ông già?”

“Mày nghe tao nói không?”

Tôi dùng vai ủi cửa, vận toàn bộ sức để đẩy. Khung cửa bắt đầu rạn. Hình ảnh Elizabeth hiện ra - cái tôi nhìn thấy trên máy tính - tay nàng giơ lên, mắt chớp chớp ra hiệu. Tôi đẩy mạnh hơn.

Cánh cửa rơi ra.

Tôi ngã xuống một sàn đất, cách cửa trước tòa nhà không xa mấy.

Giờ sao?

Những cảnh sát khác đang ở gần - tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng liên lạc bằng bộ đàm - và một trong số họ vẫn đang dò hỏi ông lão viết tiểu sử của Himmler. Tôi không có nhiều thời gian. Tôi cần giúp đỡ.

Nhưng từ đâu?

Tôi không thể gọi Shauna. Cảnh sát đang vây quanh cô. Linda cũng thế. Hester sẽ khăng khăng đòi tôi nộp mạng.

Ai đó đang mở cửa trước.

Tôi chạy xuống hành lang. Lớp lót sàn dơ dáy và bẩn thỉu. Những cánh cửa đều bằng kim loại và đóng kín. Lớp sơn trên hoa văn đã rạn vỡ. Tôi đập mạnh vào một cửa thoát hiểm khi hỏa hoạn để mở ra và chạy đến chỗ cầu thang. Đến tầng ba, tôi ra được bên ngoài.

Một bà già đứng trong hành lang.

Bà ta, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy, da trắng. Tôi đoán là chắc hẳn bà nghe thấy tiếng động và ra ngoài xem có chuyện gì. Tôi đột ngột dừng lại. Bà ta đứng cách xa cái cửa mở nhà bà đủ để tôi có thể chạy thoát qua...

Tôi sẽ làm thế? Tôi sẽ đi xa đến mức đó để chạy trốn?

Tôi nhìn bà ta. Bà ta nhìn tôi. Rồi bà ta rút ra một khẩu súng.

Ôi Chúa ơi...

“Mày muốn gì?” bà ta hỏi.

Và tôi thấy mình đang trả lời: “Xin cho tôi dùng nhờ điện thoại của bà được không?”

Bà ta không bỏ lỡ dịp. “Hai mươi dollar.”

Tôi lấy ví và rút tiền mặt ra. Bà già gật đầu rồi cho tôi vào. Căn hộ nhỏ tí và được chăm sóc cẩn thận. Có đăng ten trên mọi khăn phủ đi văng và trên bàn gỗ đen.

“Ở chỗ kia,” bà ta nói.

Điện thoại có số quay tay. Tôi nhét ngón tay vào những cái lỗ nhỏ xíu. Thật kỳ lạ. Tôi chưa từng bao giờ gọi số điện thoại này - chưa bao giờ muốn - nhưng tôi thuộc lòng. Các chuyên gia thần kinh có lẽ sẽ có một ngày nghiên cứu khoa học ngoài trời về sự kiện này. Tôi quay số xong và đợi.

Hai hồi chuông sau, một giọng nói vang lên, “Vâng?”

“Tyrese? Bác sĩ Beck đây. Tôi cần anh giúp.”
 
Chương 26


Shauna lắc đầu. “Beck đánh người? Không thể thế được.”

Mạch máu của Phó phòng Công tố quận Fein bị kích động bùng lên lần nữa. Ông ta bước tới phía cô cho tới khi mặt ngang sát mặt cô. “Anh ta tấn công một nhân viên cảnh sát trong con ngõ. Anh ta chắc chắn đã làm gãy hàm và một vài cái xương sườn của người kia.” Fein nhướn tới gần hơn một chút, nước bọt ông ta bắn vào má Shauna. “Cô có nghe thấy tôi đang nói với cô cái gì không?”

“Tôi có nghe,” Shauna nói. “Bây giờ thì lùi lại, Cậu chàng Nước bọt, nếu không tôi lên gối cho cái của ông chạy lên họng đấy.”

Fein đứng yên tại chỗ trong một giây mẹ-kiếp-cô, rồi quay đi. Hester Crimstein cũng làm thế. Bà ta quay gót đi về phía Broadway. Shauna đuổi theo bà ta.

“Bà đang đi đâu thế?”

“Tôi bỏ đây,” Hester nói.

“Cái gì?”

“Tìm cho cậu ta một luật sư khác, Shauna.”

“Bà không làm thế thật đâu.”

“Tôi làm thật.”

“Bà không thể đơn giản bỏ mặc cậu ấy mà đi như thế.”

“Nhìn tôi này.”

“Thế là gây tổn hại.”

“Tôi hứa với bọn họ cậu ta sẽ tự thú,” bà nói.

“Kệ xác lời hứa của bà. Beck là ưu tiên số một ở đây, không phải bà.”

“Với chị có thể là thế.”

“Bà đặt mình lên trước một thân chủ?”

“Tôi sẽ không làm việc với một người hành động như thế.”

“Bà đang giỡn mặt với ai đấy? Bà đã biện hộ cho những kẻ phạm tội hãm hiếp hàng loạt.”

Bà ta vẫy tay. “Tôi ra khỏi đây đây.”

“Bà chỉ là một con mụ đạo đức giả chó săn của giới truyền thông chết tiệt thôi.”

“Oạch, Shauna.”

“Tôi sẽ đến chỗ họ.”

“Cái gì?”

“Tôi sẽ đến chỗ báo chí.”

Hester dừng lại. “Và nói cái gì? Rằng tôi bỏ một tên giết người không trung thực mà đi? Tuyệt thế, đi đi. Tôi sẽ tiết lộ hàng đống thứ bẩn thỉu về Beck, cậu ta sẽ khiến Jeffrey Dahmer trông giống như một đối tượng hẹn hò có triển vọng.”

“Bà không có gì mà tiết lộ,” Shauna nói.

Hester nhún vai. “Trước đây chưa bao giờ có ai chặn nổi tôi.”

Hai người phụ nữ liếc xéo nhau. Cả hai nhìn đi chỗ khác.

“Chị có thể nghĩ danh tiếng của tôi không có liên quan gì,” Hester nói, giọng bà ta đột nhiên mềm mỏng đi. “Nhưng không phải thế. Nếu văn phòng Công tố quận không tin lời tôi, với những khách hàng khác tôi sẽ vô dụng. Tôi cũng vô dụng với Beck. Đơn giản thế thôi. Tôi sẽ không để văn phòng luật sư của tôi - và những khách hàng của tôi - sụp đổ chỉ vì cậu bé của chị hành động bạ đâu hay đấy.”

Shauna lắc đầu. “Đơn giản là cút cho khuất mắt đi.”

“Một điều nữa.”

“Sao?”

“Người vô tội không bỏ chạy, Shauna ạ. Cậu bé Beck của chị? Cá một trăm ăn một cậu ta giết Rebecca Schayes.”

“Bà biến đi,” Shauna nói. “Và cũng một điều nữa cho bà, Hester. Bà nói một lời nào chống lại Beck, người ta sẽ cần một môi múc xúp để mai táng phần còn lại của bà. Chúng ta rõ ràng chưa?”

Hester không đáp lại. Bà ta bước tiếp một bước từ chỗ Shauna. Và đó là lúc tiếng súng nổ xé toạc không khí.

Tôi đang nửa quỳ nửa ngồi, bò xuống một lối thoát hiểm gỉ sét, thì một tiếng súng nổ gần đó khiến tôi loạng choạng. Tôi ép sát người trên đoạn kim loại và đợi.

Lại tiếng súng nữa.

Tôi nghe tiếng hét. Tôi đáng lẽ phải biết trước chuyện này, nhưng nó vẫn khiến tôi thấy sốc. Tyrese bảo tôi leo ra khỏi đây và đợi anh. Tôi tự hỏi anh lên kế hoạch đưa tôi ra khỏi đây như thế nào. Giờ thì tôi lờ mờ hiểu ý tưởng rồi.

Đánh lạc hướng.

Xa xa, tôi nghe thấy tiếng người hét, “Thằng da trắng khủng bố bắn loạn xị ngậu!” Rồi một giọng khác: “Thằng da trắng mang súng! Thằng da trắng mang súng!”

Nhiều tiếng súng nổ nữa. Nhưng - và tôi căng tai ra - không có tiếng bộ đàm cảnh sát. Tôi ở yên và cố không nghĩ gì nhiều. Não tôi có vẻ như bị cắt ngắn chu kỳ đi. Ba ngày trước, tôi là một bác sĩ tận tâm mộng du đi lại trong cuộc đời của chính mình. Kể từ đó, tôi nhìn thấy một bóng ma, nhận những cái email từ người chết, trở thành đối tượng tình nghi trong không phải một mà là hai vụ giết người, chạy trốn pháp luật, tấn công một nhân viên cảnh sát, và nhờ sự hỗ trợ của một tay được biết là buôn ma túy.

Bảy mươi hai giờ chết tiệt.

Tôi suýt bật cười.

“Này, bác sĩ.”

Tôi nhìn xuống. Tyrese ở đó. Cả một gã da đen khác nữa, độ ngoài hai mươi tuổi, chỉ hơi nhỏ hơn cái nhà này một chút. Gã to bự nhòm lên tôi bằng đôi kính râm trang nhã mẹ-kiếp-mày, hợp một cách hoàn hảo với nét mặt đần độn của gã.

“Nào, bác sĩ. Biến thôi.”

Tôi chạy xuống cầu thang thoát hiểm. Tyrese tiếp tục liếc sang hai bên trái phải. Gã to bự đứng yên hoàn toàn, khoanh tay trước ngực cái kiểu chúng ta thường gọi là thế đứng của trâu. Tôi ngập ngừng ở cái thang cuối cùng, cố nghĩ ra cách làm thế nào thả nó xuống để đến được mặt đất.

“Này, bác sĩ, cái cần phía trên bên trái.”

Tôi tìm thấy, kéo, và cái thang hạ xuống. Khi tôi xuống đến bậc cuối cùng, Tyrese nhăn mặt và phẩy phẩy tay trước mũi. “Anh bốc mùi, bác sĩ.”

“Tôi không có cơ hội để tắm, xin lỗi.”

“Lối này.”

Tyrese nhanh chóng đi qua khu sân sau. Tôi theo sau, phải rảo bước mới bám kịp. Gã to bự im lặng đi sau chúng tôi. Gã không quay đầu sang trái hay phải, nhưng tôi vẫn có ấn tượng gã không để lỡ gì nhiều.

Một chiếc BMW màu đen, với cửa kính màu, một ăng ten phức tạp, và một sợi xích bao quanh bảng đăng ký xe phía sau, đang để động cơ chạy. Các cửa đều đóng, nhưng tôi có thể cảm thấy nhạc rap. Âm bass rung lên trong ngực tôi như một âm thoa.

“Cái xe,” tôi cau mày nói. “Có hơi bị bắt mắt không?”

“Nếu anh là cớm và anh tìm một bác sĩ da trắng như hoa huệ tây, đâu là chỗ cuối cùng anh tìm?”

Anh có lý.

Gã to bự mở cửa sau. Tiếng nhạc om sòm tương đương với âm thanh trong buổi hòa nhạc Black Sabbath. Tyrese giơ tay ra theo kiểu người mở cửa. Tôi vào xe. Anh lướt vào ngồi cạnh tôi. Gã to bự chui lên ghế người lái.

Tôi không hiểu lắm cái tay hát rap trên CD đang nói gì, nhưng hắn rõ ràng phát điên với “gã kia”. Tôi đột nhiên hiểu ra.

“Đây là Brutus,” Tyrese nói.

Ý nói gã lái xe to bự. Tôi cố gắng bắt ánh mắt gã qua gương chiếu hậu, nhưng không nhìn thấy chúng qua kính râm được.

“Rất vui được gặp anh,” tôi nói.

Brutus không đáp lại.

Tôi quay sang Tyrese. “Làm thế nào anh thực hiện được việc này?”

“Một vài cậu bé của tôi bắn phá chút đỉnh ở dưới Phố 147.”

“Cảnh sát sẽ không tìm thấy họ chứ?”

Tyrese khịt mũi. “Ừ, phải.”

“Dễ thế á?”

“Từ chỗ đó, ừa, rất dễ. Bọn tôi chiếm chỗ này, hiểu chứ, ở tòa nhà Năm tại Hobart Houses. Tôi đưa mấy người thuê nhà mười đô một tháng để họ bỏ rác ở trước cửa sau nhà họ. Chặn đường, hiểu không. Cảnh sát không đi qua được. Chỗ tốt để tiến hành mua bán. Vì vậy mấy cậu bé của tôi, bọn nó từ cửa sổ bắn ra vài phát, anh hiểu tôi đang nói gì đấy chứ. Đến khi cảnh sát chạy qua được, púp, bọn nó biến rồi.”

“Thế ai hét một thằng da trắng mang súng?”

“Một vài đứa khác của tôi. Bọn nó chỉ chạy dọc phố la hét về một tay da trắng thần kinh.”

“Về mặt lý thuyết, là tôi,” tôi nói.

“Về mặt lý thuyết,” Tyrese cười nhắc lại. “Từ to tát quá, bác sĩ ạ.”

Tôi ngả đầu ra sau. Mệt mỏi thấm đẫm xương cốt. Brutus lái về phía Đông. Anh ta vượt qua cây cầu màu xanh gần Yankee Stadium - tôi chưa bao giờ biết tên cây cầu - và thế có nghĩa là bọn tôi đang ở Bronx. Trong một lúc, tôi khum người xuống phòng khi ai đó nhòm vào trong xe, nhưng rồi tôi nhớ ra cửa kính màu. Tôi nhìn ra ngoài.

Khu này xấu kinh dị, như một trong những cảnh bạn thấy trong các phim ngày tận thế sau khi bom nổ. Những đống đổ nát của cái có lẽ từng là tòa nhà, trong mọi tình trạng suy tàn khác nhau. Khung nhà đã vỡ vụn, đúng thế, như thể từ bên trong, như thể bộ phận đỡ bên trong đã bị ăn dần ăn mòn.

Bọn tôi đi thêm một lúc nữa. Tôi cố hiểu xem chuyện gì đang diễn ra, nhưng não tôi cứ liên tục ném ra những hàng rào chắn. Một phần trong tôi nhận ra rằng tôi đang ở trong trạng thái gần với sốc; phần còn lại không cho phép tôi ngay cả suy ngẫm về việc đó. Tôi tập trung vào những thứ xung quanh mình. Khi bọn tôi đi thêm chút nữa - sâu vào khu đổ nát - nhà cửa của dân cư ít dần. Mặc dù chắc hẳn chỉ cách phòng khám chưa đến mười cây số, tôi không hề biết bọn tôi đang ở đâu. Vẫn ở Bronx, tôi đoán thế. Có lẽ là Nam Bronx.

Lốp xe mòn vẹt và những tấm đệm bị xé toạc ra nằm giữa đường như thể người bị thương trong chiến tranh. Những tảng xi măng lớn lòi ra từ đám cỏ cao. Có những cái xe đã tháo vỏ và dù không có đám cháy nào, lẽ ra nên có.

“Anh đến đây nhiều không, bác sĩ?” Tyrese cười khe khẽ nói.

Tôi không buồn đáp lại.

Brutus cho xe dừng lại trước một tòa nhà chưa đổ nát hết. Một hàng rào lưới thép bao quanh dinh thự buồn thảm này. Cửa sổ được che bằng gỗ dán. Tôi thấy một mẩu giấy dính ở cửa, có lẽ là lời báo sẽ phá nhà. Cửa chính cũng là gỗ dán. Tôi thấy nó mở. Một người đàn ông loạng choạng bước ra, giơ cả hai tay lên che mắt cho khỏi chói, lảo đảo như Dracula đang hút máu người.

Thế giới của tôi tiếp tục quay cuồng.

“Đi thôi,” Tyrese nói.

Brutus ra khỏi xe trước. Anh ta mở cửa xe cho tôi. Tôi cám ơn anh ta. Brutus là người khắc kỷ. Anh ta có khuôn mặt kiểu cửa-hàng-xì-gà-Ấn-Độ mà bạn không thể tưởng tượng nổi - và có lẽ sẽ không muốn nhìn thấy - một nụ cười trên đó.

Phía bên phải, hàng rào lưới thép đã bị cắt rời ra và kéo lại. Bọn tôi bò qua. Gã kia loạng choạng tiến lại Tyrese. Brutus phòng thủ nhưng Tyrese phẩy tay bảo thôi. Gã loạng choạng và Tyrese chào đón nhau nồng nhiệt và thực hiện một cái bắt tay rất phức tạp. Rồi họ đứng cách nhau ra.

“Vào trong đi,” Tyrese nói với tôi.

Tôi chui vào trong, đầu óc vẫn đơ. Mùi hôi thối xuất hiện trước, mùi axit của nước tiểu và mùi cứt đái không lẫn vào đâu được. Có thứ gì đó đang cháy - tôi nghĩ tôi biết cái gì - và tường dường như tiết ra mùi âm ẩm, màu vàng của mồ hôi. Nhưng có gì đó khác nữa ở chỗ này. Mùi, không phải của cái chết, mà của trước khi chết, như hoại tử, như một thứ đang chết dần chết mòn và đang mục rữa mà vẫn còn thở thoi thóp. Hơi nóng ngột ngạt như luồng hơi thổi ra từ lò bễ. Đám người - có thể năm mươi, có thể một trăm - vạ vật trên sàn như tại một sòng bạc. Bên trong tối đen. Dường như không có điện, không có nước, không có bất kỳ đồ đạc nào. Những tấm ván gỗ gần như chắn hết ánh mặt trời, ánh sáng duy nhất là những tia nắng lọt qua các khe hở, bị lạng ra thành từng vệt mỏng như thể đi qua lưỡi hái máy giặt. Bạn có thể nhìn ra được những cái bóng và hình thù, và đó gần như là tất cả.

Tôi thừa nhận là mình mù tịt không biết gì về địa điểm buôn bán ma túy. Trong phòng cấp cứu, tôi đã nhìn thấy hậu quả hàng trăm lần. Nhưng ma túy chưa bao giờ làm cá nhân tôi thấy thích thú. Rượu mới là lựa chọn đầu độc của tôi, tôi nghĩ thế. Ngoài ra, lượng chất kích thích đang thoát ra đủ để đến nỗi ngay cả tôi cũng có thể luận ra bọn tôi đang ở tại một địa điểm buôn ma túy.

“Lối này,” Tyrese nói.

Bọn tôi bắt đầu bước qua bãi chiến trường. Brutus dẫn đầu. Mọi người rẽ ra ân cần như thể anh ta là Moses. Tôi đi vào sau Tyrese. Đầu ống tẩu sáng lên, xuyên qua bóng tối. Nó khiến tôi nhớ đến chuyện đi tới rạp xiếc Barnum và Bailey khi còn nhỏ và xoay xoay cái đèn pin nhỏ xíu trong bóng tối. Bấy giờ nhìn cũng như thế. Tôi thấy tối. Tôi thấy những cái bóng. Tôi thấy ánh sáng lóe lên.

Không có nhạc. Cũng không ai nói năng gì nhiều. Tôi nghe thấy tiếng ngân nga. Tôi nghe thấy tiếng ẩm ướt chạy trong những đường ống. Tiếng kêu rin rít thỉnh thoảng xé toạc không khí, âm thanh không phải của con người cho lắm.

Tôi cũng nghe thấy tiếng rên rỉ. Người ta đang làm tình, công khai, không xấu hổ, không hề có ý muốn kín đáo.

Một cảnh có một không hai - tôi sẽ tránh nói chi tiết với bạn - khiến tôi hoảng hồn. Tyrese chứng kiến nét mặt tôi, vẻ thích thú.

“Hết tiền, bọn nó bán cái này” - Tyrese chỉ - “để hút hít.”

Mật đắng tìm đường tràn lên miệng tôi. Tôi quay sang anh. Anh nhún vai.

“Thương mại, bác sĩ ạ. Khiến cho thế giới này quay.”

Tyrese và Brutus tiếp tục bước. Tôi loạng choạng đi bên cạnh. Phần lớn tường bên trong đổ nát sạch. Con người - già, trẻ, đen, trắng, đàn ông, đàn bà - ở khắp nơi, ẻo lả, vạ vật như đồng hồ Dali.

“Anh có nghiện ma túy không, Tyrese?” tôi nói.

“Đã từng. Bị dính khi tôi mười sáu.”

“Làm thế nào anh cai được?”

Tyrese mỉm cười. “Anh thấy anh chàng Brutus này của tôi chứ?”

“Khó mà không thấy được.”

“Tôi bảo sẽ trả cho anh ta một nghìn dollar mỗi tuần để tôi không hút hít gì. Brutus chuyển vào ở với tôi.”

Tôi gật đầu. Nghe thế hiệu quả hơn rất nhiều so với một tuần với Betty Ford.

Brutus mở một cánh cửa. Căn phòng này, mặc dù không được trang bị đầy đủ cho lắm, ít nhất cũng có bàn ghế, thậm chí cả đèn điện và một cái tủ lạnh. Tôi nhìn thấy một máy phát điện xách tay ở góc phòng.

Tyrese và tôi bước vào trong. Brutus đóng cửa lại rồi đứng ngoài hành lang. Chúng tôi còn lại một mình.

“Chào mừng đến văn phòng của tôi,” Tyrese nói.

“Brutus vẫn giúp anh cai thuốc à?”

Anh lắc đầu. “Không, bây giờ TJ làm chuyện đó. Anh hiểu tôi đang nói gì chứ?”

Tôi hiểu. “Và anh không có vấn đề gì với việc anh làm ở đây?”

“Tôi có hàng đống vấn đề, bác sĩ ạ.” Tyrese ngồi xuống và mời tôi ngồi. Mắt anh liếc tôi và tôi không thích cái mình thấy trong anh mắt đó. “Tôi không phải là người tốt.”

Tôi không biết phải đáp lại thế nào, vì vậy tôi đổi chủ đề. “Tôi phải đến Washington Square Park trước năm giờ.”

Anh ngả người ra sau. “Kể tôi nghe có chuyện gì.”

“Chuyện dài lắm.”

Tyrese lấy ra một lưỡi dao cùn và bắt đầu cậy móng tay. “Con tôi bị ốm, tôi đến gặp chuyên gia, đúng không?”

Tôi gật đầu.

“Anh gặp rắc rối với pháp luật, anh cũng nên làm vậy.”

“Tương tự thế.”

“Chuyện tồi tệ đang xảy ra với anh, bác sĩ.” Anh dang tay ra. “Tồi tệ là thế giới của tôi. Tôi là người dẫn đường tốt nhất ở đó.”

Vì vậy tôi kể cho anh câu chuyện. Kể gần hết. Anh gật đầu rất nhiều, nhưng tôi ngờ anh không tin khi tôi nói mình không dính líu gì với những vụ giết người. Tôi ngờ anh cũng chẳng quan tâm.

“Được rồi,” anh nói khi tôi kể xong, “hãy chuẩn bị sẵn sàng cho anh. Rồi chúng ta cần phải nói chuyện về thứ khác nữa.”

“Thứ gì?”

Tyrese không trả lời. Anh lại gần thứ trông giống một cái tủ có khóa bằng kim loại kiên cố ở góc phòng. Anh mở nó bằng một chiếc chìa khóa, nhoài người vào trong, và lấy ra một khẩu súng.

“Glock, cưng ơi, Glock,” anh nói, chìa cho tôi khẩu súng. Tôi cứng đờ. Hình ảnh gồm màu đen và máu lóe lên trong đầu tôi rồi nhanh chóng biến mất; tôi không đuổi theo. Đã lâu lắm rồi. Tôi đưa tay ra cầm lấy khẩu súng bằng hai ngón tay, cứ như là nó rất nóng. “Khẩu súng của nhà vô địch,” anh nói thêm.

Tôi định từ chối không nhận, nhưng thế sẽ là ngu. Họ vốn đã nghi ngờ tôi trong hai vụ án mạng, tấn công một nhân viên cảnh sát, kháng cự lệnh bắt, và có lẽ là hàng đống những thứ khác vì chạy trốn pháp luật. Thêm tội mang một vũ khí cộng vào tất thảy những chuyện đó thì có hề hấn gì?

“Nó được lên đạn rồi đấy,” anh nói.

“Có an toàn chút nào không?”

“Không còn an toàn nữa.”

“Ồ,” tôi nói. Tôi chậm rãi lật đi lật lại khẩu súng, nhớ lần cuối cùng mình cầm một vũ khí trong tay. Cảm giác rất thích thú, cầm lại một khẩu súng ấy. Kiểu nằng nặng tay, tôi nghĩ thế. Tôi thích kết cấu, thép lạnh, cái kiểu nó khít hoàn toàn trong lòng bàn tay tôi, sức nặng. Tôi không hài lòng khi mình thấy thích nó.

“Cầm lấy cái này nữa.” Anh đưa cho tôi thứ trông giống một cái điện thoại di động.

“Đây là cái gì?” tôi hỏi.

Tyrese cau mày. “Nó trông giống cái gì? Điện thoại di động. Nhưng số của nó là số ăn cắp. Không thể lần ra anh được, hiểu không?”

Tôi gật đầu, cảm thấy không đúng là mình lắm.

“Có một phòng tắm sau cửa kia,” Tyrese nói, chỉ về phía bên phải tôi. “Không có vòi hoa sen nhưng có bồn. Rửa cái cơ thể bốc mùi của anh đi. Tôi sẽ lấy cho anh quần áo sạch. Rồi Brutus và tôi, bọn tôi sẽ đưa anh đến Washington Square.”

“Anh bảo có chuyện muốn nói với tôi.”

“Sau khi anh tắm rửa xong,” Tyrese nói. “Lúc đó chúng ta sẽ nói chuyện.”
 
Chương 27


Eric Wu nhìn đăm đăm vào cái cây bò lan ngổn ngang. Mặt hắn bình thản, cằm hơi nghiêng nghiêng.

“Eric?” Giọng của Larry Gandle.

Wu không quay lại. “Mày có biết cái cây này tên gì không?” hắn hỏi.

“Không.”

“Cây du của Đao phủ.”

“Hay.”

Wu mỉm cười. “Một vài sử gia tin rằng vào thế kỷ mười tám, công viên là nơi dùng cho việc tử hình công cộng.”

“Tuyệt nhỉ, Eric.”

“Ừ.”

Hai gã thanh niên cởi trần vụt qua trên giầy patanh Rollerblades. Một máy cát xét xách tay bật Jefferson Airplane. Washington Square Park - chẳng ngạc nhiên gì, được đặt theo tên của George Washington - là một trong những nơi cố bám vào thập niên sáu mươi mặc dù cái bám chặt ấy cứ bị tuột đi. Có một số người phản đối như thường lệ, nhưng họ trông giống như nhân vật trong cuộc sống phục hưng hoài cổ hơn là những nhà cách mạng thực sự. Dàn biểu diễn đường phố bằng chút mánh khóe chiếm nó làm sân khấu. Những thể loại vô gia cư kiểu gì đó xoay xở sống rất tài ở đây.

“Mày chắc là bọn mình cho người kiểm soát chỗ này rồi?” Gandle hỏi.

Wu gật đầu, vẫn đối diện với cái cây. “Sáu. Cộng thêm hai trong xe.”

Gandle nhìn ra sau. Xe tải màu trắng với biển hiệu viết Sơn B&T và số điện thoại cùng một logo xinh xắn, vẽ một gã trai trông rất giống tay trong cờ tỉ phú, cầm một cái thang và chổi quét sơn. Nếu được hỏi miêu tả cái xe, nhân chứng sẽ nhớ, nếu cần bất cứ thứ gì, tên của công ty sơn và có thể số điện thoại.

Không cái nào tồn tại.

Xe tải đỗ cạnh một cái khác. Ở Manhattan, một xe tải hợp pháp đỗ riêng rẽ sẽ dễ thu hút sự nghi ngờ hơn một xe đậu cạnh một cái khác. Hơn nữa, bọn chúng luôn nhìn ra ngoài. Nếu một nhân viên cảnh sát tiến tới, chúng sẽ lái đi ngay. Chúng sẽ lái đến một chỗ đậu trên Lafayette Street. Chúng sẽ đổi bảng đăng ký bằng lái và biển hiệu. Rồi quay lại.

“Mày nên quay lại xe,” Wu nói.

“Mày nghĩ Beck có tới không?”

“Ngờ lắm,” Wu nói.

“Tao nghĩ việc hắn bị bắt sẽ kéo được ả ra,” Gandle nói. “Tao không nghĩ rằng hắn được sắp xếp để hẹn gặp.”

Một trong những gián điệp tay chân của chúng - gã tóc xoăn vận đồ thể thao ở cửa hàng Kinko tối qua - đã nhìn thấy lá thư xuất hiện trên màn hình máy tính. Nhưng lúc hắn mở lại được lá thư, Wu đã sắp đặt xong bằng chứng tại nhà Beck.

Không quan trọng. Sẽ thành công thôi.

“Phải tóm cả hai đứa, nhưng ưu tiên con kia,” Gandle nói. “Tình hình xấu đi, sẽ giết cả hai. Nhưng tốt nhất là để bọn nó sống. Để mình tìm ra xem bọn nó biết những gì.”

Wu không đáp lại. Hắn vẫn đăm đăm nhìn cái cây.

“Eric?”

“Bọn chúng treo cổ mẹ tao trên một cái cây giống cây này,” Wu nói.

Gandle không biết phải đáp lại thế nào, vì vậy nói, “Tao rất tiếc”.

“Chúng cho mẹ tao là gián điệp. Sáu tên lột trần truồng mẹ tao ra và dùng roi da quật bà. Chúng quất trong hàng giờ liền. Mọi chỗ. Ngay cả thịt da trên mặt bà cũng bị xé rách. Bà tỉnh táo trong suốt thời gian đó. Bà liên tục gào thét. Phải mất một khoảng thời gian bà mới chết được.”

“Chúa ơi,” Gandle khẽ nói.

“Khi xong xuôi, chúng treo bà lên một cái cây to.” Hắn chỉ vào cái cây của Đao phủ. “Giống cây này. Dĩ nhiên, đó được cho là một bài học. Để không kẻ nào làm gián điệp nữa. Những chim và thú đến bâu vào bà. Hai ngày sau, chỉ còn lại xương trên cái cây đó.”

Wu đeo lại cái Walkman lên tai. Hắn quay đi khỏi cái cây. “Mày thực sự không nên để bị nhìn thấy,” hắn bảo Gandle.

Larry khó khăn lắm mới dứt được cái nhìn khỏi cây du lớn, nhưng gã gắng gật đầu và đi đường mình.
 
Chương 28


Tôi mặc vào một cái quần jeans đen với bụng rộng cỡ bằng lốp xe tải. Tôi gấp đoạn thừa lại và siết chặt thắt lưng. Áo sơ mi đồng phục đen của cửa hàng White Sox thì vừa khít như một chiếc áo thụng của châu Phi. Mũ lưỡi trai màu đen - nó có cái logo nào đó mà tôi không nhận ra - vành đã bị bẻ gãy sẵn cho tôi. Tyrese cũng đưa cho tôi đôi kính râm y hệt như đôi mẹ-kiếp-mày Brutus ưa thích.

Tyrese suýt cười phá lên khi tôi từ phòng tắm bước ra. “Trông anh tuyệt lắm, bác sĩ ạ.”

“Tôi nghĩ từ mà anh đang cần tìm là péo.”

Anh cười toe toét và lắc đầu. “Dân da trắng.” Rồi mặt anh nghiêm lại. Anh đẩy một vài tờ giấy có kim rập về phía tôi. Tôi cầm lên. Trên đầu nó viết Ý nguyện cuối cùng và Chúc thư. Tôi nhìn anh dò hỏi.

“Ý tôi muốn là nói chuyện với anh về cái này,” Tyrese nói.

“Về di chúc của anh?”

“Theo kế hoạch tôi còn hai năm nữa.”

“Kế hoạch gì?”

“Tôi làm việc này hai năm nữa, kiếm đủ tiền để đưa TJ đi khỏi đây. Tôi nghĩ cơ hội để làm thế là 60/40.”

“Làm thế, ý anh là gì?”

Mắt Tyrese dán chặt lên tôi. “Anh biết.”

Tôi thực sự biết. Ý anh ta là sống sót. “Anh sẽ đi đâu?”

Anh đưa cho tôi một cái thiếp. Cảnh mặt trời, nước xanh, những cây cọ. Cái thiếp nhàu nát vì bị xem quá nhiều. “Xuống Florida,” anh đáp với một bài hát du dương nhẹ nhàng trong giọng nói. “Tôi biết nơi này. Yên tĩnh. Có bể bơi và trường học tốt. Không một ai băn khoăn chuyện tôi lấy tiền ở đâu ra, anh hiểu tôi đang nói gì chứ?”

Tôi đưa lại cái thiếp cho anh. “Tôi không hiểu mình thì có liên quan gì đến chuyện này.”

“Đây” - anh giơ cái thiếp lên - “là kế hoạch nếu 60% xảy ra. Đó” - anh chỉ vào tờ di chúc - “nếu 40% xảy ra.”

Tôi bảo anh tôi vẫn không hiểu.

“Tôi xuống trung tâm thành phố sáu tháng trước, anh hiểu tôi đang nói gì đấy. Tìm một luật sư thật siêu. Làm tôi mất hai nghìn dollar chỉ trong một vài giờ với ông ta. Tên ông ta là Joel Marcus. Nếu tôi chết, anh phải đi gặp ông ta. Anh, người thi hành di chúc của tôi. Tôi có một số giấy tờ đã được khóa lại. Họ sẽ bảo cho anh biết tiền ở đâu.”

“Tại sao lại là tôi?”

“Anh chăm sóc con trai tôi.”

“Latisha thì sao?”

Anh chế giễu. “Ả là đàn bà, bác sĩ. Ngay khi tôi nằm xuống, ả sẽ đi tìm một thằng chó khác, anh hiểu tôi đang nói gì không? Có thể lại bị mang ba lô ngược. Có thể mọi thứ lặp lại.” Anh ngồi lại và khoanh tay. “Không thể tin tưởng đàn bà, bác sĩ ạ. Anh nên biết điều đó.”

“Chị ấy là mẹ của TJ.”

“Phải.”

“Chị ấy yêu anh.”

“Ừ, tôi biết điều đó. Nhưng cô ta chỉ là đàn bà, anh hiểu tôi đang nói gì không? Anh cho cô ta một khoản tiền mặt theo cách thế này, cô ta sẽ ném chúng qua cửa sổ trong vòng một ngày. Đó là lý do tại sao tôi lập ra một vài tài sản được giữ ủy thác và vài thứ linh tinh khác. Anh, người thi hành di chúc. Cô ta muốn tiền cho TJ, anh phải đồng ý mới được. Anh và gã Joel Marcus đây.”

Tôi định tranh cãi như thế là phân biệt giới tính bất công, và rằng anh ta là một Neanderthal, nhưng có vẻ lúc này không đúng thời điểm lắm. Tôi nhấp nhổm trong ghế và nhìn anh. Tyrese khoảng hai mươi lăm tuổi. Tôi đã gặp quá nhiều người như anh. Tôi đã luôn gộp họ lại thành một đống riêng, xóa mờ mặt họ vào một khối màu đen xấu xa. “Tyrese?”

Anh nhìn tôi.

“Đi luôn bây giờ đi.”

Anh cau mày.

“Dùng số tiền mà anh có. Tìm một việc làm ở Florida. Tôi sẽ cho anh vay thêm nếu anh cần. Nhưng hãy mang theo gia đình và đi luôn bây giờ.”

Anh lắc đầu.

“Tyrese?”

Anh đứng lên. “Thôi nào, bác sĩ. Chúng ta tốt nhất là lên đường thôi.”

“Chúng tôi vẫn đang tìm hắn.”

Lance Fein nổi đóa, khuôn mặt như sáp của ông ta gần như đang tan chảy thành giọt. Dimonte đăm chiêu. Krinsky hí hoáy viết. Stone kéo quần.

Carlson bị rối trí, cúi xuống một tờ fax vừa mới gửi đến trong xe.

“Còn những vụ nổ súng thì sao?” Lance Fein gay gắt phun ra.

Nhân viên mặc đồng phục - đặc vụ Carlson không buồn hỏi tên anh ta - nhún vai. “Không ai biết tí gì. Tôi nghĩ có lẽ không liên quan.”

“Không liên quan?” Fein thét lên. “Anh là cái loại ngu ngốc kém cỏi nào hả, Benny? Bọn nó chạy trên phố thét lên về một tay da trắng.”

“Vâng, bây giờ không ai biết tí gì.”

“Dựa vào bọn chúng,” Fein nói. “Dựa rất nhiều vào bọn chúng. Ý tôi là, vì đám ấy gào thét hết cỡ, chứ làm thế quái nào một gã như thế này lại có thể chạy trốn, hả?”

“Chúng ta sẽ bắt được hắn.”

Stone vỗ nhẹ lên vai Carlson. “Sao thế, Nick?”

Carlson nhíu mày nhìn máy fax. Anh ta không nói. Anh ta là một người sống ngăn nắp, trật tự đến mức ám ảnh. Anh ta rửa tay quá nhiều. Anh ta thường khóa và mở khóa cửa hàng chục lần trước khi rời khỏi nhà. Anh ta càng nhìn dữ hơn bởi vì có thứ gì đó ở đây không khớp.

“Nick?”

Carlson quay sang. “Khẩu ba mươi tám chúng ta tìm thấy trong két sắt của Sarah Goodhart.”

“Cái mà chìa khóa trên thi thể dẫn chúng ta tới.”

“Phải.”

“Nó làm sao?” Stone hỏi.

Carlson vẫn nhíu mày. “Có rất nhiều lỗ hổng ở đây.”

“Lỗ hổng?”

“Đầu tiên,” Carlson nói tiếp, “chúng ta giả định cái két sắt Sarah Goodhart là của Elizabeth Beck, phải không?”

“Phải.”

“Nhưng có ai đó đã thanh toán tiền cho cái két trong suốt tám năm qua,” Carlson nói. “Elizabeth Beck đã chết. Phụ nữ chết rồi không trả tiền hóa đơn.”

“Có lẽ là cha cô ta. Tôi nghĩ ông ta biết nhiều hơn những gì ông ta nói ra.”

Carlson không thích điều này. “Còn về những thiết bị nghe lén mà chúng ta tìm thấy ở nhà Beck thì sao? Sao lại có chuyện đó?”

“Tôi không biết,” Stone đáp lại bằng một cái nhún vai. “Có thể ai đó khác trong ban cũng nghi ngờ hắn ta.”

“Trước đó chúng ta đã nghe thế rồi. Và bản báo cáo này là về khẩu ba mươi tám chúng ta tìm thấy trong két.” Anh ta chỉ tay vào tờ fax. “Anh biết Ủy ban Rượu, Thuốc lá Đạn dược và Chất nổ truy nguyên được tới cái gì không?”

“Không.”

“Bulletproof không cung cấp bất cứ thông tin nào, nhưng cũng không lấy gì làm lạ bởi dù sao dữ liệu không truy nguyên được đến tám năm.” Bulletproof, một phương pháp phân tích đạn dược được Ủy ban Rượu, Thuốc lá Đạn dược và Chất nổ sử dụng, dùng để kết nối thông tin dữ liệu từ các vụ phạm tội trong quá khứ với những khẩu súng được tìm ra gần đây. “Nhưng NTC đã tìm được thông tin.” NTC là viết tắt của Trung tâm Truy nguyên Quốc gia. “Đoán thử xem người chủ đăng ký gần nhất là ai.”

Anh ta đưa cho Stone bản fax. Stone đọc lướt xuống và thấy. “Stephen Beck?”

“Cha của David Beck?”

“Ông ta chết rồi, phải không?”

“Phải.”

Stone đưa lại tờ giấy cho anh ta. “Vậy con trai ông ta chắc hẳn là thừa kế khẩu súng đó,” anh ta nói. “Đó là súng của Beck.”

“Vậy tại sao vợ hắn lại khóa nó trong một cái két cùng với những bức ảnh kia?”

Stone nghiền ngẫm ý đó một phút. “Có thể cô ta sợ hắn sẽ dùng nó bắn cô ta.”

Carlson càng nhíu mày tợn hơn. “Chúng ta đang để lỡ thứ gì đó.”

“Nghe này, Nick, đừng làm chuyện này phức tạp hơn mức cần thiết. Chúng ta chắc chắn tóm được Beck trong vụ Schayes. Bắt hắn là chính đáng. Đơn giản hãy quên chuyện Elizabeth Beck đi, được chứ?”

Carlson nhìn anh ta. “Quên chuyện gì về cô ta?”

Stone hắng giọng và giơ tay ra. “Đối mặt với thực tế đi. Tóm Beck trong vụ Schayes, đó sẽ là một miếng bánh. Nhưng vợ hắn - Chúa ơi, vụ đó cách đây tám năm rồi. Chúng ta có được vài mảnh vụn thông tin, tốt thôi, nhưng chúng ta sẽ không tóm hắn trong vụ đó được. Đã quá muộn. Có lẽ” - anh ta nhún vai một cách khóa trương - “có lẽ tốt nhất là để con chó đang ngủ nằm yên.”

“Anh đang nói cái chuyện quái gì thế?”

Stone nhích lại gần hơn và ra hiệu Carlson cúi xuống. “Một vài người ở Cục muốn chúng ta không đào tất cả những thứ đó lên thì hơn.”

“Ai không muốn chúng ta đào cái gì lên?”

“Không quan trọng, Nick ạ. Chúng ta đều cùng một phe, phải không? Nếu chúng ta tìm ra KillRoy không giết Elizabeth Beck, nó chỉ khiến mở ra cả một hộp sâu, phải không? Luật sư của thằng đó có thể sẽ đòi một phiên tòa mới...”

“Chúng ta chưa bao giờ cố đổ vấy cho hắn vụ Elizabeth Beck.”

“Nhưng chúng ta kết luận cô ta là nạn nhân của KillRoy. Chỉ khiến có thêm nghi ngờ vào, thế thôi. Cách này gọn hơn.”

“Tôi không muốn gọn,” Carlson nói. “Tôi muốn sự thật.”

“Chúng ta thảy đều muốn thế, Nick ạ. Nhưng chúng ta thậm chí còn muốn công bằng hơn, phải không? Beck sẽ bị kết án chung thân vì giết Rebecca Schayes. KillRoy sẽ ở trong tù. Sẽ nên là như thế.”

“Có lỗ hổng, Tom ạ.”

“Anh vẫn cứ nói thế, nhưng tôi chẳng thấy gì. Anh chính là người đầu tiên nảy ra cái ý nghĩ Beck là tội phạm trong vụ giết vợ hắn.”

“Chính xác,” Carlson nói. “Trong vụ giết vợ hắn. Không phải vụ Rebecca Schayes.”

“Tôi không hiểu ý anh.”

“Vụ giết Schayes không khớp.”

“Anh đùa à? Nó còn vững chắc hơn ấy chứ. Schayes biết điều gì đó. Chúng ta đang tiến lại gần. Beck phải bịt miệng cô ta lại.”

Carlson lại nhíu mày.

“Sao?” Stone nói tiếp. “Anh nghĩ việc Beck đến studio của cô ta ngày hôm qua - ngay sau khi chúng ta gây áp lực với hắn - chỉ là ngẫu nhiên thôi ư?”

“Không,” Carlson nói.

“Vậy thì sao nữa, Nick? Anh không hiểu à? Kẻ giết Schayes khớp một cách hoàn hảo.”

“Hơi hoàn hảo quá,” Carlson nói.

“Này, đừng khơi chuyện lên theo lối chết tiệt đó.”

“Để tôi hỏi anh điều này, Tom. Beck lên kế hoạch và thực hiện giết vợ hắn tốt đến mức nào?”

“Tốt bỏ mẹ.”

“Chính xác. Hắn giết tất cả nhân chứng. Hắn phi tang các thi thể. Nếu không phải vì trời mưa và con gấu kia, chúng ta sẽ không có gì cả. Và nói thẳng nhé. Ngay cả khi có được thông tin đó, chúng ta vẫn không có đủ bằng chứng để buộc tội, nói gì đến kết án.”

“Vậy thì?”

“Vậy thì sao tự dưng Beck lại ngu đột ngột thế? Hắn biết chúng ta bám theo hắn. Hắn biết trợ lý của Schayes sẽ có thể chứng thực hắn đã gặp Rebecca Schayes vào cái ngày cô ta bị giết. Vậy sao hắn lại ngu đến mức giữ khẩu súng trong gara của mình? Sao hắn lại ngu đến mức vứt đôi găng tay trong thùng rác của chính mình?”

“Đơn giản,” Stone nói. “Lần này hắn vội vã. Với vợ hắn, hắn có cả đống thời gian để lên kế hoạch.”

“Anh xem cái này chưa?”

Anh ta đưa cho Stone bản báo cáo theo dõi.

“Beck đến gặp nhân viên giám định pháp y sáng nay,” Carlson nói. “Tại sao?”

“Tôi không biết. Có lẽ hắn muốn biết có gì đó có thể đổ tội trong hồ sơ khám nghiệm tử thi.”

Carlson lại nhíu mày. Tay anh ta đang khao khát được rửa. “Chúng ta đang để lỡ điều gì đó, Tom ạ.”

“Tôi không thấy cái gì, nhưng này, dù kiểu gì, chúng ta cũng phải bắt giam được hắn ta. Rồi chúng ta sẽ tìm ra được chứ?”

Stone đi lại chỗ Fein. Carlson để cho những nghi hoặc chìm đi. Anh ta nghĩ lại về việc Beck đến văn phòng của nhân viên giám định pháp y. Anh ta rút số điện thoại ra, lau sạch nó bằng khăn mùi soa, và nhấn số. Khi có người trả lời, anh ta nói, “Cho tôi số của nhân viên giám định pháp y Hạt Sussex.”
 
Chương 29


Ngày xưa - cách đây mười năm - cô có bạn ở tại Chelsea Hotel trên Phố 23 Tây. Trong khách sạn một nửa là khách du lịch, một nửa là dân ở lâu dài, tuyền diện gàn dở. Nghệ sĩ, nhà văn, sinh viên, dân nghiện á phiện, mọi loại, mọi giới. Móng tay đen, mặt sơn trắng, môi đánh màu đỏ máu, tóc không một dấu vết uốn quăn - tất thảy trong những ngày trước khi nó thành xu thế chủ đạo.

Ít thứ đã thay đổi. Đó vẫn là một nơi tốt để ẩn danh.

Sau khi nuốt vội một miếng pizza phía bên kia đường, cô đăng ký vào khách sạn và không mạo hiểm ra khỏi phòng. New York. Cô đã từng gọi thành phố này là nhà, nhưng đây chỉ là lần thứ hai cô ghé đến trong tám năm qua.

Cô nhớ New York.

Bằng bàn tay đã quá thông thạo, cô nhét tóc mình vào dưới bộ tóc giả. Màu của ngày hôm nay sẽ là vàng với chân tóc đen. Cô đeo một cái kính có gọng bằng dây kim loại mảnh lên và nhét hàm giả vào miệng. Nó làm thay đổi hình dạng khuôn mặt cô.

Tay cô run run.

Hai tấm vé máy bay nằm trên bàn bếp. Tối nay, họ sẽ đi chuyến bay 174 của hãng British Airways từ JFK đến Sân bay Heathrow London, đầu mối liên lạc của cô sẽ gặp họ tại đây và họ sẽ có giấy tờ tùy thân mới. Rồi họ sẽ lấy tàu đi Gatwick và lấy chuyến bay chiều đi Nairobi, Kenya. Một chiếc jeep sẽ đưa họ tới gần chân Núi Meru ở Tanzania, và sau đó họ sẽ leo núi ba ngày liền.

Một khi đến được đó - một trong rất ít những nơi trên hành tinh này không radio, không tivi, không điện - họ sẽ được tự do.

Tên trên hai tấm vé là Lisa Sherman. Và David Beck.

Cô giật mạnh mái tóc giả một lần nữa và đăm đăm nhìn vào mình trong gương. Mắt mờ đi, và trong một thoáng, cô quay về chỗ cái hồ. Hy vọng nhen nhóm trong ngực, và chỉ một lần này thôi, cô không làm gì để dập tắt nó đi. Cô cố mỉm cười và quay đi.

Cô đi thang máy xuống sảnh và rẽ phải trên Phố 23.

Từ chỗ này mà đi bộ đến Washington Square Park thì vừa tuyệt.

Tyrese và Brutus thả tôi trên góc giữa Phố 4 Tây và Lafayette, cách công viên bốn tòa nhà về hướng Đông. Tôi biết khu vực này khá rõ. Elizabeth và Rebecca ở cùng nhau trong một căn hộ ở Washington Square, cảm thấy sung sướng ở trên đỉnh cao trong khu West Village của họ - một nhiếp ảnh gia và một luật sư làm công tác xã hội, đấu tranh cho chủ nghĩa bôhêmiêng khi họ trà trộn vào nhóm bạn những đứa lớn-lên-ở-ngoại-ô muốn khẳng định mình và những đứa con ông cháu cha muốn làm cách mạng. Nói một cách thẳng thắn, tôi chưa bao giờ tin chuyện đó, nhưng cũng không có vấn đề gì với nó cả.

Lúc đó tôi đang theo học tại Trường Y Columbia, và nói một cách chính xác, tôi sống ở khu phố trên Haven Avenue gần bệnh viện bây giờ được gọi tên là New York Presbyterian. Nhưng theo lẽ tự nhiên, tôi ở dưới này rất nhiều.

Những năm tháng tốt lành.

Nửa tiếng nữa mới đến giờ gặp.

Tôi đi xuống Phố 4 Tây qua Tower Records và vào khu vực trong thành phố nơi tọa lạc trường Đại học New York. NYU muốn bạn biết điều này. Họ đóng cọc trên khu đất này bằng những lá cờ có in logo của NYU màu tía lòe loẹt ở khắp mọi nơi. Xấu chết khiếp, lá cờ màu tía lòe loẹt này nổi rõ trên nền gạch sẫm màu của Greenwick Village. Cũng rất ích kỷ và địa phương chủ nghĩa, tôi nghĩ, đối với một vùng đất tự do đến vậy. Nhưng biết làm thế nào được.

Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực như thể nó muốn phá ra để được tự do.

Liệu nàng đã có mặt ở đó chưa?

Tôi không chạy. Tôi cố bình thường và làm mình sao lãng khỏi thứ mà khoảng một giờ nữa có thể đem tới. Những chỗ bị thương từ lần đụng độ vừa đây đang ở trong trạng thái giữa bỏng rát và ngứa ngáy khó chịu. Tôi nhìn mình trong kính cửa sổ một khu nhà và không thể không nhận thấy mình trông lố bịch hết cỡ trong bộ quần áo đi mượn này. Găngxtơ Dự bị.

Xin chào mày, từ ngữ.

Quần tôi cứ tụt xuống. Tôi kéo lên bằng một tay và cố gắng bước đều.

Elizabeth có thể đã ở công viên rồi.

Giờ tôi có thể nhìn thấy quảng trường. Góc Đông Nam chỉ cách đó một tòa nhà. Dường như có tiếng xào xạc trong không khí, có lẽ một cơn bão đang nổi lên cũng nên, nhưng đó chắc hẳn là trí tưởng tượng của tôi hoạt động quá mức. Tôi cúi đầu xuống. Hình tôi được đưa lên tivi chưa nhỉ? Người dẫn chương trình đã phát đi lời cảnh báo cần-phải-đề-phòng chưa nhỉ? Tôi ngờ lắm. Nhưng mắt tôi vẫn dán chặt xuống mặt đường.

Tôi rảo bước. Washington Square đã luôn là nơi quá náo nhiệt với tôi trong suốt những tháng hè. Tình trạng náo nhiệt này luôn có gì đó miễn cưỡng. Sự náo nhiệt giả tạo, tôi gọi thế. Chỗ tôi ưa thích là nơi hàng đống người tụ tập ồn ào gần mấy bàn chơi trò chơi bằng xi măng. Thỉnh thoảng tôi chơi cờ ở đó. Tôi khá giỏi, nhưng trong công viên này, cờ vua là thứ rất bình đẳng. Giàu, nghèo, trắng, đen, vô gia cư, nhà cao tầng, ở thuê, ở chung - tất cả hòa hợp trên những quân cờ trắng đen cũ rích. Tay chơi giỏi nhất mà tôi từng gặp ở đây là một gã da đen dành hầu như toàn bộ các buổi chiều ở đoạn trước Giuliani quấy rối những người lái môtô, xin tiền lẻ bằng cái chổi của gã.

Elizabeth vẫn chưa có mặt ở đó.

Tôi ngồi xuống một ghế dài.

Mười lăm phút nữa.

Ngực tôi căng lên gấp bốn lần. Tôi chưa bao giờ sợ đến thế trong đời mình. Tôi nghĩ đến màn biểu diễn công nghệ của Shauna. Một trò bịp? Tôi tự hỏi một lần nữa. Sẽ thế nào nếu tất thảy những chuyện này đều là một trò bịp? Sẽ thế nào nếu Elizabeth thực sự đã chết rồi? Khi đó tôi sẽ làm gì?

Suy đoán vô ích, tôi tự nhủ. Lãng phí năng lượng.

Nàng phải còn sống. Không có lựa chọn nào khác.

Tôi ngồi lại và chờ.

“Hắn đến rồi,” Eric Wu nói vào điện thoại di động.

Larry Gandle nhìn ra từ cửa sổ kính màu của xe tải. David Beck thực sự đã xuất hiện ở nơi hắn được cho là sẽ đến, ăn mặc như một tay du côn đường phố. Mặt hắn dằng dịt những vết xước và thâm tím.

Gandle lắc đầu. “Làm thế quái nào mà hắn làm được thế nhỉ?”

“À,” Eric Wu nói giọng ngân nga, “bọn mình luôn có thể hỏi hắn mà.”

“Chúng ta cần chuyện này diễn ra suôn sẻ, Eric.”

“Phải thật.”

“Mọi người vào vị trí rồi chứ?”

“Dĩ nhiên.”

Gandle nhìn đồng hồ. “Ả sẽ có mặt ở đây ngay thôi.”

Nằm giữa Phố Sullivan và Thompson, dinh thự hoành tráng nhất của Washington Square là một tòa tháp gạch màu nâu ở phía Nam công viên. Hầu hết tin rằng tòa tháp đó vẫn là một phần của Judson Memorial Church. Không phải vậy. Trong hai thập kỷ qua, tòa tháp là phòng nội trú sinh viên và văn phòng của NYU. Phần trên của tháp rất dễ đột nhập vào nếu cô trông như thể biết mình sẽ đi đâu.

Từ trên cao này, cô có thể nhìn xuống toàn bộ công viên. Và khi nhìn xuống, cô bắt đầu khóc.

Beck đã đến. Anh cải trang theo kiểu kỳ dị nhất, nhưng email đã cảnh báo anh có thể bị bám đuôi. Cô nhìn thấy anh ngồi ở băng ghế dài đó, một mình, chờ đợi, chân phải run bần bật. Chân anh luôn như vậy mỗi khi căng thẳng.

“Ôi, Beck...”

Cô nghe thấy mồn một sự đau đớn, nỗi thống khổ cay đắng trong giọng mình. Cô vẫn đăm đăm nhìn anh.

Cô đã làm gì?

Quá ngu ngốc.

Cô buộc mình quay đi. Chân cô khép lại và cô trượt lưng dựa vào tường cho đến khi bệt xuống sàn. Beck đã đến vì cô.

Nhưng bọn chúng cũng vậy.

Cô chắc chắn. Cô đã phát hiện thấy ba trong số chúng, ít nhất là thế. Có lẽ còn hơn. Cô cũng phát hiện chiếc xe tải công ty Sơn B&T. Cô đã bấm số điện thoại trên biển hiệu xe, nhưng nó không tồn tại. Cô kiểm tra với sự giúp đỡ của danh bạ điện thoại. Không có công ty Sơn B&T.

Chúng đã tìm thấy họ. Mặc cho hết thảy những đề phòng của cô, chúng đã ở đây.

Cô nhắm mắt lại. Ngu ngốc. Quá ngu ngốc. Nghĩ rằng cô có thể thực hiện được việc này. Làm thế nào cô có thể cho phép nó xảy ra? Khao khát đã che mờ đầu óc cô. Bây giờ cô đã hiểu ra rồi. Bằng cách nào đó, cô đã tự lừa phỉnh mình rằng có thể biến một tai ương khủng khiếp - hai thi thể được phát hiện ra gần cái hồ - thành thứ vận may từ trên trời rơi xuống.

Ngu ngốc.

Cồ ngồi dậy và mạo hiểm nhìn Beck lần nữa. Tim cô rơi tõm như một hòn đá quăng xuống giếng. Anh trông quá cô độc ở dưới kia, quá nhỏ bé, mong manh và bất lực. Beck đã quen được với cái chết của cô chưa? Có lẽ. Anh có đấu tranh với những gì đã xảy ra và tạo dựng cuộc sống cho riêng mình không? Lại một lần nữa có lẽ. Anh đã hồi phục sau tai họa chỉ để sự ngu ngốc của cô đập mạnh vào đầu anh một phát nữa?

Rõ ràng thế.

Nước mắt lại về giàn giụa.

Cô lấy ra hai tấm vé máy bay. Chuẩn bị. Đó đã luôn là mấu chốt cho sự sống sót của cô. Chuẩn bị cho mọi tình huống có thể xảy ra. Đó là lý do tại sao cô đã lên kế hoạch gặp ở đây, tại một công viên công cộng cô biết rất rõ, nơi cô sẽ có được lợi thế. Cô đã không chịu thừa nhận điều này với chính bản thân mình, nhưng cô biết khả năng này - không, sự thật này - tồn tại.

Hết rồi.

Một khe hở nhỏ, nếu từng có một cái như vậy, đã bị đóng sập lại.

Đã đến lúc phải đi. Một mình. Và lần này là vĩnh viễn.

Cô tự hỏi anh sẽ phản ứng thế nào nếu cô không xuất hiện. Liệu anh có tiếp tục sục tìm trên máy tính những cái email không bao giờ đến nữa? Liệu anh có đi tìm khuôn mặt những người lạ và tưởng tượng anh nhìn thấy cô? Liệu có đơn giản là anh chỉ quên đi và sống tiếp - và khi cô thực sự bộc lộ tình cảm thật của mình, cô có muốn anh làm như thế?

Không quan trọng, sống sót trước tiên đã. Sự sống sót của anh. Cô không có lựa chọn nào khác. Cô phải đi.

Bằng nỗ lực tột đỉnh, cô dứt mắt quay đi và vội vã xuống cầu thang. Có một lối ra phía sau dẫn ra Phố 3 Tây, vì vậy cô không cần phải đến công viên. Cô đẩy cánh cửa kim loại nặng nề và bước ra ngoài. Xuống dưới Phố Sullivan, cô tìm thấy một chiếc taxi ở góc Bleecker.

Cô ngồi ngả người ra sau và nhắm mắt lại.

“Đi đâu?” người lái xe hỏi.

“Sân bay JFK,” cô nói.
 
Chương 30


Quá lâu rồi.

Tôi ngồi trên ghế dài và đợi. Xa xa tôi nhìn thấy cổng vòm bằng đá cẩm thạch nổi tiếng của công viên này. Stanford White, kiến trúc sư lừng danh những năm 1900 bị một tay trong cơn ghen tuông vì một em trẻ đẹp giết, được cho là đã “thiết kế” nó. Tôi không hiểu lắm. Làm thế nào bạn thiết kế một thứ mà lại giống y như đúc tác phẩm của một người khác? Sự thật cổng vòm Washington là ăn cắp 100% Khải Hoàn Môn ở Paris chẳng phải bí mật gì. Dân New York hết sức hồ hởi với cái thực tế rằng nó là bản cá chép. Tôi không thể hiểu tại sao.

Bạn không được sờ vào cái cổng vòm đó nữa. Một hàng rào lưới thép, không phải không giống với những cái tôi đã thấy ở Nam Bronx, bao quanh nó để ngăn chặn “các nghệ sĩ graffiti”. Công viên này vô thiên lủng hàng rào. Hầu như tất cả những khu vực có trồng cỏ đều có lớp hàng rào mỏng - tất cả những chỗ khác hàng rào đôi.

Nàng ở đâu?

Chim bồ câu đi lạch bạch cái dáng độc quyền thường thấy ở các chính trị gia. Rất nhiều con bay lại phía tôi. Chúng mổ vào giày tôi và rồi ngước nhìn lên kiểu rất thất vọng sao giày không ăn được.

“Ty thường ngồi đó.”

Giọng nói đến từ một gã vô gia cư đội một quả mũ len móc và đeo tai giả. Gã ngồi đối diện với tôi.

“Ồ,” tôi nói.

“Ty cho bọn nó ăn. Bọn nó quý Ty.”

“Ồ,” tôi lại nói.

“Đó là lý do tại sao bọn nó vây quanh ông như thế. Bọn nó không thích ông đâu. Bọn nó nghĩ biết đâu ông là Ty. Hay là một người bạn của Ty.”

“À há.”

Tôi xem đồng hồ. Tôi đã ngồi đây cả hai tiếng đồng hồ rồi. Nàng không đến. Có gì đó không ổn. Một lần nữa tôi tự hỏi nếu tất thảy chỉ là một trò bịp thì sao, nhưng vội xua ý nghĩ đó đi. Tốt hơn là vẫn tiếp tục giả định những lá thư đó là của Elizabeth. Nếu tất thảy chỉ là một trò bịp, thì ôi dào, rút cuộc tôi cũng biết thôi.

Dù thế nào đi nữa, em yêu anh...

Lá thư nói thế. Dù thế nào đi nữa. Như thể có gì đó sẽ trở nên không ổn. Như thể có gì đó sẽ xảy ra. Như thể tôi chỉ nên quên hết thảy và tiếp tục sống.

Vớ vẩn khủng khiếp.

Tôi thấy lạ lùng. Phải, tôi bị nghiền thành cám rồi. Cảnh sát truy đuổi tôi. Tôi kiệt quệ, bầm dập và hoảng loạn gần phát điên lên rồi. Ấy vậy mà tôi thấy mình mạnh mẽ hơn so với tôi những năm trước. Tôi không hiểu tại sao. Nhưng tôi biết tôi sẽ không từ bỏ. Chỉ mình Elizabeth hiểu tất cả những việc này - thời điểm hôn, Bat Lady, Teenage Sex Poodles. Suy ra, chính Elizabeth là người gửi email. Hoặc ai đó buộc Elizabeth gửi. Kiểu gì thì kiểu, nàng vẫn còn sống. Tôi phải theo đuổi chuyện này. Không có cách nào khác.

Vậy, làm gì tiếp đây?

Tôi lấy điện thoại di động mới của mình ra. Tôi xoa xoa cằm trong một phút và rồi nảy ra một ý tưởng. Tôi nhấn số. Gã đối diện - ông ta đã ngồi đó đọc báo lâu lắm rồi - liếc trộm tôi một phát. Tôi không thích thế. An toàn còn hơn là hối tiếc. Tôi đứng dậy và đi dịch ra khỏi tầm có thể nghe được.

Shauna trả lời điện thoại. “Alô?”

“Lão già Teddy đang gọi đây,” tôi nói.

“Beck? Thế quái nào...?”

“Ba phút.”

Tôi dập máy. Tôi biết điện thoại của Shauna và Linda sẽ bị nghe trộm. Cảnh sát sẽ nghe thấy từng lời chúng tôi nói. Nhưng tầng dưới chỗ họ ở có một lão góa vợ tên là Theodore Malone. Shauna và Linda tạt vào chỗ ông ta suốt. Họ có chìa khóa căn hộ. Tôi sẽ gọi đến đó. FBI hay cảnh sát hay bất cứ ai cũng không thể nghe lén điện thoại đó được. Kiểu gì cũng không thể cùng một lúc.

Tôi nhấn số.

Shauna thở hổn hển. “Alô.”

“Tớ cần cậu giúp.”

“Cậu có biết chuyện gì đang diễn ra không hả?”

“Tớ cho là tớ đang bị truy lùng kinh lắm.” Tôi vẫn thấy bình tĩnh một cách kỳ quặc, bề ngoài là thế.

“Beck, cậu phải đi tự thú.”

“Tớ không giết ai cả.”

“Tớ biết, nhưng nếu cậu vẫn ở ngoài đó...”

“Cậu có muốn giúp tớ hay không?” tôi cắt ngang.

“Nói đi,” cô nói.

“Họ tìm ra khoảng thời gian giết người chưa?”

“Khoảng nửa đêm. Bảng thời gian của họ hơi sít sao một chút, nhưng họ biết cậu ra ngoài ngay sau khi tớ về.”

“Okay,” tôi nói. “Tớ cần cậu làm việc này cho tớ.”

“Nói đi.”

“Đầu tiên, cậu phải đón Chloe.”

“Con chó của cậu á?”

“Ừ.”

“Tại sao?”

“Vì một điều,” tôi nói, “nó cần đi dạo.”

Eric Wu nói trên điện thoại di động. “Hắn đang nói chuyện điện thoại nhưng người của tao không thể đến gần hơn.”

“Hắn nhận ra người của mày?”

“Có khả năng.”

“Có lẽ hắn đang gọi hủy cuộc hẹn.”

Wu không đáp lại. Hắn theo dõi bác sĩ Beck lôi cái điện thoại di động từ túi ra và bắt đầu băng qua công viên. “Chúng ta gặp một vấn đề,” Wu nói.

“Sao?”

“Hình như hắn đang rời khỏi công viên.”

Phía đầu dây bên kia im lặng. Wu đợi.

“Trước đây bọn tao đã để mất nó,” Gandle nói.

Wu không đáp lại.

“Chúng ta không được liều, Eric. Tóm lấy nó. Tóm lấy nó ngay bây giờ, tìm ra nó biết cái gì, và kết thúc.”

Eric gật đầu ra hiệu về phía xe tải. Hắn bắt đầu tiến về phía Beck. “Xong.”

Tôi đi qua tượng Garibaldi đang rút gươm ra khỏi bao trong công viên. Đủ kỳ lạ, tôi có một điểm đến trong đầu. Quên chuyện gặp KillRoy đi, bây giờ chả liên quan gì nữa. Nhưng cái tên PF trong sổ ghi chép của Elizabeth, còn được gọi là Peter Flannery, luật-sư-chuyên-xúi-giục-thưa-kiện-đòi-bồi-thường, là một chuyện khác. Tôi vẫn có thể đến văn phòng của ông ta và nói chuyện một lát. Tôi không biết mình sẽ tìm được gì. Nhưng tôi sẽ làm gì đó. Nó sẽ là bước khởi đầu.

Sân chơi sát ngay bên phải tôi, nhưng không đến một chục đứa trẻ ở đó. Phía trái, “Công viên Chó của George,” một dãy toàn chó là chó được trang điểm, đầy ngập những em chó mặc áo hoa sặc sỡ và bố mẹ chúng. Trên bệ đài công viên, hai anh chàng đang tung hứng. Tôi đi qua một nhóm sinh viên chui trong áo trùm đầu ngồi thành nửa vòng tròn. Một tay người châu Á tóc nhuộm vàng cơ thể to vật vã như trong Fantastic Four sượt qua bên phải tôi. Tôi liếc ra sau. Người đàn ông đọc báo đã đi mất.

Tôi băn khoăn.

Ông ta ở đó suốt quãng thời gian tôi ở đó. Bây giờ, sau vài giờ, ông ta quyết định rời đi đúng ngay lúc tôi rời đi. Tình cờ? Có lẽ.

Anh sẽ bị bám đuôi...

Email nói thế. Nó không nói có thể. Dường như nó khá chắc chắn việc đó. Tôi tiếp tục bước và nghĩ về chuyện đó thêm một chút nữa. Không thể nào. Cái đuôi tài nhất trên thế giới cũng không thể bám theo tôi sau tất cả những chuyện tôi đã trải qua ngày hôm nay.

Người đàn ông cầm tờ báo không thể nào bám đuôi tôi được. Ít nhất, tôi không tưởng tượng nổi điều đó.

Chẳng lẽ bọn chúng chặn được email?

Tôi không thấy có cách nào. Tôi đã xóa thư rồi. Thậm chí nó còn chưa tồn tại trên máy tính của tôi.

Tôi băng qua Washington Square West. Khi đến chỗ vệ đường, tôi cảm thấy một bàn tay trên vai tôi. Đầu tiên nhẹ nhàng. Như một người bạn cũ ú òa sau lưng tôi. Tôi quay lại và có đủ thời gian để nhận ra đó là tên châu Á tóc nhuộm.

Rồi hắn siết chặt vai tôi.
 
Chương 31


Những ngón tay của hắn siết vào bả vai như những mũi kìm nhọn.

Cơn đau - đau kinh hoàng - quật xuống phần bên trái tôi. Chân tôi muốn khuỵu xuống. Tôi cố hét lên hay chống trả, nhưng không động đậy nổi. Một xe tải màu trắng xịch tới cạnh chỗ chúng tôi. Cửa bên mở ra. Tên châu Á dịch tay hắn lên cổ tôi. Hắn siết mạnh hai bên cổ, và mắt tôi bắt đầu trợn ngược. Dùng tay còn lại, hắn đập lên xương sống tôi và tôi cúi xuống trước. Tôi thấy người mình gập lại.

Hắn xôtôi về phía xe. Những cái tay từ phía bên trong giơ ra và kéo tôi vào. Tôi ngồi lên sàn kim loại lạnh ngắt. Trong này không có ghế ngồi. Cửa đóng lại. Cái xe lao vụt vào dòng xe cộ.

Toàn bộ trường đoạn - từ chỗ cánh tay chạm lên vai tôi cho đến khi cái xe tải lao đi - chỉ diễn ra trong khoảng năm giây.

Khẩu Glock, tôi nghĩ.

Tôi cố rút nó ra, nhưng một đứa nhảy lên lưng tôi. Tay tôi bị kẹp chặt xuống. Tôi nghe một tiếng tách và cổ tay phải tôi bị đập mạnh vào sàn xe. Bọn chúng lật tôi lại, gần như xé toạc vai tôi ra khỏi cơ thể. Hai trong số chúng. Bây giờ tôi có thể nhìn thấy chúng. Hai thằng, đều da trắng, có lẽ ba mươi tuổi. Tôi thấy chúng rõ ràng. Quá rõ. Tôi nhận dạng được chúng. Chúng cũng biết điều đó.

Thế này không tốt tẹo nào.

Chúng nện cổ tay kia của tôi vì vậy tôi nằm dang cánh như đại bàng trên sàn xe. Rồi chúng ngồi lên chân tôi. Giờ tôi bị trói chặt rồi và nằm tơ hơ hoàn toàn.

“Chúng mày muốn gì?” tôi hỏi.

Không đứa nào trả lời. Cái xe tải tạt vội vào một góc phố. Gã châu Á bự con chui vào, và cái xe lại lao đi. Hắn cúi xuống, đăm đăm nhìn tôi kiểu hơi tò mò.

“Tại sao mày đến công viên?” hắn hỏi tôi.

Giọng hắn làm tôi ngạc nhiên. Tôi đã nghĩ sẽ nghe thứ gì đó gầm gừ hay đe dọa, nhưng giọng hắn nhẹ nhàng, hơi the thé, và giống trẻ con đến kỳ quặc.

“Mày là ai?” tôi hỏi.

Hắn nện một cú xuống bụng tôi. Hắn nện tôi mạnh đến nỗi, tôi chắc là đốt ngón tay hắn quệt xuống tận sàn xe. Tôi cố gập hay uốn cong người lại, nhưng cái dây xích buộc và hai gã ngồi trên chân khiến điều đó là không thể. Không khí. Tất cả những gì tôi cần là không khí. Tôi nghĩ mình nôn ra mất.

Anh sẽ bị bám đuôi...

Toàn bộ những đề phòng - email không ký tên, mật mã, những lời cảnh báo - giờ chúng đều có nghĩa cả rồi. Elizabeth sợ. Tôi vẫn chưa có mọi câu trả lời - mẹ kiếp, tôi hầu như chả có câu nào - nhưng cuối cùng đã hiểu cách liên lạc kỳ bí của nàng là kết quả của sợ hãi. Sợ bị tìm thấy.

Bị những tên này tìm thấy.

Tôi ngạt thở. Mọi tế bào trong cơ thể tôi gào thét đòi oxy. Cuối cùng, tên châu Á gật đầu với hai gã kia. Chúng thả chân tôi ra. Tôi co đầu gối lên ngực. Tôi cố thu lấy ít không khí, quẫy đập như bị động kinh. Sau một lúc, hơi thở của tôi quay trở lại. Tên châu Á chậm rãi quỳ gối cạnh tôi. Tôi nhìn hắn không chớp mắt. Hay, ít nhất, tôi cố làm vậy. Nó không giống nhìn vào mắt một đồng loại hay thậm chí là một con thú. Đây là đôi mắt của thứ gì đó vô tri vô giác. Nếu bạn nhìn vào đôi mắt của một cái tủ đựng hồ sơ, cảm giác sẽ hệt thế này.

Nhưng tôi không chớp mắt.

Hắn cũng còn trẻ, cái tên bắt tôi ấy - khoảng hai mươi, hai lăm là cùng. Hắn đặt tay lên mé phía trong tay tôi, ngay trên khuỷu tay. “Tại sao mày đến công viên?” hắn hỏi lần nữa bằng cái kiểu ê a.

“Tao thích công viên,” tôi nói.

Hắn tì mạnh xuống. Chỉ hai ngón tay. Mồm tôi há hốc ra. Những ngón tay cắt vào da thịt và vào bó dây thần kinh. Mắt tôi bắt đầu lồi lên. Tôi chưa từng biết đến đau đớn nào như thế này. Nó đóng sập mọi thứ lại. Tôi vật qua vật lại như một con cá đang chết dần trên lưỡi câu. Tôi cố đá, nhưng chân tôi rơi xuống như những băng cao su. Tôi không thở được.

Hắn không buông ra.

Tôi vẫn đợi hắn nới tay ra một chút hay ngừng lại. Nhưng hắn không làm vậy. Tôi bắt đầu rên rỉ. Nhưng hắn vẫn giữ chặt tay, nét mặt tỉnh bơ như không.

Xe tải vẫn chạy. Tôi cố vượt qua nỗi đau, cố đập nó thành những cơn nhỏ hơn. Nhưng không thành công. Tôi cần được thả ra. Chỉ một giây thôi. Tôi cần hắn thả tay ra. Nhưng hắn vẫn giữ nguyên như thế. Hắn tiếp tục nhìn tôi bằng đôi mắt trống rỗng kia. Đầu tôi nặng dần. Tôi không nói nổi - ngay cả nếu tôi muốn nói cho hắn điều hắn muốn biết, cổ họng tôi nghẹt cứng. Và hắn biết thế.

Thoát khỏi sự đau đớn. Đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến. Làm thế nào tôi thoát khỏi sự đau đớn? Toàn thể sự tồn tại của tôi dường như tập trung và đổ về cái bó dây thần kinh đó trên tay. Cơ thể như bị thiêu cháy, sọ như bị đè nặng.

Khi đầu tôi sắp sửa nổ tung, đột nhiên hắn thả tay ra. Tôi lại há hốc mồm, lần này nhẹ nhõm. Nhưng chỉ trong chốc lát. Tay hắn bắt đầu trườn xuống bụng dưới tôi và dừng lại đó.

“Tại sao mày đến công viên?”

Tôi cố nghĩ, để bịa ra một lời nói dối tươm tất. Nhưng hắn không cho tôi thời gian. Hắn kẹp sâu hơn, và sự đau đớn quay trở lại, kiểu gì đó còn tồi tệ hơn trước. Ngón tay của hắn xuyên vào gan tôi như một lưỡi lê. Tôi bắt đầu giật mạnh dây xích trói. Miệng tôi há hốc ra trong một tiếng hét không cất lên nổi.

Tôi quằn quại trên sàn xe. Và khi đó, giữa cơn vật vã, tôi nhìn thấy phía sau đầu tên lái xe. Xe dừng lại, có lẽ chờ đèn đỏ. Tên lái xe nhìn thẳng phía trước - nhìn đường, tôi nghĩ thế. Rồi mọi thứ xảy ra cực nhanh.

Tôi nhìn thấy đầu tên lái xe quay sang phía cửa sổ chỗ hắn như thể hắn nghe thấy một tiếng động. Nhưng đã quá muộn. Một thứ đập vào phía bên sọ hắn. Hắn ngã vật xuống như một con vịt trời bị bắn. Cửa trước xe mở ra.

“Giờ giơ tay lên!”

Súng xuất hiện. Hai khẩu. Chĩa ra phía sau. Tay châu Á thả ra. Tôi nằm phịch xuống, không cử động được.

Phía sau khẩu súng tôi nhìn thấy hai gương mặt thân quen, và suýt gào lên sung sướng.

Tyrese và Brutus.

Một trong hai tên da trắng cử động. Tyrese nổ súng luôn. Ngực tên kia nổ tung. Hắn ngã ra sau mắt mở trừng trừng. Chết. Không nghi ngờ gì. Phía trước, tên tài xế rên rỉ, bắt đầu gượng dậy. Brutus dùng khuỷu tay nện một phát thật lực vào mặt hắn. Tên lái xe im lặng trở lại.

Gã da trắng còn lại giơ tay lên. Tên tra tấn châu Á của tôi nét mặt không hề thay đổi. Hắn nhìn như thể từ một nơi xa xăm nào đó, không giơ cũng không hạ tay. Brutus ngồi vào ghế lái xe rồi sang số cho xe chạy. Tyrese vẫn giơ súng nhằm thẳng vào tên châu Á.

“Cởi trói cho nó,” Tyrese nói.

Tên da trắng nhìn tên châu Á. Tên châu Á gật đầu đồng ý. Tên da trắng cởi trói cho tôi. Tôi cố ngồi dậy. Có cảm giác như thứ gì đó trong người tôi đã vỡ vụn ra và những mảnh vỡ đang đâm vào các mô.

“Anh ổn chứ?” Tyrese hỏi.

Tôi cố lắm mới gật được đầu.

“Anh muốn tôi khử chúng?”

Tôi quay sang tên da trắng vẫn còn thở. “Ai thuê mày?”

Tên da trắng đảo mắt sang tên châu Á trẻ. Tôi cũng làm thế.

“Ai thuê mày?” tôi hỏi hắn.

Tên châu Á cuối cùng mỉm cười, nhưng mắt hắn vẫn nhìn như thế. Và rồi, một lần nữa, mọi thứ xảy ra quá nhanh.

Tôi không hề thấy tay hắn giơ ra, nhưng điều tiếp theo tôi biết là tên châu Á túm lấy gáy tôi. Hắn ném tôi một cách dễ dàng về phía Tyrese. Tôi thực sự bay trong không trung, chân đá loạn xạ như thể như vậy có thể giúp tôi bay chậm lại. Tyrese thấy tôi lao tới, nhưng anh không tránh được. Tôi rơi lên người anh. Tôi cố lăn xuống thật nhanh, nhưng ngay khi chúng tôi đứng lên được, tay châu Á đã thoát ra ngoài qua cửa bên xe tải.

Hắn đi mất.

“Mẹ kiếp thằng lại giống Lý Tiểu Long,” Tyrese nói.

Tôi gật đầu.

Tên lái xe tỉnh lại lần nữa. Brutus toan vung một cú đấm, nhưng Tyrese bảo thôi. “Hai thằng này không biết vẹo gì đâu,” anh nói với tôi.

“Tôi biết.”

“Chúng ta giết chúng hoặc để chúng đi.” Như thể hai cách đó, chả có gì quan trọng lắm, một cú tung đồng xu.

“Để chúng đi,” tôi nói.

Brutus tìm một khu yên tĩnh, có lẽ khu nào đó ở Bronx, tôi không chắc lắm. Tên da trắng vẫn còn thở tự mình biến ra ngoài. Brutus kéo tên lái xe và cái gã bị chết kia ra như rác rưởi của ngày hôm qua. Chúng tôi lại cho xe chạy. Trong một vài phút, không ai nói gì.

Tyrese vòng tay ra sau cổ rồi ngả người. “May là có chúng tôi lảng vảng bên cạnh, nhỉ, bác sĩ nhỉ?”

Tôi gật đầu với câu mà tôi nghĩ là lời nói giảm đến 1.000 lần.
 
Chương 32


Hồ sơ khám nghiệm tử thi được lưu tại một kho lớn ở Layton, New Jersey, không cách xa vùng ranh giới Pennsylvania lắm. Đặc vụ Nick Carlson đến một mình. Anh ta không ưa những chỗ lưu trữ như thế này cho lắm. Chúng làm anh có cảm giác sởn gai ốc. Mở hai mươi tư giờ một ngày, không bảo vệ, chỉ có một camera an ninh theo dõi ở lối ra vào... Chỉ có Chúa mới biết cái quái gì bị khóa trong cái nhà xi măng kia. Carlson biết thuốc phiện, thuốc, và hàng lậu thuế đủ thể loại được chứa trong đó. Việc này không làm anh ta bận tâm lắm. Nhưng anh ta nhớ một vài năm trước khi một ủy viên ban chấp hành ngành dầu bị bắt cóc và tống vào thùng trong một chỗ ở đây. Ông ủy viên này bị ngạt thở mà chết. Carlson có mặt ở đó khi họ tìm thấy ông ta. Kể từ đó, anh ta tưởng tượng những người đang sống cũng ở đây, ngay giây phút này, bị mất tích một cách bí ẩn, chỉ cách chỗ anh ta đứng vài mét, bị trói trong bóng tối, gắng sức mở miếng dán bịt mồm.

Người ta thường bảo đây là một thế giới bệnh hoạn. Họ không biết tí gì cả.

Timothy Harper, nhân viên khám định pháp y hạt bước ra từ một phòng giống như cái gara, cầm một phong bì nhựa lớn có dây buộc quanh. Ông ta đưa cho Carlson hồ sơ khám nghiệm tử thi có tên Elizabeth Beck trên đó.

“Anh phải ký vào mới mượn được,” Harper nói.

Carlson ký vào tờ đơn.

“Beck không bảo với ông tại sao anh ta muốn xem nó?” Carlson hỏi.

“Anh ta nói về một người chồng đau đớn khổ sở và điều gì đó về kết thúc, nhưng ngoài chuyện đó...” Harper nhún vai.

“Anh ta có hỏi ông điều gì khác về vụ án không?”

“Không có gì đặc biệt.”

“Thế còn những thứ không đặc biệt?”

Harper nghĩ một lát. “Anh ta hỏi tôi có nhớ ai nhận dạng thi thể không.”

“Ông có nhớ không?”

“Không, đầu tiên thì không.”

“Ai nhận dạng cô ấy?”

“Cha cô ấy. Rồi anh ta hỏi tôi mất bao lâu?”

“Cái gì mất bao lâu?”

“Nhận dạng.”

“Tôi không hiểu.”

“Nói thật là tôi cũng không. Anh ta muốn biết cha cô ấy có nhận dạng được ngay lập tức không hay phải mất một vài phút.”

“Tại sao anh ta lại muốn biết chuyện đó?”

“Tôi không biết.”

Carlson cố hiểu xem tại sao lại thế, nhưng không nghĩ ra được gì. “Ông trả lời anh ta thế nào?”

“Sự thật thôi. Tôi không nhớ. Tôi cho rằng ông ta nhận dạng trong một khoảng thời gian bình thường nếu không tôi đã nhớ rõ hơn rồi.”

“Còn gì nữa không?”

“Không, thực sự,” ông ta nói. “Nghe này, nếu chúng ta xong ở đây rồi, tôi còn hai đứa nhóc lao nát một chiếc Civic vào cột điện cao thế đang đợi tôi.”

Carlson nắm chặt hồ sơ trong tay mình. “Ừ,” anh ta nói. “Chúng ta xong rồi. Nhưng nếu tôi cần gặp ông?”

“Tôi ở văn phòng.”

Peter Flannery, luật sư hành nghề đang tôtô mấy chữ cái màu vàng phai lên lớp kính mờ trên cửa. Có một cái lỗ trên kính to bằng nắm đấm. Ai đó đã đắp lên đó một miếng băng dính màu xám. Miếng băng dính trông đã cũ.

Tôi kéo vành mũ thấp xuống. Người tôi đau đớn âm ỉ sau khi trải qua thử thách với tên châu Á bự con. Chúng tôi đã nghe thấy tên tôi trên đài phát thanh cho bạn đi vòng quanh thế giới trong vòng hai mươi hai phút. Tôi chính thức bị truy nã.

Khó mà che đậy được. Tôi đang gặp rắc rối cực lớn vậy mà tất cả những chuyện đó có vẻ xa xôi một cách kỳ lạ, như thể nó đang xảy ra với một ai đó mà tôi hầu như không hề quen biết. Tôi, tôi đây, cái thằng đứng ngay đây, không thèm quan tâm. Tôi chỉ có một mục tiêu duy nhất: tìm Elizabeth. Những thứ còn lại chỉ là phông nền thôi.

Tyrese đi cùng tôi. Chưa đến chục người rải rác ở phòng đợi. Hai đeo những chiếc vòng cổ tinh vi. Một với con chim trong lồng. Tôi không biết tại sao. Không ai buồn liếc lên nhìn chúng tôi, như thể họ cân nhắc nỗ lực ngước mắt lên nhìn chúng tôi xem có lợi ích gì không và quyết định, này, không đáng.

Cô lễ tân đội mái tóc giả gớm guốc nhìn chúng tôi như thể chúng tôi vừa chòi lên từ phía sau một con chó.

Tôi yêu cầu gặp Peter Flannery.

“Luật sư đang có khách hàng.” Cô ta không nhai kẹo cao su, nhưng gần như thế.

Tyrese bèn đến lo liệu. Như một pháp thuật gia với đôi tay khéo léo hết cỡ, anh ném ra một tập tiền mặt dày hơn cổ tay tôi. “Bảo với ông ta chúng tôi trả tiền thuê trước.” Rồi, cười toét, anh nói thêm, “Một cho cô nữa, nếu ngay bây giờ chúng tôi được vào gặp ông ta.”

Hai phút sau, chúng tôi được dẫn vào phòng riêng của Ngài Flannery. Căn phòng có mùi khói xì gà và Lemon Pledge. Đồ gỗ đóng thành bộ, loại bạn có thể tìm thấy ở Kmart hay Bradlees, sơn đen, giả gỗ sồi gỗ gụ đắt tiền vì thế tạo cảm giác chẳng khác gì một mớ tóc giả Las Vegas. Không có bằng tốt nghiệp nào trên tường, chỉ có thứ đồ dỏm ngớ ngẩn mà con người kê vào kia để gây ấn tượng với những kẻ dễ bị gây ấn tượng. Một bảng kỷ niệm tư cách hội viên của Flannery trong “Hiệp hội Thưởng rượu Thế giới”. Một bảng ghi chú hoa mỹ ông đã từng tham dự “Hội thảo về luật tại Long Island” năm 1996. Thành tựu lớn. Có những bức ảnh cũ mèm chụp Flannery khi còn trẻ cùng với cái mà tôi đoán hoặc là sao hoặc là chính trị gia địa phương, nhưng tôi không nhận ra ai cả. Một bức ảnh đấu golf của hai cặp chơi đặt trong khung-giống-gỗ chễm chệ oai nghiêm như một giải thưởng sau bàn làm việc.

“Rất hân hạnh,” Flannery nói với một cái vẫy tay vồn vã. “Xin mời ngồi, thưa các quý ông.”

Tôi ngồi xuống. Tyrese vẫn đứng, khoanh tay lại, và dựa vào bức tường phía sau.

“Vậy,” Flannery nói, kéo dài từ đó ra như đang nhai một miếng thuốc lá, “tôi có thể làm gì cho ông?”

Peter Flannery có vẻ bề ngoài của vận-động-viên-đã-thành-hạt-giống. Mái tóc từng một thời vàng óng của ông ta giờ đã mỏng và bỏ đi gần hết. Các nét trên khuôn mặt đã thay đổi. Ông ta mặc một bộ comlê gồm cả gilê bằng tơ nhân tạo - tôi đã không nhìn thấy một cái như thế từ lâu lắm rồi - và bộ quần áo thậm chí có một cái đồng hồ để túi được gắn vào sợi dây bằng vàng giả.

“Tôi cần hỏi ông về một vụ án cũ,” tôi nói.

Mắt ông ta vẫn mang màu xanh biếc của tuổi trẻ, và ông ta hướng chúng về phía tôi. Trên bàn, tôi nhìn thấy một tấm ảnh chụp Flannery và một phụ nữ béo ú cùng một đứa bé gái chừng khoảng mười bốn tuổi dứt khoát đang ở trong giai đoạn vật vã chuyển giao từ trẻ con thành người lớn. Họ đều mỉm cười, nhưng tôi thấy cả một cái cau mày ở đó nữa, như thể họ đang kết nối chuẩn bị chống lại một tai họa.

“Một vụ cũ?” ông ta nhắc lại.

“Vợ tôi đến gặp ông cách đây tám năm. Tôi cần biết gặp vì chuyện gì.”

Mắt Flannery liếc sang Tyrese. Tyrese vẫn đứng khoanh tay và cho ông ta thấy không gì khác hơn một cặp kính râm. “Tôi không hiểu. Đây có phải là một vụ ly dị không?”

“Không,” tôi nói.

“Vậy...?” Ông ta giơ hai tay lên và ném cho tôi cái nhún vai tôi-rất-muốn-giúp. “Bảo mật thông tin giữa luật sư-khách hàng. Tôi không biết làm thế nào tôi giúp ông được.”

“Tôi không nghĩ cô ấy là một khách hàng.”

“Ông làm tôi thấy khó hiểu, ông...” Ông ta đợi tôi điền vào chỗ trống.

“Beck,” tôi nói. “Và tôi là bác sĩ, không phải ông.”

Cái cằm đôi của ông ta trề ra khi nghe thấy tên tôi. Tôi tự hỏi có lẽ ông ta đã nghe các bản tin. Nhưng tôi không nghĩ là thế.

“Vợ tôi tên là Elizabeth.”

Flannery không nói gì.

“Ông nhớ cô ấy chứ?”

Một lần nữa ông ta lại liếc nhìn Tyrese.

“Cô ấy có phải là khách hàng không, ông Flannery?”

Ông ta hắng giọng. “Không,” ông ta nói. “Không, cô ấy không phải là khách hàng.”

“Nhưng ông nhớ đã gặp cô ấy?”

Flannery nhấp nhổm trong ghế. “Phải.”

“Hai người bàn luận chuyện gì?”

“Đã lâu lắm rồi, bác sĩ Beck.”

“Có phải ông đang nói là ông không nhớ?”

Ông ta không trả lời câu đó một cách trực tiếp. “Vợ ông,” ông ta nói. “Cô ấy bị giết, phải không? Tôi nhớ nhìn thấy chuyện gì đó như thế trên báo.”

Tôi cố tiếp tục chủ đề cũ. “Tại sao cô ấy lại đến đây, ông Flannery?”

“Tôi là một luật sư,” ông ta nói, và ông ta gần như hổn hển.

“Nhưng không phải của cô ấy.”

“Hơn nữa,” ông ta nói, cố gắng giành lấy chút ảnh hưởng, “tôi cần được bồi thường cho thời gian của tôi.” Ông ta ho vào nắm tay. “Ông đã đề cập một thứ gì đó về tiền đặt cọc trả trước.”

Tôi nhìn qua vai, nhưng Tyrese đang bước tới. Một xấp tiền được lôi ra và anh đang bóc ra những tập dollar. Anh ném ba tệp Ben Franklin lên bàn, ném cho Flannery một cái nhìn dữ dội qua cặp kính râm, rồi bước lại chỗ của mình.

Flannery nhìn số tiền nhưng không sờ vào chúng. Ông ta chắp đầu ngón tay với nhau rồi áp sát lòng bàn tay lại. “Giả sử tôi từ chối nói với ông.”

“Tôi không thấy vì sao ông sẽ làm thế,” tôi nói. “Liên lạc của ông với cô ấy đâu có bị rơi vào quyền cấm nói, phải không?”

“Tôi không nói đến chuyện đó,” Flannery nói. Mắt ông ta soi mói nhìn tôi và ông ta ngập ngừng. “Ông có yêu vợ không, bác sĩ Beck?”

“Rất nhiều.”

“Ông đã tái hôn chưa?”

“Chưa,” tôi nói. Rồi: “Chuyện đó thì có liên quan gì?”

Ông ta ngồi ngả ra sau. “Đi đi,” ông ta nói. “Cầm lấy tiền của ông và đi đi.”

“Chuyện này quan trọng, ông Flannery ạ.”

“Tôi không hình dung ra nổi. Cô ấy đã chết tám năm rồi. Kẻ giết cô ấy bây giờ sắp bị tử hình.”

“Ông sợ nói cho tôi biết điều gì?”

Flannery không trả lời ngay lập tức. Tyrese một lần nữa tách mình khỏi tường. Anh tiến lại gần bàn. Flannery nhìn dõi theo anh và làm tôi ngạc nhiên bằng một tiếng thở dài mệt mỏi. “Làm ơn cho tôi một việc,” ông ta nói với Tyrese. “Đừng làm điệu bộ, okay? Tôi đã đại diện cho những đứa thần kinh khiến anh trông giống như Mary Poppins.”

Tyrese trông như thể sẽ phản ứng lại, nhưng không ích gì. Tôi gọi anh. Anh nhìn tôi. Tôi lắc đầu. Tyrese lùi lại. Flannery đang kéo kéo môi dưới của ông ta. Tôi để ông ta làm thế. Tôi có thể đợi.

“Ông không muốn biết đâu,” ông ta nói với tôi sau một lúc.

“Có, tôi muốn.”

“Nó không thể đưa vợ ông quay lại.”

“Biết đâu nó có thể,” tôi nói.

Câu đó khiến ông ta chú ý. Ông ta cau mày nhìn tôi, nhưng rồi lại giãn ra.

“Làm ơn,” tôi nói.

Ông ta xoay ghế sang một bên rồi nghiêng lại, đăm đăm nhìn vào những cái rèm cửa sổ đã ngả sang màu vàng và xấu xí đi vào thời điểm nào đó trong suốt vụ Watergate. Ông ta chắp tay lại và để lên bụng. Tôi nhìn tay ông ta lên cao rồi xuống thấp khi ông ta thở.

“Khi đó tôi là một luật sư biện hộ cho công chúng,” ông ta bắt đầu. “Ông biết đó là gì chứ?”

“Ông bênh vực người nghèo,” tôi nói.

“Kiểu thế. Quyền Miranda - chúng đề cập đến quyền được xin ý kiến luật sư nếu anh có đủ tiền mà trả. Tôi là gã anh sẽ có được khi anh không có đủ tiền.”

Tôi gật đầu, nhưng ông ta vẫn nhìn cái rèm cửa.

“Tuy nhiên, tôi được giao cho một trong những phiên tòa xử vụ giết người đình đám nhất trong bang.”

Thứ gì đó lạnh ngắt chui vào bụng tôi.

“Của ai?” tôi hỏi.

“Brandon Scope. Con trai tỉ phú. Anh có nhớ vụ đó không?”

Tôi lạnh cứng, kinh hãi. Tôi gần như không thở nổi. Cái tên ít nhiều gây ngạc nhiên của Flannery nghe quen quen. Brandon Scope. Tôi suýt lắc đầu, không phải vì tôi không nhớ vụ đó, mà vì tôi muốn ông ta nói bất cứ điều gì ngoại trừ cái tên đó.

Để cho rõ ràng, tôi xin cung cấp vài thông tin cơ bản cho bạn: Brandon Scope, ba mươi ba tuổi, bị cướp và giết cách đây tám năm. Phải, tám năm trước. Có lẽ khoảng hai tháng trước khi Elizabeth bị giết. Anh ta bị bắn hai phát và xác bị quăng gần một công trường ở Harlem. Tiền bị mất. Báo chí véo von mãi về sự kiện này. Họ ca ngợi hết lời việc làm từ thiện của Brandon Scope. Họ kể anh ta giúp đỡ bọn trẻ đường phố như thế nào, anh ta thích làm việc với người nghèo hơn là điều hành tập đoàn đa quốc gia của bố anh ta như thế nào, ba cái trò kiểu đó. Đó là một trong những vụ giết người làm “rung chuyển cả đất nước” và dẫn đến hàng đống chỉ trỏ, siết tay. Một quỹ từ thiện đã được thành lập mang tên anh chàng họ Scope trẻ tuổi. Chị gái tôi, Linda, điều hành quỹ đó. Bạn sẽ không tin những việc tốt mà nó làm ở đó đâu.

“Tôi có nhớ,” tôi khẽ nói.

“Anh có nhớ đã bắt được một tên không?”

“Một thằng nhóc đường phố,” tôi nói. “Một trong những đứa anh ta giúp đỡ, phải không?”

“Phải. Họ bắt Helio Gonzalez, khi đó hai mươi hai tuổi. Một khách cư trú tại Barker House ở Harlem. Có một bảng kết án trọng tội đọc như tiểu sử sự nghiệp của một nhân vật trong Hội Danh nhân. Cướp có vũ khí, cố ý gây hỏa hoạn, hành hung, ánh dương chói lóa thực sự, Ngài Gonzalez của chúng ta.”

Miệng tôi khô ran. “Chẳng phải những lời buộc tội cuối cùng cũng bị bác bỏ là gì?” tôi hỏi.

“Phải. Thực ra họ không có nhiều chứng cớ lắm. Dấu vân tay của nó được tìm thấy tại hiện trường, nhưng cũng đầy dấu vân tay của những kẻ khác. Có vài cọng tóc của Scope và thậm chí cả một vết máu đúng là của Scope được tìm thấy chỗ Gonzalez sống. Nhưng Scope trước đó có đến khu nhà này. Chúng ta có thể dễ dàng chứng minh sự hiện diện của mấy cái thứ kia ở đó. Tuy nhiên, họ cũng có đủ bằng chứng để bắt giữ, và cảnh sát chắc chắn có thứ gì đó sẽ được phát hiện ra nữa.”

“Vậy chuyện gì đã xảy ra?” tôi hỏi.

Flannery vẫn không nhìn tôi. Tôi không thích điều đó. Flannery là loại người sống vì thế giới những đôi giày bóng loáng Willy Loman và giao tiếp bằng mắt. Tôi hiểu kiểu người đó. Tôi không muốn dính dáng gì tới họ, nhưng tôi hiểu họ.

“Cảnh sát biết được chính xác giờ chết,” ông ta nói tiếp. “Bác sĩ pháp y đưa ra một tờ tổng kết kết quả khám nghiệm hoàn hảo, tìm được nhiệt độ của gan. Scope bị giết lúc 11 giờ. Có thể đẩy đi sớm hoặc muộn hơn nửa giờ, nhưng là khoảng đó.”

“Tôi không hiểu,” tôi nói. “Chuyện này thì có liên quan gì đến vợ tôi?”

Ông ta lại chắp những đầu ngón tay. “Tôi biết vợ ông cũng làm việc với người nghèo,” ông ta nói. “Trên thực tế còn là cùng văn phòng với nạn nhân.”

Tôi không hiểu chuyện này sẽ dẫn tới đâu, nhưng tôi biết mình sẽ không thích. Trong một giây lướt qua, tôi tự hỏi liệu Flannery có đúng, liệu tôi có thực sự không muốn nghe điều mà ông ta phải nói, liệu tôi chỉ nên lôi mình đứng lên khỏi ghế và quên tất cả chuyện này đi. Nhưng tôi nói, “Thế thì sao?”

“Thật cao quý,” ông ta khẽ gật đầu nói. “Làm việc với những kẻ bị áp bức.”

“Rất mừng khi ông nghĩ thế.”

“Đó chính là lý do trước tiên tôi đi vào ngành luật. Để giúp người nghèo.”

Tôi nuốt mật xuống và ngồi thẳng lên một chút. “Ông cảm phiền nói cho tôi biết vợ tôi thì có liên quan gì đến những chuyện này?”

“Cô ấy cho nó tự do.”

“Ai?”

“Khách hàng của tôi. Helio Gonzalez. Vợ anh cho nó tự do.”

Tôi nhíu mày. “Như thế nào?”

“Cô ấy cho nó một chứng cớ ngoại phạm.”

Tim tôi ngừng lại. Phổi tôi cũng thế. Tôi gần như phải nện vào ngực để những bộ máy bên trong hoạt động trở lại.

“Làm thế nào?” tôi hỏi.

“Làm thế nào cô ấy cho nó một chứng cớ ngoại phạm?”

Tôi đờ đẫn gật đầu, nhưng ông ta vẫn không nhìn. Tôi rền rĩ thốt ra một tiếng phải.

“Đơn giản,” ông ta nói. “Cô ấy và Helio ở cùng nhau trong khoảng thời gian nghi vấn.”

Trí óc tôi bắt đầu phiêu bạt, trôi lênh đênh trên đại dương, không có phao cứu hộ nào để mà với nổi. “Tôi chưa bao giờ thấy bất cứ điều nào về chuyện này trên báo chí cả,” tôi nói.

“Nó được giữ kín.”

“Tại sao?”

“Trước hết, do vợ anh yêu cầu. Và văn phòng công tố viên không muốn lần bắt bớ sai lầm của họ được phổ biến rộng rãi. Vì vậy nó được giữ kín hết mức có thể. Thêm vào đó, à ừm, có vấn đề với lời khai của vợ anh.”

“Vấn đề gì?”

“Đại khái lúc đầu cô ấy nói dối.”

Càng phiêu bạt hơn. Chìm xuống dưới. Nổi lên trên. Phiêu bạt. “Ông đang nói cái gì thế?”

“Vợ anh khẳng định rằng cô ấy đang làm công việc tư vấn gì đó với Gonzalez tại văn phòng quỹ từ thiện vào thời điểm xảy ra vụ án mạng. Không ai thực sự tin chuyện đó.”

“Tại sao không?”

Ông ta nhướng mày nghi hoặc. “Tư vấn công việc vào lúc 11 giờ đêm?”

Tôi đờ đẫn gật đầu.

“Vì vậy với tư cách luật sư bào chữa cho ngài Gonzalez, tôi nhắc nhở vợ anh rằng cảnh sát sẽ điều tra chứng cớ ngoại phạm của cô ấy. Rằng, chẳng hạn, văn phòng tư vấn có camera quan sát và có băng quay người ra vào. Lúc đó cô ấy mới thẳng thắn.”

Ông ta dừng lại.

“Tiếp đi,” tôi nói.

“Rõ ràng rồi còn gì?”

“Nói rõ cho tôi.”

Flannery nhún vai. “Cô ấy muốn tránh cho chính cô ấy và ông, tôi đoán, sự nhục nhã. Đó là lý do vì sao cô ấy khăng khăng đòi giữ bí mật. Cô ấy ở chỗ của Gonzalez, bác sĩ Beck ạ. Họ đã ngủ với nhau được hai tháng rồi.”

Tôi không phản ứng. Không ai nói gì. Xa xa, tôi nghe tiếng một con chim quác quác. Chắc hẳn là con chim trong phòng đợi. Tôi đứng lên. Tyrese lùi lại một bước.

“Cám ơn ông đã dành thời gian,” tôi nói bằng giọng bình tĩnh nhất mà bạn từng được nghe.

Flannery gật đầu với cái rèm cửa sổ.

“Đó không phải là sự thật,” tôi nói với ông ta.

Ông ta không đáp lại. Nhưng rồi một lần nữa, tôi đã không hy vọng là ông ta sẽ đáp lại.
 
Chương 33


Carlson ngồi trong xe. Cà vạt vẫn thắt nút quá mức tỉ mỉ. Áo khoác đã cởi ra, treo trên cần gỗ ở móc ghế sau. Máy điều hòa phả luồng hơi to và mạnh. Carlson đọc phong bì đựng hồ sơ khám nghiệm tử thi: Elizabeth Beck, Hồ sơ vụ án số 9487002. Tay anh ta lần tháo dây buộc. Phong bì mở ra. Carlson rút giấy tờ bên trong ra và trải lên ghế bên cạnh.

Bác sĩ Beck muốn xem cái gì?

Stone đã cho anh ta câu trả lời rõ ràng: Beck muốn biết có thứ gì khác có thể buộc tội hắn. Câu trả lời này khớp với những giả thuyết trước đó của họ, và sau rốt, Carlson chính là người đầu tiên bắt đầu nghi vấn kết quả đã được chấp nhận trong vụ án giết Elizabeth Beck. Anh ta đã là người đầu tiên tin rằng vụ án mạng không phải như vẻ bề ngoài của nó - rằng thực ra chính bác sĩ David Beck, người chồng, mới là kẻ lên kế hoạch giết vợ.

Vậy tại sao anh ta lại thôi không tin giả thuyết đó nữa?

Anh ta đã xem xét tỉ mỉ những lỗ hổng giờ đây hoác ra trong giả thuyết đó, nhưng Stone đã thuyết phục để đắp chúng lại nhiệt tình không kém. Vụ nào chả có lỗ hổng. Carlson biết điều đó. Vụ nào cũng có những chỗ mâu thuẫn. Nếu không có, cược mười ăn một là bạn đã để lỡ thứ gì đó.

Vậy tại sao giờ đây anh ta lại nghi ngờ việc phạm tội của Beck?

Có lẽ nó có liên quan tới việc vụ án trở nên quá rõ ràng, tất cả bằng chứng đột nhiên xếp hàng và hợp tác với giả thuyết của họ. Hoặc có thể nghi ngờ của anh ta là dựa trên thứ gì đó không đáng tin cậy như “trực giác”, mặc dù Carlson chưa bao giờ là fan cuồng nhiệt của khía cạnh đặc biệt đó trong công việc điều tra. Trực giác thường là cách đi tắt, một kỹ thuật thuận tiện thay thế các bằng chứng và lập luận khó bằng một thứ còn khó nắm bắt và thất thường hơn rất nhiều. Những thanh tra kém cỏi nhất mà Carlson biết làm việc dựa vào cái gọi là trực giác.

Anh ta cầm tờ trên cùng lên. Thông tin cơ bản. Elizabeth Parker Beck. Địa chỉ, ngày sinh (cô mới hai mươi lăm khi chết), nữ da trắng, cao 1m71, nặng 49 kg. Gầy. Khám nghiệm bên ngoài cho thấy xác chết không còn cứng nữa. Có những chỗ rộp trên da và chất lỏng chảy ra từ các lỗ trên cơ thể. Điều đó cho thấy thời gian chết là đã hơn ba ngày. Nguyên nhân cái chết là do một nhát dao đâm vào ngực. Cơ chế chết là bị mất máu và xuất huyết nghiêm trọng ở động mạch chủ bên phải. Còn có những vết rách trên tay và ngón tay, theo giả thuyết là do cô cố chống cự lại khi bị dao tấn công.

Carlson lấy sổ và bút Mont Blanc ra. Anh ta viết những vết thương do chống cự lại dao?!?! Và rồi anh ta gạch dưới vài lần. Những vết thương do chống cự. Thế không phải kiểu của KillRoy. KillRoy tra tấn nạn nhân của y. Y trói họ bằng dây thừng, làm bất cứ thứ gì, và một khi họ không còn màng gì nữa, y giết họ.

Tại sao lại có những vết thương do chống cự lại dao trên tay cô ấy?

Carlson tiếp tục đọc. Anh ta lướt qua phần tóc và màu mắt, và rồi, ở nửa cuối trang hai, anh ta thấy một điều phải kinh ngạc nữa.

Elizabeth Beck bị đóng dấu sau khi chết.

Carlson đọc lại lần nữa. Anh ta mở sổ ra và ngoáy vội cụm từ sau khi chết. Không hợp lý. KillRoy luôn đóng dấu nạn nhân của y khi họ còn sống. Nhiều thứ đã được làm rõ tại phiên tòa về việc y thích cái mùi thịt cháy xèo xèo như thế nào, y thích thú những tiếng kêu gào của nạn nhân như thế nào khi đóng dấu bằng sắt nung lên người họ.

Đầu tiên, những vết thương chống cự. Giờ là cái này. Thứ gì đó không khớp.

Carlson bỏ kính ra và nhắm mắt lại.

Lộn xộn, anh ta nghĩ thầm. Lộn xộn làm anh ta khó chịu. Hy vọng tìm thấy những lỗ hổng về mặt logic, đúng thế, nhưng rồi lại hóa thành những vết thương rộng hoác ra. Một mặt, hồ sơ khám nghiệm tử thi làm vững chắc giả thuyết đầu tiên của anh ta rằng vụ giết Elizabeth Beck đã được dàn dựng để trông giống sản phẩm của KillRoy. Nhưng bây giờ, nếu đó là sự thật, giả thuyết đó đang bị tách ra khỏi mặt còn lại.

Anh ta cố đi từng bước một. Trước tiên, tại sao Beck lại quá thiết tha muốn xem hồ sơ này? Bề ngoài thì câu trả lời giờ đây rõ ràng. Bất cứ ai đọc kỹ những kết quả này cũng nhận ra rằng có một khả năng cực lớn KillRoy không phải là kẻ giết Elizabeth. Tuy nhiên, đó không phải thứ sẵn đúng. Kẻ giết người hàng loạt, mặc cho những gì bạn có thể đọc, không phải là sinh vật của thói quen. KillRoy rất có thể đã thay đổi cách thức hoạt động của hắn hoặc tìm kiếm sự đa dạng nào đó. Thêm nữa, với những gì Carlson đọc được ở đây, có đủ thứ khiến người ta phải cân nhắc.

Nhưng tất cả những thứ này chỉ làm nảy sinh một câu hỏi lớn mà không ai trước đó chịu giải đáp: Tại sao không một ai nhận thấy những bằng chứng này đầy mâu thuẫn vào lúc đó?

Carlson sắp xếp các khả năng. KillRoy chưa bao giờ bị khởi tố bởi tội giết Elizabeth Beck. Lý do bây giờ khá rõ ràng rồi. Có lẽ các nhân viên điều tra đã nghi ngờ sự thật. Có lẽ họ nhận ra trường hợp Elizabeth Beck không khớp, nhưng công bố sự thật đó ra sẽ chỉ giúp cho việc biện hộ cho KillRoy. Vấn đề trong việc khởi tố một tên giết người hàng loạt là bạn giăng một cái lưới quá rộng, thứ gì đó sẽ bật lên bay tuột ra ngoài. Tất cả những gì bên biện hộ phải làm là lọc ra một vụ, tìm ra những điểm không nhất quán, và bùm phát, những vụ khác bị hủy hoại do có liên quan với nhau. Vì vậy không có thú tội, bạn khó mà xử hắn tất cả các vụ án mạng cùng một lúc được. Bạn phải làm thế từng bước một. Các nhân viên điều tra, nhận thức được điều này, có lẽ chỉ muốn vụ giết Elizabeth Beck cứ thế trôi đi.

Nhưng cũng có một số vấn đề với vụ đó nữa.

Cha và chú Elizabeth Beck - hai người đàn ông thuộc lực lượng thi hành pháp luật - đã nhìn thi thể. Họ rất có khả năng đã nhìn thấy bản khám nghiệm tử thi này. Chẳng lẽ họ không thắc mắc về những sự bất nhất này ư? Chẳng lẽ họ để cho tên giết cô ấy được tự do chỉ để đảm bảo việc kết án KillRoy? Carlson nghi ngờ chuyện đó.

Vậy chuyện này sẽ dẫn anh đến đâu đây?

Anh ta tiếp tục xem hồ sơ và vấp thêm phải một thứ điếng người nữa. Điều hòa trong xe bây giờ thực sự làm anh ta rét run, thấu tận xương. Carlson hạ một cửa sổ xuống và vặn chìa khóa tắt máy xe.

Phần trên tờ giấy viết: Kết quả nhiễm độc. Theo những xét nghiệm, cocaine và heroin đã được tìm thấy trong mạch máu Elizabeth Beck; ngoài ra có những dấu vết tìm thấy trên tóc và ven, cho thấy cô đã dùng thuốc phiện khá thường xuyên.

Cái này có khớp không? Carlson đang nghĩ thì điện thoại di động kêu. Anh ta bắt máy. “Carlson đây.”

“Chúng ta có cái này,” Stone nói.

Carlson bỏ hồ sơ xuống. “Cái gì?”

“Beck. Hắn đặt vé máy bay đi London từ sân bay JFK. Máy bay cất cánh trong hai giờ nữa.”

“Tôi đang trên đường tới đây.”

Tyrese đặt một tay lên vai tôi khi chúng tôi bước đi. “Bọn chó cái,” anh nói không biết bao nhiêu lần rồi. “Anh không thể tin tưởng chúng nó được.”

Tôi không buồn đáp lại.

Thoạt tiên tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi Tyrese có thể lần ra được Helio Gonzalez nhanh đến vậy, nhưng hệ thống đường phố cũng phát triển như mọi thứ khác. Hỏi một tay bán hàng trắng ở Morgan Stanley để định vị một đối tác ở Goldman Sachs và kết thúc chớp nhoáng. Yêu cầu tôi chuyển một bệnh nhân đến một bác sĩ bất kỳ trong bang chỉ mất một cú điện thoại. Tại sao những kẻ phạm trọng tội trên đường phố lại khác biệt?

Helio vừa hết kỳ nghỉ bốn năm trong bóng tối vì cướp có vũ khí. Nó cũng trông đúng như thế. Kính râm, khăn chụp đầu, áo phông trắng bên trong một sơ mi vải flannel chỉ cài nút trên vì thế trông nó giống áo choàng không tay hay cánh dơi. Tay áo được xắn lên, để hở ra những vết xăm thô bỉ khi ở tù được xăm lên cẳng tay và những cơ bắp có được trong tù cuồn cuộn bên dưới. Những cơ bắp có được khi ở tù này có vẻ bề ngoài không lẫn vào đâu được, bóng láng, như đá cẩm thạch khi đối sánh với những đối tác của nó ở các câu lạc bộ thể hình.

Chúng tôi ngồi khom người tại chỗ nào đó ở Queens. Tôi không thể nói cho bạn chính xác chỗ nào được. Một điệu Latinh nện ầm ầm trong ngực tôi. Những phụ nữ tóc đen đi thơ thẩn qua lại vận áo hai dây bó quá sát. Tyrese gật đầu với tôi. Tôi quay sang Helio. Trên mặt nó có một nụ cười ngớ ngẩn. Tôi nhìn nó khắp lượt và một từ cứ nhảy vào đầu tôi: đồ cặn bã. Đồ cặn bã không có cảm giác, cứng đầu. Bạn nhìn và biết nó sẽ tiếp tục gây ra những hủy hoại nghiêm trọng chừng nào nó còn sống. Vấn đề là nghiêm trọng đến mức nào. Tôi nhận ra cảnh này chẳng phải khoan dung từ thiện gì. Tôi cũng nhận ra nó cũng chỉ dựa vào vẻ bề ngoài, cũng giống hệt với Tyrese. Chuyện đó không quan trọng. Elizabeth có lẽ đã tin vào sự cứu chuộc cho những kẻ bị đường phố làm tha hóa hay mất ý thức đạo đức. Tôi vẫn còn đang vật lộn với nó.

“Vài năm trước, cậu bị bắt vì đã giết Brandon Scope,” tôi bắt đầu. “Tôi biết cậu đã được thả, và tôi không muốn gây cho cậu bất cứ rắc rối nào. Nhưng tôi cần biết sự thật.”

Helio bỏ kính râm xuống. Nó liếc nhìn Tyrese. “Mày mang một thằng cớm đến gặp tao?”

“Tôi không phải cớm,” tôi nói. “Tôi là chồng Elizabeth Beck.”

Tôi muốn một phản ứng. Tôi không nhận được gì cả. “Cô ấy là người đã cho cậu chứng cớ ngoại phạm.”

“Tôi biết cô ấy là ai.”

“Cô ấy có ở cùng cậu tối hôm đó?”

Helio nghĩ ngợi. “Có,” nó chậm chạp nói, mỉm cười với tôi để hở vài cái răng vàng. “Cô ấy đã ở với tôi suốt đêm.”

“Cậu nói dối,” tôi nói.

Helio nhìn lại Tyrese. “Này, chuyện gì đây?”

“Tôi cần biết sự thật,” tôi nói.

“Ông nghĩ tôi giết thằng Scope?”

“Tôi biết cậu không làm vậy.”

Điều đó khiến nó ngạc nhiên.

“Chuyện quái gì đang diễn ra ở đây thế?” nó nói.

“Tôi cần cậu khẳng định một điều cho tôi.”

Helio đợi.

“Cậu ở cùng với vợ tôi tối hôm đó, có hay không?”

“Ông muốn tôi nói gì, hả?”

“Sự thật.”

“Và nếu sự thật là cô ấy ở cùng tôi suốt đêm thì sao?”

“Đó không phải sự thật,” tôi nói.

“Điều gì khiến ông chắc chắn đến thế?”

Tyrese xen vào. “Nói với người này điều mà anh ta muốn biết.”

Helio lại suy nghĩ. “Đúng như cô ấy nói. Tôi làm cô ấy, được chưa? Xin lỗi ông, nhưng đó chính là chuyện đã xảy ra. Bọn tôi làm chuyện đó suốt đêm.”

Tôi nhìn Tyrese. “Để chúng tôi một mình trong một giây, okay?”

Tyrese gật đầu. Anh đứng dậy đi lại chỗ xe. Anh dựa vào cửa bên, tay khoanh lại, Brutus đứng cạnh. Tôi quay lại nhìn đăm đăm vào Helio.

“Cậu gặp vợ tôi lần đầu tiên ở đâu?”

“Tại trung tâm.”

“Cô ấy có giúp cậu?”

Nó nhún vai, nhưng không nhìn tôi.

“Cậu có biết Brandon Scope không?”

Một tia có lẽ là nỗi sợ hãi lướt qua mặt hắn. “Này, tôi đi đây.”

“Chỉ có cậu và tôi, Helio. Cậu có thể lục soát tìm xem trong người tôi có máy ghi lén nào không.”

“Ông muốn tôi từ bỏ chứng cớ ngoại phạm của tôi?”

“Phải.”

“Tại sao tôi lại làm như thế?”

“Bởi vì có một kẻ đang giết tất cả những người có liên quan tới chuyện đã xảy ra với Brandon Scope. Tối qua, bạn vợ tôi bị giết tại studio của cô ta. Chúng tóm tôi hôm nay, nhưng Tyrese đã can thiệp. Chúng cũng muốn giết vợ tôi.”

“Tôi nghĩ cô ấy chết rồi.”

“Chuyện dài lắm, Helio ạ. Nhưng tất thảy đang quay trở lại. Nếu tôi không tìm ra chuyện gì đã thực sự xảy ra, tất cả chúng ta cuối cùng sẽ chết sạch.”

Tôi không biết đây là thật hay nói quá. Tôi chẳng quan tâm.

“Cậu ở đâu đêm hôm đó?” tôi nhấn mạnh.

“Với cô ấy.”

“Tôi có thể chứng minh cậu không ở cùng cô ấy,” tôi nói.

“Cái gì?”

“Vợ tôi ở thành phố Atlantic. Tôi có những ghi chép của cô ấy. Tôi có thể chứng minh được điều đó. Tôi có thể thổi bay chứng cớ ngoại phạm của cậu, Helio ạ. Và tôi sẽ làm đấy. Tôi biết cậu không giết Brandon Scope. Nhưng vì vậy hãy giúp tôi, tôi sẽ để họ xử cậu vì tội đó nếu cậu không nói cho tôi biết sự thật.”

Bịp bợm. Một lời bịp bợm hết cỡ. Nhưng tôi có thể thấy nó vận hành tốt.

“Nói cho tôi nghe sự thật, và cậu được tự do,” tôi nói.

“Tôi không giết cái gã đó, tôi thề mà, ông.”

“Tôi biết,” tôi lại nói.

Nó nghĩ ngợi. “Tôi không biết tại sao cô ấy làm thế, được chưa?”

Tôi gật đầu, cố để nó tiếp tục nói.

“Tôi ăn trộm một nhà ở dưới Fort Lee đêm đó. Vì vậy tôi không có chứng cớ ngoại phạm. Tôi nghĩ tôi chết chắc rồi. Cô ấy cứu cái mạng tôi.”

“Cậu có hỏi cô ấy tại sao không?”

Nó lắc đầu. “Tôi chỉ làm theo. Luật sư của tôi nói với tôi những gì cô ấy nói. Tôi khẳng định theo cô ấy. Điều tiếp theo tôi biết, tôi được ra ngoài.”

“Cậu có bao giờ gặp vợ tôi lần nữa không?”

“Không.” Nó ngước nhìn tôi. “Làm thế nào ông chắc chắn đến vậy rằng vợ ông không làm tôi?”

“Tôi biết vợ tôi.”

Nó mỉm cười. “Ông nghĩ cô ấy chưa bao giờ ngoại tình?”

Tôi không đáp lại.

Helio đứng dậy. “Bảo với Tyrese nó nợ tôi một lần.”

Nó cười tủm tỉm, quay mặt, rồi bước đi.
 
Chương 34


Không hành lý. Vé điện tử để cô có thể check in bằng máy chứ không phải người. Cô đợi trong phòng đón khách lân cận, cố dán mắt vào màn hình chỉ giờ bay, đợi dòng On time hiện lên bên cạnh chuyến bay của cô chuyển sang Boarding.

Cô ngồi trong ghế nhựa cong ba chiều và nhìn ra đường nhựa. Một TV om sòm chương trình CNN. “Tiếp theo là Những thông tin chính trong mục Thể thao.” Cô để cho đầu óc trống rỗng. Năm năm trước, cô đã sống trong một ngôi nhà nhỏ gần Goa, Ấn Độ. Mặc dù thực sự là đáy của địa ngục, ngôi làng vẫn nhộn nhịp bởi vì có một bậc thầy yoga trăm tuổi sống ở đó. Cô trải qua một khoảng thời gian với ông thầy yoga này. Ông đã cố dạy cô kỹ thuật thiền, pranayma, tinh tẩy trí óc. Nhưng không một cái nào từng thực sự đọng lại. Có những khoảnh khắc cô đã có thể chìm vào trạng thái đầu óc trống rỗng. Tuy nhiên, thường xuyên hơn, mỗi khi cô chìm, Beck ở đó.

Cô băn khoăn về bước đi tiếp theo. Thực sự không có lựa chọn nào cả. Đây là gìn giữ. Gìn giữ nghĩa là chạy trốn. Cô đã làm mọi thứ xáo trộn hết cả lên và giờ đây cô lại bỏ chạy, để công việc dọn dẹp lại cho người khác. Nhưng còn có lựa chọn nào khác không? Bọn chúng truy đuổi cô. Cô đã cẩn thận khủng khiếp, nhưng bọn chúng vẫn theo dõi. Tám năm sau.

Một đứa trẻ mới biết đi trườn về phía cửa sổ kính mỏng, lòng bàn tay đập vào kính với tiếng bộp rất sung sướng. Ông bố vội vã đuổi theo và cười khúc khích bế nó lên. Cô nhìn và trí óc cô trườn đến những-thứ-đáng-lẽ-đã-có-thể một cách rõ ràng. Một đôi vợ chồng già ngồi bên phải cô, chuyện trò rất đáng yêu những chuyện vơ vẩn. Khi còn mười mấy tuổi, cô và Beck ngắm ông và bà Steinberg tản bộ trên Downing Place tay trong tay, không bỏ lỡ một tối nào, rất lâu sau khi con cái họ đã trưởng thành và bay ra khỏi tổ ấm. Cuộc sống của họ cũng sẽ giống thế, Beck đã hứa. Bà Steinberg mất ở tuổi tám hai. Ông Steinberg, vốn tráng kiện một cách đáng kinh ngạc, theo bà bốn tháng sau. Người ta bảo chuyện đó xảy ra rất nhiều với người già, rằng - diễn giải Springsteen nhé - hai trái tim hòa làm một. Khi một chết, trái tim còn lại đi theo. Cô với David có phải sẽ như vậy không? Họ đã không ở được bên nhau sáu mươi mốt năm như ông bà Steinberg, nhưng khi bạn nghĩ về chuyện đó với những thời kỳ mang tính chất tương đối, khi bạn tính toán rằng bạn hầu như đâu có ký ức gì trước năm tuổi, khi bạn biết rằng cô và Beck đã không rời nhau từ khi họ lên bảy, rằng họ khó mà tìm ra được bất kỳ kỷ niệm nào mà không có người kia, khi bạn nghĩ đến khoảng thời gian ở bên nhau không chỉ theo thời kỳ năm mà là phần trăm trong cuộc đời, họ đã thuộc về nhau thậm chí còn nhiều hơn cả ông bà Steinberg.

Cô quay đi và nhìn màn hình. Bên cạnh chuyến bay British Airways số 174, từ Boarding bắt đầu nhấp nháy.

Chuyến bay của cô đã bị hủy.

Carlson và Stone, cùng với hai anh bạn thân địa phương Dimonte và Krinsky, đứng với viên quản lý vé đặt trước của British Airways.

“Anh ta có vé nhưng không tới đây,” viên quản lý, một phụ nữ mặc đồng phục xanh và trắng có quàng khăn quanh cổ, một giọng tuyệt hay, và một cái bảng tên đề Emily nói với họ.

Dimonte chửi rủa. Krinsky nhún vai. Việc này nằm ngoài dự kiến. Beck đã né tránh tuyệt đối thành công những kẻ săn lùng trong cả ngày hôm nay. Anh ta không ngu đến nỗi cố dùng tên thật lên máy bay.

“Ngõ cụt,” Dimonte nói.

Carlson, vẫn cầm hồ sơ khám nghiệm tử thi bên hông, hỏi Emily, “Nhân viên thành thạo máy tính nhất của cô là ai?”

“Chính là tôi,” cô nói với một nụ cười đẹp chuẩn.

“Xin mang danh sách đặt trước đến,” Carlson nói.

Emily làm như anh ta yêu cầu.

“Cô có thể cho tôi biết anh ta đặt vé khi nào không?”

“Ba ngày trước.”

Dimonte bập ngay vào. “Beck đã lên kế hoạch chạy trốn. Thằng chó đẻ.”

Carlson lắc đầu. “Không phải.”

“Làm thế nào anh cho rằng không phải?”

“Chúng ta đã giả thuyết anh ta giết Rebecca Schayes để bịt miệng cô ta,” Carlson giải thích. “Nhưng nếu anh chuẩn bị đi khỏi đất nước này, sao lại còn lo chuyện đó? Tại sao lại mạo hiểm đợi ba ngày và cố trốn đi cùng một vụ án mạng nữa?”

Stone lắc đầu. “Chuyện này anh nghĩ tỉ mỉ quá mức rồi, Nick ạ.”

“Chúng ta đang để lỡ điều gì đó,” Carlson khăng khăng. “Tại sao đột nhiên anh ta lại quyết định chạy trốn đầu tiên?”

“Bởi vì chúng ta truy đuổi anh ta.”

“Ba ngày trước chúng ta chưa truy đuổi anh ta.”

“Có thể anh ta biết đó chỉ là vấn đề thời gian.”

Carlson càng nhíu mày tợn.

Dimonte quay sang Krinsky. “Thế này chỉ phí thời gian. Hãy biến khỏi đây đi.” Anh ta nhìn Carlson. “Chúng ta sẽ để lại vài người ở đây để phòng khi.”

Carlson gật đầu, chỉ nghe nửa vời. Khi họ đi, anh ta hỏi Emily, “Anh ta có đi cùng ai không?”

Emily nhấn một vài phím. “Vé đặt đơn.”

“Anh ta đặt nó bằng cách nào? Đến trực tiếp? Qua điện thoại? Hay qua hãng du lịch?”

Cô lại nhấn một vài phím. “Không phải thông qua hãng du lịch. Tôi có thể nói chắc chắn với anh thế bởi chúng tôi có đánh dấu để trả tiền hoa hồng. Vé được đặt trực tiếp với British Airways.”

Không ích gì ở điểm này. “Anh ta thanh toán bằng cách nào?”

“Thẻ tín dụng.”

“Cho tôi số được không?”

Cô đưa số cho anh ta. Anh ta đưa cho Stone. Stone lắc đầu. “Không phải một trong những cái thẻ của anh ta. Ít nhất, không phải cái chúng ta biết.”

“Kiểm tra đi,” Carlson nói.

Điện thoại di động của Stone đã sẵn trong tay. Anh ta gật đầu và nhấn số.

Carlson xoa xoa cằm. “Cô nói anh ta đặt vé cách đây ba ngày.”

“Đúng.”

“Cô có biết thời gian anh ta đặt vé không?”

“Thực tế là có. Máy tính có ghi lại. Sáu giờ mười bốn phút chiều.”

Carlson gật đầu. “Được rồi, tuyệt lắm. Cô có thể cho tôi biết có ai khác cũng đặt vé vào cùng quãng thời gian đó không?”

Emily nghĩ. “Tôi chưa bao giờ thử làm thế,” cô nói. “Đợi một chút, để tôi xem cái này.” Cô gõ. Cô đợi. Cô gõ thêm. Cô đợi. “Máy tính không sắp xếp theo ngày đặt vé.”

“Nhưng thông tin có trong đó?”

“Có. Đợi, khoan đã.” Ngón tay cô lại bắt đầu lách cách. “Tôi có thể dán thông tin lên một cái bảng. Chúng ta cho năm mươi lăm vé đặt trên mỗi trang. Như thế sẽ nhanh hơn.”

Nhóm năm mươi lăm đầu tiên có một cặp vợ chồng đặt vé cùng ngày nhưng sớm hơn vài giờ. Vô dụng. Nhóm thứ hai không có. Tuy nhiên, trong nhóm thứ ba, họ tìm được.

“Lisa Sherman,” Emily tuyên bố. “Chuyến bay của cô này được đặt cùng ngày, tám phút sau.”

Riêng điều đó chẳng có ý nghĩa gì, dĩ nhiên, nhưng Carlson cảm thấy tóc gáy mình dựng đứng lên.

“Ồ, cái này thú vị đây,” Emily nói thêm.

“Cái gì?”

“Chỗ cô ấy ngồi.”

“Nó làm sao?”

“Cô ta được dự kiến ngồi cạnh David Beck. Hàng mười sáu, ghế E và F.”

Anh ta thấy điếng người. “Cô ta check in chưa?”

Gõ thêm. Màn hình trống trơn. Một cái khác xuất hiện. “Trên thực tế, cô ta đã. Cô ta có lẽ đang lên máy bay khi chúng ta nói chuyện.”

Cô chỉnh lại đai túi và đứng. Chân bước nhanh, đầu ngẩng cao. Cô vẫn đeo kính, tóc giả và hàm giả. Cũng có một tấm ảnh của Lisa Sherman trong hộ chiếu.

Cô đến cổng thứ tư thì nghe thấy một mẩu tin ngắn trên bản tin CNN. Cô dừng lại một chút. Một người đàn ông kéo một túi hành lý to uỳnh đâm sầm vào cô. Ông ta làm một cử chỉ bằng tay khiếm nhã như thể cô ngáng đường tự do của ông ta. Cô lờ đi và tiếp tục nhìn lên màn hình.

Phát thanh viên đang đọc bản tin. Ở góc phải màn hình là ảnh bạn cũ Rebecca Schayes đặt sát bên một tấm ảnh của... của Beck.

Cô vội lại gần màn hình hơn. Dưới hai tấm ảnh là những chữ phông màu đỏ máu Chết trong phòng tối.

“... David Beck, bị tình nghi là thủ phạm. Nhưng đây có phải là tội ác duy nhất mà người ta tin hắn từng phạm? Jack Turner của kênh CNN tiếp tục thông tin.”

Cô phát thanh viên biến mất. Thay vào chỗ cô ta, hai người đàn ông mặc áo khoác Sở cảnh sát thành phố New York kéo chiếc túi đựng thi thể màu đen trên cáng. Cô nhận ra khu nhà ngay lập tức và gần như há hốc mồm. Tám năm. Tám năm đã trôi qua, nhưng studio của Rebecca vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Một giọng đàn ông, đoán chừng là của Jack Turner, bắt đầu đọc bản tin của ông ta: “Đây là một câu chuyện phức tạp, vụ án mạng của một trong những nhiếp ảnh gia thời trang hot nhất New York. Rebecca Schayes được tìm thấy chết trong phòng tối, bị bắn hai phát vào đầu ở cự ly gần.” Họ phát một tấm ảnh Rebecca cười rạng rỡ. “Đối tượng tình nghi là người bạn lâu niên của cô, bác sĩ David Beck, một bác sĩ nhi giàu có.” Giờ là ảnh Beck, không mỉm cười, chạy trên màn hình. Cô suýt ngã ngửa.

“Bác sĩ Beck đã vừa trốn thoát khỏi vụ bắt sáng nay sau khi tấn công một nhân viên cảnh sát. Hắn vẫn còn đang tự do và được cho rằng có vũ khí và rất nguy hiểm. Nếu bạn có bất cứ thông tin nào liên quan đến việc hắn ở đâu...” Một số điện thoại màu vàng xuất hiện. Jack Turner đọc to số điện thoại rồi tiếp tục nói.

“Nhưng cái khiến cho câu chuyện thêm phần phức tạp là những thông tin rò rỉ ra từ Tòa nhà Liên bang tại Manhattan. Có thể đoán chừng, bác sĩ Beck đã bị nghi ngờ có liên quan tới vụ giết hai người đàn ông mà thi thể vừa được phát hiện ra tại Pennsylvania, cách khu nghỉ hè của gia đình bác sĩ Beck không xa lắm. Và điều ngạc nhiên hơn hết thảy: bác sĩ David Beck cũng là đối tượng tình nghi trong vụ giết vợ hắn tám năm trước, Elizabeth.”

Ảnh một người phụ nữ cô gần như không nhận ra xuất hiện. Đột nhiên cô thấy mình như trần truồng, bị dồn vào góc. Ảnh cô biến mất khi họ quay lại với cô phát thanh viên, “Jack, chẳng phải chúng ta đã tin rằng EIizabeth Beck là nạn nhân của tên giết người hàng loạt Elroy ‘KillRoy’ Kellerton?”

“Đúng vậy, Terese. Giới cảnh sát hiện không phát biểu gì nhiều lắm, và các nhân viên từ chối cung cấp báo cáo. Nhưng thông tin rò rỉ đến với chúng tôi từ những nguồn đáng tin cậy.”

“Cảnh sát có động cơ, Jack?”

“Chúng tôi vẫn chưa nghe thấy chuyện đó. Có tin đồn nào đó cho rằng đây có thể là mối tình tay ba. Cô Schayes đã kết hôn với một người tên là Gary Lamont, người hiện vẫn giữ kín thông tin. Nhưng đó chỉ là phỏng đoán cho đến thời điểm này.”

Vẫn nhìn đăm đăm vào màn hình TV, cô cảm thấy nước mắt bắt đầu trào lên.

“Và bác sĩ Beck vẫn còn được tự do tối nay?”

“Phải, Terese. Cảnh sát đang yêu cầu sự phối hợp của dân chúng, nhưng họ nhấn mạnh không ai được một thân một mình tiếp cận với hắn.”

Huyên thuyên sau đó. Những lời huyên thuyên vô nghĩa.

Cô quay đi. Rebecca. Ôi Chúa ơi, không phải Rebecca. Và bạn ấy đã kết hôn. Chắc hẳn đã chọn váy cưới và những hoa văn trên sứ và làm tất cả những thứ mà họ từng chế giễu. Làm thế nào? Làm thế nào mà Rebecca lại vướng vào tất cả cái mớ bòng bong này? Rebecca không biết gì cả cơ mà.

Tại sao chúng giết bạn ấy?

Rồi ý nghĩ đó lại đập vào cô một lần nữa: Mình đã làm cái gì?

Cô đã quay lại. Chúng đã bắt đầu tìm kiếm cô. Làm thế nào chúng làm được như thế? Đơn giản. Theo dõi những người mà cô thân thiết. Ngu ngốc. Việc cô quay trở lại sẽ khiến cho tất cả những người cô quan tâm bị nguy hiểm. Cô đã làm mọi thứ rối tung lên. Và bây giờ bạn cô đã chết.

“Chuyến bay 174 của hãng hàng không British Airways khởi hành đi London. Tất cả các hành khách bây giờ có thể lên máy bay.”

Không có thời gian để đổ tội cho bản thân nữa. Nghĩ. Cô phải làm gì? Những người cô yêu thương đang gặp nguy hiểm. Beck - cô đột nhiên nhớ đến cách cải trang ngớ ngẩn của anh - đang chạy trốn. Anh đang chống lại những kẻ có quyền lực. Nếu chúng cố dàn xếp để buộc anh tội giết người - và điều đó giờ phút này là tương đối rõ như ban ngày rồi - anh sẽ không có cơ hội nào cả.

Cô không thể chỉ bỏ đi như thế. Chưa đến lúc. Cho đến khi cô biết Beck được an toàn.

Cô quay lại và hướng về phía lối ra.

Khi cuối cùng nhìn thấy những bản tin truy nã David Beck, Peter Flannery cầm điện thoại lên gọi một người bạn ở văn phòng công tố.

“Ai đảm trách vụ Beck?” Flannery hỏi.

“Fein.”

Một thằng khốn kiếp thực thụ, Flannery nghĩ. “Tôi đã gặp cậu bé của anh hôm nay.”

“David Beck?”

“Phải,” Flannery nói. “Anh ta đến gặp tôi.”

“Tại sao?”

Flannery đẩy cái ghế Barca Lounger ngửa ra sau. “Có lẽ anh nên nối máy cho tôi nói chuyện với Fein.”
 
Chương 35


Khi màn đêm đã buông, Tyrese tìm cho tôi một phòng tại căn hộ của đứa em họ Latisha. Chúng tôi không thể tưởng tượng nổi cảnh sát sẽ bới ra được mối liên hệ của tôi với Tyrese, nhưng tại sao lại tạo cho họ cơ hội?

Tyrese có một cái laptop. Chúng tôi kết nối mạng. Tôi kiểm tra email, hy vọng nhận được một lá thư từ người gửi bí hiểm. Không có gì trong tài khoản thư ở chỗ làm. Không có gì trong tài khoản thư ở nhà. Tôi thử vào cái tài khoản mới tại bigfoot.com. Cũng không có gì.

Tyrese đã nhìn tôi khang khác từ khi chúng tôi rời khỏi văn phòng Flannery. “Tôi hỏi anh điều này, bác sĩ?”

“Nói đi,” tôi nói.

“Khi cái tay đại diện pháp luật kia nói về một gã bị giết...”

“Brandon Scope,” tôi nói thêm vào.

“Phải, nó. Anh trông như thể vừa bị ai đó dùng dùi cui đập vào vậy.”

Tôi đã cảm thấy như thế. “Anh tự hỏi tại sao?”

Tyrese nhún vai.

“Tôi biết Brandon Scope. Anh ta và vợ tôi làm chung một văn phòng tại quỹ từ thiện trong thành phố. Cha tôi cùng lớn lên và làm việc cho cha anh ta. Trên thực tế, cha tôi là người chịu trách nhiệm dạy cho Brandon về cổ phần của gia đình anh ta.”

“Ừm,” Tyrese nói. “Gì nữa?”

“Như thế chưa đủ?”

Tyrese đợi. Tôi quay lại đối diện với anh. Anh giữ mắt không chớp và trong một khoảnh khắc tôi nghĩ anh có thể thấy toàn bộ đường vào những ngóc ngách đen tối nhất trong tâm hồn tôi. May quá, khoảnh khắc ấy cũng qua. Tyrese nói, “Vậy anh muốn làm gì tiếp đây?”

“Gọi vài cú điện thoại,” tôi nói. “Anh chắc chúng sẽ không bị lần ra ở đây?”

“Không thể thấy có cách nào. Tuy nhiên để tôi nói cho anh. Chúng ta sẽ tạo ra một cuộc điện thoại theo kiểu nhiều người tham gia cho một cái điện thoại di động khác. Càng khiến cho chuyện đó khó hơn nữa.”

Tôi gật đầu. Tyrese thiết kế cuộc gọi. Tôi phải gọi cho một số khác và nói với một người nào đó rằng tôi không biết số nào để gọi. Tyrese đi về phía cửa. “Tôi sẽ đi xem TJ thế nào. Tôi sẽ quay lại trong vòng một giờ.”

“Tyrese?”

Anh nhìn lại. Tôi muốn nói cám ơn, nhưng như thế nghe có vẻ không đúng lắm. Tyrese hiểu ra. “Cần anh sống, bác sĩ ạ. Cho con tôi, hiểu không?”

Tôi gật đầu. Anh rời đi. Tôi nhìn đồng hồ trước khi gọi vào điện thoại di động Shauna. Cô trả lời ngay hồi chuông đầu tiên. “Alô?”

“Chloe thế nào?” tôi hỏi.

“Tuyệt,” cô nói.

“Cậu đi bộ bao nhiêu dặm?”

“Ít nhất ba. Có lẽ đến bốn hoặc năm,” Cảm giác nhẹ nhõm chạy khắp người tôi. “Vậy việc tiếp theo...”

Tôi mỉm cười và ngắt máy. Tôi gọi đến anh chàng chuyển tiếp số điện thoại và cho anh ta một số khác. Anh ta lầm bầm câu gì đó về việc anh ta không phải là nhân viên trực điện thoại chết tiệt, nhưng anh ta làm như tôi yêu cầu.

Hester Crimstein trả lời như thể bà ta đang phát điên lên. “Sao?”

“Beck đây,” tôi nói nhanh. “Họ có thể nghe được không, hay chúng ta có được thể loại bảo vệ luật sư - khách hàng ở đây?”

Có một sự ngập ngừng kỳ lạ. “An toàn,” bà ta nói.

“Tôi có lý do chạy trốn,” tôi bắt đầu.

“Như phạm tội?”

“Cái gì?”

Lại ngập ngừng. “Tôi xin lỗi, Beck. Tôi đã không ra làm sao. Khi cậu chạy trốn như thế, tôi phát khùng lên. Tôi nói vài điều ngu xuẩn với Shauna, và từ chối không làm luật sư của cậu nữa.”

“Đừng bao giờ nói với tôi thế,” tôi nói, “Tôi cần bà, Hester.”

“Tôi sẽ không giúp cậu chạy trốn.”

“Tôi không muốn chạy trốn nữa. Tôi muốn đầu hàng. Nhưng theo thời hạn của chúng ta.”

“Cậu không ở vị trí mà ra được thời hạn, Beck ạ. Bọn họ sẽ khóa cậu rất kỹ. Cậu có thể quên chuyện bảo lãnh xin tại ngoại đi.”

“Giả sử tôi đưa ra bằng chứng tôi không giết Rebecca Schayes.”

Lại ngập ngừng. “Cậu có thể làm được thế?”

“Phải.”

“Bằng chứng kiểu gì?”

“Một chứng cớ ngoại phạm vững chắc.”

“Được cung cấp bởi?”

“E hèm,” tôi nói, “đó chính là lúc sẽ có chuyện thú vị đấy.”

Đặc vụ Carlson nhấc điện thoại di động lên. “Đây.”

“Có cái này nữa,” cộng sự Stone nói.

“Cái gì?”

“Beck đến thăm một tay luật sư đại diện pháp luật rẻ tiền tên là Flannery cách đây vài giờ. Một thằng nhóc đen đường phố đi cùng anh ta.”

Carlson nhíu mày. “Tôi nghĩ Hester Crimstein là luật sư của anh ta.”

“Anh ta không tìm đại diện luật pháp. Anh ta muốn biết về một vụ trong quá khứ?”

“Vụ nào?”

“Một thằng tội phạm đủ kiểu nào đó tên là Gonzalez bị bắt vì giết Brandon Scope tám năm trước. Elizabeth Beck đã cho thằng này một chứng cớ ngoại phạm chết tiệt. Beck muốn biết chuyện đó.”

Carlson thấy đầu mình như đang xoay tròn. Làm thế nào...?

“Gì nữa không?”

“Thế thôi,” Stone nói. “Này, anh đang ở đâu?”

“Tôi sẽ nói chuyện với anh sau, Tom.” Carlson gác máy và nhấn một số khác.

Một giọng trả lời, “Trung tâm Truy nguyên Quốc gia.”

“Làm việc muộn được không, Donna?”

“Tôi đang cố ra khỏi đây, Nick. Anh muốn gì?”

“Một đặc ân cực cực lớn.”

“Không,” cô nói. Rồi với một tiếng thở dài thõng thượt, “Cái gì?”

“Cô vẫn còn giữ khẩu 38 mà chúng ta tìm thấy trong két sắt của Sarah Goodhart chứ?”

“Nó làm sao?”

Anh ta nói với cô điều anh ta muốn. Khi anh ta nói xong, cô nói, “Anh đùa phải không?”

“Cô hiểu tôi mà, Donna. Không hài hước tí nào cả.”

“Không phải thế.” Cô thở dài. “Tôi sẽ đưa nó vào danh sách, nhưng không có chuyện xong được trước tối nay đâu.”

“Cám ơn, Donna. Cô là tuyệt nhất.”

Khi Shauna bước vào sảnh tòa nhà, một giọng nói vang lên gọi cô.

“Xin lỗi, cô Shauna.”

Cô nhìn người đàn ông tóc bôi gel và vận một bộ vest đắt tiền. “Và anh là?”

“Đặc vụ Nick Carlson.”

“Chúc ngủ ngon, Ngài Đặc vụ.”

“Chúng tôi biết anh ta đã gọi cho cô.”

Shauna vỗ nhẹ vào miệng giả vờ há hốc mồm ra. “Các anh hẳn là tự hào lắm.”

“Đã bao giờ nghe thuật ngữ giúp đỡ, xúi giục làm bậy và tòng phạm sau khi biết sự thật chưa?”

“Thôi cái trò dọa nạt tôi đi,” cô lớn tiếng dằn giọng, “nếu không tôi có thể vãi tè ra ngay trên cái thảm rẻ tiền này đây.”

“Cô nghĩ tôi đang lừa cô chắc?”

Cô giơ hai tay ra, chắp lại với nhau. “Bắt tôi đi, anh đẹp giai.” Cô liếc ra sau anh ta. “Chẳng phải mấy anh thường đi đâu cũng có đôi có cặp ư?”

“Tôi đến đây một mình.”

“Vậy tôi hiểu rồi. Giờ tôi lên được chưa?”

Carlson cẩn thận chỉnh lại cái kính. “Tôi không nghĩ bác sĩ Beck giết ai cả.”

Câu nói đó khiến cô dừng lại.

“Đừng hiểu nhầm ý tôi. Có hàng đống bằng chứng chứng tỏ anh ta đã làm thế. Đồng nghiệp của tôi tất thảy đều tin anh ta có tội. Vẫn đang truy lùng gắt gao.”

“Ừ há,” Shauna nói bằng một giọng không nghi ngờ mấy. “Nhưng kiểu gì đó anh lại thấy rõ bản chất mọi chuyện?”

“Tôi chỉ nghĩ có chuyên gì đó khác đang diễn ra ở đây thôi.”

“Như cái gì?”

“Tôi hy vọng cô có thể nói cho tôi biết.”

“Và nếu tôi nghi ngờ đây là một cái bẫy?”

Carlson nhún vai. “Tôi không có khả năng đến thế.”

Cô ngẫm nghĩ một lúc. “Không quan trọng,” cô nói. “Tôi chả biết gì cả.”

“Cô biết anh ta đang trốn ở đâu.”

“Tôi không biết.”

“Và nếu cô biết?”

“Tôi sẽ không nói cho anh. Nhưng anh vốn biết rồi còn gì.”

“Tôi biết,” Carlson nói. “Vậy tôi đoán là cô sẽ không nói cho tôi cuộc trò chuyện dắt chó đi dạo là thế nào.”

Cô lắc đầu. “Nhưng anh sẽ sớm tìm ra thôi.”

“Ở ngoài kia anh ta sẽ bị thương cho mà xem, cô biết đấy. Bạn cô đã tấn công một cảnh sát. Điều đó càng mở ra những lý do để anh ta bị như vậy.”

Shauna cố không chớp mắt. “Tôi không có khả năng đến thế.”

“Không, tôi không nghĩ thế.”

“Tôi hỏi anh cái này được không?”

“Nói đi,” Carlson nói.

“Tại sao anh không nghĩ cậu ấy có tội?”

“Tôi không chắc lắm. Rất nhiều chi tiết nhỏ nhặt, tôi nghĩ thế.” Carlson nghiêng đầu. “Cô có biết Beck đã đặt vé máy bay đi London không?”

Shauna hướng mắt về phía sảnh, cố tìm thêm một hoặc hai giây. Một người đàn ông vừa bước vào vừa mỉm cười kiểu tán dương với Shauna. Cô lờ ông ta đi. “Điêu,” cuối cùng cô nói.

“Tôi vừa từ sân bay đến đây,” Carlson nói tiếp. “Vé được đặt cách đây ba ngày. Anh ta không xuất hiện, dĩ nhiên. Nhưng điều thực sự kỳ quặc là thẻ tín dụng dùng để mua vé có tên là Laura Mills. Cái tên đó có ý nghĩa gì với cô không?”

“Nó nên có ư?”

“Có lẽ không. Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm, nhưng rõ ràng là một cái tên giả.”

“Của ai?”

Carlson nhún vai. “Cô có biết Lisa Sherman không?”

“Không. Làm thế nào cô ta lại dính dáng ở đây?”

“Cô ta đặt vé cùng chuyến bay đi London đó. Thực ra, cô ta còn được cho là sẽ ngồi cạnh anh chàng của chúng ta.”

“Lại không xuất hiện?”

“Không hẳn. Cô ta đã check in. Nhưng khi họ gọi lên máy bay, cô ta không lên. Kỳ, cô có nghĩ thế không?”

“Tôi không biết phải nghĩ gì,” Shauna nói.

“Không may là, không ai có thể cho chúng tôi một nhận dạng của Lisa Sherman. Cô ta không gửi hành lý và sử dụng máy soát vé điện tử. Vì vậy chúng tôi phải kiểm tra thông tin cơ bản. Đoán xem chúng tôi tìm thấy gì?”

Shauna lắc đầu.

“Không thấy gì,” Carlson đáp lại. “Nó có vẻ như là một cái tên giả khác. Cô có biết cái tên Brandon Scope không?”

Shauna cứng người. “Chuyện quái gì đây?”

“Bác sĩ Beck, được một tay da đen hộ tống, đến gặp một luật sư tên là Peter Flannery hôm nay. Flannery biện hộ cho một kẻ bị tình nghi là thủ phạm trong vụ giết Brandon Scope. Bác sĩ Beck hỏi ông ta chuyện đó và về vai trò của Elizabeth trong việc thả kẻ tình nghi kia. Cô có biết tại sao không?”

Shauna bắt đầu lần mò trong ví.

“Tìm cái gì à?”

“Một điếu thuốc,” cô nói. “Anh có không?”

“Xin lỗi, không.”

“Mẹ kiếp.” Cô thôi tìm, nhìn vào mắt anh ta. “Tại sao anh lại nói cho tôi tất cả những chuyện này?”

“Tôi có bốn thi thể. Tôi muốn biết chuyện gì đang diễn ra.”

“Bốn?”

“Rebecca Schayes, Melvin Bartola, Robert Wolf - đó là hai người đàn ông chúng tôi tìm thấy ở chỗ hồ. Và Elizabeth Beck.”

“KillRoy giết Elizabeth.”

Carlson lắc đầu.

“Điều gì khiến anh chắc chắn đến thế?”

Anh ta giơ tập hồ sơ trong phong bì lên. “Đầu tiên, vì cái này.”

“Cái gì thế?”

“Hồ sơ khám nghiệm tử thi của cô ấy.”

Shauna nuốt khan. Sợ hãi dâng lên trong cô, làm ngón tay cô tê tê. Chứng cớ cuối cùng, cách này hay cách khác. Cô cố gắng hết sức để giữ giọng như cũ. “Tôi xem một chút được không?”

“Tại sao?”

Cô không đáp lại.

“Và quan trọng hơn, tại sao Beck lại thiết tha muốn xem nó?”

“Tôi không biết ý anh nói gì,” cô nói, nhưng lời cô vang lên rỗng tuếch trong tai và, cô chắc chắn, cả trong tai anh ta.

“Elizabeth Beck có phải là người dùng ma túy không?” Carlson hỏi.

Câu hỏi khiến ngạc nhiên hoàn toàn. “Elizabeth? Không bao giờ.”

“Cô chắc chứ?”

“Dĩ nhiên. Cô ấy làm việc với những kẻ nghiện ma túy. Đó là một phần trong nghề nghiệp của cô ấy.”

“Tôi biết kha khá cảnh sát phòng chống tệ nạn xã hội sung sướng tận hưởng một vài giờ với gái điếm.”

“Cô ấy không phải như thế. Elizabeth không phải là người đức hạnh tuyệt đỉnh, nhưng ma túy ư? Không thể có chuyện đó.”

Anh ta giơ chiếc phong bì lên lần nữa. “Kết quả khám nghiệm chất độc cho thấy có cả cocaine và heroin trong cơ thể cô ấy.”

“Vậy thì Kellerton đã tiêm vào người cô ấy.”

“Không,” Carlson nói.

“Điều gì khiến anh chắc chắn thế?”

“Còn có những xét nghiệm khác nữa, Shauna ạ. Xét nghiệm mô và tóc. Chúng cho thấy có sử dụng thường xuyên ít nhất là trong vài tháng.”

Shauna thấy chân mình yếu đi. Cô dựa vào tường. “Nghe này, Carlson, dừng cái việc chơi trò chơi với tôi lại đi. Để tôi xem bản kết quả, okay?”

Carlson có vẻ cân nhắc. “Thế này thì sao?” anh ta nói. “Tôi sẽ để cô xem bất cứ trang nào ở đây. Và đổi lại bất cứ thông tin nào. Thế được không?”

“Chuyện quái quỷ gì đây, Carlson?”

“Chúc ngủ ngon, Shauna.”

“Này này, gượm đã.” Cô liếm môi. Cô nghĩ đến những cái email kỳ lạ. Cô nghĩ đến việc Beck chạy trốn cảnh sát. Cô nghĩ đến việc Rebecca Schayes bị giết và bản kết quả khám nghiệm chất độc không thể như thế được. Bất thình lình, màn biểu diễn để thuyết phục Beck về thao tác ảnh kỹ thuật số dường như không còn có vẻ thuyết phục được nữa.

“Một bức ảnh,” cô nói. “Để tôi xem một bức ảnh của nạn nhân.”

Carlson mỉm cười. “Bây giờ, thật thú vị.”

“Sao thế?”

“Trong này không có bức nào.”

“Nhưng tôi nghĩ...”

“Tôi cũng không hiểu,” Carlson ngắt lời. “Tôi đã gọi cho bác sĩ Harper. Ông ta là người khám nghiệm của vụ này. Tôi xem thử liệu ông ta có thể tìm ra ai là người đã ký để mượn hồ sơ này. Ông ấy đang kiểm tra trong lúc chúng ta nói chuyện đây.”

“Có phải anh đang nói có ai đó đã đánh cắp những bức ảnh?”

Carlson nhún vai. “Thôi nào, Shauna. Nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra đi.”

Cô đã suýt nói. Cô đã suýt kể với anh ta về những cái email và cái link dẫn đến camera trên phố. Nhưng Beck đã rất cương quyết. Người đàn ông này, với toàn bộ cuộc nói chuyện hấp dẫn của anh ta, vẫn có thể là kẻ thù. “Tôi xem phần còn lại của hồ sơ được không?”

Anh ta chậm chạp chìa ra cho cô. Bình tĩnh gớm, cô nghĩ. Cô bước tới và cầm lấy từ tay anh ta. Cô mở ra và thấy trang đầu tiên. Khi mắt cô dịch xuống phía dưới, một khối đá lạnh đè nặng lên bụng cô. Cô nhìn thấy chiều cao và cân nặng của cơ thể nạn nhân rồi nén một tiếng hét.

“Gì thế?” Carlson hỏi.

Cô không trả lời.

Điện thoại di động reo. Carlson rút ra khỏi túi quần. “Carlson đây.”

“Tôi là Tim Harper.”

“Ông có tìm thấy những lần mở hồ sơ trước không?”

“Có.”

“Có phải có ai đó đã xin xem hồ sơ khám nghiệm tử thi của Elizabeth Beck?”

“Ba năm trước,” Harper nói. “Ngay sau khi nó được đưa vào phòng lưu trữ lạnh. Một người đã ký mượn nó.”

“Ai?”

“Cha của nạn nhân. Ông ta cũng là cảnh sát. Tên ông ta là Hoyt Parker.”
 
Chương 36


Larry Gandle ngồi đối diện với Griffin Scope. Họ ở ngoài mái vòm của vườn đằng sau biệt thự nhà Scope. Đêm tối đã ngự trị, bao phủ lên mảnh đất được chăm sóc cẩn thận. Những con dế ngân lên gần như thành một giai điệu, như thể những người siêu giàu thậm chí có thể thao túng cả việc đó. Tiếng đàn piano lảnh lót từ những cánh cửa kéo bằng kính tràn ra ngoài. Ánh sáng từ phía trong ngôi nhà tạo nên chút ít khoảng sáng, làm đổ xuống những cái bóng đỏ và vàng.
Cả hai người đàn ông đều mặc đồ kaki. Larry vận một áo sơ mi Polo màu xanh. Griffin vận áo lụa cài khuy do thợ của ông ở Hồng Kông may. Larry chờ đợi, một ly bia làm tay gã mát lạnh. Gã quan sát người đàn ông già nua kia ngồi trong một cái bóng hình đồng xu màu đồng tròn trịa, mắt nhìn ra khoảng sân sau rộng lớn, mũi hơi hất lên, chân bắt chéo. Tay phải đặt trên tay vịn của ghế, rượu màu hổ phách sóng sánh trong ly.
“Anh không biết hắn ở đâu?” Griffin hỏi.
“Không.”
“Và cả hai thằng da đen cứu hắn?”
“Tôi không biết chúng quan hệ thế nào. Nhưng Wu đang tìm hiểu.”
Griffin nhấp một hớp rượu. Thời gian chậm chạp lê bước, nóng và nồm. “Anh có thực sự tin ả còn sống?”
Larry toan phun ra một đoạn tường thuật dài, đưa ra bằng chứng chứng minh và bác bỏ, vạch ra tất cả những lựa chọn và khả năng. Nhưng khi mở miệng, gã chỉ nói, “Phải.”
Griffin nhắm mắt lại. “Anh có nhớ ngày đứa con đầu tiên của anh chào đời không?”
“Có.”
“Anh có chứng kiến khi nó được sinh ra không?”
“Tôi có.”
“Vào thời chúng tôi, chúng tôi không làm thế,” Griffin nói. “Chúng tôi, những người cha đi đi lại lại trong phòng đợi cầm trên tay những tạp chí cũ. Tôi nhớ cô y tá đã đi ra tìm tôi. Cô đưa tôi đi dọc hành lang và tôi vẫn còn nhớ khi rẽ qua góc và nhìn thấy Allison đang bế Brandon. Cảm giác đó là cảm giác lạ lùng nhất, Larry ạ. Thứ gì đó trào lên trong tôi khiến tôi nghĩ mình có thể nổ tung mất. Cảm giác đó quá mãnh liệt, quá choáng ngợp. Anh không thể nắm bắt hay hiểu nổi. Tôi nghĩ mọi người cha đều nghiệm qua thứ gì đó tương tự.”
Ông dừng lại. Larry nhìn lên. Những giọt nước mắt giàn giụa trên hai gò má người đàn ông già nua này, lấp lánh dưới ánh sáng mờ mờ. Larry im lặng.
“Có lẽ cảm giác rõ ràng nhất ngày hôm đó là vui sướng và sợ hãi - sợ hãi trong cái nghĩa rằng từ nay bạn phải chịu trách nhiệm đối với con người nhỏ bé này. Nhưng cũng có thứ gì đó khác nữa. Tôi không thể thấu hiểu nó một cách chính xác. Không thể vào lúc đó. Không thể cho đến ngày đầu tiên Brandon đến trường.”
Có thứ gì đó vướng trong cổ họng ông già. Ông húng hắng ho và bây giờ Larry có thể nhìn thấy nước mắt tiếp tục ứa ra. Tiếng đàn piano giờ đây khẽ khàng hơn. Những con dế im bặt như thể chúng cũng đang dỏng tai lắng nghe.
“Chúng tôi cùng nhau đợi xe buýt đến trường. Tôi nắm tay nó. Brandon khi đó năm tuổi. Nó ngước nhìn tôi bằng ánh mắt mà bọn trẻ con tuổi ấy vẫn làm. Nó mặc một cái quần màu nâu đã có vết cỏ trên đầu gối. Tôi nhớ cái xe buýt màu vàng xịch tới và tiếng cửa xe mở ra. Rồi Brandon buông tay tôi ra và bắt đầu leo lên bậc cửa xe. Tôi muốn vươn người tới, túm nó lại và đưa nó về nhà, nhưng tôi đứng đó, người cứng đờ. Nó vào trong xe buýt, và tôi nghe tiếng cửa đóng lại. Brandon ngồi cạnh cửa sổ. Tôi có thể nhìn thấy mặt nó. Nó vẫy tay với tôi. Tôi vẫy lại và khi xe buýt chạy đi, tôi tự nhủ, ‘Toàn bộ thế giới của tôi đã đi rồi’. Cái xe buýt màu vàng kia cùng với thành bên bằng kim loại mỏng và người lái xe tôi không hề quen biết mang đi thứ thực sự là tất cả với tôi. Và trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra cái cảm giác mà tôi đã cảm thấy vào ngày nó chào đời. Khiếp sợ. Không đơn giản là sợ hãi đâu. Sự khiếp sợ lạnh buốt, khắc nghiệt. Anh có thể sợ bệnh tật, tuổi già hay cái chết. Nhưng không có gì giống với cái hòn đá khiếp sợ nho nhỏ nằm trong bụng tôi kia khi nhìn cái xe buýt đó chạy đi. Anh có hiểu điều tôi đang nói không?”
Larry gật đầu. “Tôi nghĩ tôi hiểu.”
“Vào giây phút đó, tôi biết rằng, mặc cho những nỗ lực tuyệt đối của tôi, điều gì đó tồi tệ có thể xảy đến với nó. Tôi không thể luôn luôn có mặt để nhận những cú đánh. Tôi nghĩ về nó suốt. Tất cả chúng ta đều thế, tôi nghĩ vậy. Nhưng khi chuyện đó xảy ra, khi...” Ông dừng lại và cuối cùng đối diện với Larry Gandle. “Tôi vẫn cố mang nó trở lại,” ông nói. “Tôi cố mặc cả với Chúa, sẵn sàng trả cho ngài bất cứ thứ gì và tất cả mọi thứ nếu ngài bằng cách nào đó có thể làm Brandon sống lại. Dĩ nhiên, chuyện đó không xảy ra. Tôi hiểu điều đó. Nhưng bây giờ anh đến đây và bảo tôi rằng trong khi con trai tôi, toàn bộ thế giới của tôi, mục ruỗng dưới đất thì... ả vẫn còn sống.” Ông bắt đầu lắc đầu. “Tôi không thể chấp nhận chuyện đó, Larry ạ. Anh có hiểu không?”
“Tôi hiểu,” gã nói.
“Tôi đã không bảo vệ được nó một lần. Tôi sẽ không thất bại một lần nữa.”
Griffin Scope quay lưng lại với khu vườn. Ông nhấp thêm một ngụm rượu nữa. Larry Gandle hiểu. Gã đứng dậy rồi bước vào trong bóng đêm.
Vào lúc mười giờ đêm, Carlson tiến về phía cửa trước ngôi nhà số 28 Goodhart Road. Anh ta không lo lắm về chuyện giờ giấc muộn thế này. Anh ta đã nhìn thấy đèn tầng dưới còn sáng và tivi còn bật, nhưng ngay cả không có những cái đó, Carlson vẫn có những mối lo quan trọng hơn là giấc ngủ ngon của một ai đó.
Anh ta sắp nhấn chuông thì cửa mở. Hoyt Parker ở đó. Trong một khoảnh khắc cả hai đứng yên, hai đấu thủ đấm bốc gặp nhau ở giữa vòng tròn, trừng trừng nhìn nhau khi trọng tài lặp lại những hướng dẫn vô nghĩa về những cú đánh thấp và không được đấm khi có lệnh ngừng.
Carlson không đợi tiếng chuông báo hiệu. “Con gái ông có dùng ma túy không?”
Hoyt Parker hơi giật người. “Tại sao anh lại muốn biết?”
“Tôi vào trong được không?”
“Vợ tôi ngủ rồi,” Hoyt nói, bước ra và đóng cửa lại phía sau. “Anh không phiền nếu chúng ta nói chuyện ngoài này chứ?”
“Tùy ông.”
Hoyt khoanh tay lại và nhấp nhổm một chút. Ông có khổ người vạm vỡ, vận quần jeans xanh và một áo phông sẽ rộng rãi thoải mái hơn nếu ông ít đi khoảng năm kilô. Carlson biết Hoyt Parker là một cảnh sát lão luyện. Những cái bẫy khôn khéo và sự xảo quyệt sẽ không ích gì ở đây.
“Ông sẽ trả lời câu hỏi của tôi chứ?” Carlson hỏi.
“Anh sẽ nói cho tôi biết tại sao anh muốn biết chứ?” Hoyt đáp lại.
Carlson quyết định thay đổi chiến thuật. “Tại sao ông lấy những bức ảnh khám nghiệm tử thi trong hồ sơ của con gái ông?”
“Điều gì khiến anh nghĩ rằng tôi lấy chúng?” Không hề có giận dữ, hay lời chối bỏ giả mạo, to tiếng.
“Tôi đã xem kết quả khám nghiệm tử thi hôm nay,” Carlson nói.
“Tại sao?”
“Ông bảo sao cơ?”
“Con gái tôi đã chết tám năm rồi. Kẻ giết nó đã ở tù. Ấy vậy mà hôm nay anh quyết định xem kết quả khám nghiệm tử thi của nó. Tôi muốn biết tại sao.”
Chuyện này sẽ không dẫn đến đâu cả mãi thôi. Carlson quyết định từ bỏ một ít, bớt phòng vệ đi, để ông ta tấn công, xem chuyện gì sẽ xảy ra. “Con rể ông đến gặp nhân viên khám nghiệm pháp y của hạt hôm qua. Anh ta đòi xem hồ sơ của vợ anh ta. Tôi đang hy vọng sẽ tìm ra lý do tại sao.”
“Thế nó đã xem bản kết quả khám nghiệm tử thi chưa?”
“Chưa,” Carlson nói. “Ông có biết tại sao anh ta lại quá mức tha thiết được xem không.”
“Không.”
“Nhưng ông có vẻ quan tâm.”
“Như anh thôi, tôi thấy hành động đó đáng ngờ.”
“Còn hơn thế,” Carlson nói. “Ông muốn biết anh ta có thực sự dính tay vào đó không. Tại sao?”
Hoyt nhún vai.
“Ông có định nói với tôi ông đã làm gì với những bức ảnh chụp khi khám nghiệm tử thi không?”
“Tôi không biết anh đang nói chuyện gì,” ông đáp lại giọng bình thản.
“Ông là người duy nhất mượn xem bản báo cáo này.”
“Và việc đó chứng minh điều gì?”
“Những bức ảnh có ở đó không khi ông xem hồ sơ?”
Mắt Hoyt chớp chớp nhưng có một chút trì hoãn.
“Có,” ông nói. “Có, chúng có ở đó.”
Carlson không thể ngăn được một nụ cười. “Trả lời tốt.” Đó là một cái bẫy, và Hoyt đã tránh được. “Bởi vì nếu ông trả lời không, tôi sẽ tự hỏi tại sao ông đã không báo cáo lại, nhỉ?”
“Anh đa nghi quá, đặc vụ Carlson.”
“Ừ há. Có biết những bức ảnh đó có thể ở đâu không?”
“Rất có khả năng bị lẫn sang hồ sơ khác.”
“Phải, đúng thế. Ông có vẻ không thấy chuyện đó gây khó chịu gì.”
“Con gái tôi đã chết. Vụ của nó đóng lại rồi. Phải khó chịu vì việc gì đây?”
Thế này thật lãng phí thời gian. Hoặc có thể là không. Carlson vẫn chưa lấy được nhiều thông tin lắm, nhưng thái độ của Hoyt nói lên khá nhiều.
“Vậy ông vẫn nghĩ KillRoy giết con gái ông?”
“Không nghi ngờ gì.”
Carlson giơ bản kết quả khám nghiệm tử thi lên. “Ngay cả sau khi đọc cái này?”
“Phải.”
“Sự thật rằng rất rất nhiều vết thương có sau khi đã chết rồi không làm ông băn khoăn?”
“Nó khiến tôi được an ủi,” ông nói. “Điều đó có nghĩa là con gái tôi ít chịu đau đớn.”
“Đó không phải là ý tôi muốn nói. Tôi đang nói đến bằng chứng không phù hợp với Kellerton.”
“Tôi không thấy bất cứ thứ gì trong hồ sơ đó trái ngược với kết luận cả.”
“Nó không nhất quán với những vụ án trước.”
“Tôi không đồng ý,” Hoyt nói. “Cái không nhất quán chính là sức mạnh của con gái tôi.”
“Tôi không chắc là mình hiểu được.”
“Tôi biết Kellerton thích thú trong việc tra tấn những nạn nhân của hắn,” Hoyt nói. “Và tôi biết hắn thường đóng dấu lên họ khi họ vẫn còn sống. Nhưng chúng ta đã đặt giả thuyết rằng Elizabeth cố trốn thoát hoặc, ít nhất, là chống trả. Cái cách mà chúng ta nhìn thấy nó, con bé đã ép hắn. Hắn buộc phải khuất phục nó và để làm thế, cuối cùng hắn đã giết nó. Điều đó giải thích cho những vết thương bằng dao trên tay nó. Điều đó giải thích tại sao vết đóng dấu có sau khi chết.”
“Tôi hiểu.” Cú móc tay trái đáng ngạc nhiên. Carlson cố gắng đứng vững. Đó là một câu trả lời tốt - tốt khủng văn khiếp. Nó hợp lý. Ngay cả những nạn nhân nhỏ bé nhất cũng có thể gây nên rất nhiều rắc rối. Giải thích của ông khiến cho tất thảy những điểm không nhất quán rõ rành rành kia trở nên nhất quán một cách tuyệt vời. Nhưng vẫn còn đầy vấn đề. “Vậy ông giải thích thế nào về bản kết quả khám nghiệm chất độc?”
“Không liên quan,” Hoyt nói. “Cứ như là hỏi một nạn nhân bị cưỡng hiếp về quá khứ tình dục của cô ta ấy. Không quan trọng gì chuyện con gái tôi là kẻ bài rượu hay là bạn bè giao hảo với ma túy.”
“Thế cô ấy là loại nào?”
“Không liên quan,” ông nhắc lại.
“Không có gì là không liên quan trong một vụ điều tra giết người. Ông biết điều đó.”
Hoyt bước lại gần hơn. “Cẩn thận đấy,” ông nói.
“Ông đe dọa tôi?”
“Không hề. Tôi chỉ cảnh báo anh không nên quá vội vàng biến con gái tôi thành nạn nhân lần thứ hai.”
Họ đứng đó. Tiếng chuông cuối cùng đã rung. Họ giờ đây đợi một quyết định không bao giờ là thỏa mãn dù cho trọng tài có nghiêng về bên nào.
“Nếu đó là tất cả,” Hoyt nói.
Carlson gật đầu và bước lùi lại. Parker giơ tay với nắm đấm cửa.
“Hoyt?”
Hoyt quay người lại.
“Để tránh mọi hiểu nhầm,” Carlson nói. “Tôi không tin một lời nào trong những điều ông vừa nói. Chúng ta rõ chưa?”
“Như ban ngày,” Hoyt nói.
 
Chương 37


Khi về đến nhà, Shauna ngồi sụp xuống chỗ yêu thích của mình trên đi văng. Linda ngồi cạnh và vỗ nhẹ lên đùi cô. Shauna ngả đầu xuống. Cô nhắm mắt lại khi Linda vuốt ve tóc cô.
“Mark ổn không?” Shauna hỏi.
“Có,” Linda nói. “Vậy cậu có phiền nói cho em biết cậu đã ở đâu không?”
“Chuyện dài lắm.”
“Em chỉ ngồi ở đây đợi để nghe về em trai em.”
“Cậu ấy đã gọi cho tớ,” Shauna nói.
“Sao cơ?”
“Cậu ấy an toàn.”
“Ơn Chúa.”
“Và cậu ấy không giết Rebecca.”
“Em biết mà.”
Shauna quay đầu nhìn lên, Linda đang chớp mắt. “Cậu ấy sẽ ổn thôi,” Shauna nói.
Linda gật đầu, quay đi.
“Sao thế?”
“Em đã chụp những bức ảnh đó,” Linda nói.
Shauna ngồi dậy.
“Elizabeth đến văn phòng em. Nó bị thương nặng lắm. Em muốn nó đi bệnh viện. Nó bảo không. Nó chỉ muốn em chụp lại.”
“Đó không phải là một tai nạn ôtô?”
Linda lắc đầu.
“Ai đánh cô ấy?”
“Nó bắt em hứa không được nói.”
“Tám năm trước rồi,” Shauna nói. “Nói tớ nghe đi.”
“Không đơn giản như thế đâu.”
“Phải rồi không đơn giản.” Shauna ngập ngừng. “Mà tại sao cô ấy lại đến chỗ em? Và bằng cách nào em nghĩ đến việc bảo vệ...” Giọng cô xa vắng dần. Cô nhìn Linda trân trối. Linda không phản ứng gì, nhưng Shauna nghĩ đến điều Carlson đã nói với cô ở tầng dưới.
“Brandon Scope,” Shauna nhẹ nhàng nói.
Linda không đáp lại.
“Hắn chính là kẻ đánh cô ấy. Ôi Chúa ơi, không lạ gì sao cô ấy lại đến chỗ em. Cô ấy muốn giữ bí mật. Tớ hay Rebecca, bọn tớ sẽ buộc cô ấy đến chỗ cảnh sát. Nhưng em thì không.”
“Nó bắt em hứa,” Linda nói.
“Và em đơn giản là chấp nhận thế?”
“Thế em phải làm gì đây?”
“Kéo cô ấy ra đồn cảnh sát.”
“Ừ, bọn em đâu phải ai cũng dũng cảm và mạnh mẽ được như cậu đâu, Shauna.”
“Đừng nói với tớ cái kiểu thế.”
“Nó không muốn đi,” Linda khăng khăng. “Nó bảo nó cần thêm thời gian. Rằng nó vẫn chưa có đủ bằng chứng?”
“Bằng chứng gì?”
“Hắn tấn công nó, em đoán thế. Em không biết. Nó không chịu nghe em. Em không thể ép buộc nó được.”
“Ồ phải - rất có khả năng thế nhỉ.”
“Nói thế là có ý khỉ gì?”
“Em có liên quan tới một tổ chức từ thiện do gia đình hắn tài trợ và hắn đứng đầu,” Shauna nói. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu để lộ ra hắn đánh đập một phụ nữ?”
“Elizabeth buộc em phải hứa.”
“Và em thì đơn giản là quá sung sướng được ngậm miệng lại, phải không? Em muốn bảo vệ cái quỹ từ thiện chết tiệt của em.”
“Thế không công bằng...”
“Em đặt nó lên trên hạnh phúc của cô ấy.”
“Cậu có biết bọn em đã làm bao nhiêu việc tốt không?” Linda gào lên. “Cậu có biết bọn em đã giúp đỡ bao người rồi không?”
“Trên máu của Elizabeth Beck,” Shauna nói.
Linda tát cô. Đau nhói. Họ nhìn nhau trừng trừng, thở hổn hển. “Em đã muốn kể,” Linda nói. “Nó không cho phép em. Có thể em đã yếu hèn, em không biết. Nhưng sao cậu dám nói ra một điều như thế.”
“Và khi Elizabeth bị bắt cóc ở chỗ cái hồ... em đã nghĩ gì, mẹ kiếp, sao không kêu gào hết lên?”
“Em nghĩ có thể có liên quan. Em đến gặp cha Elizabeth. Em kể với ông ấy những gì em biết.”
“Ông ấy đã bảo gì?”
“Ông cám ơn em và bảo ông biết rồi. Ông cũng bảo em đừng nói ra bất cứ điều gì vì tình huống rất nhạy cảm. Và rồi khi đã rõ ra rằng KillRoy là kẻ giết người...”
“Em quyết định giữ im lặng.”
“Brandon Scope đã chết. Sẽ được ích gì khi lôi tên anh ta vào đống bùn đó nữa?”
Điện thoại reo. Linda với lấy. Cô nói xin chào, ngừng lại, rồi đưa máy cho Shauna. “Của cậu.”
Shauna không buồn nhìn cô khi cầm lấy ống nghe. “Alô?”
“Gặp tôi ở văn phòng,” Hester Crimstein bảo cô.
“Vì cái quái gì mà tôi phải làm thế?”
“Tôi không giỏi xin lỗi lắm, Shauna. Vì vậy hãy đơn giản đồng ý rằng tôi là một ả ngu béo ị và bỏ qua. Bắt một cái taxi và đến đây. Chúng ta có một người vô tội cần cứu.”
Phó công tố quận Lance Fein lao vào phòng họp của Crimstein trông giống như một con chồn thiếu ngủ trầm trọng vì uống quá nhiều chất kích thích. Hai nhân viên điều tra những vụ án mạng Dimonte và Krinsky bám theo ngay sau. Mặt cả ba căng ra như dây đàn piano.
Hester và Shauna đứng ở phía bên kia cái bàn. “Các quý ông,” Hester nói cùng với một cái phẩy tay, “xin mời ngồi.”
Fein nhìn cô, rồi ném một cái nhìn thuần túy ghê tởm về phía Shauna. “Tôi không ở đây để các người biến thành kẻ xuẩn ngốc.”
“Không, tôi chắc ông đã làm thế ở chỗ riêng tư tại nhà riêng của ông rồi,” Hester nói. “Ngồi đi.”
“Nếu bà biết hắn ta ở đâu...”
“Ngồi, Lance. Ông làm tôi đau đầu.”
Mọi người ngồi xuống. Dimonte đặt đôi bốt da rắn của anh ta lên trên bàn. Hester dùng cả hai tay đẩy chúng xuống, không bao giờ để nụ cười của mình kém tươi. “Chúng ta có mặt ở đây, thưa các quý ông, với một mục tiêu: cứu lấy sự nghiệp của các bạn. Vì vậy hãy làm thế, nhé?”
“Tôi muốn biết...”
“Suỵt, Lance. Ở đây tôi là người nói. Nhiệm vụ của ông là nghe và có thể là gật đầu và nói những câu như ‘Vâng, thưa bà’ và ‘Cám ơn, thưa bà’. Nếu không thì, ông chết chắc.”
Lance Fein liếc nhìn. “Bà chính là người giúp một kẻ chạy trốn công lý, Hester.”
“Ông gợi cảm chết được khi nói những câu khó nghe, Lance ạ. Trên thực tế ông chẳng được thế đâu. Nghe này, okay chứ, bởi vì tôi không muốn phải nhắc lại. Tôi sẽ ban cho ông một đặc ân, Lance ạ. Tôi sẽ không để cho ông trông giống như một gã ngu hoàn toàn trong việc này. Một gã ngu, được chứ, sẽ không có gì thay đổi nổi điều đó rồi, nhưng có thể, nếu ông lắng nghe một cách cẩn thận, sẽ không phải là một gã ngu hoàn toàn. Ông theo tôi chứ? Tốt. Đầu tiên, tôi hiểu bây giờ ông đã có được thời điểm chính xác Rebecca chết. Nửa đêm, cộng trừ nửa giờ. Chuyện đó chúng ta rõ rồi chứ?”
“Thì sao?”
Hester nhìn Shauna. “Cô có muốn nói cho ông ta?”
“Không, được rồi.”
“Nhưng cô chính là người làm hết thảy những việc khó nhọc.”
Fein nói, “Bỏ qua mấy chuyện vớ vẩn đi, Crimstein.”
Cánh cửa phía sau họ mở ra. Thư ký của Hester mang một đống giấy tờ vào cho sếp của cô cùng với một băng cát xét nhỏ. “Cám ơn, Cheryl.”
“Không có gì.”
“Giờ cô có thể về nhà rồi đấy. Mai đến muộn nhé.”
“Cám ơn.”
Cheryl đi ra. Hester lấy cái kính hình bán nguyệt ra. Bà đeo lên và bắt đầu đọc giấy tờ.
“Tôi đang mệt mỏi vì chuyện này rồi, Hester.”
“Ông có thích chó không, Lance?”
“Gì cơ?”
“Chó. Tôi không ưa chúng lắm. Nhưng cái này... Shauna, cô có bức ảnh đó chứ?”
“Ngay đây.” Shauna giơ lên một tấm ảnh lớn chụp Chloe để tất cả mọi người cùng nhìn. “Nó là giống côli có râu.”
“Xinh nhỉ, Lance?”
Lance Fein đứng dậy. Krinsky cũng đứng dậy. Dimonte không nhúc nhích. “Tôi đủ rồi.”
“Ông đi bây giờ,” Hester nói, “và con chó này sẽ tè lên sự nghiệp của ông như một vòi nước cứu hỏa.”
“Bà đang nói cái quái quỷ gì thế?”
Bà chìa hai tờ giấy ra cho Fein. “Con chó này chứng minh rằng Beck đã không làm điều đó. Cậu ấy ở chỗ cửa hàng Kinko tối qua. Cậu ấy vào cùng con chó. Gây ra một vụ om sòm, tôi hiểu. Đây là bốn lời khẳng định từ các nhân chứng không liên quan gì đến nhau đã xác nhận nhân dạng của Beck. Cậu ấy đã thuê máy tính một lúc ở đó - nói một cách chính xác hơn, từ bốn phút sau nửa đêm đến mười hai giờ hai mươi ba phút sáng, theo như hóa đơn thanh toán của cửa hàng.” Bà cười toét. “Đây, các anh bạn. Bản sao cho tất cả mọi người.”
“Bà mong đợi tôi sẽ chấp nhận những thứ bề nổi không thực chất này?”
“Không hề. Làm ơn, bằng mọi cách, nghe tôi.”
Hester ném một bản copy cho Krinsky và bản nữa cho Dimonte. Krinsky cầm lấy và hỏi liệu anh ta có dùng điện thoại được không.
“Dĩ nhiên,” Crimstein nói. “Nhưng nếu anh định gọi điện thoại giá cao, vui lòng để cho ban của anh thanh toán.” Bà trao cho anh ta một nụ cười ngọt ngào giả tạo khủng khiếp. “Cám ơn rất nhiều.”
Fein đọc tờ giấy, nước da ông ta đang đổi sang thứ gì đó như thuộc họ xám tro.
“Nghĩ đến việc nới rộng thời gian chết ra một chút chứ gì?” Hester hỏi. “Thoải mái đi, nhưng biết gì không? Có một khu xây dựng cầu vào đêm đó. Cậu ấy được bảo vệ.”
Fein thực sự đang run bần bật. Ông ta lẩm bẩm gì đó trong cổ họng nghe có vẻ vần vần với từ “phù thủy.”
“Nào, nào, Lance.” Hester Crimstein chẹp chẹp. “Ông nên cám ơn tôi.”
“Cái gì?”
“Hãy nghĩ đến việc tôi đã rào chắn cho ông như thế nào. Vậy mà ông ở đó, với tất cả cái đám máy quay, và việc đưa tin của báo chí rất chi là thú vị, sẵn sàng tuyên bố lệnh bắt tên giết người nguy hiểm này. Ông lôi kéo những quan hệ quyền lực tốt nhất, phát biểu rất long trọng về việc giữ an toàn cho đường phố, về nỗ lực của đội để bắt được con thú này, mặc dù thực ra ông chính là người được mọi công trạng. Những cái bóng đèn nhấp nháy đó bắt đầu tắt ngúm. Ông mỉm cười và gọi mấy tay phóng viên bằng tên của họ, trong cùng lúc đó ngồi hình dung cái bàn bằng gỗ sồi to bự của ông tại tòa nhà thống đốc, và rồi bùm phát, tôi ra tay. Tôi cho bọn báo chí bằng chứng ngoại phạm kín như bưng này. Hãy thử tưởng tượng đi, Lance. Trời, ôi trời ơi, ông có nợ tôi hay không, hả?”
Fein nhìn giận dữ. “Hắn ta vẫn tấn công một nhân viên cảnh sát.”
“Không, Lance ạ, cậu ấy không tấn công. Hãy nghĩ cho kỹ, bạn của tôi. Sự thật là: Ông, Phó công tố quận Lance Fein, đã đi đến một kết luận sai lầm. Ông truy đuổi một người vô tội bằng lực lượng vũ bão của mình - và không chỉ là một người vô tội, mà còn là một bác sĩ lựa chọn công việc với mức lương thấp phục vụ người nghèo thay vì trong bộ phận tư nhân nhiều lợi lộc.” Bà ngồi lại, mỉm cười. “Ồ, thế này tốt thật, để tôi xem nào. Vậy trong lúc sử dụng hàng chục cảnh sát của thành phố mà chỉ có Chúa-mới-biết-tiêu-tốn-bao-nhiêu, cùng với hàng bao khẩu súng được lôi ra và truy lùng người đàn ông vô tội này, một nhân viên cảnh sát, vừa trẻ vừa lực lưỡng vừa sốt sắng, chặn cậu ấy lại trong một con ngõ và bắt đầu đánh đập cậu này. Không một ai khác ở gần đó, vì vậy anh chàng cảnh sát trẻ tuổi này cho mình có quyền buộc cái gã đáng sợ này phải trả giá. Bác sĩ David Beck tội nghiệp, bị ngược đãi, một người đàn ông góa vợ, tôi xin phép nói thêm, không làm gì khác ngoài chống trả để tự vệ.”
“Sẽ chẳng khiến ai tin đâu.”
“Chắc chắn là có, Lance ạ. Tôi không muốn mình nghe có vẻ trơ tráo, bất lịch sự, nhưng ai thực sự là người có khả năng thêu dệt tốt hơn? Và đợi đã, ông vẫn chưa nghe những điểm chung tôi triết lý khi so sánh vụ này với vụ Richard Jewell, hay việc sốt sắng quá mức của văn phòng công tố quận, hay việc vì sao họ lại quá mức hồ hởi đổ vấy cái này cho bác sĩ David Beck, người anh hùng bị chà đạp, đến mức họ rõ ràng đã sắp đặt chứng cớ tại khu cậu ấy ở.”
“Sắp đặt?” Fein mặt đỏ bừng bừng. “Bà điên rồi à?”
“Thôi nào, Lance, chúng ta đều biết bác sĩ David Beck không thể nào làm việc đó. Chúng ta đã có chứng cớ ngoại phạm tích cực do bốn nhân chứng khai - à, quỷ quái thật, chúng ta sẽ còn xới lên nhiều hơn bốn trước khi chuyện này kết thúc - không có liên quan gì tới nhau, không hề thiên vị, rằng cậu ấy không hề làm việc đó. Vậy bằng cách nào tất cả những bằng chứng này đến được đó? Ông, ngài Fein, và lực lượng vũ bão của ông. Mark Fuhrman sẽ trông như Mahatma Gandhi ngay khi tôi xong việc với ông.”
Hai nắm tay của Fein siết chặt lại. Ông ta hít vào vài hơi thật sâu và để người ngả ra sau. “Okay,” ông ta bắt đầu chậm rãi nói. “Giả sử rằng chứng cớ ngoại phạm này chấp nhận được...”
“Ồ, nó sẽ được chấp nhận.”
“Giả sử nó được, bà muốn gì?”
“Ồ, bây giờ thì đó là một câu hỏi tốt khủng khiếp. Ông là một tình huống gây phiền nhiễu rắc rối kinh, Lance ạ. Ông bắt cậu ấy, ông giống như một thằng ngu. Ông hủy bỏ lệnh bắt, ông giống như một thằng ngu. Tôi không biết chắc mình có cách nào không nữa.” Hester Crimstein đứng dậy, bắt đầu bước đi như thể công việc đã kết thúc. “Tôi đã xem xét việc này và nghiền ngẫm rồi nghĩ tôi đã tìm ra một cách để giảm tối đa thiệt hại. Có muốn nghe không?”
Fein nhìn trừng trừng hơn nữa. “Tôi đang nghe đây.”
“Ông đã làm một việc thông minh trong hết thảy những chuyện này. Chỉ một việc thôi, nhưng có lẽ thế là đủ. Ông để mặt ông tránh khỏi báo chí. Đó là bởi vì, tôi tưởng tượng, sẽ hơi bị xấu hổ khi phải cố giải thích vị bác sĩ này đã trốn mạng lưới truy lùng của ông bằng cách nào. Nhưng thế lại tốt. Tất cả những thông tin được đưa lên có thể đổ cho những nguồn rò rỉ nặc danh. Vậy ông sẽ làm cái này, Lance ạ. Ông triệu tập một cuộc họp báo. Ông nói với họ nguồn rò rỉ là sai, rằng bác sĩ Beck được tìm kiếm với tư cách là một nhân chứng quan trọng, ngoài ra không gì nữa. Ông không nghi ngờ cậu ấy trong vụ án này - thực ra, ông chắc chắn cậu ấy không làm việc đó - nhưng ông biết cậu ấy là một trong những người cuối cùng gặp nạn nhân còn sống và muốn nói chuyện với cậu ấy.”
“Ý tưởng đó sẽ chẳng bao giờ cất mình lên nổi đâu.”
“Ồ, sẽ bay chứ. Có thể không thẳng và thật vút, nhưng nó sẽ ở trên cao. Mấu chốt sẽ là tôi, Lance ạ. Tôi nợ ông một thứ bởi vì cậu bé của tôi đã bỏ chạy. Vì vậy tôi, kẻ thù của văn phòng công tố quận, sẽ hỗ trợ cho ông. Tôi sẽ nói cho báo chí biết ông đã hợp tác với chúng tôi như thế nào, ông đã chắc chắn để quyền lợi của thân chủ tôi không bị xâm phạm như thế nào, rằng bác sĩ Beck và tôi toàn tâm toàn ý ủng hộ cuộc điều tra của ông và hy vọng được làm việc cùng ông.”
Fein vẫn im lặng.
“Như tôi nói lúc trước đấy, Lance. Tôi có thể thêu dệt vì ông hoặc tôi có thể thêu dệt chống lại ông.”
“Và đổi lại?”
“Ông hủy bỏ tất cả những lời buộc tội tấn công và chống cự ngớ ngẩn này.”
“Không có chuyện đó được.”
Hester hất đầu với ông ta chỉ ra phía cửa. “Vậy hẹn gặp ông sau.”
Vai Fein khẽ rụt xuống. Giọng ông ta, khi ông ta nói, rất nhỏ nhẹ. “Nếu chúng tôi đồng ý,” ông ta nói, “cậu bé của bà sẽ hợp tác chứ? Cậu ta sẽ trả lời mọi câu hỏi của tôi chứ?”
“Làm ơn đi, Lance, đừng cố giả vờ như đang đưa ra điều kiện thương lượng. Tôi đã đặt hợp đồng ra rồi. Nhận lấy đi - hoặc là nhận lấy cơ hội của ông với báo chí. Lựa chọn của ông thôi. Đồng hồ đang tích tắc kìa.” Bà gõ gõ ngón trỏ tạo ra tiếng tích tắc.
Fein nhìn Dimonte. Dimonte nhai cái tăm dữ hơn nữa. Krinsky bỏ điện thoại xuống và gật đầu với Fein. Fein đến lượt mình gật đầu với Hester. “Vậy làm thế nào chúng ta dàn xếp chuyện này?”
 
Chương 38


Tôi tỉnh dậy và khi nâng đầu lên thì suýt chút nữa hét lên. Cơ bắp của tôi đã đi quá cả mức cứng đờ và đau đớn; phần nào trên người cũng đau đến nỗi tôi không biết mình đau. Tôi cố đung đưa chân ra khỏi giường. Đung đưa là một ý tưởng tồi. Một ý tưởng cực tồi. Nhẹ nhàng. Đó là điều mong muốn sáng nay.

Chân tôi đau nhiều nhất, khiến tôi nhớ mặc cho việc chạy gần như ngang ngửa marathon ngày hôm qua, tôi đang dở sống dở chết một cách thảm thương rồi. Tôi cố lật người lại. Những phần mềm bị gã châu Á kia đánh vào đau nhức như vết thương đã khâu lại bị xé toạc ra. Cơ thể tôi khao khát một ít thuốc giảm đau Percodans, nhưng tôi biết họ sẽ đặt tôi trên Phố Queer, mà đó không phải là nơi vào phút giây này tôi muốn có mặt.

Tôi xem đồng hồ. Sáu giờ sáng. Đã đến lúc tôi phải gọi lại cho Hester. Bà ta nhấc máy ở ngay hồi chuông đầu tiên. “Thành công rồi,” bà nói. “Cậu đã được tự do.”

Tôi chỉ cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút.

“Cậu định sẽ làm gì?” bà hỏi.

Một câu hỏi chết tiệt. “Tôi không rõ.”

“Đợi một giây.” Tôi nghe giọng nói khác ở ngoài. “Shauna muốn nói chuyện với cậu.”

Có tiếng động kiểu sờ soạng khi điện thoại được chuyển, rồi Shauna nói, “Bọn mình cần nói chuyện.”

Shauna, chưa bao giờ là người có những lời đãi bôi hay khôn khéo, nghe vẫn có vẻ căng thẳng kiểu gì đó và có lẽ thậm chí - khó tưởng tượng nổi - sợ hãi. Tim tôi bắt đầu đập loạn lên.

“Chuyện gì thế?”

“Chuyện này không nói trên điện thoại được,” cô nói.

“Tớ có thể đến chỗ cậu trong vòng một giờ.”

“Tớ vẫn chưa kể với Linda về chuyện, à ừm, cậu biết đấy.”

“Có lẽ đến lúc rồi đấy,” tôi nói.

“Ừ, okay.” Rồi cô nói thêm, dịu dàng hết sức ngạc nhiên, “Yêu cậu, Beck ạ.”

“Tớ cũng yêu cậu.”

Tôi nửa bò nửa lết về phía phòng tắm. Đồ đạc trong phòng giúp cho đôi chân cứng đờ hơi tí là trượt ngã của tôi đứng thẳng được. Tôi đứng dưới dòng nước cho đến khi nước nóng không còn chảy ra. Nó giúp xoa dịu những chỗ đau, nhưng không nhiều lắm.

Tyrese tìm cho tôi một bộ comlê bằng nhung màu tía từ bộ sưu tập Eighties Al Sharpton. Tôi đã suýt hỏi đòi một huy chương lớn bằng vàng.

“Anh định sẽ đi đâu?” anh hỏi tôi.

“Bây giờ đến nhà chị gái tôi.”

“Và sau đó?”

“Đến chỗ làm, tôi nghĩ thế.”

Tyrese lắc đầu.

“Sao?” tôi hỏi.

“Anh đang chống lại những tay rất xấu, bác sĩ ạ.”

“Ừ, tôi cho là kết hợp cả việc đó nữa.”

“Lý Tiểu Long sẽ không để chuyện này trôi qua đâu.”

Tôi nghĩ đến chuyện đó. Anh đúng. Ngay cả nếu muốn, tôi cũng không thể về nhà và đợi Elizabeth liên lạc lại một lần nữa. Trước hết là, tôi đã thụ động đủ rồi, nghỉ ngơi dễ chịu không nằm trong chương trình hoạt động của Beck nữa. Nhưng cũng quan trọng không kém, những gã trong chiếc xe tải kia không định quên vấn đề đó đi và để cho tôi vui vẻ đi đường tôi.

“Tôi sẽ trông chừng phía sau anh, bác sĩ. Brutus nữa. Cho đến khi chuyện này kết thúc.”

Tôi định nói thứ gì đấy dũng cảm kiểu như “Tôi không thể yêu cầu anh làm việc đó” hay “Anh còn có cuộc sống riêng của anh nữa,” nhưng khi bạn nghĩ đến việc đó, họ hoặc làm việc này hoặc bán ma túy. Tyrese muốn giúp - thậm chí có thể cần được giúp đỡ - và nói thẳng nhé, tôi cần anh. Tôi có thể buộc anh bỏ đi, nhắc nhở anh rằng nguy hiểm lắm, nhưng anh hiểu những chuyện nguy hiểm kiểu này nhiều hơn tôi nhiều. Vì vậy cuối cùng, tôi chỉ chấp nhận bằng một cái gật đầu.

Carlson nhận một cú điện thoại từ Trung tâm Truy nguyên Quốc gia sớm hơn mong đợi.

“Chúng ta đã có khả năng tìm được nó rồi,” Donna nói.

“Bằng cách nào?”

“Đã nghe IBIS chưa?”

“Có, một chút.” Anh ta biết IBIS là viết tắt của Hệ thống Nhận dạng Đường đạn Tổ hợp, một chương trình máy tính mới mà ủy ban Rượu, Thuốc lá, Đạn dược và Thuốc nổ sử dụng để lưu trữ đạn và vỏ đạn. Một phần của chương trình Ngừng bắn mới của ATF.

“Chúng ta thậm chí không cần đến đạn gốc nữa,” cô nói tiếp. “Họ chỉ việc gửi cho chúng ta hình ảnh được scan. Chúng ta có thể số hóa và tìm ra được cái tương xứng ngay lập tức trên màn hình.”

“Và?”

“Cậu đã đúng, Nick,” cô nói. “Nó khớp.”

Carlson ngắt máy và gọi một cú điện thoại khác. Khi người đàn ông ở đầu dây bên kia nhấc máy, anh ta hỏi, “Bác sĩ Beck ở đâu?”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom