Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Đừng Nói Một Ai

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
797,928
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Đừng Nói Một Ai

Đừng Nói Một Ai
Tác giả: Harlan Coben
Tình trạng: Đã hoàn thành




Nguyên tác: Tell No One
Tác giả: Harlan Coben
Dịch giả: Phá Hiếu
NXB: NXB Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 2008
Đánh máy: clarymun, Hoàng Liêm
Soát lỗi và chuyển ebook: Hoàng Liêm
Ngày hoàn thành: 19/07/2013

Giới thiệu:


Với bác sĩ David Beck, sự mất mát là quá mức chịu đựng nổi. Và tám năm qua đi, từng ngày một nỗi kinh hoàng về những gì đã xảy ra cũng dần dần nguôi ngoai. Hồ nước lấp lánh. Ánh trăng bàng bạc. Những tiếng hét thất thanh. Cái đêm vợ anh bị mang đi. Mới đêm trước anh vẫn thấy vợ mình còn sống.

Mọi người nói với anh rằng đã đến lúc phải chôn chặt quá khứ mà sống tiếp. Nhưng với David Beck, không thể có sự kết thúc. Một tin nhắn xuất hiện trong máy tính của anh, cụm từ mà chỉ có anh và người vợ đã mất biết mà thôi. Đột nhiên Beck bị trêu ngươi bởi một điều bất khả - rằng bằng cách nào đó, và ở nơi nào đó vợ anh vẫn còn sống... và anh được cảnh báo là đừng nói một ai.
 
Chương 1-1


Yêu thương tưởng nhớ cháu gái của tôi.

Gabi Coben

1997 - 2000

Myszka bé nhỏ tuyệt vời của chúng ta...

Nhỏ nói, “Nhưng thế khi chúng ta chết và lên Thiên đàng, liệu anh có còn yêu em nữa không, tình yêu liệu có tiếp tục tồn tại?”

Lớn ôm chặt Nhỏ vào lòng khi họ cùng nhìn ra màn đêm, ngắm vầng trăng trong bóng tối và những vì sao lấp lánh. “Nhỏ này, hãy nhìn các vì sao kia, chúng mới sáng rỡ và lấp lánh làm sao, có nhiều ngôi sao đã chết lịm từ lâu lắm rồi. Vậy mà chúng vẫn chiếu sáng trên bầu trời đêm, bởi vì em nhìn thấy chúng, Nhỏ ạ, tình yêu cũng giống như ánh sáng của những ngôi sao ấy, không bao giờ chết đâu...”

- Debi Gliori

Dù cho thế nào đi nữa.

(Bloomsburry Publishing)

Lời cảm ơn

Ngay sau đây. Trước khi chúng ta bắt đầu câu chuyện, tôi muốn được giới thiệu với các bạn những người sau:

• Biên tập viên tài năng Beth de Guzman, cũng như Susan Corcoran, Sharon Lulek, Nita Taublib, Irwyn Applebaum, và các thành viên Giờ Vàng của Bantam Dell.

• Lisa Erbach Vance và Aaron Priest, các đại diện của tôi.

• Anne Amstrong-Coben, bác sĩ Gene Riehl, Jeffrey Bedford, Gwendolen Gross, Jon Wood, Linda Fairstein, Maggie Griffin, và Nils Lofgren vì sự thấu hiểu và động viên khuyên khích của họ.

• Và Joel Gotler, người đã thúc đẩy, kích thích, và truyền cảm hứng cho tôi.

Như thể có một lời thì thầm đáng sợ trong gió. Hoặc là một sự ớn lạnh thấu xương tủy. Một thứ gì đó. Một điệu hát mơ hồ chỉ Elizabeth và tôi mới nghe thấy được. Sự ngột ngạt trong không khí. Một điềm báo theo kiểu người ta vẫn hay nói đến. Có những nỗi bất hạnh có thể dự đoán được - chẳng hạn như những gì xảy ra với bố mẹ tôi - nhưng cũng có những khoảnh khắc bí hiểm khác, những khoảnh khắc dữ dội và đột ngột làm biến đổi mọi thứ. Đã từng tồn tại một cuộc đời tôi trước tấn thảm kịch. Có một cuộc đời tôi bây giờ. Hai cái ít điểm chung đến thảm hại.

Trên xe, Elizabeth im lặng suốt cuộc đi chơi trong ngày kỷ niệm hàng năm của chúng tôi, nhưng việc đó không có gì là bất thường. Ngay từ khi còn nhỏ, nàng đã hay sầu muộn bất ngờ như thế này. Nàng trở nên trầm lặng và chìm vào dòng suy tư hay nỗi sợ hãi sâu thẳm mà tôi chưa bao giờ biết. Hẳn nó là một phần của điều bí ẩn, tôi đoán vậy, nhưng đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận cái hố sâu ngăn cách giữa chúng tôi. Quan hệ của chúng tôi đã trải qua nhiều thử thách. Tôi tự hỏi liệu nó có thể tiếp tục sống sót qua được sự thật. Hoặc nói đúng hơn là sống sót qua được những dối lừa không nói ra.

Máy điều hòa không khí chạy êm ru trong lòng xe màu xanh. Trời nóng và nồm. Rất điển hình cho tháng Tám. Chúng tôi vượt qua Delaware Water Gap ở cầu Miford và được một người ngồi ở trạm thu phí thân thiện chào đón vào Pennsylvania. Mười năm sau, tôi trông thấy tấm bảng đã ghi HỒ CHARMAINE - SỞ HỮU TƯ. Tôi rẽ vào con đường đất.

Bánh xe lún xuống, hất bụi lên như thể có cả một đám đông hỗn loạn người Arập. Elizabeth tắt đài trên xe. Tôi liếc sang thấy nàng đang quan sát khuôn mặt tôi. Tôi tự hỏi nàng nhìn thấy gì, và tim tôi bắt đầu đập dồn. Bên phải chúng tôi, hai chú hươu đang gặm lá. Tôi tiếp tục lái xe và rồi mặt hồ dâng lên trước mắt chúng tôi. Mặt trời đang hấp hối làm thâm tím bầu trời với một vòng cuộn màu tía và da cam. Những ngọn cây như thể đang bốc cháy.

“Anh không thể tin được là chúng ta vẫn làm việc này,” tôi nói.

“Chính anh là người bắt đầu chứ ai.”

“Ừ, hồi anh mười hai tuổi.”

Elizabeth khẽ nở một nụ cười. Nàng ít khi cười, nhưng lúc nàng cười thì, bùm, trúng ngay trái tim tôi.

“Thật lãng mạn,” nàng khăng khăng.

“Ngu ngốc thì có.”

“Em thích sự lãng mạn.”

“Em thích sự ngu ngốc.”

“Anh được làm chuyện ấy mỗi khi chúng ta làm thế này mà.”

“Gọi anh là Ngài Lãng mạn đi,” tôi nói.

Nàng cười và nắm lấy tay tôi. “Đi nào, Ngài Lãng mạn, trời đang tối dần kìa.”

Hồ Charmaine. Ông tôi đã tìm ra cái tên ấy - cái tên làm bà tôi bực tức vô cùng. Bà muốn cái hồ được đặt theo tên bà. Tên bà là Bertha. Ông nhất định không chịu. Hai điểm cho ông.

Khoảng hơn năm mươi năm trước, hồ Charmaine là khu trại hè của bọn trẻ con nhà giàu. Chủ nhân khu này bị phá sản và ông đã mua lại toàn bộ cái hồ cùng khu vực xung quanh với giá rất hời. Ông sửa sang lại ngôi nhà cắm trại chỉ huy và phá dỡ hầu hết những ngôi nhà trước hồ. Nhưng sâu trong rừng, nơi không ai lui tới, ông để mặc cho đống giường ngủ của trẻ con mục nát. Chị gái tôi, Linda, và tôi thường xem xét chúng, lục lọi trong đống đổ nát tìm những kho tàng cổ quý giá, chơi trốn tìm, thách thức chính mình đi tìm ông Ba Bị mà chúng tôi chắc chắn là đang theo dõi và rình rập sẵn. Elizabeth hiếm khi tham gia cùng. Nàng thích biết mọi thứ ở đâu. Ẩn náu khiến nàng hoảng sợ.

Khi chúng tôi ra khỏi xe, tôi nghe thấy tiếng những hồn ma. Nhiều hồn ma ở đây, quá nhiều, lượn xung quanh giành giật sự chú ý của tôi. Hồn cha tôi thắng trong cuộc chiến này. Cái hồ tĩnh lặng đến rợn người, nhưng tôi thề rằng mình vẫn có thể nghe thấy tiếng hét sung sướng của cha khi ông nhảy xuống hố từ cầu tàu, đấu gối ép sát ngực, miệng cười lớn ào xuống nước, làm dậy lên một đợt thủy triều ảo trong đôi mắt đứa con trai duy nhất của ông. Cha thích nhảy xuống chỗ cạnh cái bè mẹ hay nằm sưởi nắng. Mẹ mắng ông, nhưng bà không thể nhịn cười nổi.

Tôi chớp mắt và những hình ảnh ấy tan biến. Nhưng tôi nhớ nụ cười, tiếng hét và tiếng rơi tõm làm gợn sóng và gây tiếng dội vang vào sự tĩnh mịch ở khu hồ của chúng tôi, và tôi tự hỏi liệu những gợn sóng và tiếng dội vang như thế có bao giờ mất hẳn, liệu ở một nơi nào đó trong rừng, tiếng hét đầy sung sướng của cha tôi vẫn khẽ khàng nảy lên, từ cây này sang cây khác. Ý nghĩ ngu ngốc, nhưng còn biết làm sao nữa.

Ký ức, như bạn thấy đấy, khiến người ta đau đớn. Nhất là những ký ức đẹp.

“Anh ổn chứ, Beck?” Elizabeth hỏi tôi.

Tôi quay sang phía nàng. “Anh sắp được làm chuyện ấy, phải không?”

“Đồ hư hỏng.”

Nàng dợm bước lên con đường mòn, đầu nàng ngẩng cao, lưng duỗi thẳng. Tôi nhìn nàng trong một giây và hồi tưởng lại lần đầu tiên tôi trông thấy dáng đi đó. Hồi ấy tôi bảy tuổi, đang cưỡi xe đạp - chiếc xe có cái yên hình quả chuối và dán đề can Batman - lao xuống Goodhart Road. Goodhart Road dốc đứng và đầy gió, một con đường lớn tuyệt hảo dành cho một tay đua siêu hạng. Tôi bỏ hai tay ra khỏi ghi đông khi lao xuống dốc, cảm thấy trọn vẹn niềm sung sướng và thoải mái của một thằng bé bảy tuổi. Gió quất tóc tôi và khiến tôi chảy nước mắt. Tôi phát hiện ra một chiếc xe tải đang đậu trước ngôi nhà cũ của gia đình Ruskin, tôi quay lại, và cú nổ đầu tiên, bùm... nàng ở đó. Elizabeth của tôi, đang bước đi với cái xương sống thẳng đứng như làm bằng chất titan, thật ung dung, ngay cả khi ấy, khi mới là một cô bé bảy tuổi đi xăng đan, đeo một cái vòng tình bạn tết bằng tay và mặt lấm tấm tàn nhang.

Hai tuần sau đó, chúng tôi gặp lại nhau tại lớp hai của cô Sobel, và từ đó trở đi - đừng nhăn mặt khó chịu nhé - chúng tôi không rời nhau nữa. Người lớn thấy mối quan hệ của chúng tôi vừa đáng yêu vừa có gì đó không lành mạnh - cái tình bạn gần gũi của những đứa bé nghịch ngợm chuyển hóa thành một tình yêu giữa hai đứa thiếu niên, và rồi, khi hoocmôn phát triển thêm, trở thành trò hẹn hò trung học. Mọi người đều chờ đợi chúng tôi trưởng thành. Ngay cả chúng tôi cũng thế. Chúng tôi đều là những đứa trẻ thông minh sáng láng, đặc biệt là Elizabeth, nàng luôn là học sinh xếp hạng đầu, đầy lý trí ngay cả trong chuyện tình cảm vốn không có chỗ cho trí óc tồn tại. Chúng tôi hiểu rõ những chuyện kỳ cục ấy.

Bây giờ chúng tôi ở đây, hai mươi lăm tuổi, đã kết hôn bảy tháng, đang quay trở lại nơi chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu tiên thực sự năm mười hai tuổi.

Tệ hại, tôi hiểu điều đó.

Chúng tôi rẽ lấy một lối đi giữa đám cành cây và hơi ẩm ướt dày đặc. Mùi nhựa thông cào xé bầu không khí. Chúng tôi chậm chạp đi qua lớp cỏ cao. Muỗi và các loài côn trùng khác kêu vo vo xung quanh. Cây cối đổ những bóng dài mà bạn có thể hình dung theo bất cứ cách nào bạn thích, giống như khi đoán hình những đám mây hoặc hình của những vết mực Rorschach.

Chúng tôi đã rời khỏi con đường mòn để tìm lối đi xuyên qua bụi cây dày. Elizabeth dẫn đường. Tôi theo sau nàng hai bước, giờ đây nghĩ lại tôi thấy điều đó giống như một hình ảnh mang tính biểu tượng. Tôi đã luôn luôn tin rằng không gì có thể chia lìa chúng tôi - dĩ nhiên quá khứ của chúng tôi đã chứng tỏ điều đó, phải không? - nhưng giờ đây, hơn bao giờ hết, tôi có thể nhận thấy mặc cảm tội lỗi đang đẩy nàng ra xa khỏi tôi.

Tội lỗi của tôi.

Phía trước, Elizabeth rẽ phải ở chỗ tảng đá lớn có hình thù của một cái linga, và ở đó, phía bên phải, là cái cây của chúng tôi. Tên họ viết tắt của chúng tôi được khắc trên vỏ cây:

E.P.

+

D.B.

Và dĩ nhiên, một trái tim bao quanh. Dưới trái tim có mười hai vạch, mỗi vạch đánh dấu cho một lần lễ kỷ niệm hàng năm nụ hôn đầu tiên của chúng tôi. Tôi toan nói một câu lém lỉnh về tình trạng tệ hại của chúng tôi, nhưng khi trông thấy gương mặt của Elizabeth, những nốt tàn nhang giờ đây dường như biến mất hay sạm lại, cái cằm nghiêng nghiêng, chiếc cổ dài, thanh tú, đôi mắt xanh lá cây không chớp, mái tóc đen nhánh bện lại như một sợi thừng dày thả xuống tận vai, tôi không thốt nên lời. Suýt nữa tôi đã thú nhận với nàng tất cả, ngay lúc ấy và ngay ở đấy, nhưng có điều gì đó ngăn tôi lại.

“Anh yêu em,” tôi nói.

“Anh đang sẵn sàng làm chuyện đó à.”

“Ừ.”

“Em cũng yêu anh.”

“Được rồi, được rồi,” tôi nói, vờ tỏ ra bối rối. “Em cũng sẽ muốn làm chuyện đó thôi.”

Nàng mỉm cười, nhưng tôi nghĩ mình nhìn thấy sự ngập ngừng trong nụ cười ấy. Tôi ôm lấy nàng. Khi nàng mười hai tuổi và chúng tôi cuối cùng cũng có đủ can đảm để tiến thêm một bước, người nàng nức mùi hương tuyệt diệu của mái tóc sạch sẽ và mùi dâu tây Pixie Stix. Tôi đã bị choáng ngợp bởi cái mới lạ, dĩ nhiên, của sự kích thích và khám phá. Hôm nay người nàng ngát hương tử đinh hương và quế. Nụ hôn di chuyển như thể một tia sáng ấm áp từ trung tâm trái tim tôi. Khi lưỡi chúng tôi gặp nhau, tôi vẫn cảm nhận được sự choáng váng điếng người. Elizabeth dứt ra, thở hổn hển.

“Anh có muốn là người được vinh dự không?” nàng hỏi.

Nàng đưa tôi con dao và tôi khắc vạch thứ mười ba lên cái cây. Mười ba. Trong nhận thức muộn màng của tôi sau này, có lẽ đã có một điềm báo trước.

Trời đã trở tối khi chúng tôi quay lại khu hồ. Ánh trăng nhợt nhạt yếu ớt chiếu xuyên qua đêm tối. Đêm không một tiếng động, ngay cả tiếng dế. Tôi và Elizabeth nhanh chóng cởi quần áo. Tôi ngắm nàng ngập mình trong ánh trăng và cảm thấy có gì đó mắc ở cổ họng. Nàng nhảy xuống nước trước, hầu như không tạo ra một gợn sóng. Tôi vụng về theo sau. Nước hồ ấm một cách bất ngờ. Elizabeth bơi những sải cân đối, cắt qua nước như thể nước rẽ lối cho nàng. Tôi bì bõm bơi theo sau. Âm thanh chúng tôi tạo ra trên mặt hồ giống như những hòn đá ném thia lia trên nước. Nàng lộn vào vòng tay tôi. Da nàng ấm và ẩm ướt. Tôi yêu làn da nàng. Chúng tôi ôm nhau thật chặt. Nàng tì hai bầu vú lên ngực tôi. Tôi có thể cảm nhận được nhịp đập trái tim nàng và tôi nghe thấy hơi thở của nàng. Âm thanh của cuộc sống. Chúng tôi hôn nhau. Tay tôi lần xuống đường cong gợi cảm ở lưng nàng.

Khi chúng tôi làm xong - mọi thứ có vẻ đã quay trở về với trật tự - tôi kéo một cái bè gỗ và thả mình lên. Tôi thở hổn hển, hai chân dang rộng, đung đưa lờ lững trong nước.

Elizabeth nhăn mặt nói. “Gì thế này, anh buồn ngủ đấy à?”

“Ngáy đây.”

“Đàn ông gì mà lạ thế.”

Tôi vòng tay ra sau đầu và ngả lưng xuống. Một đám mây trôi qua trước mặt trăng, biến đêm tối màu xanh thành một màu vàng vọt và xám xịt. Không gian tĩnh mịch. Tôi có thể nghe thấy tiếng Elizabeth lên khỏi mặt nước và bước lên cầu tàu. Mắt tôi gắng điều chỉnh. Tôi gần như chỉ nắm bắt được cái dáng hình trần truồng của nàng. Đơn giản là nàng thật hấp dẫn. Tôi ngắm nàng nghiêng người để vắt nước khỏi tóc. Và rồi nàng đứng thẳng lại, đầu ngả ra sau.

Chiếc bè gỗ của tôi trôi dần xa khỏi bờ. Tôi cố xem thử chuyện gì đang xảy ra, nhưng hoàn toàn không hiểu chút gì. Chiếc bè cứ tiếp tục trôi. Tôi dần không trông thấy Elizabeth nữa. Khi nàng nhạt nhòa dần trong bóng tối, tôi quyết định, tôi sẽ kể với nàng. Tôi sẽ kể với nàng mọi chuyện.

Tôi tự gật đầu với chính mình và nhắm mắt lại. Một cảm giác nhẹ nhõm len lỏi trong ngực tôi. Tôi lắng tai nghe tiếng nước đập khe khẽ vào chiếc bè gỗ.

Rồi tôi nghe tiếng cửa xe mở.

Tôi ngồi dậy.

“Elizabeth?”

Im lặng tuyệt đối, ngoại trừ tiếng thở của tôi.

Tôi tìm kiếm bóng dáng nàng. Thật khó khăn để nhận ra, nhưng trong một khoảnh khắc tôi nhìn thấy nó. Hoặc tôi nghĩ mình đã nhìn thấy. Tôi không chắc nữa, mà có còn quan trọng gì đâu. Dù thế nào đi nữa, Elizabeth cũng đang đứng yên, và có thể là ngay trước mặt tôi.

Hẳn là tôi đã chớp mắt - thật sự là tôi không chắc cả về việc này nữa - và khi tôi mở mắt, Elizabeth đã biến mất.

Tim tôi đập nảy lên. “Elizabeth!”

Không có tiếng trả lời.

Sự căng thẳng dâng lên. Tôi nhảy khỏi cái bè và bắt đầu bơi về phía cầu tàu. Những sải bơi của tôi tạo ra một âm thanh thật lớn, lớn đến phát cuồng trong tai tôi. Tôi không thể nghe thấy gì, nếu có bất cứ điều gì đang xảy ra. Tôi ngừng lại.

“Elizabeth!”

Trong một thời gian dài không có âm thanh nào. Đám mây vẫn che khuất mặt trăng. Có thể là nàng vào xe để lấy thứ gì đó. Tôi cất tiếng gọi tên nàng một lần nữa.

Đó là lúc tôi nghe tiếng hét của nàng.

Tôi cúi đầu và bơi, bơi dữ dội, hai cánh tay tôi lên xuống, chân tôi đạp điên dại. Nhưng tôi vẫn còn cách xa cầu tàu. Tôi gắng nhìn trong khi bơi, nhưng trời quá tối, mặt trăng chỉ tỏa những tia nhợt nhạt, không chiếu sáng được gì.

Tôi nghe thấy tiếng xô xát, như thể thứ gì đó đang bị kéo lê đi.

Phía trước, tôi đã thấy được cầu tàu. Sáu mét, không hơn. Tôi bơi gấp hơn. Phổi tôi như bốc cháy. Tôi uống phải một ít nước, tay tôi duỗi thẳng, bàn tay quờ quạng mù mờ trong bóng đêm. Và rồi tôi tìm thấy nó. Cái thang. Tôi tóm chặt lấy, đu mình lên, leo lên khỏi mặt nước. Cầu tàu vẫn ướt từ lúc Elizabeth lên bờ. Tôi nhìn về phía cái lều. Trời quá tối. Tôi không thấy gì cả.

“Elizabeth!”

Một thứ gì đó như gậy bóng chày đập vào tôi, ngay trung tâm hệ thần kinh. Hai mắt tôi phồng lên. Người tôi gập lại làm đôi, không thở nổi. Không có không khí. Một cú đập khác. Lần này vào đỉnh sọ. Tôi nghe một tiếng rạn trong đầu, và cảm giác như thể ai đó đang cắm móng vuốt lên hai thái dương mình. Chân tôi oằn lại và đầu gối khuỵu xuống. Hoàn toàn mất phương hướng, tôi đặt hai tay lên đầu và cố gắng che chắn. Cú đập tiếp theo - cú cuối cùng - vào ngay giữa mặt tôi.

Tôi ngã ngửa ra sau, rơi xuống hồ. Hai mắt nhắm lại. Tôi nghe tiếng Elizabeth hét một lần nữa - lần này nàng hét gọi tên tôi - nhưng âm thanh, mọi âm thanh, đều tan biến khi tôi chìm dần trong nước.
 
Chương 1-2


Tám năm sau

Một bé gái nữa sắp làm tan nát trái tim tôi. Con bé có đôi mắt nâu, mái tóc xoăn và một nụ cười rộng mở. Con bé đeo dây càng răng, nó mười bốn tuổi và...

“Cháu có thai à?” tôi hỏi.

“Vâng, thưa bác sĩ Beck.”

Tôi cố không nhắm mắt lại. Đây không phải lần đầu tiên tôi tiếp một đứa trẻ vị thành niên mang thai. Cũng không phải lần đầu tiên trong ngày hôm nay. Tôi là bác sĩ nhi tại phòng khám Washington Heights sau khi hoàn thành công việc của bác sĩ nội trú năm năm trước ở Trung tâm Y khoa Columbia gần đó. Chúng tôi phục vụ những người được trợ cấp Y tế (tức: nghèo) bằng việc chăm sóc sức khỏe gia đình thông thường, bao gồm sản khoa, nội khoa, và dĩ nhiên, nhi khoa. Nhiều người cho rằng công việc này biến tôi thành một nhà từ thiện bác ái. Thực sự không phải thế. Tôi thích làm một nhà bác sĩ nhi. Tôi đặc biệt không thích công việc này tại những khu ngoại ô với những bà mẹ trong các gia đình trung lưu khá giả và những ông bố sơn sửa móng tay và, ừm, những người giống tôi.

“Cháu định thế nào?” tôi hỏi.

“Cháu và Terrell. Chúng cháu thực sự hạnh phúc, bác sĩ Beck ạ.”

“Terrell bao nhiêu tuổi?”

“Mười sáu ạ.”

Con bé ngước nhìn tôi, hạnh phúc và mỉm cười. Một lần nữa, tôi cố không nhắm mắt lại.

Điều luôn làm tôi ngạc nhiên - luôn luôn - là hầu hết những ca có thai này đều không phải ngẫu nhiên. Những đứa trẻ con này muốn có những đứa trẻ con. Không ai hiểu nổi điều đó. Người ta nói về các biện pháp hạn chế sinh đẻ cũng như tiết dục và rằng tất cả đều ổn và tốt, nhưng sự thật là, lũ bạn bè hay ho của chúng đang có con và lũ bạn ấy giành được mọi sự chú ý, và vì vậy, này, Terrell, tại sao chúng ta lại không có con nhỉ?

“Anh ấy yêu cháu,” đứa trẻ mười bốn tuổi này bảo tôi.

“Cháu nói chuyện này với mẹ chưa?”

“Vẫn chưa ạ.” Con bé lúng túng và nhìn nó đúng hệt như một đứa trẻ ở tuổi mười bốn. “Cháu hy vọng chú có thể cùng cháu nói chuyện này với mẹ.”

Tôi gật đầu. “Ừ.”

Tôi đã học được cách không phán xét. Tôi lắng nghe. Tôi đồng cảm. Khi là bác sĩ nội trú, tôi lên giọng dạy đời. Tôi từ trên cao nhìn xuống và rao giảng với bệnh nhân rằng hành vi của họ sẽ hủy hoại họ như thế nào. Nhưng vào một buổi chiều giá lạnh ở Manhattan, một cô bé mười bảy tuổi đầy mệt mỏi, đang mang thai đứa con thứ ba của người cha thứ ba, đã nhìn thẳng vào mắt tôi và nói một sự thật không thể nào tranh cãi được: “Chú không hiểu đời cháu đâu.”

Câu nói làm tôi cứng họng. Và bây giờ tôi lắng nghe. Tôi chấm dứt việc đóng vai Người Da trắng Nhân đức và trở thành một bác sĩ tốt hơn. Tôi sẽ trao cho đứa bé mười bốn tuổi này và đứa con của nó sự chăm sóc tốt nhất có thể. Tôi sẽ không bảo con bé rằng Terrell sẽ không bao giờ ở lại, rằng con bé đang chối bỏ tương lai của mình, rằng nếu nó cũng giống như hầu hết những bệnh nhân ở đây, nó sẽ ở trong tình trạng tương tự vì ít nhất hai người đàn ông nữa trước khi nó bước sang tuổi hai mươi.

Nghĩ ngợi về điều đó quá nhiều sẽ đâm ra thần kinh.

Chúng tôi nói chuyện một lúc - hay, ít nhất, con bé nói và tôi nghe. Phòng khám, rộng gấp đôi văn phòng của tôi, to bằng kích cỡ một xà lim (không phải tôi biết được điều này từ kinh nghiệm trực tiếp nhé), sơn màu xanh lá cây công sở, giống màu phòng vệ sinh ở trường tiểu học. Bảng kiểm tra thị lực mắt để bạn chỉ vào một số điểm được treo phía sau cánh cửa. Vài tấm đề can hình chuột Disney đã phai màu treo trên một bức tường; bức tường còn lại được che bởi một poster vĩ đại vẽ tháp dinh dưỡng. Bệnh nhân mười bốn tuổi của tôi ngồi trên bàn khám với một cuộn giấy vệ sinh mà chúng tôi kéo xuống sẵn cho mỗi đứa bé. Vì lý do nào đó, cách cuộn giấy mở ra làm tôi nhớ đến cách gói một cái sandwich ở Carnegie Deli.

Lò sưởi khiến không khí rất ngột ngạt, nhưng cần đến nó ở nơi bọn trẻ thường xuyên cởi quần áo. Tôi mặc bộ quần áo bác sĩ nhi thông thường: quần jeans màu xanh da trời, giày Converse Chuck Taylor, sơ mi gài cúc, và một cà vạt sáng kiểu Cứu lấy trẻ em thời thượng hồi năm 1994. Tôi không mặc áo choàng trắng. Tôi nghĩ nó làm bọn nhóc hoảng sợ.

Bệnh nhân mười bốn tuổi của tôi - phải, tôi không thể nào bỏ qua tuổi nó - thực sự là một đứa trẻ rất ngoan. Điều đáng buồn cười là, tất cả chúng đều ngoan. Tôi chuyển nó cho một bác sĩ sản khoa mà tôi quý mến. Và rồi tôi nói chuyện với mẹ nó. Không có gì mới lạ hay đáng ngạc nhiên. Như tôi nói đấy, tôi làm việc này hầu như hằng ngày. Chúng tôi ôm hôn khi con bé ra về. Qua vai đứa trẻ, mẹ nó và tôi liếc nhìn nhau. Độ chừng hai mươi lăm bà mẹ mang con đến gặp tôi mỗi ngày; đến cuối tuần, tôi có thể đếm trên đầu ngón tay có bao nhiêu đứa kết hôn.

Như tôi nói đấy, tôi không phán xét. Nhưng tôi thực sự quan sát.

Sau khi họ rời đi, tôi bắt đầu viết nhanh những ghi chú ngắn vào bản theo dõi của con bé. Tôi lật lại vài trang. Tôi đã chăm sóc nó từ khi tôi là bác sĩ nội trú. Điều này có nghĩa là con bé bắt đầu theo tôi khi nó tám tuổi. Tôi nhìn vào bảng theo dõi phát triển của nó. Tôi nhớ con bé khi nó tám tuổi và rồi tôi nghĩ khi ấy trông nó thế nào. Con bé không thay đổi nhiều lắm. Cuối cùng, tôi nhắm mắt và dụi.

Homer Simpson ngắt đoạn suy nghĩ của tôi bằng tiếng hét, “Thư! Thư ở đây! Oooo!”

Tôi mở mắt, quay về phía màn hình. Đây là Homer Simpson như trong chương trình TV The Simpsons. Ai đó đã thay cái giọng đều đều “Bạn có thư” của máy tính bằng đoạn thu âm tiếng Homer. Tôi khoái cái này. Tôi khoái cái này cực kỳ.

Tôi toan kiểm tra email thì tiếng gọi của hệ thống điện đàm nội bộ khiến tay tôi khựng lại. Wanda, nhân viên lễ tân, nói “Shauna... ừm, hừm, ừ... của anh đang gọi điện.”

Tôi hiểu sự bối rối đó. Tôi cám ơn cô rồi nhấn nút nghe. “Chào cưng.”

“Mặc kệ tớ,” cô trả lời. “Tớ ở đây rồi.”

Shauna gác máy. Tôi đứng dậy và đi xuống hành lang khi Shauna từ đường phố bước vào. Shauna hiên ngang bước vào phòng cứ như thể căn phòng làm cô khó chịu. Cô là một người mẫu quá khổ, một trong số ít người được biết đến với cái tên độc một từ. Shauna. Giống như Cher hay Fabio. Cô cao 1m83 và nặng 96kg. Cô là người, như bạn có thể mong đợi, khiến người khác phải ngoái đầu lại nhìn và tất cả mọi cái đầu trong phòng đợi đều làm thế.

Shauna không buồn dừng lại ở quầy lễ tân, và bộ phận tiếp tân cũng hiểu tốt hơn là không nên ngăn cô lại. Cô kéo cửa và chào tôi bằng những lời này:

“Ăn trưa. Bây giờ.”

“Tớ bảo cậu rồi. Tớ sắp bận.”

“Mặc áo khoác vào,” cô nói. “Ngoài trời lạnh đấy.”

“Nghe này, tớ ổn. Dù sao thì mai mới là ngày kỷ niệm mà.”

“Cậu sẽ trả tiền.”

Tôi lưỡng lự và cô biết cô đã thắng tôi.

“Đi nào, Beck, sẽ rất vui. Như hồi ở đại học ấy. Nhớ hồi bọn mình thường cùng nhau đi chơi và ngắm mấy em gái hot quá trời chứ?”

“Tớ chưa bao giờ ngắm mấy em gái hot quá trời.”

“Ồ, đúng, tớ mới thế. Đi lấy áo khoác đi.”

Trên đường quay lại văn phòng, một trong số các bà mẹ trao cho tôi nụ cười niềm nở và kéo tôi lại gần. “Cô ấy trông còn xinh hơn khi được gặp trực tiếp thế này.” Bà thì thầm.

“Vâng,” tôi đáp lại.

“Có phải bác sĩ và cô ấy...” Bà mẹ làm cứ chỉ ngoắc hai tay vào nhau.

“Không, cô ấy có ai đó rồi mà,” tôi trả lời.

“Thật ư? Ai vậy?”

“Chị gái tôi.”

Chúng tôi ăn tại một nhà hàng Trung Quốc rẻ tiền với cô hầu bàn dân Tàu chỉ nói được tiếng Tây Ban Nha, Shauna, ăn mặc không chê vào đâu được, một bộ vest màu xanh da trời, một chiếc vòng cổ buông xuống hệt như Black Monday, nhíu mày lại.

“Thịt lợn Moo shu trong vỏ bánh ngô?”

“Thử mạo hiểm đi,” tôi nói.

Chúng tôi gặp nhau vào ngày đầu tiên ở trường đại học. Ai đó ở văn phòng đăng ký làm việc rất dở hơi và nghĩ tên cô là Shaun, và vì vậy cuối cùng chúng tôi là bạn cùng phòng.

Khi mới tán gẫu, chúng tôi đều định báo lại nhầm lẫn này. Cô mua bia cho tôi. Tôi bắt đầu quý cô. Vài giờ sau, chúng tôi quyết định không nói vì nhỡ đâu bạn cùng phòng thực sự của chúng tôi lại là đứa dở hơi thì sao.

Tôi học ở Amherst College, một học viện đặc biệt tinh hoa nằm ở phía Tây Massachusetts, và tôi không biết liệu trên trái đất có trường tư thục nào giàu như thế này không. Elizabeth, đại biểu học sinh đọc diễn văn trong lễ hội tốt nghiệp của trường cấp ba chúng tôi, chọn Yale. Chúng tôi có thể học cùng một trường, nhưng chúng tôi đã bàn và quyết định đây có thể là lần thử thách tuyệt vời nữa cho mối quan hệ của chúng tôi. Một lần nữa, chúng tôi hành động như những người trưởng thành. Kết quả ư? Chúng tôi nhớ nhau phát điên. Sự chia xa thắt chặt thêm lời cam kết gắn bó của chúng tôi và tạo cho tình yêu của chúng tôi một kích thước mới: khoảng-cách-làm-trái-tim-yêu-thương-hơn.

Đáng buồn cười, tôi biết mà.

Trong lúc ăn, Shauna hỏi tôi, “Cậu có thể trông Mark tối nay không?”

Mark là cậu cháu trai năm tuổi của tôi. Một vài lần khi còn học năm cuối. Shauna bắt đầu hẹn hò với chị gái tôi, Linda. Họ tổ chức một đám cưới bảy năm trước. Mark là kết quả phụ của, ừm, tình yêu của họ, với một ít giúp đỡ từ thụ thai nhân tạo. Linda mang thai và Shauna nhận nuôi thằng bé. Có phần hơi cổ điển, họ muốn con trai họ có mẫu người đàn ông lý tưởng trong đời. Tôi tham gia.

Ngoài những gì tôi sắp gặp ở chỗ làm, chúng tôi nói chuyện Ozzle and Harriet.

“Không vấn đề gì,” tôi trả lời. “Dù sao tớ cũng muốn xem bộ phim Disney mới.”

“Cái cô em trong phim đó xinh kinh hoàng.” Shauna nói. “Nhân vật hot nhất của họ kể từ Pocahontas.”

“Rất vui được biết,” tôi nói. “Thế cậu và Linda đi đâu?”

“Biết chết liền. Bây giờ những cô đồng tính lại là gái trẻ xinh cơ đấy, quan niệm của xã hội chúng ta kỳ cục thật. Tớ hầu như khao khát những ngày khi bọn tớ phải trốn chui trốn lủi trong tủ quần áo.”

Tôi gọi thêm một bia. Đáng lẽ không nên, nhưng thêm một cũng chẳng hại gì.

Shauna cũng gọi thêm một. “Vậy cậu đã chia tay với, tên-cô-ấy-là-gì-nhỉ, rồi à,” cô hỏi.

“Brandy.”

“Đúng rồi. Nhân tiện nói, tên đẹp đấy. Cô ta có một cô em tên Whiskey phải không?”

“Chúng tớ chỉ gặp nhau hai lần thôi.”

“Tốt. Cô ta là một ả gầy nhom. Hơn nữa, tớ tìm được một em hoàn hảo cho cậu rồi.”

“Thôi, cám ơn,” tôi nói.

“Thân hình em này đẹp chết người.”

“Shauna, đừng giới thiệu cho tớ. Làm ơn đi.”

“Tại sao không?”

“Nhớ lần gần đây nhất cậu giới thiệu cho tớ chứ?”

“Với Cassandra.”

“Đúng.”

“Thế cô ta làm sao?”

“Một điểm thôi nhé, cô ta đồng tính.”

“Chúa ơi, Beck, cậu thật là một tay cực đoan quá thể.”

Điện thoại di động của cô reo. Shauna ngả người ra sau trả lời điện thoại nhưng mắt không rời khỏi gương mặt tôi. Cô quát tháo điều gì đó và dập máy. “Tớ phải đi đây,” cô nói.

Tôi ra hiệu để thanh toán.

“Tối mai cậu đến,” cô tuyên bố.

Tôi giả vờ há hốc miệng, “Mấy cô đồng tính không có kế hoạch gì à?”

“Tớ thì không. Chị gái cậu có. Cô ấy đến bữa đại tiệc của Brandon Scope một mình.”

“Cậu không đi với chị ấy à?”

“Không.”

“Tại sao không?”

“Bọn tớ không muốn để Mark không có bọn tớ hai đêm liên tục. Linda buộc phải đi. Bây giờ cô ấy quản lý quỹ từ thiện. Còn tớ, tối tớ nghỉ. Vì vậy, tối mai đến nhé, được không? Tớ sẽ đặt sẵn phim, chúng mình sẽ xem cùng với Mark.”

Mai là ngày kỷ niệm. Nếu Elizabeth còn sống, chúng tôi sẽ khắc vạch thứ hai mươi mốt lên cái cây đó. Điều này nghe có vẻ lạ lùng, nhưng ngày mai không phải là một ngày đặc biệt khó nhọc với tôi. Đối với những ngày kỷ niệm hay dịp nghỉ, hay sinh nhật Elizabeth, tôi thường chuẩn bị tâm lý tốt đến mức có thể xoay xở mà không gặp vấn đề gì. Những ngày “bình thường” mới là những ngày khó nhọc. Khi tôi bấm cái điều khiển từ xa và bập vào một đoạn kinh điển trong The Marry Tyler Moore Show hay Cheers. Khi tôi ngang qua một hiệu sách và thấy một cuốn mới của Alice Hoffman hay Anne Tyler. Khi tôi nghe O’Jay hay Four Tops hay Nina Simone. Những thứ thường nhật.

“Tớ bảo với mẹ Elizabeth tớ sẽ ghé qua rồi,” tôi nói.

“A, Beck...” Cô toan tranh cãi nhưng rồi tự ngăn mình lại. “Sau đó thì sao?”

“Được thôi,” tôi nói.

Shauna cầm lấy tay tôi. “Cậu lại đang biến mất, Beck ạ.”

Tôi không trả lời.

“Tớ yêu cậu, cậu biết đấy. Ý tớ là, nếu nhỡ ra cậu hấp dẫn về mặt tình dục thì tớ đã đến với cậu, chứ không phải chị cậu.”

“Tớ hãnh diện quá,” tôi nói. “Thật đấy.”

“Đừng sập cửa lại với tớ. Nếu cậu sập cửa lại với tớ, cậu cũng làm thế với tất cả mọi người. Tâm sự với tớ, được chứ?”

“Được rồi,” tôi nói. Nhưng tôi không thể.

Tôi suýt xóa email đó.

Tôi nhận quá nhiều mail rác, bạn biết cái bộ lọc thư thế nào rồi đấy, tôi trở nên khá khéo léo với phím xóa. Tôi đọc địa chỉ người gửi trước. Nếu là ai đó tôi biết hoặc từ bệnh viện thì được. Nếu không phải, tôi nhiệt tình dập phím xóa.

Tôi ngồi ở bàn, xem lịch làm việc buổi chiều. Đông nghịt, không có gì đáng ngạc nhiên. Tôi xoay xoay người trong ghế và sẵn sàng cho ngón tay nhấn phím xóa. Chỉ có một email. Chính là cái làm cho Homer gào lên lúc nãy. Tôi nhìn liếc qua, và mắt tôi dừng lại ở hai chữ cái đầu tiên của tiêu đề thư.

Cái gì...?

Theo cách mà cửa sổ màn hình được thiết kế, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy chỉ là hai chữ cái này và địa chỉ của người gửi. Tôi không biết địa chỉ này. Một loạt những con số @comparama.com.

Tôi nheo mắt lại và nhấn thanh trượt bên phải. Tiêu đề thư hiện ra từng chữ cái một. Mỗi lần nhấp chuột, tim tôi lại đập nhanh thêm một chút. Hơi thở của tôi trở nên khang khác. Tôi giữ ngón tay ở thanh trượt và chờ đợi.

Khi làm xong, mọi chữ cái đã xuất hiện, tôi đọc lại tiêu đề một lần nữa và cảm nhận một tiếng huỵch nặng nhọc, sâu thẳm trong tim.

“Bác sĩ Beck?”

Miệng tôi không cử động.

“Bác sĩ Beck?”

“Chờ tôi một phút, Wanda.”

Cô ngần ngại. Tôi vẫn có thể nghe tiếng cô trên hệ thống máy liên lạc nội bộ. Và rồi tôi nghe tiếng máy tắt.

Tôi vẫn nhìn màn hình.

Gửi đến: [email protected]

Từ: [email protected]

Tiêu đề: E.P + D.B /////////////////////

Hai mươi mốt vạch. Tôi đã đếm đến bốn lần.

Thật là một trò đùa ác độc, bệnh hoạn. Tôi biết mà. Hai tay tôi nắm chặt lại. Tôi tự hỏi thằng quái mất dạy dở hơi nào đã gửi cái thư này. Thật dễ dàng để giấu tên trong email - nơi ẩn náu tốt nhất của thằng hèn công nghệ. Nhưng vấn đề là, rất ít người biết về cái cây hay ngày kỷ niệm của chúng tôi. Báo chí không bao giờ biết chuyện này. Shauna biết, dĩ nhiên. Và Linda biết. Elizabeth có thể đã kể với bố mẹ hay chú của nàng. Nhưng ngoài những người ấy ra thì...

Ai đã gửi bức thư?

Dĩ nhiên tôi muốn đọc nội dung, nhưng có gì đó níu tôi lại. Sự thật là, tôi nghĩ về Elizabeth nhiều hơn tôi tự cho phép mình - tôi không nghĩ tôi đánh lừa ai - nhưng tôi không bao giờ nói về nàng hay về chuyện đã xảy ra. Mọi người nghĩ tôi tỏ ra là đấng trượng phu, là can đảm, rằng tôi đang cố làm bạn bè đỡ lo lắng hay lảng tránh lòng trắc ẩn của mọi người hay những thứ vớ vẩn đại loại. Không phải thế. Nhắc đến Elizabeth khiến tôi đau đớn. Rất nhiều. Nó đem về lại tiếng hét cuối cùng của nàng. Nó đem về lại hết thảy những câu hỏi không lời giải đáp. Nó đem về lại thứ-đáng-lẽ-đã-có-thể (rất ít thứ, tôi đảm bảo với bạn, có khả năng hủy hoại như thứ-đáng-lẽ-đã-có-thể.) Nó đem về lại tội lỗi, cảm giác, dù phi lý, rằng một người đàn ông mạnh mẽ hơn - một người đàn ông tốt hơn - đáng lẽ đã có thể cứu nàng.

Người ta bảo rằng sẽ mất một thời gian dài để thấu hiểu được thảm kịch. Bạn chết lặng đi. Bạn không thể chấp nhận một cách thỏa đáng hiện thực ác nghiệt. Một lần nữa, đó không phải là sự thật. Dù sao cũng không phải, đối với tôi. Tôi hiểu tất cả những việc sẽ xảy đến trong khoảnh khắc họ tìm thấy thi thể Elizabeth. Tôi hiểu tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy nàng nữa, rằng tôi sẽ không bao giờ được ôm nàng một lần nào nữa, rằng chúng tôi sẽ không bao giờ có những đứa con hay cùng nhau già đi theo năm tháng. Tôi hiểu đây là kết thúc, rằng không có gì trì hoãn, rằng không có gì có thể trao đổi hay thỏa thuận.

Tôi òa khóc ngay lập tức. Nức nở không kiểm soát được. Tôi nức nở gần một tuần không dứt. Tôi nức nở trong suốt đám tang. Tôi không cho ai chạm vào mình, ngay cả Shauna và Linda. Tôi ngủ một mình trên giường của chúng tôi, vùi chặt đầu trong gối của Elizabeth, cố gắng hít ngửi mùi hương của nàng, siết chặt lên mặt mình quần áo của nàng. Không có gì trong những hành động ấy giúp tôi dễ chịu. Thật kỳ cục, thật đau đớn. Nhưng đó là mùi hương của nàng, một phần của nàng, và dù sao tôi cũng không thể dừng được.

Những người bạn có ý tốt - thường là loại xấu nhất - nói với tôi những câu sáo rỗng, và vì vậy tôi cảm thấy mình có đủ tư cách để có thể cảnh báo bạn rằng: Chỉ nên nói ra lời chia buồn sâu sắc nhất. Đừng bảo tôi rằng tôi còn trẻ. Đừng bảo với tôi rằng mọi thứ sẽ ổn hơn thôi. Đừng bảo tôi rằng nàng đang ở một nơi tốt hơn. Đừng bảo tôi rằng đó là một phần của kế hoạch thần thánh thiêng liêng nào đó. Đừng bảo tôi rằng tôi đã may mắn vì đã có một tình yêu như thế. Mọi người với những thứ nhàm chán như thế làm tôi phát ngấy. Họ khiến tôi - và điều này nghe có vẻ khắc nghiệt - nhìn đăm đăm vào những kẻ đần độn và tự hỏi tại sao anh ta hay cô ta vẫn hít thở trong khi Elizabeth của tôi thối rữa.

Tôi liên tục phải nghe cái thứ của nợ “yêu rồi mất thì tốt hơn”. Lại một sai lầm nữa. Tin tôi đi, không tốt hơn đâu. Đừng chỉ cho tôi thiên đường rồi lại thiêu rụi và bảo đó là một phần của nó. Một phần ích kỷ. Điều làm tôi thực sự đau đớn là Elizabeth đã bị tước đi quá nhiều. Tôi không thể nói với bạn, bao nhiêu lần tôi nhìn thấy hay làm một thứ gì đó mà tôi nghĩ Elizabeth sẽ thích thú đến nhường nào, và cơn đau nhói lại một lần nữa đập vào tôi.

Mọi người băn khoăn liệu tôi có chút ân hận nào không. Câu trả lời là, chỉ một điều duy nhất thôi. Tôi ân hận đã có những khoảnh khắc lãng phí vào những công việc khác hơn là làm cho Elizabeth hạnh phúc.

“Bác sĩ Beck?”

“Một giây nữa thôi.” Tôi nói.

Tôi đặt tay lên chuột và di con trỏ đến biểu tượng Đọc. Tôi nhấn vào và nội dung hiện ra:

Gửi đến: [email protected]

Từ: [email protected]

Tiêu đề: E.P + D.B //////////////////////

Nội dung: Nhấn vào hyperlink, thời điểm hôn, ngày kỷ niệm.

Một khối chì đè nặng ngực tôi.

Thời điểm hôn?

Hẳn là một trò đùa, hẳn thế. Tôi không thích những thứ bí ẩn. Tôi cũng không thích chờ đợi.

Tôi lại chộp lấy chuột và di mũi tên vào hyperlink. Tôi nhấp chuột và nghe cái modem cổ lỗ sĩ rít lên kết nối với máy chủ. Chúng tôi sở hữu một hệ thống lạc hậu ở phòng khám. Phải mất một lúc trình duyệt web mới xuất hiện. Tôi chờ đợi, nghĩ: Thời điểm hôn, làm thế nào họ biết được về thời điểm hôn?

Trình duyệt xuất hiện. Nó báo lỗi.

Tôi nhăn mặt. Đứa quái nào đã gửi cái này? Tôi thử lại lần thứ hai, và lỗi xuất hiện lần nữa. Đó là một đường link hỏng.

Đứa quái nào có thể biết được về thời điểm hôn?

Tôi chưa bao giờ kể với ai. Elizabeth và tôi ít khi nói về chuyện này, có lẽ vì nó cũng không phải là vấn đề gì to tát. Chúng tôi đã sến đến mức như trong Pollyanna vì vậy những thứ như thế này chúng tôi giữ riêng cho mình. Thật ra thì hơi xấu hổ, nhưng khi chúng tôi hôn nhau lần đầu tiên hai mươi mốt năm trước, tôi đã xem giờ. Chỉ cho vui thôi. Tôi dứt ra và nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Casino và nói, “6 giờ 15 phút.”

Và Elizabeth nói, “Thời điểm hôn.”

Tôi nhìn nội dung bức thư chưa hiện ra một lần nữa. Bây giờ tôi bắt đầu thấy khó chịu. Điều này vượt quá giới hạn của chuyện vui vẻ khôi hài. Gửi một cái email đầy ác ý là một chuyện, nhưng...

Thời điểm hôn.

Đúng, thời điểm hôn là 6 giờ 15 phút chiều mai. Tôi không có nhiều lựa chọn. Tôi phải đợi đến lúc ấy.

Vì vậy, cứ thế thôi.

Tôi lưu email lại trong một chiếc đĩa mềm, chỉ để đề phòng. Tôi kích vào lựa chọn in và nhấn nút In tất cả. Tôi không hiểu nhiều lắm về máy tính, nhưng tôi biết thỉnh thoảng bạn có thể lần ra nguồn gốc một lá thư từ tất thảy những thứ khó hiểu viết ở cuối trang này. Tôi nghe tiếng máy in chạy rè rè. Tôi nhìn tiêu đề thư một lần nữa. Tôi đếm lại số vạch một lần nữa. Vẫn là hai mươi mốt.

Tôi nghĩ về cái cây và nụ hôn đầu tiên, và trong cái văn phòng chật chội, ngột ngạt này, tôi bắt đầu ngửi thấy mùi dâu tây Pixie Stix.
 
Chương 2


Ở nhà, tôi gặp một cú sốc khác từ quá khứ.

Tôi ở phía bên kia cầu George Washington qua Manhattan - nằm trong khu ngoại ô Green River, mơ ước điển hình của dân Mỹ, thuộc New Jersey, một thành phố nhỏ, mặc cho biệt danh của nó, không sông cũng chẳng xanh. Nhà là nhà của ông tôi. Tôi chuyển vào sống cùng ông và một lô một lốc những cô y tá ngoại quốc thay đổi liên tục từ khi Nana mất cách đây ba năm.

Ông bị chứng mất trí. Đầu óc ông hơi giống một chiếc TV trắng đen cũ với ăngten tai thỏ bị hỏng. Nó hoạt động thất thường và một số ngày thì tốt hơn những ngày khác và bạn phải cầm mấy thanh ăngten theo một cách nhất định và không được cử động, và ngay cả khi ấy hình ảnh vẫn nhảy và trôi liên tục. Ít nhất thì, đó là tình trạng thường xuyên của nó. Nhưng sau cùng - vẫn tiếp tục với hình ảnh ẩn dụ này - chiếc TV này hiếm khi bật.

Tôi chưa bao giờ thực sự yêu quý ông. Ông là kiểu người độc đoán, lỗi thời, tự vươn lên bằng nỗ lực bản thân, ban phát tình cảm dựa theo mức độ thành công của bạn. Ông cộc cằn với kiểu tình yêu khắc nghiệt và là đấng trượng phu thời xưa. Một đứa cháu trai vừa nhạy cảm vừa không cường tráng, ngay cả khi có điểm số cao, cũng dễ dàng bị bỏ lơ.

Lý do tôi đồng ý chuyển vào ở cùng ông là vì tôi biết nếu tôi không làm thế, chị tôi sẽ đón ông về nhà chị ấy. Linda là như vậy. Khi chúng tôi hát tại trại hè Brooklake “Ông có cả thế giới trong tay”, chị đã thu nhận vào trái tim mình hơi nhiều ý nghĩa của câu ấy. Chị hẳn đã có cảm giác bổn phận. Nhưng Linda có một đứa con trai và một người bạn đời với những trách nhiệm. Tôi thì không. Vì vậy tôi làm một cú lĩnh xướng bằng việc chuyển vào sống cùng ông. Tôi thích sống ở đây, tôi nghĩ vậy. Khu này yên tĩnh.

Chloe, con chó của tôi, chạy chồm tới chủ, vẫy vẫy đuôi. Tôi gãi đôi tai mềm của nó. Nó đứng yên cho tôi gãi một lúc rồi đưa mắt nhìn sợi dây buộc.

“Đợi tao một phút,” tôi bảo nó.

Chloe không thích câu này. Nó trao cho tôi một cái nhìn - một ngón không hề dễ dàng khi lông phủ kín toàn bộ mắt. Chloe thuộc loại chó côli có râu, giống chó chăn cừu hơn bất cứ giống côli nào tôi từng biết. Elizabeth và tôi đã mua Chloe ngay sau khi chúng tôi kết hôn. Elizabeth yêu chó. Tôi thì không. Bây giờ lại có.

Chloe nằm dựa vào cửa trước. Nó nhìn cái cửa, rồi nhìn tôi, rồi lại nhìn cái cửa. Gợi ý. Gợi ý đấy.

Ông ngồi gọn trong ghế trước một chương trình trò chơi trên truyền hình. Ông không quay lại phía tôi, nhưng ông cũng có vẻ đang nhìn màn hình TV. Mặt ông đông cứng lại thành một cái mặt nạ nhợt nhạt, và cứng đờ, mặt nạ của cái chết. Lần duy nhất tôi thấy cái mặt đông cứng ấy tan chảy ra là khi ông được thay tã. Khi ấy, môi ông mím lại mỏng dính và da mặt ông chùng xuống. Ông chảy nước mắt và thỉnh thoảng một giọt rơi ra. Tôi nghĩ ông sáng suốt nhất là chính vào cái khoảnh khắc ông sớm ưng chịu tuổi già của mình.

Chúa quả có khiếu hài hước.

Cô y tá để lại một tờ giấy trên bàn bếp: GỌI CẢNH SÁT TRƯỞNG LOWELL.

Một số điện thoại được viết nguệch ngoạc ở dưới.

Đầu tôi bắt đầu ong ong. Từ lúc bị tấn công, tôi bị chứng đau nửa đầu. Những cú đập làm sọ tôi bị rạn. Tôi phải nhập viện năm ngày, mặc dù một bác sĩ chuyên khoa, bạn cùng lớp của tôi ở trường y, cho rằng chứng đau nửa đầu về nguồn gốc là do tâm lý hơn là sinh lý. Có thể anh ta đúng.

Dù là tâm lý hay sinh lý, cả nỗi đau và tội lỗi đều tồn tại. Tôi lẽ ra phải né được. Tôi lẽ ra phải thấy những cú đập. Tôi lẽ ra không được rơi xuống nước. Và cuối cùng, dù thế nào đi nữa tôi đã dồn hết sức để cứu lấy chính mình - tại sao tôi lại không thể làm điều như thế để cứu Elizabeth.

Vô ích, tôi hiểu.

Tôi đọc lại bức thư một lần nữa. Chloe bắt đầu rên rỉ. Tôi giơ một ngón tay lên. Nó ngừng rên nhưng lại bắt đầu chơi-trò-hết-liếc-tôi-rồi-tới-cái-cửa.

Tôi không có tin tức gì của cảnh sát trưởng Lowell từ tám năm nay, nhưng tôi vẫn nhớ hình ảnh ông ta hiện ra mờ mờ ở giường bệnh viện, gương mặt lộ rõ sự hoài nghi và yếm thế.

Ông ta có thể muốn gì sau ngần ấy thời gian?

Tôi cầm lấy điện thoại và bấm số. Một người trả lời ngay hồi chuông đầu tiên.

“Bác sĩ Beck, cảm ơn anh đã họi lại cho tôi.”

Tôi không ưa máy điện thoại hiển thị số người gọi đến mấy - quá Canh Chừng so với sở thích của tôi. Tôi hắng giọng và bỏ qua lời nhận xét lịch sự. “Tôi có thể giúp gì cho ông, cảnh sát trưởng?”

“Tôi đang ở trong khu nhà anh,” ông ta nói. “Tôi rất muốn được ghé qua và gặp anh, nếu anh cho phép.”

“Đây có phải là một chuyến viếng thăm xã giao không nhỉ?” tôi hỏi.

“Không, không hẳn.”

Ông ta đợi tôi nói gì đấy. Tôi không nói gì.

“Bây giờ có tiện không?” Lowell hỏi.

“Ông có phiền nếu nói cho tôi biết là có việc gì không?”

“Tôi muốn đợi đến lúc...”

“Và tôi nghĩ ông không nên đợi.”

Tôi thấy tay mình nắm ống nghe chặt hơn.

“Được rồi, bác sĩ Beck, tôi hiểu.” Ông ta hắng giọng, theo kiểu ngụ ý đang muốn có thêm chút thời gian.

“Có thể anh đã nghe tin có hai thi thể được tìm thấy ở Hạt Riley.”

Tôi chưa nghe. “Thi thể ra sao?”

“Xác chết được tìm thấy gần khu đất của anh.”

“Đó không phải là đất của tôi. Của ông tôi.”

“Nhưng anh là người bảo hộ theo luật định của ông anh, phải không?”

“Không,” tôi nói. “Chị tôi.”

“Có thể anh sẽ gọi cô ấy luôn. Tôi xin phép nói chuyện với cả cô ấy nữa.”

“Thi thể không được tìm thấy ở Hồ Charmaine, đúng không?”

“Đúng thế. Chúng tôi tìm thấy xác ở khu phía Tây bên cạnh. Thực ra là ở địa phận của hạt.”

“Vậy thì ông muốn gì từ chúng tôi?”

Ông ta ngừng nói một lúc. “Nghe này, tôi sẽ có mặt ở đấy trong vòng một giờ. Xin vui lòng gặp tôi và anh có thể sắp đặt để Linda cũng ở đó, được không?”

Ông ta gác máy.

Khoảng thời gian tám năm có vẻ không tốt với cảnh sát trưởng Lowell, nhưng dù sao thì, ông ta cũng đâu phải là Mel Gibson. Ông ta là gã ngu si, bẩn thỉu và tính cách ti tiện quá thể, đến nỗi ở bên cạnh ông ta, Nixon trông còn tươm chán. Ông ta có cái mũi hình củ khoai tây. Ông ta liên tục lôi ra một chiếc khăn mùi soa dùng quá nhiều lần, cẩn thận mở ra, hỉ mũi, cẩn thận xếp lại, rồi nhét sâu vào túi sau.

Linda vừa đến. Chị cúi người về phía trước trên đi văng, sẵn sàng bảo vệ tôi. Chị hay ngồi ở tư thế này. Chị là một trong những người có thể trao cho bạn sự quan tâm trọn vẹn, tuyệt đối. Chị đăm đăm nhìn bạn bằng đôi mắt nâu to khiến bạn không thể nhìn đi nơi khác. Tôi rõ là thiên vị, nhưng Linda là người tốt nhất tôi từng biết. Nghe có vẻ ủy mị, phải, nhưng có chị, tôi mới có được niềm hy vọng về thế giới này. Tình yêu của chị dành cho tôi là thứ tài sản duy nhất tôi có trên cõi đời này.

Chúng tôi ngồi trong phòng khách sang trọng của ông bà, tôi luôn cố hết sức tránh đặt chân đến chỗ này. Căn phòng cũ rích, khiến sởn cả gai ốc và vẫn có mùi chiếc đi-văng-của-người-già. Tôi thấy khó thở. Cảnh sát trưởng Lowell dành thời gian để làm quen với nơi này. Ông ta hỉ mũi thêm vài lần, lôi trong túi ra một tập giấy, nhấp nước bọt, lật tìm trang. Ông ta trao cho chúng tôi một nụ cười vẻ thân thiện nhất và lên tiếng.

“Xin hai người cho tôi biết lần gần đây nhất hai người đến hồ là khi nào?”

“Tôi đã ở đó tháng trước,” Linda trả lời.

Nhưng đôi mắt ông ta nhằm vào tôi. “Còn anh, bác sĩ Beck?”

“Tám năm trước.”

Ông ta gật đầu như thể đã sẵn trông chờ câu trả lời đó. “Như tôi đã giải thích trên điện thoại, chúng tôi đã tìm thấy hai thi thể gần Hồ Charmaine.”

“Ông đã nhận dạng được họ chưa?” Linda hỏi.

“Chưa.”

“Không có gì lạ thường à?”

Lowell nghĩ về việc đó khi cúi người về phía trước để lôi chiếc khăn ra một lần nữa. “Chúng tôi nhận diện được cả hai đều là đàn ông, trưởng thành, da trắng. Hiện chúng tôi đang tìm kiếm thông qua danh sách những người bị mất tích để xem liệu có phát hiện ra được gì không. Hai thi thể đã chết khá lâu rồi.”

“Bao lâu?” tôi hỏi.

Cảnh sát trưởng Lowell một lần nữa tìm mắt tôi. “Khó nói. Bên pháp y vẫn đang tiếp tục tiến hành xét nghiệm kiểm tra, nhưng chúng tôi cho rằng họ đã chết ít nhất năm năm rồi. Họ cũng được chôn khá cẩn thận. Chúng tôi sẽ không bao giờ có thể tìm thấy được họ nếu không có trận lở đất do trời mưa, và một con gấu xuất hiện với một cánh tay.”

Chị tôi và tôi nhìn nhau.

“Sao cơ?” Linda nói.

Cảnh sát trưởng Lowell gật đầu. “Một thợ săn đã bắn hạ một con gấu và tìm thấy một khúc xương. Nó nằm trong miệng con gấu. Hóa ra lại là một cánh tay người. Chúng tôi lần theo dấu vết. Tôi xin nói với hai người, mất kha khá thời gian đấy. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục khai quật khu vực này.”

“Ông nghĩ có thể có những thi thể khác nữa?”

“Chưa thể nói gì chắc chắn.”

Tôi ngồi lại. Linda vẫn giữ thế tập trung. “Vì vậy có phải ông đến đây xin phép chúng tôi để đào khu Hồ Charmaine?”

“Một phần nào đó.”

Chúng tôi chờ ông ta nói tiếp. Ông hắng giọng và lại nhìn tôi. “Bác sĩ Beck, nhóm máu của anh là B+, phải không?”

Tôi há hốc mồm, nhưng Linda đặt một bàn tay lên đầu gối tôi che chở. “Việc ấy thì có liên quan gì?” chị hỏi.

“Chúng tôi tìm thấy những thứ khác nữa,” ông ta nói. “Tại chỗ cái xác được chôn.”

“Những thứ khác là thứ gì?”

“Tôi xin lỗi. Việc ấy phải giữ bí mật.”

“Vậy thì biến ra ngoài đi,” tôi nói.

Lowell dường như không đặc biệt ngạc nhiên bởi cơn bột phát của tôi. “Tôi chỉ đang cố gắng tiến hành...”

“Tôi nói, cút ra ngoài.”

Cảnh sát trưởng Lowell không nhúc nhích. “Tôi biết kẻ giết vợ anh đã bị kết án,” ông ta nói. “Và tôi biết sẽ đau đớn bằng chết khi khơi lại tất cả những chuyện này.”

“Đừng tỏ ra thương hại tôi,” tôi nói.

“Tôi không định thế.”

“Tám năm trước ông đã nghĩ tôi giết cô ấy.”

“Điều ấy không đúng. Anh là chồng cô ấy. Trong những vụ như thế, sự dính líu của một thành viên trong gia đình...”

“Có thể là nếu không mất thời gian với cái thứ của nợ đó, ông đã có thể tìm thấy cô ấy trước khi...” tôi dằn mạnh từng tiếng một, nghẹn ngào. Tôi quay đi. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp ông ta. Linda vươn lại gần tôi, nhưng tôi dịch đi chỗ khác.

“Nghề của tôi là khám phá ra mọi khả năng,” ông ta nói giọng đều đều. “Chúng tôi được cảnh sát liên bang giúp đỡ. Ngay cả bố vợ cậu và em trai ông ta cũng được thông báo mọi tiến triển. Chúng tôi làm tất cả mọi việc có thể.”

Tôi không thể chịu đựng nghe thêm một lời nào nữa. “Ông muốn cái quái gì ở đây, hả Lowell?”

Ông ta đứng dậy và xốc quần lên. Tôi nghĩ ông ta muốn tạo lợi thế chiều cao. Để đe dọa hay gì đấy. “Một mẫu máu,” ông ta nói. “Của anh.”

“Tại sao?”

“Khi vợ anh bị bắt cóc, anh đã bị tấn công.”

“Và?”

“Anh đã bị đánh bằng một dụng cụ cùn.”

“Ông biết tất cả những thứ này rồi.”

“Đúng,” Lowell nói. Ông ta hỉ mũi lần nữa, kéo cái khăn mùi soa ra, rồi bắt đầu đi từng bước. “Khi tìm thấy hai thi thể, chúng tôi cũng phát hiện ra một cây gậy đánh bóng chày.”

Cơn đau trong đầu tôi bắt đầu nhói trở lại. “Một cây gậy?”

Lowell gật đầu. “Bị chôn dưới đất cùng với hai thi thể. Một cây gậy gỗ.”

Linda nói, “Tôi không hiểu. Thế chuyện này thì có liên quan gì đến em trai tôi?”

“Chúng tôi tìm thấy máu khô trên cây gậy. Chúng tôi xác định đó là nhóm máu B+.” Ông ta hất đầu về phía tôi. “Nhóm máu của anh, bác sĩ Beck.”

Chúng tôi trải qua chuyện ấy một lần nữa. Ngày kỷ niệm khắc dấu trên cây, bơi trong hồ, tiếng mở cửa xe, cuộc bơi điên dại đáng thương của tôi vào bờ.

“Anh vẫn nhớ bị rơi xuống hồ chứ?” Lowell hỏi tôi.

“Có.”

“Và anh nghe tiếng vợ anh hét?”

“Phải.”

“Và rồi anh mê man bất tỉnh? Trong nước?”

Tôi gật đầu.

“Anh có thể nói chỗ đó sâu bao nhiêu không? Ý tôi là anh bị ngã ở đâu?”

“Ông không kiểm tra việc này tám năm trước ư?” tôi hỏi.

“Chịu đựng tôi một tí, bác sĩ Beck.”

“Tôi không biết. Khá sâu.”

“Sâu quá đầu anh chứ.”

“Phải.”

“Được rồi. Và tiếp theo anh nhớ gì?”

“Bệnh viện,” tôi nói.

“Không có gì giữa thời gian anh bị rơi xuống nước và lúc anh tỉnh dậy ở bệnh viện?”

“Phải.”

“Anh không nhớ đã lên khỏi mặt nước? Anh không nhớ đã tìm đường đến cabin và gọi xe cấp cứu? Anh đã làm tất cả những việc đấy, anh biết đấy. Chúng tôi tìm thấy anh trên sàn cabin. Điện thoại vẫn còn treo lủng lẳng.”

“Tôi biết, nhưng tôi không nhớ gì cả.”

Linda lên tiếng. “Ông có nghĩ hai người đàn ông này là những nạn nhân khác nữa của” - chị ngập ngừng - “KillRoy?”

Chị nói cái tên trong một khoảng im lặng. KillRoy. Chỉ thốt ra tên của y cũng đủ làm băng giá cả căn phòng.

Lowell đưa tay lên miệng và ho. “Chúng tôi không chắc, thưa cô. KillRoy chỉ được biết là chuyên tấn công phụ nữ. Trước đây y chưa bao giờ che giấu một thi thể - ít nhất, chúng ta được biết không có trường hợp nào cả. Và da của hai người đàn ông đã thối rữa vì vậy chúng tôi không thể nói liệu họ có bị đóng dấu hay không.”

Đóng dấu. Tôi cảm thấy người mình lảo đảo. Tôi nhắm mắt lại và cố gắng không nghe gì nữa.
 
Chương 3


Sáng hôm sau, tôi lao đến văn phòng sớm, hai tiếng trước khi bệnh nhân đầu tiên đến theo lịch khám. Tôi bật máy tính, tìm địa chỉ email lạ, nhắp chuột vào hyperlink. Một lần nữa nó báo lỗi. Không đáng kinh ngạc mấy. Tôi nhìn chằm chằm vào nội dung lá thư, đọc đi đọc lại nó như thể có khả năng tìm ra được một ý nghĩa gì đó ở tầng sâu hơn. Tôi không tìm được gì.

Tôi thử máu tối qua. Xét nghiệm AND sẽ mất đến hàng tuần, nhưng cảnh sát trưởng Lowell cho rằng họ có thể tìm được mối khớp sơ bộ sớm hơn. Tôi ép ông ta cho biết thêm thông tin, nhưng ông ta vẫn ngậm chặt miệng. Ông ta đang giấu giếm chúng tôi điều gì đó. Điều gì, tôi không hề biết.

Khi ngồi trong phòng khám và đợi bệnh nhân đầu tiên đến, tôi ngẫm lại cuộc viếng thăm của Lowell. Tôi nghĩ đến hai thi thể. Tôi nghĩ đến cây gậy bằng gỗ dính máu. Và tôi cho phép bản thân mình nghĩ đến chuyện đóng dấu.

Thi thể Elizabeth được tìm thấy bên Đường 80, năm ngày sau khi nàng bị bắt cóc. Nhân viên điều tra những vụ chết bất thường dự đoán nàng đã chết được hai ngày. Điều ấy có nghĩa là nàng đã trải qua ba ngày còn sống với Elroy Kellerton, cũng được gọi là KillRoy. Ba ngày. Một thân một mình với con quái thú. Ba lần mặt trời mọc và ba lần mặt trời lặn, sợ hãi, trong bóng tối và đau đớn cực độ về thể xác cũng như tinh thần. Tôi gắng hết sức để không nghĩ đến chuyện đó. Có một số nơi đầu óc không nên đến, ở đó, nó sẽ bị lạc.

KillRoy bị bắt ba tuần sau đó. Y thú nhận đã giết mười bốn phụ nữ trong thời gian ngắn: đầu tiên là một nữ sinh Đại học ở Ann Arbor và cuối cùng, một ả gái điếm tại Bronx. Tất cả mười bốn phụ nữ được tìm thấy đều bị vứt giống như rác rưởi bên đường. Tất cả đều bị đóng dấu một chữ cái K. Đóng dấu giống như đóng dấu gia súc. Nói cách khác, Elroy Kellerton đã lấy một thanh cời lò bằng kim loại, cầm nó trong lửa nóng rực, đeo bao tay bảo vệ, đợi cho đến khi thanh cời lò nóng chảy đỏ rực, đột ngột thiêu cháy làn da đẹp đẽ Elizabeth của tôi với tiếng cháy xèo xèo.

Đầu óc tôi đã rẽ nhầm đường, đi vào hướng sai, và những hình ảnh bắt đầu tràn ngập. Tôi ép hai mắt nhắm lại và cầu cho những hình ảnh đấy biến đi. Không có tác dụng gì. Tiện thể xin nói, y vẫn còn sống. Ý tôi là KillRoy. Việc tố tụng của chúng tôi tạo cơ hội cho con quái thú này được thở, đọc, nói chuyện, được phỏng vấn trên CNN, được những người bác ái đến thăm, được mỉm cười. Trong khi đó, những nạn nhân của y thối rữa. Như tôi nói đấy, Chúa quả có khiếu hài hước.

Tôi dấp nước lạnh lên mặt và nhìn vào gương. Trông tôi như quỷ. Bệnh nhân bắt đầu xếp hàng lúc 9 giờ. Dĩ nhiên lòng tôi rối bời. Tôi liên tục nhìn đồng hồ trên tường, đợi đến “thời điểm hôn” - 6:15 chiều. Mấy chiếc kim đồng hồ lê bước chậm chạp về phía trước cứ như thể chúng đang tắm trong nước xi rô đặc.

Tôi tự đắm mình vào việc chăm sóc bệnh nhân. Tôi vẫn luôn có khả năng đó. Khi còn là một đứa trẻ, tôi có thể học hàng giờ. Đến khi là một bác sĩ, tôi có thể tự mất hút trong công việc. Tôi làm như thế sau khi Elizabeth mất. Một số người bảo tôi trốn mình trong công việc, rằng tôi chọn làm việc thay cho sống. Đáp lại kiểu nói nhàm chán ấy, tôi chỉ phản ứng với một câu đơn giản: “Thế ý anh là gì?”

Buổi trưa, tôi nuốt vội một chiếc sandwich giăm bông và một lon Diet Coke rồi tiếp thêm vài bệnh nhân nữa. Năm ngoái, một thằng bé tám tuổi đã đến gặp bác sĩ nắn khớp xương để “nắn thẳng lại cột sống” tám mươi lần. Thằng bé không bị đau lưng. Đó là một trò lừa bịp do vài tên bác sĩ khu vực thực hiện. Họ tặng cho các bậc phụ huynh một chiếc TV hay VCR miễn phí nếu các bậc phụ huynh này mang con đến. Sau đó, họ bắt Trợ cấp Y tế trả tiền cho lần khám bệnh ấy. Trợ cấp Y tế là một tổ chức tuyệt vời và tuyệt đối cần thiết, nhưng thường xuyên bị lạm dụng quá nhiều. Tôi từng có lần khám cho một thằng bé mười sáu tuổi được xe cấp cứu đưa gấp vào bệnh viện - chỉ vì bị bỏng nắng thông thường. Tại sao phải là một chiếc xe cấp cứu thay vì chỉ là taxi hay tàu điện ngầm? Mẹ thằng bé giải thích rằng chính bà ta phải trả cho những thứ này hoặc đợi chính phủ bồi hoàn. Trợ cấp Y tế ngay lập tức chi trả tiền xe cứu thương.

Lúc 5 giờ, tôi tạm biệt bệnh nhân cuối cùng. Bộ phận hỗ trợ rời khỏi lúc 5 rưỡi, tôi đợi đến khi văn phòng về hết rồi ngồi xuống và đối mặt với máy tính. Tôi nghe thấy điện thoại phòng khám reo văng vẳng. Một chiếc máy trả lời cuộc gọi sau 5 rưỡi và nêu ra cho người gọi một vài lựa chọn, nhưng vì lý do nào đó, chiếc máy ấy không nhận cuộc gọi đến hồi chuông thứ mười. Tiếng chuông làm tôi phát bực.

Tôi online, tìm email, và một lần nữa nhắp chuột vào hyperlink chưa hoạt động. Vẫn là một khu vực cấm. Tôi nghĩ đến lá thư lạ này và những thi thể kia. Phải có một mối liên hệ nào đó. Đầu óc tôi tiếp tục quay lại sự việc có vẻ đơn giản ấy. Tôi bắt đầu sắp xếp các khả năng.

Khả năng thứ nhất: hai người đàn ông kia là sản phẩm của KillRoy. Quả thực, những nạn nhân khác của y đều là phụ nữ và được tìm thấy một cách dễ dàng, nhưng chẳng lẽ điều đó loại trừ khả năng y có giết những người đàn ông khác.

Khả năng thứ hai: KillRoy đã thuyết phục hai người đàn ông này giúp đỡ y bắt cóc Elizabeth. Điều này hẳn giúp làm sáng rõ nhiều thứ. Đầu tiên là cây gậy gỗ, nếu vết máu trên cây gậy thực sự là của tôi. Nó cũng giúp giải quyết câu hỏi lớn của tôi về toàn bộ vụ bắt cóc. Theo lý thuyết, KillRoy, như tất cả những kẻ giết người hàng loạt khác, hành động một mình. Tôi đã luôn tự hỏi làm thế nào y có thể kéo lê Elizabeth đến xe và trong cùng lúc đó, nằm đợi tôi lên khỏi mặt nước? Trước lúc thi thể nàng xuất hiện, cảnh sát đã giả định không chỉ có một kẻ bắt cóc. Nhưng một khi thi thể nàng được tìm thấy, bị đóng dấu chữ K, giả thuyết ấy được giải thích một cách khéo léo hơn. KillRoy đã làm việc ấy, theo lý thuyết là thế, nếu y đánh hay bằng cách nào đó chế ngự được Elizabeth và rồi sau đấy quay sang tôi. Đó không phải là một mối nối hoàn hảo, nhưng nếu bạn nhấn đủ mạnh, mối nối sẽ khớp lại.

Bây giờ chúng ta có một cách giải thích khác. Y có những kẻ đồng phạm. Và y đã giết chúng.

Khả năng thứ ba đơn giản nhất: Vết máu trên cây gậy không phải của tôi. Nhóm máu B+ không phổ biến thật, nhưng nó cũng không phải quá hiếm. Trong tất cả các khả năng có thể xảy ra, hai thi thể này không có liên quan gì với cái chết của Elizabeth.

Tôi không thể buộc bản thân mình tin giả thiết này.

Tôi nhìn đồng hồ máy tính. Nó được nối với vệ tinh gì đó có thể chỉ thời gian chính xác.

6:04:42 chiều.

Mười phút và mười tám giây nữa là đến.

Đến cái gì?

Điện thoại vẫn reo. Tôi không nghe chuông nữa và gõ gõ ngón tay. Giờ thì còn chưa đầy mười phút. Được rồi, nếu có thay đổi ở hyperlink, thì điều đó có thể xảy ra trước thời điểm này. Tôi đặt tay lên chuột và hít một hơi thật sâu.

Máy nhắn tin của tôi đột nhiên kêu to.

Tối nay không phải phiên trực của tôi. Điều này có nghĩa hoặc nhầm lẫn - việc cho đến bây giờ là quá thường xuyên bởi những tay trực tổng đài đêm ở phòng khám - hoặc một cuộc gọi cá nhân. Nó lại bíp. Tiếng bíp đôi. Điều đó có nghĩa là chuyện khẩn cấp. Tôi nhìn lên màn hình máy nhắn tin.

Một cuộc gọi của cảnh sát trưởng Lowell, được đánh dấu Khẩn cấp.

Tám phút.

Tôi do dự nhưng không lâu lắm. Bất cứ điều gì cũng tốt hơn là miên man trong những ý nghĩ của riêng tôi. Tôi quyết định gọi lại cho ông ta.

Lowell một lần nữa lại biết ai gọi trước khi ông ta nhấc máy.

“Xin lỗi vì đã làm phiền anh, đốc tờ.” Đốc tờ, bây giờ ông ta lại gọi tôi như thế. Cứ như thể bọn tôi là bạn bè thân thiết. “Nhưng tôi chỉ có một câu hỏi nhỏ thôi.”

Tôi đặt lại tay lên con chuột, di chuyển con trỏ vào hyperlink, và nhấn. Trình duyệt web bắt đầu chạy.

“Tôi nghe đây,” tôi nói.

Trình duyệt web lần này chạy lâu hơn. Không có bảng thông báo lỗi xuất hiện.

“Cái tên Sarah Goodhart có nghĩa gì với anh không?”

Tôi suýt làm rơi điện thoại.

“Đốc?”

Tôi kéo ống nghe ra và nhìn như thể nó vừa bất thình lình xuất hiện trong tay. Tôi thu nhặt từng chút một những mảnh cơ thể mình. Khi tin lại vào giọng nói của chính mình, tôi đưa điện thoại lên tai. “Tại sao ông lại hỏi điều ấy?”

Có cái gì đấy bắt đầu xuất hiện trên màn hình máy tính. Tôi liếc nhìn. Một chiếc camera ngoài trời. Hay camera đường phố, tôi đoán người ta gọi như thế. Bây giờ mọi người sử dụng chúng trên tất cả các trang web. Tôi thỉnh thoảng sử dụng camera giao thông, đặc biệt là để xem tắc đường buổi sáng ở cầu Washington.

“Đó là một câu chuyện dài,” Lowell nói.

Tôi cần thêm thời gian. “Tôi sẽ gọi lại cho ông sau.”

Tôi gác máy. Sarah Goodhart. Cái tên có ý nghĩa với tôi. Có ý nghĩa rất nhiều.

Cái quái gì đang diễn ra ở đây thế?

Trình duyệt ngừng load. Trên màn hình, tôi nhìn thấy cảnh một đường phố trong hai màu đen trắng. Phần còn lại của trang trống không. Không bảng quảng cáo hay tít chữ. Tôi biết thiết kế như thế để tạo khoảng trống cho hình ảnh giãn ra. Thứ chúng ta có ở đây cũng thế.

Tôi nhìn đồng hồ máy tính.

6:12:18 chiều.

Chiếc camera chúc xuống một góc phố khá tấp nập, cách mặt đường chừng 4,5m. Tôi không biết góc phố cũng như thành phố tôi đang nhìn thấy. Rõ ràng là một thành phố lớn. Khách bộ hành di chuyển từ trái sang phải, đầu cúi, vai rụt, cặp da trong tay, mệt lử sau một ngày làm việc, có lẽ đang hướng tới một ga tàu hay xe bus nào đó. Về phía xa bên phải, tôi nhìn thấy gờ đường. Dòng người bắt đầu dâng sóng, có lẽ tương ứng với chuyển đổi của đèn giao thông.

Tôi nhíu mày. Tại sao ai đó lại gửi cho tôi cái cảnh này?

Đồng hồ chỉ 6:14:21 chiều. Còn chưa đầy một phút nữa là đến.

Tôi dán chặt mắt vào màn hình và đếm ngược giây như trong đêm giao thừa. Mạch tôi bắt đầu đập nhanh. 10, 9, 8...

Một đợt sóng người khác đang di chuyển từ phải sang trái. Tôi rời mắt khỏi đồng hồ. 4, 3, 2. Tôi nín thở và đợi. Khi liếc đồng hồ một lần nữa, nó chỉ:

6:15:02 chiều.

Không có gì xảy ra - nhưng mà này, tôi đã mong đợi điều gì cơ chứ?

Đợt sóng người rút dần và một lần nữa, trong một hay hai giây, không còn ai trên màn hình. Tôi ngồi lại, hít lấy không khí. Một trò đùa, tôi nghĩ. Một trò đùa kỳ quặc, chắc chắn là thế. Thậm chí bệnh hoạn. Nhưng dù sao...

Chính lúc này, một ai đó đi ra khỏi vị trí ngay dưới camera. Cứ như thể trong suốt thời gian vừa rồi người đó đã đứng đợi sẵn ở đó.

Tôi chồm người tới.

Một phụ nữ. Tôi nhìn thấy rõ mặc dù lưng cô quay về phía tôi. Tóc ngắn, nhưng rõ ràng là một phụ nữ. Từ góc nhìn ấy, cho đến lúc này, tôi không thể nhận ra bất cứ khuôn mặt nào. Không có gì khác biệt. Đầu tiên thì không.

Người phụ nữ dừng lại. Tôi nhìn vào đỉnh đầu cô, cầu mong cô nhìn lên. Cô bước thêm một bước nữa. Cô bây giờ đang ở giữa màn hình. Một ai đó vừa đi ngang qua. Người phụ nữ vẫn đứng yên. Rồi cô quay lại và từ từ ngẩng cằm lên cho đến khi cô nhìn thẳng vào camera.

Tim tôi ngừng đập.

Tôi đưa tay lên miệng và nén một tiếng thét.

Tôi không thở nổi. Tôi không nghĩ được gì. Nước mắt dâng đầy và chảy tràn xuống hai má. Tôi không buồn lau đi.

Tôi đăm đăm nhìn cô. Cô đăm đăm nhìn tôi.

Một nhóm người đi bộ băng qua màn hình. Một vài người va vào cô, nhưng người phụ nữ vẫn không dịch chuyển. Cô nhìn như bất động vào camera. Cô giơ tay như thể hướng về phía tôi. Đầu óc tôi quay cuồng. Cứ như thể những thứ trói chặt tôi với hiện thực đã bị cắt đứt.

Tôi bị thả trôi nổi bồng bềnh không kiểm soát được.

Cô vẫn giơ tay. Chầm chậm, tôi cố gắng nâng tay mình lên. Những ngón tay tôi chạm vào màn hình âm ấm, cố với được tới cô. Nước mắt lại lã chã. Tôi dịu dàng vuốt ve khuôn mặt người phụ nữ và thấy trái tim mình cùng một lúc vừa tan nát vừa vút bay lên.

“Elizabeth,” tôi gọi thầm.

Nàng đứng đó thêm một hay hai giây nữa. Rồi nàng nói gì đấy vào camera. Tôi không thể nghe tiếng nàng nói, nhưng tôi đọc được môi nàng.

“Em xin lỗi,” người vợ đã mất của tôi mấp máy môi.

Và rồi nàng bước đi.
 
Chương 4


Vic Letty nhìn trước nhìn sau trước khi khập khiễng đi vào nơi để các hòm thư. Mắt hắn lướt qua căn phòng. Không ai đang nhìn cả. Hoàn hảo. Vic không thể kìm một nụ cười. Mưu đồ của hắn không thể bị thất bại. Không có cách nào lần theo dấu vết của hắn, và bây giờ nó sẽ giúp hắn giàu to.
Vic nhận ra rằng, mấu chốt nằm ở quá trình chuẩn bị. Đó là thứ phân biệt một kẻ giỏi giang và một thiên tài. Thiên tài che được mọi dấu vết. Thiên tài chuẩn bị cho mọi tình huống có thể xảy ra.
Điều đầu tiên Vic làm là lấy một chứng minh thư giả ở chỗ Tony, thằng em họ khốn nạn. Sau đấy, sử dụng chứng minh thư giả, Vic thuê một hòm thư bằng cái tên giả mạo, Công ty UYS. Thông minh tuyệt vời chưa? Sử dụng một chứng minh thư giả và một cái tên giả. Vì vậy ngay cả nếu ai đó đút ít tiền cho thằng cha ngồi sau quầy thanh toán kia, ngay cả nếu ai đó có thể tìm ra người đã thuê hòm thư của Công ty UYS, tất cả những gì có thể tìm thấy chỉ là Roscoe Taylor, cái tên trên chứng minh thư giả của Vic.
Không có cách nào truy dấu vết Vic.
Từ phía bên kia căn phòng, Vic cố gắng nhìn hòm thư số 417. Không thấy gì nhiều, nhưng chắc chắn là có cái gì đó ở đấy. Đẹp. Vic chỉ nhận tiền mặt hoặc lệnh chuyển tiền. Dĩ nhiên, không nhận séc. Không gì có thể giúp lần ra dấu vết của hắn. Và mỗi khi đến lấy tiền, hắn luôn giả trang. Như chính lúc này đây. Hắn đội mũ lưỡi trai và dán ria mép giả. Hắn cũng giả vờ bị khập khiễng. Hắn đọc được ở đâu đó người ta hay chú ý những kẻ đi khập khiễng, vì vậy nếu một nhân chứng được hỏi nhận dạng người sử dụng hòm thư 417, nhân chứng sẽ nói gì? Đơn giản. Một người đàn ông có ria mép và đi khập khiễng. Và nếu bạn đưa hối lộ cho thằng cha nhân viên ngu ngốc này, bạn sẽ có kết luận một gã nào đó tên là Roscoe Taylor có ria mép và đi khập khiễng.
Vic Letty thật không có đặc điểm nào trong cả hai đặc điểm ấy.
Nhưng Vic cũng chuẩn bị những đề phòng khác nữa. Hắn không bao giờ mở hòm thư khi có người khác ở xung quanh. Không bao giờ. Nếu ai đó đang lấy thư của họ hay xuất hiện trong khu vực gần đấy, hắn làm như thể đang mở một hòm thư khác hay giả vờ điền một đơn thư nào đó, kiểu thế. Khi trong tầm mắt không còn ai - và chỉ khi trong tầm mắt không còn ai, Vic mới đi đến hòm thư 417.
Vic hiểu rằng cẩn thận không bao giờ là thừa cả.
Ngay cả khi đến đây, Vic cũng đề phòng trước. Hắn đậu xe tải chuyên dụng cho công việc cách nơi này bốn tòa nhà - Vic phụ trách dịch vụ lắp đặt sửa chữa CableEye, nhà phân phối cáp TV lớn nhất Bờ Đông. Hắn cúi mặt đi qua ngõ hẻm trên đường đến đây. Hắn khoác áo gió màu đen bên ngoài bộ đồng phục áo liền quần để không ai nhìn thấy cái tên “Vic” được thêu trên túi áo bên phải.
Hắn nghĩ hẳn bây giờ món tiền khổng lồ được trả vào ngày hôm nay đã nằm gọn trong hòm thư 417, cách nơi hắn đứng chưa đến ba mét. Ngón tay hắn bồn chồn không yên. Hắn nhìn căn phòng một lần nữa.
Có hai phụ nữ đang mở hòm thư của họ. Một người quay lại và mỉm cười lơ đãng với hắn. Vic dịch chuyển về phía các hộp thư đặt đối diện và túm lấy chùm chìa khóa của hắn - hắn đeo một chùm chìa khóa kêu leng keng ở dây thắt lưng - và giả vờ đang sắp xếp lại chúng. Hắn cúi mặt xuống và quay sang hướng khác.
Thận trọng hơn.
Hai phút sau, hai người phụ nữ kia đã lấy được thư và đi khỏi. Vic còn lại một mình. Hắn nhanh chóng băng qua phòng và mở hòm thư ra.
Ôi chao!
Một bưu kiện gửi thẳng đến Công ty UYS. Bọc giấy gói màu nâu. Không có địa chỉ người gửi. Và đủ dày để chứa những tờ xanh ngon thực sự.
Vic mỉm cười và tự hỏi: 50.000 dollar nhìn giống thế này ư?
Hắn giơ đôi tay run rẩy cầm lấy gói bưu kiện. Hắn cảm thấy nó nặng một cách dễ chịu trong tay mình. Tim Vic nặng trịch như búa khoan. Ôi, Chúa thân yêu! Hắn đã theo mưu đồ này tính đến thời điểm này là bốn tháng rồi. Hắn đã quăng lưới và kéo được vài mẻ cá khá ngon. Nhưng Chúa ơi, bây giờ hắn kéo được một em cá voi oách thật!
Nhìn xung quanh một lần nữa, Vic nhét gói bưu kiện vào túi áo gió và vội ra ngoài. Hắn ngoặt đường khác về lại chỗ chiếc xe tải và khởi hành đi về công ty. Những ngón tay hắn lần tìm món hàng và vuốt ve nó. 50.000 đô. 50.000 dollar. Con số làm hắn choáng váng hẳn.
Vic lái xe về đến công ty CableEye thì màn đêm đã buông. Hắn đậu xe ở phía sau và đi bộ băng qua cây cầu dành cho khách bộ hành về đến xe riêng của mình, một chiếc Honda Civic sắt gỉ từ năm 1991. Hắn cau mày nhìn chiếc xe và nghĩ: Không lâu nữa đâu.
Khu vực dành cho nhân viên khá yên tĩnh. Bóng tối bắt đầu ập xuống người hắn. Hắn nghe thấy tiếng chân mình, tiếng bước chân mỏi mệt với đôi giày ống dùng khi làm việc nện lên nền nhựa đường. Hơi lạnh xuyên vào chiếc áo gió. 50.000 dollar. Hắn có 50.000 dollar trong túi.
Vic khom vai vội vã bước.
Sự thật là, lần này, Vic sợ. Mưu đồ này đáng lẽ phải dừng lại rồi. Một mưu đồ tuyệt vời, về điều này thì chẳng có gì nghi ngờ. Thậm chí là một mưu đồ vĩ đại. Nhưng lần này hắn đang tiếp cận các đại gia. Hắn đã đặt câu hỏi về sự khôn ngoan của động thái này, cân nhắc lợi hại và quyết định rằng những thiên tài - những thiên tài thực sự làm thay đổi cuộc đời mình - sẽ không lùi bước.
Và Vic muốn trở thành một thiên tài.
Mưu đồ của hắn đơn giản, chính vì đơn giản nên nó phi thường. Nhà nào có truyền hình cáp đều có một hộp chuyển đổi trên đường dây điện thoại. Khi bạn đặt kênh truyền hình chất lượng cao như HBO hay Showtime, người phụ trách cáp thân thiện trong khu vực nhà bạn sẽ xuất hiện và nhấn một vài nút chuyển đổi. Chiếc hộp kia nắm giữ đời sống đường cáp của bạn. Và cái gì nắm giữ đời sống đường cáp sẽ nắm giữ tất cả những gì thuộc về con người thực sự của bạn.
Những công ty cáp và khách sạn có cho thuê dịch vụ truyền hình theo yêu cầu cá nhân luôn lưu ý rằng hóa đơn thanh toán sẽ không liệt kê tên những bộ phim mà bạn xem. Đó là sự thật, nhưng điều đó lại không có nghĩa là họ không biết. Cứ thử tranh cãi về số tiền phải trả một lần nào đó xem. Họ sẽ nói cho tên những bộ phim mà bạn đã xem cho đến khi bạn tái cả mặt.
Điều Vic học được ngay tức khắc - và ở đây không quá đi sâu vào các chi tiết kỹ thuật - là người ta theo dõi việc lựa chọn đường cáp của khách hàng nhờ những mật mã, những mật mã này nhận và chuyển thông tin đặt hàng của khách thông qua hộp chuyển đổi cáp đến các máy tính ở trụ sở chính của công ty cáp. Vic sẽ trèo lên cột điện thoại, mở những cái hộp, và đọc thẳng một mạch những con số. Khi quay lại văn phòng làm việc, hắn gõ các mật mã và biết sạch.
Hắn biết được, chẳng hạn, lúc 6 giờ chiều ngày 2 tháng Hai, bạn và gia đình đặt xem bộ phim The Lion King trên truyền hình cáp. Hay một ví dụ đáng để kể hơn rất nhiều, vào lúc 10 giờ rưỡi tối ngày 7 tháng Hai, bạn đặt The Hunt for Miss October và On Golden Blonde qua kênh Sizzle TV.
Hiểu mưu đồ rồi chứ?
Đầu tiên, Vic chọn các nhà một cách ngẫu nhiên. Hắn sẽ viết một lá thư đến ông chủ nhà. Lá thư sẽ ngắn gọn và lạnh lùng. Nó liệt kê những phim khiêu dâm đã được xem, vào giờ nào, ngày nào. Nó nói rõ rằng những bản sao của thông tin này sẽ được phát tán cho mọi thành viên trong gia đình người đàn ông, hàng xóm, sếp. Và rồi Vic đòi 500 dollar để bịt mồm hắn. Có thể không nhiều nhặn gì lắm, nhưng Vic nghĩ nó là một lượng tiền lý tưởng - đủ nhiều để Vic có một khoản kha khá và đủ ít để hầu hết những kẻ bị tống tiền không ngần ngại vì giá cả.
Chỉ - và điều này đầu tiên làm Vic ngạc nhiên - chỉ khoảng mười phần trăm phản hồi. Vic không chắc tại sao lại thế. Có lẽ xem phim khiêu dâm không phải một điều sỉ nhục như nó vẫn thường bị coi là thế. Có thể vợ gã kia đã sẵn biết chuyện chồng mình xem phim khiêu dâm. Chết tiệt, có thể vợ gã còn cùng xem với gã. Nhưng cái gay thực sự là mưu đồ của Vic quá ngẫu nhiên.
Hắn phải tập trung hơn. Hắn phải tuyển lựa con mồi tốt nhất.
Đấy là lúc hắn nghĩ ra ý tưởng tập trung vào những người ở một số giới nhất định, những kẻ có quá nhiều thứ để mất nếu như thông tin kia bị lộ ra ngoài. Một lần nữa các máy tính của công ty cáp có tất thảy những thông tin mà hắn cần. Hắn bắt đầu tấn công giáo viên. Người trông trẻ. Bác sĩ phụ khoa. Bất cứ ai hoạt động trong các ngành nghề nhạy cảm với một vụ scandal như thế này. Giáo viên là đám sợ hãi nhất, nhưng họ lại có ít tiền nhất. Hắn cũng viết những lá thư cụ thể hơn. Hắn sẽ nhắc đến tên người vợ. Hắn sẽ nhắc đến tên sếp. Với giáo viên, hắn đảm bảo sẽ tung tràn cho Hội đồng giáo dục và các bậc phụ huynh học sinh “bằng chứng trụy lạc”, một cụm từ Vic tự nghĩ ra. Với bác sĩ, hắn đe dọa sẽ gửi “bằng chứng” của hắn đến Hội đồng quản lý bằng cấp thích hợp, cùng với báo chí địa phương, hàng xóm và bệnh nhân.
Tiền bắt đầu đến nhanh hơn.
Đến thời điểm hiện tại, kế hoạch kiếm tiền bất lương của Vic đã giúp hắn giăng lưới được gần 40.000 dollar. Và bây giờ hắn kéo một em cá to nhất - một em khổng lồ đến nỗi đầu tiên Vic đã định buông tất cả. Nhưng hắn không thể. Hắn không thể nào bỏ đi miếng mồi ngon nhất cuộc đời hắn.
Đúng vậy, hắn đã tấn công được một nhân vật nổi tiếng. Một gã cực, cực, cực nổi đình nổi đám. Randall Scope. Trẻ, đẹp trai, giàu có, vợ hot, sinh con khi còn trẻ, có tham vọng chính trị, người 100% thừa kế gia sản nhà Scope. Và Scope không đặt xem chỉ một phim. Hay hai.
Trong suốt một tháng liên tục, Randall Scope đã đặt hai mươi ba bộ phim khiêu dâm.
Ối em ơi.
Vic đã dành hai đêm thảo ra yêu cầu, nhưng cuối cùng hắn chú trọng vào các điều căn bản nhất: ngắn gọn, lạnh lùng, và vô cùng chi tiết. Hắn đòi Scope 50.000 dollar. Hắn đòi món tiền ấy trong hòm thư của hắn trước ngày hôm nay. Và nếu Vic không nhầm thì khoản 50.000 dollar này đang đốt cháy một lỗ trong túi áo gió hắn.
Vic muốn nhìn. Hắn muốn nhìn ngay bây giờ. Nhưng Vic sẽ không là gì cả nếu không có kỷ luật. Hắn sẽ đợi cho tới lúc về đến nhà. Hắn sẽ khóa cửa lại, ngồi xuống sàn nhà, xé toạc món này ra, và để những đồng bạc xanh chảy ùa ra.
Thời điểm cực sướng.
Vic đậu xe trên đường đi và đi về phía lối lái xe vào nhà. Cảnh tượng chỗ hắn sống - một căn hộ trên cái gara chết tiệt - làm hắn chán nản. Nhưng hắn sẽ không ở đây lâu nữa. Lấy 50.000 dollar, cộng thêm gần 40.000 hắn giấu trong căn hộ, cộng với 10.000 tiết kiệm...
Nhận ra điều đó làm hắn dừng bước. 100.000 dollar. Hắn có 100.000 dollar tiền mặt. Sướng chết cha.
Hắn sẽ rời khỏi nơi này ngay lập tức. Lấy số tiền, và đi Arizona. Ở đó hắn có một thằng bạn, Sammy Viola. Hắn và Sammy sẽ bắt đầu sự nghiệp kinh doanh riêng của chúng, có thể là mở một nhà hàng hay một hộp đêm. Vic chán ngấy New Jersey rồi.
Đây là thời điểm sang trang mới. Bắt đầu lại từ đầu.
Vic lên cầu thang dẫn về căn hộ. Nói để biết, Vic không bao giờ thực hiện những lời đe dọa. Hắn không bao giờ gửi bất cứ một lá thư tố cáo nào đến bất cứ ai khác. Nếu một mục tiêu không trả tiền, thế là kết thúc. Làm hại họ sau chuyện đó chẳng đem lại tốt lành gì. Vic là một nghệ sĩ trong thực hiện mưu đồ kiếm tiền bất chính. Hắn xoay xở bằng não bộ của mình. Hắn sử dụng lời đe dọa, dĩ nhiên là thế, nhưng hắn không bao giờ thực hiện như những thứ đã đe dọa. Làm thế chỉ khiến cho ai đó phát điên, và chết tiệt, điều đó cũng có thể khiến hắn bị lộ.
Hắn chưa bao giờ thực sự làm hại một ai. Có ích gì đâu?
Hắn đã lên đến cầu thang và dừng lại trước cửa nhà. Trời tối đen như mực. Cái bóng đèn chết tiệt trước của nhà hắn lại tắt ngóm. Hắn thở dài và kéo chùm chìa khóa to uỳnh ra. Hắn nheo mắt nhìn trong bóng tối, cố gắng tìm đúng chiếc chìa. Hắn lần tìm bằng cảm giác. Hắn dò dẫm nắm đấm cửa cho đến khi tra được chìa vào ổ. Hắn đẩy cửa, bước vào trong và có thứ gì đó không ổn.
Có thứ gì đó nhàu nát dưới chân hắn.
Vic cau mày. Nhựa, hắn nghĩ. Hắn đang giẫm lên nhựa, Như thể một thợ sơn đã trải nó xuống để bảo vệ sàn nhà hay gì đó. Hắn nhấn công tắc đèn, và chính lúc đó hắn nhìn thấy một người đàn ông với một khẩu súng.
“Chào, Vic.”
Vic há hốc mồm và lùi lại một bước. Gã đứng trước mặt hắn trạc bốn mươi tuổi. Gã to lớn, béo phệ với cái bụng đang chiến đấu với những hạt cúc trên áo sơ mi của gã, và ít nhất trong trận chiến, chỗ một hạt cúc, cái bụng đã thắng. Cà vạt của gã được nới lỏng và gã có kiểu tóc phủ trên cái đầu hói xấu xí nhất mà trí tưởng tượng có thể hình dung - tám bím tóc được bện lại kéo từ tai này sang tai kia và dính chặt vào đỉnh sọ. Mặt gã nhão nhoẹt, cái cằm chìm trong những túi thịt. Gã gác chân lên cái hòm Vic thường dùng làm bàn cà phê. Thay khẩu súng bằng cái điều khiển TV, người đàn ông kia sẽ trở thành một ông bố mệt mỏi vừa đi làm về.
Một gã khác, đứng chắn cửa, một cực trái ngược hẳn với gã béo phệ, khoảng chừng hai mươi tuổi, dân châu Á, thấp bè bè, cơ bắp săn chắc thành khối với mái tóc màu bạch kim, một hay hai cái khuyên mũi, và một chiếc Walkman màu vàng đeo ở tai. Nơi duy nhất có thể nhìn thấy hai người này ở cùng nhau là trên tàu điện ngầm, gã béo phệ nhíu mày sau tờ báo được gập một cách cẩn thận, tên châu Á trẻ tuổi nhìn trừng trừng vào bạn, đầu nó khẽ lắc lư theo tiếng nhạc to quá cỡ vang lên trong tai nghe đeo ở tai.
Vic cố gắng nghĩ. Khám phá ra chúng muốn gì. Tranh luận với chúng. Mày là một nghệ sĩ trong thực hiện mưu đồ kiếm tiền bất chính, hắn tự nhắc nhở mình. Mày thông minh. Mày sẽ tìm ra lối thoát cho vấn đề này. Vic thẳng người lên.
“Chúng mày muốn gì?” Vic hỏi.
Gã béo phệ với mớ tóc bện bóp cò.
Vic nghe một tiếng bụp và rồi đầu gối phải hắn nổ tung. Mắt hắn mở to. Hắn hét và ngã sụp xuống sàn nhà, ôm lấy đầu gối. Máu chảy qua kẽ tay hắn.
“Đây là một khẩu hai mươi hai,” gã béo phệ nói, chỉ khẩu súng. “Một khẩu nòng nhỏ. Cái mà tao thích ở khẩu này, rồi mày sẽ thấy, là tao có thể bắn mày cực nhiều mà không làm mày chết.”
Chân vẫn đặt lên chiếc hòm, gã béo phệ bắn một phát nữa. Lần này, vai Vic chịu đòn. Vic thực sự cảm thấy xương hắn vỡ vụn ra. Tay hắn lắc lư như một cánh cửa hỏng bản lề. Vic ngã ngửa xuống sàn và bắt đầu thở gấp. Một hỗn hợp pha trộn khủng khiếp giữa sợ hãi và đau đớn nhấn chìm hắn. Mắt hắn vẫn mở trừng trừng, không chớp, và đột ngột hắn nhận ra một điều gì đó.
Lớp nhựa ở trên sàn nhà.
Hắn đang nằm trên nó. Còn hơn thế, máu hắn đang chảy trên đó. Thứ ấy ở đó là vì thế. Hai gã kia đã trải nó xuống để dễ dàng tẩy rửa.
“Mày có muốn kể cho tao cái mà tao muốn nghe không,” gã béo phệ nói, “hay tao lại bắn mày phát nữa?”
Vic bắt đầu nói. Hắn kể cho chúng nghe tất cả. Hắn kể cho chúng phần tiền còn lại hiện đang ở đâu. Hắn kể cho chúng bằng chứng ở đâu. Gã béo phệ hỏi hắn có đồng phạm nào không. Hắn trả lời không. Gã béo phệ bắn vào đầu gối kia của Vic. Gã hỏi hắn lại một lần nữa hắn có đồng phạm nào không. Vic vẫn trả lời không. Gã béo phệ bắn vào mắt cá chân bên phải hắn.
Một giờ sau, Vic van xin gã béo phệ bắn vào đầu hắn.
Hai giờ sau, ước nguyện của hắn đã được chấp nhận.
 
Chương 5


Tôi nhìn không chớp mắt vào màn hình máy tính.

Tôi không cử động nổi. Những giác quan bị quá tải quá mức. Mọi bộ phận cơ thể tê liệt.

Không thể như thế được. Tôi biết mà. Elizabeth không bị rơi khỏi thuyền buồm rồi được giả định là đã chết đuối, thi thể nàng không bao giờ được tìm thấy. Nàng đã không bị thiêu đến nỗi không nhận dạng được hay đại loại thế. Thi thể nàng được tìm thấy trong một cái rãnh dưới Đường 80. Bị biến dạng, có thể là thế, nhưng nàng đã được nhận dạng một cách chắc chắn.

Không phải mày nhận dạng...

Có thể không phải, nhưng thi thể nàng đã được hai thành viên thân thiết trong gia đình nhận dạng: cha và chú nàng. Thật ra thì, Hoyt Parker, bố vợ tôi, chính là người nói với tôi Elizabeth đã chết. Ông cùng em trai, Ken, đến phòng bệnh không lâu sau khi tôi hồi phục ý thức. Hoyt và Ken đều to lớn, mặt lạnh như đá, tóc hoa râm, một người là cảnh sát thành phố New York, người kia là đặc vụ liên bang, cả hai là cựu chiến binh với cơ bắp to lớn, rắn chắc cuồn cuộn.

Họ cởi mũ ra và gắng nói với tôi bằng giọng thấu cảm của các chuyên gia, nhưng tôi đã không tin và họ cũng không cố gắng thuyết phục.

Vậy, tôi vừa mới nhìn thấy cái gì thế?

Trên màn hình, dòng người đi bộ vẫn trào ra. Tôi cố nhìn thêm, mong ngóng nàng sẽ quay lại. Không được. Dù sao đi nữa, nơi này ở đâu nhỉ? Một thành phố hối hả, đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Với tất cả những gì tôi biết, nó có thể là New York.

Vậy hãy tìm đầu mối đi, đồ ngốc.

Tôi cố gắng tập trung. Quần áo. Tốt thôi, hãy xem xét quần áo. Hầu hết mọi người mặc áo khoác hoặc jacket. Kết luận: có lẽ ở nơi nào đó tận phía Bắc, hay ít nhất, nơi nào đó không đặc biệt ấm áp vào ngày hôm nay. Tuyệt. Tôi có thể loại ngay Miami.

Gì nữa? Tôi lom lom nhìn mọi người. Kiểu tóc ư? Không ích gì mấy. Tôi nhìn thấy một góc của tòa nhà bằng gạch. Tôi tìm những đặc điểm giúp nhận dạng, thứ gì đó phân biệt tòa nhà này với những tòa nhà thông thường. Không có gì. Tôi tìm trên màn hình thứ gì đó, bất cứ thứ gì, khác thường.

Những cái túi mua hàng.

Một vài người mang túi mua hàng. Tôi cố gắng đọc dòng chữ trên chúng, nhưng mọi người di chuyển nhanh quá. Tôi cầu cho họ đi chậm lại. Họ không làm thế. Tôi tiếp tục nhìn chằm chằm chỗ ngang gối họ. Góc quay của chiếc camera ở chỗ này không rõ được mấy. Tôi đưa mặt lại gần màn hình, tôi cảm nhận được hơi nóng.

Chữ cái R viết hoa.

Đó là chữ cái đầu tiên trên một cái túi. Phần còn lại nguệch ngoạc quá không nhìn ra được. Nó trông như thể được viết bằng chữ lạ lùng nào đó. Được, gì nữa nào? Thêm một đầu mối nữa là tôi có thể...?

Màn hình chiếc camera trở thành màu trắng.

Mẹ kiếp. Tôi nhấn phím load lại. Màn hình báo lỗi lại xuất hiện. Tôi mở lại lá thư đầu tiên và nhắp chuột vào hyperlink. Một lỗi khác.

Thứ nuôi tôi sống bị cướp đi rồi.

Tôi nhìn vào màn hình trống không, và sự thật đập vào tôi một lần nữa: Tôi vừa trông thấy Elizabeth.

Tôi cố dùng lý trí xua nó đi. Nhưng đây không phải là một giấc mơ. Tôi đã chiêm bao những giấc mơ Elizabeth còn sống. Quá nhiều thể loại đó. Hầu hết trong những giấc mơ này, tôi đón nhận nàng từ cái chết trở về, biết ơn đến nỗi không buồn hỏi han hay nghi ngờ. Tôi đặc biệt nhớ một giấc mơ, chúng tôi ở bên nhau - tôi không nhớ chúng tôi đang làm gì hay thậm chí là ở đâu - và ngay lúc dó, giữa những tiếng cười đùa, tôi đã nhận ra với sự chắc chắn đến nghẹn thở tôi đang mơ, rằng chẳng chóng thì chầy, tôi sẽ tỉnh dậy, một mình. Tôi nhớ giấc mơ - tôi giơ tay ra trong khoảnh khắc ấy, vồ lấy nàng, kéo nàng lại thật gần, cố gắng đến tuyệt vọng để lôi Elizabeth trở lại với mình.

Tôi biết những giấc mơ chứ. Cái mà tôi vừa nhìn thấy trên màn hình không phải một giấc mơ.

Nó cũng không phải là một hồn ma. Không phải tôi tin có hồn ma, nhưng khi nghi ngờ, người ta cũng nên có đầu óc thoáng một chút. Nhưng hồn ma không già đi. Elizabeth trên máy tính già đi. Không nhiều lắm, nhưng đã tám năm rồi. Hồn ma cũng không cắt tóc. Tôi nghĩ đến bím tóc buông dài xuống lưng nàng trong đêm trăng ấy. Tôi nghĩ đến kiểu tóc ngắn thời trang mà tôi vừa nhìn thấy. Và tôi nghĩ đến đôi mắt, đôi mắt tôi đã nhìn sâu tận đáy khi tôi mới bảy tuổi.

Đó là Elizabeth. Nàng vẫn còn sống.

Tôi thấy nước mắt mình lại trào ra, nhưng lần này tôi nén lại. Buồn cười. Tôi luôn dễ khóc, nhưng sau khi than khóc Elizabeth, dường như tôi không thể nào khóc được nữa. Không phải là tôi đã khóc quá nhiều và bao nhiêu nước mắt đã bị dùng hết rồi, hay thứ gì vớ vẩn đại loại thế. Hay là tôi đã trở nên tê dại vì đau buồn, mặc dù hẳn là có một phần nhỏ như thế. Điều tôi nghĩ đã xảy ra, đó là tôi, một cách đầy bản năng, đóng sập mình vào tư thế bảo vệ. Khi Elizabeth mất, tôi mở toang tất cả các cửa và để nỗi đau tràn vào. Tôi để chính mình cảm nhận tất cả. Và nó đau lắm. Đau khủng khiếp đến nỗi bây giờ có thứ gì đó, quan trọng đến mức sống còn, đảm bảo để chuyện đó không xảy ra thêm một lần nào nữa.

Tôi không biết mình đã ngồi ở đó bao lâu. Có lẽ nửa tiếng. Tôi cố thở chậm lại và làm dịu đầu óc. Tôi muốn lý trí. Tôi cần phải lý trí. Tôi đáng lẽ phải ở nhà bố mẹ Elizabeth rồi, nhưng tôi không thể tượng tượng vào ngay lúc này phải đối mặt với họ.

Rồi tôi nhớ ra một thứ khác.

Sarah Goodhart.

Cảnh sát trưởng Lowell đã hỏi tôi liệu tôi có biết tí gì về cái tên này không. Tôi biết.

Elizabeth và tôi thường chơi một trò hồi còn bé. Có thể bạn cũng từng chơi trò đó. Lấy tên đệm của mình, coi là tên và lấy tên con đường thuở ấu thơ, coi là họ. Chẳng hạn, tên đầy đủ của tôi là David Craig Beck và tôi lớn lên ở Darby Road. Vì vậy tôi sẽ là Craig Darby và Elizabeth sẽ là...

Sarah Goodhart.

Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra ở đây thế?

Tôi nhấc điện thoại lên. Đầu tiên, tôi gọi cho bố mẹ Elizabeth. Họ vẫn sống ở căn nhà đó trên Goodhart Road. Mẹ nàng nhấc máy. Tôi bảo bà tôi đến muộn. Với bác sĩ, người ta chấp nhận chuyện đó. Một trong những phụ cấp của nghề này.

Khi tôi gọi cho cảnh sát trưởng Lowell, điện thoại trả lời tự động của ông ta đáp lại. Tôi bảo ông ta nhắn vào máy nhắn tin của tôi khi ông ta có thể. Tôi không có điện thoại di động. Tôi nhận ra điều này sẽ khiến tôi thuộc vào loại thiểu số, nhưng máy nhắn tin giúp tôi phong tỏa với thế giới bên ngoài.

Tôi ngồi lại, nhưng Homer Simpson lôi tôi ra khỏi cơn mê bằng một tiếng hét: “Thư ở đây!” Tôi chồm tới và tóm chặt con chuột. Địa chỉ người gửi không quen biết, nhưng tiêu đề lá thư là Camera đường phố. Một tiếng thịch khác trong lồng ngực tôi.

Tôi nhấp chuột vào biểu tượng nhỏ và lá thư xuất hiện.

Ngày mai cũng thời gian này cộng thêm hai tiếng nữa tại Bigfoot.com

Một thông điệp gửi cho bạn sẽ được để lại dưới:

Username: Bat Street

Password: Teenage

Dưới những dòng này, dính chặt vào phần dưới cùng của màn hình, chỉ có tám từ:

Chúng đang theo dõi. Đừng nói một ai.

Larry Gandle, gã đàn ông với đám tóc xấu xí nhìn Eric Wu im lặng tẩy rửa.

Wu, một tên Hàn Quốc hai mươi sáu tuổi với một tổ hợp đáng kinh ngạc gồm những lỗ xiên và vết xăm trên cơ thể, là một tay cực đoan nhất mà Gandle từng biết. Người Wu như thể một chiếc xe tăng quân sự nhỏ, nhưng chỉ riêng điều đó thôi không có ý nghĩa gì nhiều lắm. Gandle biết rất nhiều thằng có cơ thể như thế. Quá thường xuyên, cơ bắp được khoe ra là cơ bắp vô dụng.

Trường hợp Eric Wu không phải thế.

Bắp thịt như đá tảng của hắn đẹp, nhưng bí mật sức mạnh chết người thực sự của Wu nằm ở đôi tay chai cứng - hai khối xi măng với những ngón móng vuốt thép. Hắn dành hàng giờ luyện tay, đấm vào khối muội than còn nóng, để ngón tay trần trong nhiệt độ cực nóng và cực lạnh, tập các bài hít đất bằng một ngón tay. Khi Wu sử dụng những ngón tay này, khả năng phá hủy xương và mô của chúng là không thể tưởng tượng nổi.

Tin đồn bí ẩn xoay quanh những kẻ như Wu hầu hết đều tào lao, nhưng Larry Gandle đã chứng kiến hắn giết một thằng bằng cách ấn sâu những ngón tay vào mặt và bụng thằng kia. Gã cũng đã trông thấy Wu túm lấy tai một thằng và xé toạc chúng ra bằng một cú giật nhẹ nhàng. Gã đã chứng kiến Wu giết bốn người bằng bốn cách rất khác nhau, không bao giờ sử dụng một loại vũ khí nào.

Không một cái chết nào đến nhanh chóng.

Không ai biết chính xác Wu quê ở đâu, nhưng hầu hết tin vào một câu chuyện có liên quan gì đấy về một tuổi thơ dữ dội ở Bắc Triều Tiên. Gandle chưa bao giờ hỏi. Có những con đường mòn ban đêm mà trí óc tốt hơn là không nên ngang qua; phần tối của Eric Wu - đúng thế, cứ như là có một phần sáng ấy - là một trong những con đường mòn ban đêm đó.

Khi hoàn thành việc bọc lại cái đống chất nguyên sinh vốn trước đó là Vic Letty bằng tấm bạt, đôi mắt Wu ngước lên nhìn Gandle. Đôi mắt chết, Larry Gandle nghĩ. Đôi mắt của đứa trẻ trong một thước phim ngắn quay cảnh chiến tranh.

Wu không buồn tháo tai nghe ra. Chiếc stereo cá nhân của hắn không om sòm nhạc hip hop, rap hay ngay cả rock ‘n’ roll. Hắn liên tục nghe những CD loại nhạc êm dịu có thể tìm thấy ở Sharper Image như Ocean Breeze và Running Brook.

“Tao có nên mang nó đến chỗ Benny không?” Wu hỏi. Giọng hắn có một điệu chầm chậm, kỳ quặc khi nói câu này, như một nhân vật trong phim hoạt hình Peanuts.

Larry Gandle gật đầu. Benny quản lý một lò hỏa thiêu. Cát bụi lại trở về cát bụi. Hay, trong trường hợp này, từ cặn bã trở về cát bụi. “Và tống khứ cái này đi.”

Gandle chìa cho Eric Wu khẩu hai mươi hai. Khẩu súng nhìn nhỏ bé yếu đuối và vô dụng trong bàn tay vĩ đại của Wu. Wu cau mày nhìn nó, có lẽ thất vọng vì Gandle đã chọn nó chứ không chọn những tài năng độc nhất của riêng Wu, rồi nhét chặt khẩu súng vào túi. Với một khẩu hai mươi hai, có ít vết thương. Điều đó nghĩa là có ít bằng chứng. Máu được bọc bằng một tấm nhựa vinyl. Không lộn xộn, không ồn ào.

“Để sau,” Wu nói. Hắn nâng cái xác lên bằng một tay như thể cái cặp đựng tài liệu và mang ra ngoài.

Larry Gandle gật đầu chào tạm biệt. Gã cảm thấy hơi vui từ những đau đớn của Vic Letty - nhưng rồi cũng một chút khó chịu. Thực ra là một vấn đề đơn giản. Gandle phải tuyệt đối chắc chắn Letty hành động một mình và thằng này không để lại bằng chứng nào để ai đó có thể mò ra. Điều đó nghĩa là gã buộc phải đi quá điểm giới hạn. Không có cách nào khác.

Cuối cùng, còn lại một lựa chọn rõ ràng - hoặc gia đình Scope hoặc Vic Letty. Gia đình Scope là những người tốt. Họ chưa hề làm gì tồi tệ với Vic Letty. Vic Letty, mặt khác, lại ra khỏi đường của mình và tìm cách làm hại gia đình Scope. Chỉ một trong hai có thể vô sự thoát khỏi mọi thứ - nạn nhân ngây thơ, đầy thiện chí hay kẻ ăn bám sống bằng nỗi đau đớn của người khác. Khi nghĩ như thế, không còn lựa chọn nào khác.

Điện thoại di động của Gandle rung lên. Gã trả lời và nói, “Vâng.”

“Họ đã nhận dạng được hai cái xác chỗ khu hồ.”

“Và?”

“Đó là chúng. Chúa ơi, đó là Bob và Mel.”

Gandle nhắm mắt lại.

“Điều này có nghĩa gì, Larry?”

“Tao không biết.”

“Thế chúng ta sẽ làm gì bây giờ?”

Larry Gandle hiểu không có sự lựa chọn nào khác. Hắn sẽ phải nói chuyện với Griffin Scope. Những ký ức không mấy dễ chịu bị bới lên. Tám năm. Tám năm sau. Gandle lắc đầu. Điều này sẽ lại làm tan nát trái tim ông già.

“Tao sẽ lo chuyện này.”
 
Chương 6


Kim Parker, mẹ vợ tôi, đẹp. Bà lúc nào trông cũng hệt Elizabeth đến nỗi khuôn mặt bà đối với tôi trở thành thứ-đáng-lẽ-đã-có-thể cuối cùng. Nhưng cái chết của Elizabeth dần ăn mòn bà. Khuôn mặt bà giờ đây u sầu, những đường nét trở nên khắc khổ. Đôi mắt có ánh nhìn của những viên bi đã rạn vỡ từ sâu bên trong.
Ngôi nhà của gia đình Parker đã trải qua rất ít đổi thay từ những năm bảy mươi - tường gỗ dán, thảm lông dày vừa phải, xanh màu da trời nhạt điểm những vết đốm trắng phủ kín sàn, một lò sưởi đắp nổi giả đá bên ngoài kiểu Brady Bunch. Kệ để TV có giá xếp lại được, loại có phần trên bằng nhựa trắng và chân kim loại màu vàng, đặt sát tường. Bức họa thằng hề và đĩa trang trí Rockwell. Thứ hiện đại duy nhất dễ nhận thấy là cái tivi. Nó lớn lên trong suốt những năm qua từ một gã trắng đen mười hai inch sung sức đến gã màu năm mươi lăm inch khổng lồ, giờ đây ngồi khom khom lù lù ở một góc nhà.
Mẹ vợ tôi ngồi trên cùng một chiếc đi văng Elizabeth và tôi thường rất nhiều lần hôn hít, thậm chí cả làm tình nữa. Tôi mỉm cười trong thoáng chốc và nghĩ, à, giả sử cái đi văng ấy biết nói nhỉ. Nhưng cái khúc to uỳnh oàng để làm chỗ ngồi với những hình trang trí hoa lá sặc sỡ nắm giữ rất nhiều thứ, không chỉ những kỷ niệm gợi tình kia.
Elizabeth và tôi đã ngồi ở đó, mở giấy báo nhập học đại học của chúng tôi. Chúng tôi nằm cuộn mìn ôm nhau xem One Flew Over the Cuckoo’s Nest và The Deer Hunter và tất cả những phim cổ của Hitchcock. Chúng tôi làm bài tập về nhà, tôi ngồi thẳng còn Elizabeth nằm gối đầu lên đùi tôi. Tôi bảo Elizabeth tôi muốn trở thành một bác sĩ - một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng, hoặc đại loại thế, tôi nghĩ. Nàng bảo với tôi nàng muốn có bằng luật và làm việc với những đứa trẻ. Elizaberh không chịu đựng nổi ý nghĩ trẻ con phải chịu đau đớn.
Tôi nhớ lần nàng thực tập trong kỳ nghỉ hè sau năm đầu tiên ở đại học. Nàng làm việc cho Covenant House, giải cứu trẻ vô gia cư và trẻ lang thang khỏi những khu phố tồi tệ nhất ở New York. Tôi đi cùng nàng một lần trên chiếc xe tải của Covenant House, dọc Phố 42 đoạn trước Giuliani, rà đi rà lại giữa hàng đống những thể loại thối tha có vẻ có đặc điểm người, tìm những đứa trẻ cần nơi nương tựa. Elizabeth tìm thấy một con bé mười bốn tuổi làm điếm, nó chơi ma túy phê đến nỗi đùn hết ra người. Tôi nhăn mặt ghê tởm. Tôi không tự hào về điều đó. Những con người này lẽ ra là con người, nhưng - thành thật ở đây - những kẻ rác rưởi làm tôi ghê tởm. Tôi giúp đỡ. Nhưng tôi nhăn mặt.
Elizabeth chưa bao giờ nhăn mặt. Đó là bản năng của nàng. Nàng tự tay kéo những đứa trẻ lên. Nàng ẵm chúng. Nàng tắm rửa cho đứa con gái kia, săn sóc và trò chuyện với nó suốt đêm. Nàng nhìn thẳng vào mắt chúng. Elizabeth thực sự tin mọi người đều tốt và có giá trị; nàng ngây thơ theo một kiểu mà tôi ước gì mình có thể như vậy.
Tôi đã luôn tự hỏi liệu có phải nàng cũng chết một cách tương tự như thế không - còn nguyên vẹn sự ngây thơ - vẫn mãi giữ, dù trong đau đớn, niềm tin vào con người và tất cả những thứ ngớ ngẩn tuyệt vời. Tôi hy vọng như vậy, nhưng tôi ngờ KillRoy có lẽ đã bẻ gãy nàng.
Kim Parker ngồi nghiêm nghị tay đặt lên đùi. Bà vẫn luôn quý mến tôi vừa phải, mặc dù trong suốt thời niên thiếu, hai cặp bố mẹ đã không ngừng lo lắng vì chúng tôi quá gần gũi. Họ muốn chúng tôi chơi với những đứa khác. Họ muốn chúng tôi chơi với nhiều bạn bè hơn. Không có gì là lạ, tôi cho là như vậy.
Hoyt Parker, cha Elizabeth, vẫn chưa về, vì vậy Kim và tôi tán gẫu những chuyện không đâu - hoặc cùng nói một thứ theo cách khác nhau, chúng tôi trò chuyện về tất cả mọi thứ, trừ Elizabeth. Tôi giữ cho mắt mình nhìn tập trung vào Kim bởi tôi biết mặt lò sưởi kia đầy ngập những bức ảnh Elizabeth và nụ cười làm người ta đau xé lòng của nàng.
Nàng còn sống...
Tôi không thể khiến bản thân mình tin vào điều đó. Trí óc, tôi biết từ kỳ thực tập bác sĩ tâm thần ở trường y (đó còn chưa nói đến tiền sử gia đình), có năng lực bóp méo kỳ diệu. Tôi không tin tôi đủ điên để ảo tưởng ra hình ảnh của nàng, nhưng mà này, những người điên không bao giờ biết mình điên. Tôi nghĩ đến mẹ và tự hỏi bà đã nhận ra điều gì về tình trạng tâm thần của chính mình, liệu bà từng có khả năng nhìn nhận một cách nghiêm túc nội tâm mình.
Có lẽ là không.
Kim và tôi nói chuyện thời tiết. Chúng tôi nói chuyện về các bệnh nhân của tôi. Chúng tôi nói chuyện về công việc bán thời gian của bà ở cửa hàng Macy. Và rồi Kim làm tôi điếng người.
“Con có đang gặp gỡ ai không?” bà hỏi.
Đây là câu hỏi thực sự riêng tư đầu tiên bà từng hỏi tôi. Nó đẩy tôi lùi lại một bước. Tôi tự hỏi bà muốn nghe điều gì. “Không ạ,” tôi nói.
Bà gật đầu và nhìn như thể bà muốn nói điều gì đó khác nữa. Tay bà run run đưa lên mặt.
“Nhưng con có hẹn hò,” tôi nói.
“Tốt,” bà đáp lại với một cái gật đầu quá mức nồng nhiệt. “Con nên thế.”
Tôi nhìn tay mình và tự lấy làm ngạc nhiên khi nói, “Con vẫn nhớ cô ấy nhiều lắm.” Tôi không định nói thế. Tôi định tiếp tục giữ im lặng và đi theo con đường an toàn mọi khi của chúng tôi. Tôi liếc nhìn lên gương mặt bà. Bà trông vừa đau đớn vừa biết ơn.
“Mẹ biết con thế, Beck ạ,” Kim nói. “Nhưng con không nên cảm thấy tội lỗi khi gặp gỡ người khác.”
“Con không,” tôi nói. “Ý con là, chuyện không phải thế.”
Bà buông không bắt chéo chân nữa và nhướng người về phía tôi. “Vậy thì là gì hả con?”
Tôi không thốt nên lời. Tôi muốn. Vì bà. Bà nhìn tôi bằng đôi mắt rạn vỡ, nhu cầu được trò chuyện về con gái mình lộ quá rõ, quá sống động. Nhưng tôi không thể. Tôi lắc đầu.
Tôi nghe tiếng chìa khóa ở cửa. Cả hai chúng tôi đột ngột quay lên, ngồi thẳng người như đôi tình nhân bị bắt gặp. Hoyt Parker đẩy vai mở cửa và gọi vợ. Ông bước vào phòng, thốt ra tiếng thở dài nặng nhọc rồi bỏ chiếc túi đựng quần áo tập thể dục xuống. Cà vạt nới lỏng, áo sơ mi nhàu nát, tay áo xắn lên tận khuỷu. Cẳng tay Hoyt như Popeye vậy. Khi nhìn thấy chúng tôi ngồi trên đi văng, ông thốt ra một tiếng thở dài nữa, lần này sâu hơn và lộ rõ hơn hàm ý không bằng lòng.
“Anh khỏe không, David?” ông nói với tôi.
Chúng tôi bắt tay. Bàn tay ông, như mọi khi, vẫn đầy những vết chai xước, và quá rắn chắc. Kim xin lỗi và vội ra khỏi phòng. Hoyt và tôi nói với nhau vài câu lịch sự, rồi im lặng ngồi xuống. Hoyt Parker chưa bao giờ thoải mái với tôi. Có lẽ ở đây có mặc cảm Electra[1] nào đó, nhưng tôi luôn cảm thấy ông coi tôi như một mối đe dọa. Tôi hiểu. Đứa con gái bé bỏng của ông đã dành trọn thời gian của nó cho tôi. Trong suốt những năm trước kia, chúng tôi luôn cố đấu tranh với sự oán giận của ông và tiến đến một thứ tình bạn nào đó. Cho đến khi Elizabeth chết.
[1] Electra: Mặc cảm con gái yêu cha ghét mẹ theo lý thuyết Phân tâm học của S. Freud.
Ông đổ lỗi cho tôi về việc đã xảy ra.
Dĩ nhiên, ông chưa bao giờ nói ra, nhưng tôi nhìn thấy điều đó trong mắt ông. Hoyt Parker là một người đàn ông mạnh mẽ, vạm vỡ. Rắn chắc như đá, một người Mỹ điển hình trăm phần trăm. Ông luôn khiến Elizabeth cảm thấy an toàn vô điều kiện. Hoyt sở hữu loại hương bảo vệ đó. Không một thứ tổn hại nào có thể xảy đến với con gái bé bỏng của ông chừng nào Hoyt Bự còn ở bên cạnh con bé.
Tôi không nghĩ có lúc nào tôi từng khiến Elizabeth cảm thấy an toàn được đến thế.
“Công việc tốt chứ?” Hoyt hỏi tôi.
“Ổn,” tôi nói. “Bố thế nào?”
“Hơn một năm nữa là nghỉ hưu.”
Tôi gật đầu và chúng tôi lại rơi vào im lặng. Trên đường lái xe đến đây, tôi quyết định không nói bất cứ điều gì về thứ mà tôi đã nhìn thấy trên máy tính. Quên đi sự thật nghe có vẻ điên rồ. Quên đi sự thật nó sẽ rạch vào những vết thương cũ và làm đau đớn đến phát điên. Sự thật là, tôi không có một chút manh mối về việc gì đang diễn ra. Càng nhiều thời gian trôi qua, toàn bộ đoạn cuối càng trở nên không thực. Tôi cũng quyết định suy nghĩ nhiều hơn về email vừa mới đây. Đừng nói một ai. Tôi không hình dung được tại sao hay cái gì đang xảy ra, nhưng bất cứ mối liên hệ nào mà tôi đã tạo ra đều có cảm giác mỏng manh khủng khiếp.
Tuy nhiên, tôi vẫn thấy mình phải kiểm tra chắc chắn để Kim không nghe được câu chuyện. Rồi tôi nhướng người lại gần Hoyt và nhẹ nhàng nói, “Con có thể hỏi bố một điều không?”
Ông không trả lời, thay vào đó đáp lại bằng cái nhìn nghi ngờ kiểu của riêng ông.
“Con muốn biết...” tôi ngừng lại. “Con muốn biết bố tìm thấy cô ấy như thế nào.”
“Tìm thấy con bé?”
“Ý con là khi bố lần đầu tiên vào nhà xác, con muốn biết bố nhìn thấy gì.”
Có điều gì đó diễn ra trên khuôn mặt ông, như những vụ nổ nhỏ làm đổ sụp nền móng. “Vì tình yêu dành cho Chúa, tại sao anh lại hỏi bố điều đó?”
“Con chỉ đang nghĩ về chuyện đó,” tôi e dè nói. “Bởi lễ kỷ niệm hàng năm và tất cả mọi thứ.”
Ông đột ngột đứng dậy và chùi lòng bàn tay vào gấu quần. “Anh muốn uống gì đó không?”
“Có.”
“Bourbon được chứ?”
“Cái đó tuyệt lắm.”
Ông đi lại phía quầy bar cũ kỹ gần mặt lò sưởi và cả những tấm ảnh. Tôi cố giữ mắt mình dán chặt xuống nền nhà.
“Hoyt?” tôi đánh liều.
Ông vặn một nắp chai. “Anh là bác sĩ,” ông nói, cầm cái ly giơ về phía tôi. “Anh đã từng nhìn thấy những thi thể.”
“Vâng.”
“Vậy thì anh biết mà.”
Quả đúng là như vây.
Ông đưa ly rượu cho tôi. Tôi cầm lấy cái ly hơi nhanh quá mức và nhấp luôn một ngụm. Ông nhìn tôi và rồi đưa ly của mình lên môi.
“Con biết con chưa bao giờ hỏi bố các chi tiết,” tôi bắt đầu. Còn hơn thế, tôi đã cố tình tránh chúng. “Thân nhân của các nạn nhân” khác, như cái kiểu báo chí nói đến chúng tôi, ngập chìm trong chúng. Họ có mặt thường trực tại ở phiên xử KillRoy, nghe rồi khóc. Tôi thì không. Tôi nghĩ như thế sẽ giúp họ hướng trực tiếp vào nỗi đau. Tôi chọn cách hướng nỗi đau của tôi quay lưng lại với chính tôi.
“Anh không muốn biết những chi tiết đâu, Beck ạ.”
“Cô ấy đã bị đánh?”
Hoyt nhìn ly rượu của ông. “Tại sao anh lại làm thế này?”
“Con cần biết.”
Ông liếc nhìn tôi qua ly rượu. Ánh mắt ông dịch chuyển dọc theo khuôn mặt tôi. Có cảm giác như thể chúng đang đâm thọc vào da tôi. Tôi giữ cho ánh mắt mình vững vàng.
“Có những vết bầm, đúng vậy.”
“Ở đâu?”
“David...”
“Trên mặt cô ấy?”
Mắt ông nheo lại, như thể ông phát hiện điều bất ngờ. “Ừ.”
“Cả trên cơ thể cô ấy nữa?”
“Bố không nhìn cơ thể con bé,” ông nói. “Nhưng bố biết câu trả lời là có.”
“Tại sao bố không nhìn cơ thể cô ấy?”
“Bố ở đó với tư cách là bố của nó, không phải là một thanh tra - vì mục đích duy nhất là nhận dạng.”
“Chuyện đó dễ dàng thế à?” tôi hỏi.
“Cái gì dễ dàng?”
“Nhận dạng. Ý con là, bố nói mặt cô ấy bị bầm tím.”
Cơ thể ông cứng đờ. Ông đặt ly rượu xuống, và với nỗi sợ hãi đang vọt lên, tôi nhận ra mình đã đi quá đà. Tôi đáng lẽ nên kiên trì với kế hoạch của mình. Tôi đáng lẽ nên ngậm miệng lại.
“Anh thực sự muốn nghe tất cả những chuyện này?”
Không, tôi nghĩ. Nhưng tôi gật đầu.
Hoyt Parker khoanh tay lại và nhướng mình đứng thẳng lại trên đôi chân. “Mắt trái của Elizabeth bị sưng phồng, nhắm lại. Mũi con bé bị gãy và thẳng bẹt ra như đất sét nhão. Có một vết rạch dài trên trán nó, có lẽ do một con dao chuyên dụng chém. Hàm nó bị xé toạc ra khỏi khung, tất cả các dây chằng đều lòi ra.” Giọng ông đều đều tuyệt đối. “Chữ cái K được đóng dấu trên má phải con bé. Mùi da cháy vẫn còn vảng vất rõ.”
Bụng tôi quặn lên.
Mắt Hoyt nhìn tôi dữ dội. “Anh có muốn biết phần tồi tệ nhất là gì không, Beck?”
Tôi nhìn ông và chờ đợi.
“Không mất lấy một phần giây nào cả,” ông nói. “Bố biết ngay lập tức đó là Elizabeth.”
 
Chương 7


Những ly champage thon thon kêu leng keng hòa nhịp với bản sonata của Mozart. Tiếng đàn nhạc xen lẫn với tiếng truyện trò khẽ khàng trong bữa tiệc. Griffin Scope lách mình uyển chuyển qua những bộ tuxedo đen và những bộ váy lung linh rực rỡ. Mọi người luôn luôn dùng một từ để miêu tả Griffin Scope: tỉ phú. Ngoài từ đó, họ có thể gọi ông là doanh nhân hoặc nhân vật quyền thế hoặc nói ông dáng cao, hay là một người chồng, hay một người ông, hay ông đã bảy mươi tuổi. Họ có thể nhận xét về cá tính ông, hay bảng phả hệ, hay nguyên tắc làm việc của ông. Nhưng chữ cái đầu tiên - trên báo chí, tivi, danh sách của mọi người - luôn luôn là chữ T. Tỉ phú. Tỉ phú Griffin Scope.

Griffin lọt lòng đã giàu. Ông của ông là tư bản công nghiệp từ lúc sơ kỳ; cha ông phát đạt cơ đồ. Griffin nhân nó thêm một cơ số lần. Hầu hết các đế chế gia tộc tan rã sau thế hệ thứ ba. Gia tộc Scope không thế. Phần lớn là nhờ sự giáo dục của họ. Griffin chẳng hạn, không đến học ở một trường tư nhân danh tiếng như Exeter hay Lawrenceville, như vô số những kẻ cùng địa vị. Cha ông khăng khăng không những cho Griffin đến học ở trường công mà còn ở một thành phố trung tâm gần nhất, Newark. Cha ông có văn phòng ở đó, hơn nữa, tạo ra một giấy phép cư trú giả không phải là vấn đề.

Hồi đó, khu phía Đông Newark chưa phải là một khu dân cư tồi tệ - không giống như bây giờ, khi một gã điên cũng hiếm khi muốn lái xe ngang qua. Nơi đó là của tầng lớp lao động, cổ xanh - dữ dằn hơn là nguy hiểm.

Griffin yêu khu ấy.

Bạn bè thân thiết của ông từ hồi trung học vẫn là bạn bè ông năm mươi năm sau. Lòng trung thành là một phẩm chất rất hiếm; khi tìm thấy nó, Griffin đảm bảo chắc chắn để đền đáp lại. Rất nhiều khách tối nay đến từ những ngày ở Newark. Một số thậm chí còn làm việc cho ông, mặc dù ông cố gắng giải thích không bao giờ là ông chủ thường ngày của họ.

Buổi tiệc đêm nay kỷ niệm thứ quý giá nhất trong trái tim Griffin Scope, dành cho Hội từ thiện tưởng nhớ Brandon Scope, đặt theo tên đứa con trai bị ám sát của Griffin. Griffin đã bắt đầu lập quỹ này bằng một trăm triệu dollar quyên góp. Bạn bè nhanh chóng đóng góp cho đến bây giờ. Griffin không đần độn. Ông biết rất nhiều tiền quyên tặng là nhằm cầu cạnh, xin ân huệ. Nhưng còn có nhiều thứ khác nữa. Trong suốt quãng đời quá ngắn ngủi của mình, Brandon Scope làm mọi người cảm động. Sinh ra với quá nhiều may mắn và tài năng, cậu bé Brandon hầu như sở hữu sự cuốn hút siêu nhiên. Mọi người bị cậu lôi cuốn.

Đứa con trai kia của ông, Randall, là một cậu bé ngoan đã trưởng thành, một người đàn ông tuyệt vời. Nhưng Brandon... Brandon là phép lạ.

Nỗi đau lại tràn ngập một lần nữa. Nó luôn luôn ở đó, dĩ nhiên. Qua những cái bắt tay và vỗ vỗ vào lưng nhau, nỗi đau ở bên ông, gõ nhẹ lên vai Griffin, thì thầm vào tai, nhắc nhở ông: họ là cộng sự trong đời.

“Bữa tiệc tuyệt vời, Griff.”

Griffin cám ơn và bước tới. Những người phụ nữ trang điểm hấp dẫn và diện váy làm nổi bật bờ vai trần gợi cảm; họ vừa vặn hoàn hảo với mấy bức tượng băng - sở thích của vợ Griffin, Allison - đang chầm chậm tan trên khăn trải bàn vải lanh nhập khẩu. Bản sonata của Mozart đã nhường chỗ cho một bản khác của Chopin. Phục vụ bàn đeo bao tay trắng, đi quanh nâng khay bằng bạc đựng tôm Malaysia, thịt thăn Omaha và một món thập cẩm ăn bằng tay kỳ lạ, luôn có cảm giác trong thành phần có cà chua phơi khô.

Ông nói chuyện với Linda Beck, quý cô trẻ đang quản lý quỹ từ thiện Brandon. Cha Linda cũng là bạn học cũ hồi ở Newark, và cô, thật giống với rất nhiều người khác, đã ràng buộc với những cổ phần khổng lồ của nhà Scope. Cô bắt đầu làm việc cho rất nhiều công ty khác nhau của gia đình Scope khi còn học trung học. Cả cô và em trai cô đều được học bổng của gia đình Scope chi trả học phí.

“Cô trông tuyệt lắm,” ông bảo với cô, mặc dù thật ra ông nghĩ trông cô mệt mỏi.

Linda Beck mỉm cười với ông. “Cám ơn, ngài Scope.”

“Đã bao nhiêu lần tôi bảo cô gọi tôi là Griff rồi nhỉ?”

“Vài trăm,” cô nói.

“Shauna khỏe không?”

“Không khỏe lắm, tôi e là thế.”

“Cho tôi gửi lời hỏi thăm.”

“Vâng, cám ơn ông.”

“Chúng ta có lẽ nên gặp nhau vào tuần tới.”

“Tôi sẽ gọi thư ký của ngài.”

“Tốt.”

Griffin hôn nhẹ má cô, và đó là lúc ông nhìn thấy Larry Gandle đứng ở phòng đợi. Larry trông mệt mỏi và nhếch nhác, nhưng vả chăng, gã trông vẫn luôn như vây. Bạn có thể phủ vội một bộ áo quần cắt may do Joseph Abboud thiết kế lên người gã, và một giờ sau trông gã sẽ vẫn như vừa mới tham gia ẩu đả.

Larry Gandle không được cho là sẽ có mặt ở đây.

Ánh mắt hai người gặp nhau. Larry gật đầu một cái và quay đi. Griffin đợi vài giây rồi theo sau người bạn trẻ ra hành lang.

Cha Larry, Edward, cũng là bạn học của Griffin từ những ngày xa xưa ở Newark. Edward Gandle chết vì bị trụy tim đột ngột mười hai năm trước. Đáng tiếc kinh khủng. Edward vốn là người rất tốt. Kể từ đó, con trai ông đảm đương vai trò người thân tín nhất của gia đình Scope.

Hai người đàn ông bước vào phòng đọc của Griffin. Từng có lúc phòng đọc này là một căn phòng tuyệt vời với những giá sách bằng gỗ sồi, gỗ gụ đi từ sàn đến trần và những quả địa cầu cổ. Hai năm trước, Allison, trong một cơn cảm hứng hậu hiện đại, quyết định căn phòng cần được hiện đại hóa hoàn toàn. Đồ gỗ cũ bị lôi ra ngoài và bây giờ căn phòng là một màu trắng, gọn đẹp, tiện nghi với tất cả sự ấm áp của một phòng làm việc nhỏ. Allison tự hào về căn phòng đến nỗi Griffin không nỡ lòng mà nói với bà ông ghét nó đến dường nào.

“Tối nay xảy ra vấn đề gì à?” Griffin hỏi.

“Không,” Larry nói.

Griffin mời Larry ngồi. Larry từ chối và bắt đầu bước đi bước lại.

“Tồi tệ?” Griffin hỏi.

“Chúng ta phải đảm bảo chắc chắn không có những hồi kết để mở.”

“Dĩ nhiên.”

Có kẻ đã tấn công Randall, con trai của Griffin - do vậy, Griffin tấn công lại. Đó là một bài học ông không bao giờ quên. Bạn không khoanh tay lại khi bạn hay người bạn yêu thương đang bị hành hung. Và bạn không hành động như chính phủ với những “đáp trả phù hợp” và tất cả những thứ vớ vẩn đó. Nếu kẻ nào đó làm hại bạn, lòng nhân từ và thương hại phải đặt qua một bên. Bạn loại bỏ kẻ thù. Bạn thiêu hủy cả trái đất. Kẻ nào chế giễu tư tưởng này, kẻ nghĩ mình là Machiavelli một cách không cần thiết, thường thường lại là kẻ sẽ gây nên những sự hủy diệt quá mức.

Cuối cùng, nếu bạn loại trừ mọi vấn đề một cách nhanh gọn, ít máu phải đổ.

“Vậy có gì không ổn?” Griffin hỏi.

Larry vẫn bước đi bước lại. Gã xoa xoa cái phần đầu hói phía trước. Griffin không thích nhìn thấy thế. Larry không phải là người dễ bị kích động. “Tôi chưa bao giờ nói dối ngài, Griff,” gã nói.

“Ta biết điều đó.”

“Nhưng có một số lần để... giữ bí mật.”

“Giữ bí mật?”

“Người tôi thuê chẳng hạn. Tôi không bao giờ nói tên với ngài. Tôi cũng chưa bao giờ nói tên với họ.”

“Những thứ đó là tiểu tiết mà.”

“Vâng, đúng.”

“Chuyện gì vậy, Larry?”

Gã ngừng bước. “Tám năm trước, ngài có nhớ chúng ta đã thuê hai tên để tiến hành một việc.”

Mặt Griffin tái mét. Ông nuốt nước bọt. “Và chúng tiến hành một cách đáng ngưỡng mộ.”

“Vâng. Có lẽ thế.”

“Ta không hiểu.”

“Chúng tiến hành việc của chúng. Hay, ít nhất, một phần của việc đó. Mối đe dọa rõ ràng đã bị khử đi rồi.”

Mặc dù ngôi nhà được quét dò thiết bị nghe trộm hàng tuần, hai người đàn ông này không bao giờ đề cập đến những cái tên. Một quy tắc của gia đình Scope. Larry Gandle thường tự hỏi liệu quy tắc này là vì cẩn trọng hay bởi vì nó khiến cho những việc mà bọn gã đôi khi bị buộc phải làm trở thành việc không thuộc trách nhiệm cá nhân. Gã cho là cái sau.

Griffin cuối cùng ngồi sụp xuống một chiếc ghế, như thể ai đó đã đẩy ông vậy. Giọng ông nhẹ nhàng. “Tại sao bây giờ anh lại khơi chuyện đó lên?”

“Tôi biết việc đó hẳn phải làm ngài đau đớn đến thế nào.”

Griffin không trả lời.

“Tôi đã trả cho hai tên kia rất hậu,” Larry nói tiếp.

“Ta không hề nghi ngờ điều đó.”

“Vâng.” Hắn hắng giọng. “Ừm, sau sự kiện đó, chúng được cho là sẽ lặn đi một thời gian. Để đề phòng.”

“Tiếp đi.”

“Chúng ta không có tin tức gì về chúng nữa.”

“Bọn chúng đã nhận đủ tiền rồi, phải không?”

“Vâng.”

“Vậy thì có gì ngạc nhiên? Có thể chúng bỏ trốn với kho báu mới tìm thấy. Có thể chúng đi khắp nước hay thay đổi nhân dạng.”

“Đó là thứ mà chúng ta luôn luôn cho là sẽ như vậy.”

Larry nói.

“Nhưng?”

“Thi thể của chúng được tìm thấy tuần trước. Chúng đã chết.”

“Ta vẫn chưa thấy vấn đề ở đâu. Bọn chúng là những tên hung bạo. Chúng có thể gặp một kết cục hung bạo.”

“Thi thể lâu rồi.”

“Lâu?”

“Chúng đã chết ít nhất là năm năm. Và chúng được tìm thấy chôn cạnh cái hồ nơi... nơi sự kiện kia xảy ra.”

Griffin há miệng, ngậm lại, cố một lần nữa. “Ta không hiểu.”

“Nói một cách thẳng thắn, tôi cũng không.”

Quá nhiều. Tất cả thế này là quá nhiều. Griffin đã phải tranh đấu để không rơi nước mắt suốt cả tối nay, với bữa tiệc tưởng nhớ Brandon và tất cả những thứ khác. Giờ đây bi kịch vụ án mạng Brandon đột ngột trào lên. Tất cả những gì ông có thể làm là không đổ sụp xuống.

Griffin ngước nhìn người thân tín của mình. “Chuyện này không thể quay trở lại.”

“Tôi biết, Griff.”

“Chúng ta phải tìm bằng được chuyện gì đã xảy ra. Ý ta là tất cả mọi thứ.”

“Tôi vẫn theo dõi những kẻ có quan hệ với ả. Đặc biệt là chồng ả. Chỉ để phòng. Bây giờ tôi sẽ sắp xếp toàn bộ lực lượng của chúng ta theo dõi chúng.”

“Tốt,” Griffin nói. “Dù phải mất gì đi nữa, việc này cũng phải bị chôn vùi. Ta không quan tâm kẻ nào sẽ bị chôn vùi cùng với nó.”

“Tôi hiểu.”

“Và, Larry?”

Gandle đợi.

“Ta biết tên một đứa anh thuê.” Ông muốn nói Eric Wu. Griffin Scope dụi dụi mắt và bắt đầu quay lại với đám khách khứa. “Dùng hắn.”
 
Chương 8


Shauna và Linda thuê một căn hộ ba phòng ngủ ở giao lộ Riverside Drive và Phố 116, không xa Đại học Columbia mấy. Tôi đã cố tìm một chỗ trong khu, việc tưởng như Nữ Oa đội đá vá trời.

Shauna mở cửa cho tôi nhờ hệ thống điện thoại nội bộ. Linda vẫn ở buổi tiệc chưa về. Mark đã ngủ. Tôi rón rén nhón chân vào phòng và hôn lên trán thằng bé. Mark vẫn còn bám riết lấy cái mốt chơi Pokémon, điều đó thấy rất rõ. Ga trải giường Pikachu và một con Squirtle nhồi bông nằm rúc mình trong cánh tay thằng bé. Mọi người phê phán xu hướng này, nhưng nó khiến tôi nhớ đến nỗi ám ảnh tuổi ấu thơ của riêng mình, với những Batman và Captain America. Tôi ngắm nhìn nó trong vài giây. Nói nghe thì sáo nhé, đúng thế thật, nhưng thực sự thì những thứ nhỏ bé quan trọng lắm.

Shauna đứng đợi ở cửa. Khi chúng tôi cuối cùng trở ra phòng khách, tôi nói, “Tớ uống một chút, có sao không?”

Shauna nhún vai. “Thoải mái đi.”

Tôi rót vào ly cho mình độ hai ngón tay rượu bourbon. “Cậu uống cùng chứ.”

Cô lắc đầu.

Chúng tôi ngồi trên đi văng. “Mấy giờ Linda về?” tôi hỏi.

“Biết chết liền,” Shauna chậm rãi nói. Tôi không thích kiểu nói thế.

“Mẹ kiếp,” tôi nói.

“Tạm thời thôi, Beck. Tớ yêu Linda, cậu biết mà.”

“Mẹ kiếp,” tôi lại nói.

Năm ngoái, Linda và Shauna đã chia tay trong hai tháng. Việc đó chẳng tốt lành gì, đặc biệt đối với Mark.

“Tớ không phải dọn đi hay gì cả,” Shauna nói.

“Vậy thì có gì không ổn?”

“Vẫn chuyện xưa như trái đất. Công việc này của tớ lúc nào cũng hút sự chú ý. Tớ được những người vừa thú vị vừa xinh đẹp vây quanh suốt. Không có gì mới, phải không? Chúng ta đều biết chuyện này. Tuy nhiên, Linda lại nghĩ mắt tớ đảo như rang lạc.”

“Cậu thế thật,” tôi nói.

“Rồi, dĩ nhiên rồi, nhưng chuyện đó đâu có gì mới, phải không?”

Tôi không đáp lời.

“Rốt cuộc thì Linda chính là người tớ về nhà cùng mà.”

“Và trên đường về cậu chả bao giờ tạt chỗ nọ chỗ kia ư?”

“Nếu tớ có tạt, toàn là thứ lìu tìu cả. Cậu biết mà. Tớ làm việc không tốt lắm khi bị nhốt trong một cái lồng, Beck ạ. Tớ cần sàn diễn.”

“Những ẩn dụ kết hợp hay nhỉ,” tôi nói.

“Ít nhất nó vẫn.”

Tôi uống trong im lặng một lúc.

“Beck?”

“Sao?”

“Bây giờ đến phiên cậu.”

“Nghĩa là?”

Cô ném cho tôi một cái nhìn và đợi.

Tôi nghĩ về lời cảnh báo “Đừng nói một ai” ở cuối email. Nếu lá thư thực sự do Elizabeth gửi - tâm trí tôi vẫn chật vật chỉ với việc ấp ủ một ý niệm như thế - nàng biết tôi sẽ kể cho Shauna. Linda - có thể không. Nhưng Shauna? Tôi kể với cô ấy tất cả mọi thứ. Hiển nhiên sẽ là thế.

“Có một khả năng,” tôi nói, “Elizabeth vẫn còn sống.”

Shauna đi tiếp ý tưởng của tôi. “Cô ấy đã chạy trốn cùng với Elvis, phải không?” Khi nhìn thấy gương mặt tôi, cô dừng lại và bảo, “Nói rõ hơn đi.”

Tôi giải thích. Tôi kể cho cô nghe về cái email kia. Tôi kể cho cô nghe về cái camera trên phố. Và tôi kể cho cô nghe về chuyện nhìn thấy Elizabeth trên màn hình máy tính. Shauna không rời mắt khỏi tôi trong suốt thời gian tôi kể. Cô không gật đầu, không ngắt lời. Khi tôi nói xong, cô cẩn trọng rút một điếu thuốc từ trong bao ra và đưa lên miệng. Shauna đã bỏ thuốc từ bao năm nay rồi, nhưng cô vẫn thích nghịch chúng. Cô nhìn nó chằm chằm, lật đi lật lại trong tay cứ như thể trước đây chưa một lần nhìn thấy điếu thuốc lá. Tôi thấy những sợi thuốc lá đảo tung lên.

“Được rồi,” cô nói. “Vậy vào lúc hai mươi giờ mười lăm tối mai, lá thư tiếp theo dự kiến sẽ xuất hiện, phải không?”

Tôi gật đầu.

“Vậy chúng ta sẽ đợi đến lúc đó.”

Cô bỏ điếu thuốc lại vào trong bao.

“Cậu không nghĩ thế là điên rồ à?”

Shauna nhún vai. “Không quan trọng,” cô nói.

“Nghĩa là?”

“Có một vài khả năng có thể giải thích cho những thứ cậu vừa nói.”

“Bao gồm cả điên loạn.”

“Ừ, dĩ nhiên, khả năng đó lớn đấy. Nhưng giả thiết tiêu cực ngay bây giờ để làm cái gì? Đơn giản cho nó là thực đi. Hãy đơn giản cho rằng cậu nhìn thấy cái cậu nhìn thấy và Elizabeth vẫn còn sống. Nếu bọn mình sai, thì ơ hơ này, bọn mình sẽ phát hiện ra chuyện đó ngay thôi. Nếu bọn mình đúng...” Cô cau mày, nghĩ về ý tưởng đó, lắc đầu. “Chúa ơi, tớ hy vọng đến rồ dại bọn mình đúng.”

Tôi mỉm cười với cô. “Tớ yêu cậu, cậu biết không.”

“Ừa,” cô nói. “Ai chả yêu tớ.”

Khi về đến nhà, tôi rót cho mình một ly cuối cùng. Tôi nốc một ngụm dài và để cho dòng rượu ấm nóng kia đi du lịch với những điểm đến mà ai cũng biết rõ là đâu. Phải, tôi uống. Nhưng tôi không phải một gã hay say sưa. Không phải chối gì đâu. Tôi biết mình ve vãn cô em tên là nghiện rượu. Tôi cũng biết ve vãn cô em nghiện ngập rượu chè thì an toàn ngang ngửa với việc ve vãn cô con gái chưa đến tuổi vị thành niên của một tên găngxtơ. Nhưng cho đến giờ, việc ve vãn vẫn chưa tiến xa đến mức lên giường mà. Tôi đủ thông minh để biết việc đó không nên kéo dài.

Chloe rụt rè lại gần tôi với cái điệu bộ thân quen của cô nàng, có thể hiểu điều này: “Đồ ăn, đi dạo, đồ ăn, đi dạo.” Loài chó kiên định tuyệt hảo. Tôi thết nó một bữa rồi dẫn đi dạo quanh khu nhà. Không khí lạnh làm phổi tôi dễ chịu, nhưng tản bộ chẳng bao giờ làm đầu óc tôi thanh thản. Đi dạo, thật ra ấy, là một thứ buồn tẻ kinh hoàng. Nhưng tôi thích ngắm Chloe đi dạo. Tôi biết nghe có vẻ kỳ quặc, nhưng con chó tìm thấy niềm vui thích đến thế chỉ từ một hoạt động đơn giản này. Điều đó khiến tôi sung sướng theo kiểu tinh thần Phật giáo mỗi khi ngắm nhìn cô nàng.

Về nhà, tôi khẽ rón rén vào phòng ngủ. Chloe theo sau tôi. Ông đã ngủ. Cô y tá mới cũng thế. Cô ta ngáy ra tràng âm thanh re ré như trong phim hoạt hình. Tôi ấn nút bật máy tính lên và tự hỏi sao cảnh sát trưởng Lowell không gọi lại. Tôi nghĩ đến việc gọi ông ta, mặc dù lúc này cũng gần nửa đêm rồi. Rồi tôi quyết định: cứng rắn.

Tôi nhấc điện thoại lên, quay số. Lowell có điện thoại di động. Nếu ông ta đang ngủ, ông ta luôn có thể tắt đi, phải không nào?

Ông ta trả lời ở hồi chuông thứ ba. “Xin chào, bác sĩ Beck.”

Giọng ông ta khó chịu. Tôi cũng nhận ra tôi không còn là đốc tờ nữa.

“Sao ông không gọi lại cho tôi?” tôi hỏi.

“Muộn rồi,” ông ta nói. “Tôi nghĩ mình sẽ gọi lại cho anh vào sáng mai.”

“Tại sao ông lại hỏi tôi về Sarah Goodhart?”

“Mai,” ông ta nói.

“Xin lỗi, ông nói gì kia?”

“Muộn rồi, bác sĩ Beck. Tôi nghỉ rồi. Hơn nữa, tôi nghĩ nên nói chuyện này trực tiếp với anh.”

“Ít nhất thì ông có thể nói cho tôi...?”

“Anh sẽ có mặt ở phòng khám sáng mai chứ?”

“Có.”

“Sáng mai tôi sẽ gọi cho anh.”

Lịch sự nhưng kiên quyết, ông ta nói lời chúc ngủ ngon rồi dập máy. Tôi nhìn cái điện thoại và tự hỏi tất cả những chuyện này là thế quái nào.

Không thể có chuyện ngủ nghê. Tôi dành cả đêm lên mạng, lướt qua một loạt camera đặt trên đường các thành phố khác nhau, hy vọng vô tình bập đúng cái cần tìm. Mò kim bằng công nghệ trong đáy bể thế giới.

Đến giờ nào đó, tôi dừng lại và chui vào chăn. Một phần của nghề bác sĩ là kiên nhẫn. Tôi liên tục cho bọn trẻ tiến hành những xét nghiệm mang lại kết quả làm đảo ngược chuyện sống còn - nếu không phải là kết thúc sinh mạng - và bảo chúng cùng cha mẹ chúng đợi kết quả. Họ không có lựa chọn nào khác. Có lẽ cũng có thể nói một câu tương tự như thế trong tình huống này. Ngay bây giờ có quá nhiều khả năng. Ngày mai, khi tôi đăng nhập lại Bigfoot dưới username Bat Street và password là Teenage, tôi có thể biết được nhiều hơn.

Tôi dán mắt lên trần nhà một lúc. Rồi tôi nhìn sang bên phải mình - chỗ Elizabeth hay nằm. Tôi luôn buồn ngủ trước. Tôi thường nằm thế này ngắm nàng đọc sách, từng đường nét trên khuôn mặt nàng, cái cách nàng chú mục vào bất cứ thứ gì mình đang đọc. Đó là thứ cuối cùng tôi nhìn thấy trước khi hai mắt díp lại và mơ màng thiếp đi.

Tôi quay người hướng mặt về phía bên kia.

Bốn giờ sáng, Larry Gandle nhìn qua mái tóc nhuộm màu bạch kim của Eric Wu. Wu kỷ luật khủng khiếp. Nếu không tập thể lực, hắn ngồi trước màn hình máy tính. Nước da hắn đã biến sang một màu trắng xanh bệnh hoạn sau khi lướt vài nghìn trang web, nhưng cơ thể kia vẫn là khối xi măng.

“Thế nào?” Gandle hỏi.

Wu tháo headphone khỏi tai. Rồi hắn khoanh hai cánh tay như hai cột đá cẩm thạch trước ngực. “Tao thấy khó hiểu.”

“Nói tao nghe.”

“Bác sĩ Beck hiếm khi lưu lại cái email nào của hắn. Chỉ một số cái liên quan đến bệnh nhân. Không có gì riêng tư. Nhưng rồi hắn nhận hai cái thư kỳ lạ hai ngày trước.” Vẫn không quay mặt khỏi màn hình, Eric Wu chìa hai tờ giấy cho quả bóng bowling gắn trên cái vai kia. Larry Gandle nhìn lá thư và cau mày.”

“Chúng có nghĩa gì?”

“Tao không biết.”

Gandle đọc lướt qua nội dung lá thư nói về việc nhấp chuột vào thứ gì đó vào “thời điểm hôn”. Gã không hiểu gì về máy tính - mà gã cũng không muốn hiểu gì cả. Mắt gã lại liếc lên đầu mảnh giấy và đọc tiêu đề thư.

E.P + D.B và một đống những nét gạch.

Gandle nghĩ D.B. Có thể là David Beck? Và E.P...

Ý nghĩa đó đập xuống hắn như một cú trời giáng. Hắn chậm chạp đưa tờ giấy lại cho Wu.

“Ai gửi cái này?” Gandle hỏi.

“Tao không biết.”

“Tìm đi.”

“Không thể,” Wu nói.

“Tại sao?”

“Người gửi sử dụng một server chuyển tiếp mail nặc danh không cần xác thực người gửi.” Wu nói giọng đều đều, bình tĩnh gần như quái lạ. Hắn cũng dùng kiểu giọng đó khi nói chuyện về bản tin thời tiết hay xé toạc má một người. “Tao sẽ không nói chi tiết về thuật ngữ máy tính, nhưng không có cách nào để lần theo dấu cả.”

Gandle chú ý sang email kia, cái có nói đến Bad Street và Teenage. Gã không hiểu chút gì.

“Cái này thì sao? Mày có lần được theo không?”

Wu lắc đầu. “Cũng là một server chuyển tiếp mail nặc danh không cần xác thực người gửi.”

“Cùng một người gửi cả hai cái?”

“Dự đoán của mày chất lượng ngang dự đoán của tao.”

“Nội dung thì sao? Mày có hiểu một trong hai cái nói về chuyện gì không?”

Wu gõ một vài phím và email đầu tiên xuất hiện trên màn hình. Hắn chỉ ngón tay to, gân guốc vào màn hình. “Nhìn thấy cái chữ màu xanh chỗ kia không? Nó là một hyperlink. Tất cả những gì bác sĩ Beck phải làm là nhắp chuột vào đó và nó sẽ đưa hắn đến một thế giới nào đó, có lẽ là một website.

“Website gì?”

“Nó là một cái link gãy. Một lần nữa, không thể lần theo dấu.”

“Và Beck được dự kiến là sẽ làm việc đó vào ‘thời điểm hôn’?”

“Nó viết thế.”

“Thời điểm hôn có phải thuật ngữ máy tính gì đó không?”

Wu suýt cười toét miệng. “Không.”

“Vậy mày không biết cái thời điểm email kia nhắc đến là gì?”

“Chính xác.”

“Hay thậm chí bọn mình đã qua mất thời điểm hôn hay chưa?”

“Qua rồi,” Wu nói.

“Làm thế nào mày biết?”

“Trình duyệt web của hắn được thiết lập cho ta biết hai mươi trang gần đây nhất mà hắn đã vào. Hắn đã nhấp chuột cái link kia. Đúng ra là vài lần.”

“Nhưng mày không thể, ờ, theo hắn đến đó?”

“Không. Đường link đó không dùng được.”

“Cái email kia thì sao?”

Wu gõ một vài phím. Màn hình thay đổi và lá thư thứ hai xuất hiện. “Cái này thì tìm ra dễ hơn. Rất sơ đẳng, thực ra là thế.”

“Được, tao nghe đây.”

“Người gửi email nặc danh kia đã thiết lập một account email cho bác sĩ Beck,” Wu giải thích. “Hắn đưa cho bác sĩ Beck một user name cùng một password và một lần nữa nhắc đến thời điểm hôn.”

“Vậy để tao xem có hiểu không nhé,” Gandle nói. “Beck mở một website nào đó. Hắn gõ cái user name và password kia và sẽ có một tin nhắn cho hắn?”

“Đúng, lý thuyết là thế.”

“Chúng ta cũng làm thế được không?”

“Đăng nhập dùng user name và password kia?”

“Ừ. Và đọc tin nhắn.”

“Tao đã thử rồi. Cái account kia vẫn chưa tồn tại.”

“Tại sao chưa?”

Eric Wu nhún vai. “Người gửi nặc danh có thể thiết lập cái account đó sau. Sát với thời điểm hôn hơn.”

“Thế bây giờ chúng ta có thể kết luận được gì?”

“Nói một cách đơn giản” - ánh sáng từ màn hình nhảy nhót rung rinh trong đôi mắt trống rỗng của Wu - “ai đó sẽ phải trải qua cả một đống rắc rối để có thể giữ được trạng thái nặc danh như vậy.”

“Vậy làm cách nào chúng ta tìm được ra đó là ai?”

Wu giơ lên một thiết bị nhỏ trông giống như thứ mà bạn có thể thấy trong một cái đài bán dẫn xách tay. “Chúng ta đã cài đặt một trong những thứ này lên máy tính ở nhà cũng như chỗ làm của hắn.”

“Cái gì thế?”

“Một bộ theo dõi trên hệ thống dùng kỹ thuật số. Bộ theo dõi này gửi những tín hiệu số từ máy tính của hắn đến máy của chúng ta. Nếu bác sĩ Beck nhận bất kỳ email hay vào bất cứ website nào hay thậm chí nếu hắn chỉ gõ một chữ cái, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy tất cả ngay cùng lúc đó.”

“Vậy chúng ta đợi và xem,” Gandle nói.

“Ừ.”

Gandle nghĩ về chuyện Wu nói với gã - về thời gian, công sức kẻ nào đó phải bỏ ra để duy trì được trạng thái nặc danh - và một nghi hoặc khủng khiếp bắt đầu bò vào bụng hắn.
 
Chương 9


Tôi đậu xe ở bãi đỗ cách phòng khám hai tòa nhà. Tôi chưa bao giờ đi xe quá tòa nhà đầu tiên.
Cảnh sát trưởng Lowell hiện ra cùng hai gã đầu trọc diện vest xám. Hai gã mặc vest đứng dựa vào một chiếc Buick lớn màu nâu. Hình thể đối lập. Một cao gầy trắng, một lùn béo đen; đứng cạnh nhau chúng trông hơi giống một quả bóng bowling đang cố đánh gục con ky cuối cùng. Cả hai mỉm cười với tôi. Lowell không.
“Bác sĩ Beck?” con ky trắng cao nói. Anh ta chải chuốt không chê vào đâu được - tóc vuốt keo, khăn mùi soa gấp để ở túi áo, cà vạt thắt với độ chính xác siêu phàm, cặp kính có nhãn hiệu người thiết kế bằng đồi mồi, loại mà diễn viên đeo khi họ muốn mình trông thông minh.
Tôi nhìn Lowell. Ông ta không nói gì.
“Phải.”
“Tôi là đặc vụ Nick Carlson của Cục điều tra liên bang,” gã chải chuốt không chê vào đâu được nói tiếp. “Đây là đặc vụ Tom Stone.”
Cả hai giơ huy hiệu ra. Stone, tay lùn hơn và nhàu nhĩ hơn, xốc quần và gật đầu với tôi. Rồi anh ta mở cửa sau chiếc Buick.
“Cảm phiền anh đi cùng chúng tôi được chứ?”
“Tôi có bệnh nhân trong mười lăm phút nữa,” tôi nói.
“Chúng tôi đã lo việc đó rồi.” Carlson khoát tay dài về phía xe, như thể đang bày ra phần thưởng trong một game show. “Xin mời.”
Tôi lên xe ở cửa sau. Carlson lái. Stone nhét mình vào ghế hành khách phía trước. Lowell không lên xe. Chúng tôi chỉ đi trong Manhattan, nhưng chuyến đi vẫn mất gần bốn mươi lăm phút. Chúng tôi dừng lại ở khu buôn bán Broadway gần Phố Duane. Carlson dừng xe phía trước một tòa nhà văn phòng có đề Số 26 Tòa nhà Liên Bang.
Bên trong đúng là kiểu tòa nhà văn phòng tiêu chuẩn. Đàn ông mặc vest, những người lịch thiệp bất ngờ, đi lại tay cầm tách cà phê hòa tan. Cũng có phụ nữ, nhưng họ thuộc dạng thiểu số khủng khiếp. Chúng tôi vào một phòng họp. Tôi được mời ngồi, và tôi ngồi. Tôi cố bắt chéo chân, nhưng không cảm thấy thoải mái.
“Ai đó có thể nói cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra không?” tôi hỏi.
Carlson Con-Ky-trắng mở lời trước. “Chúng tôi có thể mời anh thứ gì đó không?” anh ta hỏi. “Chúng tôi pha thứ cà phê dở nhất thế giới, nếu anh muốn.”
Điều đó giải thích cho tất cả những cái tách cà phê hòa tan. Anh ta mỉm cười với tôi. Tôi mỉm cười đáp lại. “Hấp dẫn, nhưng không, cám ơn.”
“Nước ngọt nhé? Chúng ta có nước ngọt chứ, Tom?”
“Có, Nick. Coke, Diet Coke, Sprite, bất cứ loại nào mà vị bác sĩ đây muốn.”
Họ nở thêm vài nụ cười nữa. “Tôi ổn, cám ơn,” tôi nói.
“Snapple?” Stone hỏi. Anh ta lại xốc quần một lần nữa. Bụng anh ta hơi tròn nên khó mà tìm được một điểm cho cái cạp quần khỏi bị tụt xuống. “Chúng tôi có hàng đống những loại rất khác nhau ở đây.”
Tôi suýt nữa đã nói đồng ý cho dễ chịu, nhưng cuối cùng tôi chỉ lịch thiệp lắc đầu. Cái bàn, có lẽ bằng chất liệu tổng hợp có Formica, trống trơn trừ một chiếc phong bì nhựa lớn. Tôi không biết làm gì với tay mình, vì vậy tôi đặt chúng lên bàn. Stone núng nính đi về một phía bàn và đứng đó. Carlson, vẫn dẫn đầu, ngồi trên góc bàn và xoay người nhìn xuống tôi.
“Anh có thể nói cho chúng tôi biết gì về Sarah Goodhart?” Carlson hỏi.
Tôi không biết trả lời thế nào. Tôi cố tìm các hướng trả lời, nhưng không nghĩ ra gì.
“Bác sĩ?”
Tôi ngước nhìn anh ta. “Tại sao anh muốn biết?”
Carlson và Stone liếc nhìn nhau. “Cái tên Sarah Goodhart vừa xuất hiện có liên quan đến một vụ điều tra đang được tiến hành,” Carlson nói.
“Vụ điều tra nào?” tôi hỏi.
“Chúng tôi không nói được.”
“Tôi không hiểu. Làm thế nào tôi lại liên quan với việc này?”
Carlson buông một tiếng thở dài, chầm chậm. Anh ta nhìn về phía người cộng sự phục phịch của mình và bất ngờ tất cả những nụ cười biến mất. “Có phải tớ đang hỏi một câu hỏi phức tạp ở đây không, Tom?”
“Không, Nick, tớ không nghĩ vậy.”
“Tớ cũng không.” Carlson hướng mắt lại về phía tôi. “Có lẽ anh không thích cách hỏi, bác sĩ. Phải không?”
“Đó là việc họ luôn làm trong The Practice, Nick,” Stone xen vào. “Không thích cách hỏi.”
“Đó là việc họ làm, Tom, đó là việc họ làm. Và rồi họ bảo, ‘Tôi sẽ nói lại,’ đúng không? Thứ gì đó tương tự thế.”
“Thứ gì đó tương tự thế, đúng vậy.”
Carlson nhìn xuống tôi. “Vậy để tôi nói lại: Cái tên Sarah Goodhart có nghĩa gì với anh không?”
Tôi không thích thế này. Tôi không thích thái độ của họ hay việc họ thay thế Lowell hay cái kiểu tôi sắp bị tra hỏi trong phòng họp này. Họ phải biết cái tên đó có nghĩa gì. Nó không khó đến thế. Tất cả những gì phải làm chỉ là liếc qua tên họ và địa chỉ của Elizabeth. Tôi quyết định đáp lại một cách nhẹ nhàng.
“Tên đệm của vợ tôi là Sarah,” tôi nói.
“Tên đệm của vợ tôi là Gertrude,” Carlson tiếp.
“Chúa ơi, Nick, thật khủng khiếp.”
“Tên đệm của vợ cậu là gì, Tom?”
“McDown. Đó là tên phân biệt trong gia đình.”
“Tớ thích kiểu làm thế. Dùng tên gia đình làm tên đệm. Vinh danh tổ tiên bằng cách đó.”
“Tớ cũng thích, Nick.”
Hai gã đổ dồn ánh mắt về phía tôi.
“Tên đệm của anh là gì, bác sĩ?”
“Craig,” tôi nói.
“Craig,” Carlson nhắc lại. “Được, vậy nếu tôi hỏi anh cái tên, thế này nhé” - anh ta vẫy tay vẻ điệu bộ - “Craig Dipwad có nghĩa gì với anh, liệu anh có nhỏ nhẹ, ‘Này, tên đệm của tôi là Craig’ không?”
Carlson lại tia tôi bằng đôi mắt nghiêm khắc.
“Tôi nghĩ là không,” tôi nói.
“Tôi nghĩ là không. Vậy hãy thử lại một lần nữa: Anh nghe cái tên Sarah Goodhart bao giờ chưa, có hay không?”
“Ý anh là từng bao giờ nghe nó?”
Stone nói, “Chúa ơi.”
Mặt Carlson đỏ lên. “Bây giờ anh chơi trò ngữ nghĩa với chúng tôi hả, bác sĩ?”
Anh ta đúng. Tôi đã ngu ngốc. Tôi đã đi như mù, và dòng cuối cùng của cái email - Đừng nói một ai - cứ lóe lên trong đầu tôi như cái thứ trong đèn huỳnh quang. Sự khó hiểu ngự trị. Họ phải biết về Sarah Goodhart. Tất cả những thứ này chỉ là kiểm tra xem tôi có hợp tác hay không. Là thế đấy. Có thể. Nhưng hợp tác cái gì?
“Vợ tôi lớn lên trên phố Goodhart Road,” tôi nói. Họ đều lùi lại một chút, đợi tôi nói, khoanh tay lại. Họ dẫn tôi tới một vùng im lặng và tôi ngu ngốc lặn vào. “Hiểu chưa, đó là lý do tại sao tôi nói Sarah là tên đệm của vợ tôi. Cái tên Goodhart khiến tôi nghĩ đến cô ấy.”
“Bởi vì cô ấy lớn lên trên phố Goodhart Road?” Carlson nói.
“Phải.”
“Giống như từ Goodhart là một chất xúc tác hay thứ gì đó?”
“Phải,” tôi lại nói.
“Tôi hiểu rồi.” Carlson nhìn cộng sự của mình. “Cậu có hiểu không, Tom?”
“Có,” Stone đồng ý, vỗ nhẹ vào bụng mình. “Anh ta không hề lảng tránh gì đó. Từ Goodhart là một chất xúc tác.”
“Phải. Nó khiến anh ta nghĩ về vợ mình.”
Cả hai lại cùng nhìn tôi. Lần này tôi buộc mình phải giữ im lặng.
“Vợ anh có bao giờ dùng cái tên Sarah Goodhart không?” Carlson hỏi.
“Dùng nó như thế nào?”
“Cô ấy có bao giờ nói, ‘Xin chào, tôi là Sarah Goodhart,’ hay sử dụng giấy tờ tùy thân hay đăng ký khách sạn bằng cái tên này...”
“Không,” tôi nói.
“Anh chắc chứ?”
“Chắc.”
“Đó là sự thật?”
“Phải.”
“Không cần thêm chất xúc tác khác?”
Tôi ngồi thẳng người trên ghế và quyết định biểu lộ chút ít bản lĩnh cương quyết. “Tôi không thích thái độ của anh lắm, đặc vụ Carlson.”
Nụ cười khoe hàm răng khiến các nha sĩ phải tự hào của anh ta trở lại, nhưng nó giống như kiểu sản phẩm lai tạo dữ tợn của nụ cười trước đó. Anh ta giơ tay lên và nói, “Xin thứ lỗi cho tôi, vâng, được rồi, thế là khiếm nhã.” Anh ta nhìn quanh như thể đang nghĩ ngợi xem nói gì tiếp đây. Tôi đợi.
“Anh có bao giờ đánh vợ mình không, bác sĩ?”
Câu hỏi quất vào tôi như một cái roi. “Cái gì?”
“Để giúp anh giải tỏa? Tát một phụ nữ?”
“Cái gì... anh điên à?”
“Anh được bao nhiêu tiền bảo hiểm nhân thọ khi vợ anh chết?”
Tôi tê dại. Tôi nhìn mặt anh ta rồi Stone. Hoàn toàn mờ đục. Không thể tin nổi điều tôi vừa nghe thấy. “Chuyện gì đang diễn ra ở đây?”
“Xin hãy trả lời câu hỏi. Dĩ nhiên, trừ phi anh có điều gì đó không muốn nói với chúng tôi.”
“Không có gì bí mật,” tôi nói. “Hợp đồng là hai trăm nghìn dollar.”
Stone huýt sáo. “Hai trăm nghìn cho một bà vợ chết. Này, Nick, tớ kiếm ở đâu được nhỉ?”
“Tiền bảo hiểm như thế là rất nhiều đối với một phụ nữ hai mươi lăm tuổi.”
“Anh họ cô ấy mới bắt đầu làm việc trong lĩnh vực bảo hiểm, tại State Farm,” tôi nói, từ ngữ ríu vào nhau. Kỳ quặc là, mặc dù tôi biết mình không hề làm gì sai - ít nhất không phải việc bọn họ nghĩ - tôi bắt đầu cảm thấy tội lỗi. Nó là một cảm giác khó hiểu. Mồ hôi bắt đầu chảy xuống nách tôi. “Cô ấy muốn giúp anh họ mình. Vì vậy cô ấy mua loại hợp đồng lớn này.”
“Cô ấy tốt bụng thế,” Carlson nói.
“Tốt thật,” Stone nói thêm. “Gia đình rất quan trọng, anh nghĩ vậy không?”
Tôi không nói gì. Carlson ngồi lại lên góc bàn. Nụ cười biến mất. “Nhìn tôi này, bác sĩ.”
Tôi nhìn. Mắt anh ta nhìn vào mắt tôi. Tôi gắng duy trì sự tác động bằng mắt, nhưng đó là một nỗ lực lớn.
“Trả lời câu hỏi của tôi lần này,” anh ta chậm rãi nói. “Và đừng tỏ ra kinh ngạc hay bị xúc phạm với tôi. Anh đã từng bao giờ đánh vợ mình chưa?”
“Chưa bao giờ,” tôi nói.
“Không một lần?”
“Không một lần.”
“Ngay cả đẩy cô ấy?”
“Chưa bao giờ.”
“Hay bất ngờ đánh trong cơn giận dữ. Chết tiệt, chúng ta đều trải qua rồi mà, bác sĩ. Một cái tát nhẹ. Chẳng phải tội ác gì trong việc đó. Chuyện thật tự nhiên khi động chạm đến vấn đề của con tim, anh hiểu ý tôi không?”
“Tôi chưa bao giờ đánh vợ tôi,” tôi nói. “Tôi chưa bao giờ đẩy hay tát hay đánh cô ấy trong cơn giận dữ. Chưa bao giờ.”
Carlson nhìn Stone. “Như thế đủ rõ cho cậu chưa, Tom?”
“Rồi, Nick. Anh ta nói anh ta chưa bao giờ đánh cô ấy, với tôi thế là được rồi.”
Carlson gãi cằm. “Trừ phi.”
“Trừ phi cái gì, Nick?”
“Ồ, trừ phi tôi có thể trao cho bác sĩ Beck đây một chất xúc tác khác.”
Bốn con mắt lại đổ dồn vào tôi. Hơi thở của chính tôi dội vang trong tai, dồn dập và không đều. Tôi cảm thấy như bị mê sảng. Carlson đợi một nhịp rồi giật lấy cái phong bì nhựa lớn. Anh ta từ từ lật cái nắp phong bì lên bằng những móng tay dài, thon thả rồi mở ra. Anh ta giơ nó lên cao trong không trung và để cho cái bên trong rơi xuống bàn.
“Cái này làm chất xúc tác thì thế nào, hả, bác sĩ?”
Đó là những bức ảnh. Carlson đẩy chúng về phía tôi. Tôi nhìn xuống và cảm thấy cái lỗ trong tim mình khoét rộng ra.
“Bác sĩ Beck?”
Tôi nhìn không chớp mắt. Những ngón tay ngập ngừng với tới, chạm vào tấm ảnh.
Elizabeth.
Đó là những bức ảnh Elizabeth. Cái thứ nhất chụp cận cảnh khuôn mặt nàng. Từng đường nét trên mặt, tay phải giữ tóc vén ra sau tai. Mắt nàng bầm máu và sưng phồng. Một vết rách sâu và nhiều chỗ bầm tím khác nữa trên cổ nàng, ngay dưới tai.
Trông như thể nàng đang khóc.
Một bức khác được chụp từ dưới thắt lưng lên. Elizabeth đứng, chỉ mặc mỗi áo ngực, và nàng đang chỉ vào một quầng lớn đã đổi màu trên ngực mình. Mắt nàng vẫn có cái quầng nhuộm thêm chút màu đỏ kia. Ánh sáng chói một cách lạ kỳ, như thể đèn flash tự nó tìm ra chỗ thâm tím và kéo lại gần ống kính hơn. Còn có ba bức ảnh nữa - tất cả từ góc chụp và các bộ phận cơ thể khác nhau. Tất cả chúng đều làm bật lên những vết đứt và thâm tím.
“Bác sĩ Beck?”
Mắt tôi giật mạnh. Tôi gần như hoảng hốt giật mình khi thấy họ trong phòng. Nét mặt họ bình thản, vô tình. Tôi nhìn Carlson, rồi Stone, rồi nhìn lại Carlson.
“Anh nghĩ tôi làm chuyện này?”
Carlson nhún vai. “Anh nói cho chúng tôi.”
“Dĩ nhiên không.”
“Anh có biết tại sao vợ anh bị những vết bầm tím này không?”
“Bị tai nạn ôtô.”
Họ nhìn nhau như thể tôi vừa nói với họ, con chó của tôi đã ăn bài tập về nhà của chủ.
“Cô ấy bị đâm xe rất nặng,” tôi giải thích.
“Khi nào?”
“Tôi không biết chính xác. Ba, bốn tháng trước” - những từ ngữ bị kẹt lại trong một giây - “trước khi cô ấy chết.”
“Cô ấy có đến bệnh viện không?”
“Không, tôi không nghĩ cô ấy đến.”
“Anh không nghĩ?”
“Khi đó tôi đi vắng.”
“Anh đi đâu?”
“Lúc đó, tôi đang tham gia một hội thảo nhi khoa tại Chicago. Cô ấy kể cho tôi nghe về tai nạn khi tôi về nhà.”
“Bao lâu sau cô ấy kể với anh?”
“Sau tai nạn?”
“Phải, bác sĩ, sau tai nạn.”
“Tôi không biết. Hai, ba ngày, có lẽ thế.”
“Lúc đó hai người đã lấy nhau?”
“Chỉ mới vài tháng.”
“Tại sao cô ấy không kể với anh ngay lập tức?”
“Cô ấy có kể. Ý tôi là, ngay khi tôi về đến nhà. Tôi nghĩ cô ấy không muốn khiến tôi lo lắng.”
“Tôi hiểu,” Carlson nói. Anh ta nhìn Stone. Họ không ngần ngại che giấu sự nghi hoặc. “Vậy anh chụp những bức ảnh này phải không, bác sĩ?”
“Không,” tôi nói. Ngay khi nói ra, tôi ước gì mình đã không nói thế. Họ trao đổi một cái nhìn nữa, hít hít như bị hấp dẫn bởi mùi máu. Carlson nghiêng đầu và dịch lại gần hơn.
“Anh đã bao giờ nhìn thấy những bức ảnh này trước kia chưa?”
Tôi không nói gì. Họ đợi. Tôi nghĩ câu hỏi. Câu trả lời là chưa, nhưng... họ có được chúng từ đâu? Tại sao tôi lại không biết gì về chúng? Ai đã chụp chúng? Tôi nhìn mặt họ, nhưng nét mặt họ không bộc lộ điều gì.
Đây thực sự là một điều kinh ngạc, nhưng khi nghĩ về nó, chúng ta học được những bài học quan trọng nhất trong cuộc đời là từ tivi. Phần rất lớn kiến thức của chúng ta về các cuộc thẩm vấn, quyền Miranda, tự buộc tội, đối chất, danh sách nhân chứng, hệ thống tòa án, chúng ta biết được từ NYPD Blue và Law & Order và những thứ tương tự thế. Nếu tôi ném cho bạn một khẩu súng ngay bây giờ và yêu cầu bạn nổ súng, bạn sẽ làm điều mà bạn xem trên tivi. Nếu tôi bảo bạn hãy để ý canh chừng tìm một “kẻ bám đuôi”, bạn sẽ biết tôi đang nói về chuyện gì bởi vì bạn đã thấy việc đó được thực hiện trong phim Mannix hay Magnum PI rồi.
Tôi ngước nhìn họ và hỏi một câu kinh điển: “Tôi là đối tượng tình nghi?”
“Tình nghi vì cái gì?”
“Vì bất cứ thứ gì,” tôi nói. “Anh có tình nghi tôi phạm tội nào đó không?”
“Đó là một câu hỏi khá mơ hồ, bác sĩ.”
Và đó là một câu trả lời khá mơ hồ. Tôi không thích chuyện diễn ra như thế này. Tôi quyết định dùng một câu nói khác mà tôi học được từ tivi.
“Tôi muốn gọi luật sư của tôi,” tôi nói.
 
Chương 10


Tôi không có luật sư chuyên những vụ hình sự - mà ai có? - vì vậy tôi gọi cho Shauna từ một máy điện thoại trả tiền ở hành lang và giải thích tình thế. Cô không lãng phí chút thời gian nào.

“Tớ gọi được đúng người ngay,” Shauna nói. “Ngồi vững nhé.”

Tôi đợi trong phòng thẩm vấn. Carlson và Stone đủ tốt bụng để chờ tôi. Họ dành thời gian thì thầm với nhau. Nửa giờ trôi qua. Một lần nữa im lặng gây lo lắng bồn chồn. Tôi biết đó chính là thứ mà họ muốn. Nhưng tôi không thể ngăn bản thân mình. Xét cho cùng, tôi vô tội. Làm thế nào tôi có thể làm hại bản thân mình nếu tôi cẩn thận?

“Khi được tìm thấy, vợ tôi bị đóng dấu một chữ cái K,” tôi nói với họ.

Cả hai ngước lên. “Thứ lỗi cho tôi,” Carlson nói, nghển cái cổ dài lại về phía tôi. “Anh đang nói chuyện với chúng tôi?”

“Khi được tìm thấy, vợ tôi bị đóng dấu một chữ cái K,” tôi nhắc lại. “Tôi đã ở trong bệnh viện sau khi bị chấn động bởi một vụ tấn công. Anh không thể nghĩ...” tôi ngừng ở đó.

“Nghĩ cái gì?” Carlson nói.

Việc đã làm thì phải làm cho đến nơi đến chốn. “Rằng tôi có liên quan gì đó đến cái chết của vợ tôi.”

Đó là lúc cánh cửa bật tung, và một phụ nữ tôi nhận ra quen thuộc từ màn hình tivi giậm chân bước vào phòng. Carlson nhảy lùi lại khi anh ta trông thấy bà. Tôi nghe thấy Stone lầm bầm: “Chó chết”.

Hester Crimstein chẳng buồn mở màn giới thiệu. “Thân chủ của tôi có yêu cầu luật sư phải không?” bà hỏi.

Nhờ Shauna. Tôi chưa bao giờ găp luật sư của tôi, nhưng tôi nhận ra bà từ phần xuất hiện ngắn ngủi của bà với tư cách một “chuyên gia luật” trên các chương trình gặp gỡ trò chuyện và từ chương trình riêng của bà Crimstein on Crime trên Court TV. Trên màn ảnh, Hester Crimstein rất lanh lợi, sắc bén và thường để lại các vị khách trong tình trạng tả tơi thảm hại. Khi gặp trực tiếp, ở bà toát ra một thứ hương quyền lực kỳ dị bậc nhất, loại người nhìn mọi người khác cứ như thể bà là một con hổ đói và họ là những con linh dương gazen bị què.

“Đúng thế,” Carlson nói.

“Vậy mà các anh ở đây, hoàn toàn lịch thiệp và dễ chịu, vẫn thẩm vấn anh ta.”

“Anh ta mở miệng nói chuyện với chúng tôi trước.”

“Ồ, tôi hiểu rồi.” Hester Crimstein mở đánh tách cái cặp đựng tài liệu, moi ra một cây bút cùng tờ giấy và ném chúng lên bàn. “Viết tên anh ra.”

“Xin lỗi, cái gì cơ?”

“Tên anh, anh chàng đẹp trai. Anh biết cách đánh vần tên mình chứ?”

Đó là một câu hỏi tu từ, nhưng Crimstein vẫn đợi một câu trả lời.

“Có,” Carlson đáp.

“Có biết,” Stone chen thêm.

“Tốt. Viết tên ra. Khi tôi đề cập trên chương trình của tôi, làm cách nào hai người chà đạp lên quyền được quy định theo hiến pháp của thân chủ tôi, tôi muốn chắc chắn mình có được đúng tên. Chữ viết hoa một cách rõ ràng, xin vui lòng.”

Bà cuối cùng nhìn thấy tôi. “Đi thôi.”

“Gượm đã,” Carlson nói. “Chúng tôi xin phép hỏi thân chủ của bà một vài câu hỏi.”

“Không.”

“Không? Mỗi thế thôi?”

“Chính xác. Anh không nói chuyện với anh ta. Anh ta không nói chuyện với anh. Không bao giờ. Hai anh hiểu chứ?”

“Hiểu,” Carlson nói.

Bà liếc lại Stone.

“Hiểu,” Stone nói.

“Rất cừ, hai anh bạn trẻ. Bây giờ có phải anh đang bắt giữ bác sĩ Beck?”

“Không.”

Bà quay về phía tôi. “Cậu còn đợi cái gì?” bà giận dữ nói với tôi. “Chúng ta ra khỏi đây.”

Hester Crimstein không nói một lời nào cho đến khi chúng tôi yên vị trong chiếc limousine của bà.

“Cậu muốn tôi thả cậu xuống chỗ nào?” bà hỏi.

Tôi đưa người lái xe địa chỉ phòng khám.

“Kể cho tôi về cuộc thẩm vấn,” Crimstein nói. “Không bỏ sót gì.”

Tôi thuật lại chi tiết cuộc đối thoại với Carlson và Stone hết sức có thể. Hester Crimstein không hề liếc mắt nhìn sang tôi. Bà lấy ra một quyển sổ ghi chép trong ngày to hơn vòng eo của tôi và bắt đầu đọc lướt qua.

“Vậy những bức ảnh vợ cậu,” bà nói khi tôi kể xong. “Cậu không chụp chúng?”

“Không.”

“Và cậu đã nói với hai gã giống nhau như đúc điều đó?”

Tôi gật đầu.

Bà lắc đầu. “Bác sĩ. Luôn là những khách hàng tệ nhất.” Bà hất một lọn tóc ra sau. “Được rồi, thế là cậu khờ, nhưng không ngu. Cậu nói cậu chưa bao giờ nhìn thấy những bức ảnh này trước đây?”

“Chưa bao giờ.”

“Nhưng khi họ hỏi cậu điều đó, cậu cuối cùng lại câm bặt?”

“Phải.”

“Tốt hơn rồi,” bà gật đầu nói. “Cậu chuyện về việc cô ấy bị những vết bầm trong một tai nạn ôtô. Nó là sự thật?”

“Xin lỗi, bà nói gì kia?”

Crimstein gấp cuốn sổ ghi chép lại. “Nghe này... Beck, phải không nhỉ? Shauna bảo mọi người gọi cậu là Beck, vì vậy cậu không phiền nếu tôi cũng gọi thế chứ?”

“Không.”

“Tốt. Nghe này, Beck, cậu là bác sĩ, phải không?”

“Phải.”

“Cậu ân cần với bệnh nhân?”

“Tôi cố được thế.”

“Tôi không. Dù một chút cũng không. Cậu muốn được chiều chuộng, tiếp tục ăn kiêng và thuê Richard Simmons. Vì vậy hãy bỏ qua tất cả những xin lỗi, bà nói gì kia và thứ lỗi cho tôi và tất cả những trò cảm giác khó chịu kia đi, được chứ? Chỉ trả lời câu hỏi của tôi. Câu chuyện tai nạn xe ôtô cậu kể cho họ. Thật không?”

“Thật.”

“Bởi vì bọn nhân viên FBI sẽ kiểm tra tất cả những việc đó. Cậu biết điều đó, phải không?”

“Tôi biết.”

“Được rồi, ổn, vậy là ở chỗ này chúng ta đã rõ ràng.” Crimstein hít một hơi. “Vậy có thể vợ cậu đã để một người bạn chụp những bức ảnh đó,” bà nói, đoán chừng các khả năng. “Vì lý do bảo hiểm hay gì đó. Trong trường hợp cô ấy muốn kiện. Điều đó nghe có vẻ hợp lý, nếu như người ta cần bằng chứng.”

Điều đó với tôi chẳng hợp lý gì cả, nhưng tôi giữ ý nghĩ đó cho riêng mình.

“Vậy câu hỏi uno thứ nhất: Những bức ảnh đó đã ở đâu, Beck?”

“Tôi không biết.”

“Dos thứ hai và tres thứ ba: Làm thế nào bọn FBI có được chúng? Tại sao bây giờ những bức ảnh này lại xuất hiện?”

Tôi lắc đầu.

“Và quan trọng nhất, bọn họ đang cố buộc tội gì cho cậu? Vợ cậu đã chết được tám năm. Hơi muộn cho chuyện buộc tội bạo hành cho người chồng.” Bà ngồi lại và ngẫm nghĩ về việc đó trong vòng một hay hai phút. Rồi bà ngước lên và nhún vai. “Không quan trọng. Tôi sẽ gọi vài cú điện thoại và tìm ra đang có chuyện gì. Trong lúc chờ đợi, đừng khờ dại. Không nói gì với bất cứ ai. Cậu hiểu chứ?”

“Hiểu.”

Bà ngồi lại và nghĩ về chuyện đó thêm một lúc. “Tôi không thích chuyện này,” bà nói. “Tôi không thích chuyện này, không một chút nào.”
 
Chương 11


Vào ngày 12, tháng Năm, năm 1970, Jeremiah Renway và ba người bạn cực đoan đã cho nổ bom tại khoa Hóa trường đại học Eastern State. Tin đồn từ Weather Underground rằng các nhà khoa học thuộc lực lượng quân đội đã sử dụng phòng thí nghiệm của trường để tạo ra một loại bom napalm mạnh hơn. Bốn sinh viên, trong một cơn hứng khởi sáng tạo độc đáo đã tự đặt tên cho mình là Tiếng gào Tự do, quyết định đứng lên thực hiện việc đó một cách ấn tượng nhưng đầy phô trương.

Vào thời điểm đó, Jeremiah Renway không biết tin đồn thực hư thế nào. Giờ đây, hơn ba mươi năm sau, ông nghi ngờ nó. Không quan trọng. Vụ nổ không làm hư hại bất cứ thứ gì trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, hai nhân viên bảo vệ của trường đã vấp phải một cái túi khả nghi. Khi một người nâng cái túi lên, nó nổ tung, chết cả hai.

Cả hai đều có con.

Một trong những đồng sự “chiến đấu vì tự do” của Jeremiah bị bắt hai ngày sau đó. Ông ta vẫn nằm trong tù. Người thứ hai chết do bị ung thư ruột già năm 1989. Người thứ ba, Evelyn Cosmeer, bị bắt năm 1996. Cô ta hiện nằm tù với mức án bảy năm.

Jeremia tẩu thoát vào rừng đêm đó và không bao giờ liều đi ra. Ông gần như không nhìn thấy người hay nghe đài, xem tivi. Ông chỉ dùng điện thoại một lần duy nhất - và đó là trong trường hợp khẩn cấp. Mối liên hệ thực sự duy nhất của ông với thế giới bên ngoài là thông qua báo chí, tuy nhiên những gì báo chí đăng tải về sự kiện xảy ra ở đây tám năm trước đều sai cả.

Sinh ra và lớn lên ở vùng đồi thấp dưới chân núi phía Tây Bắc Georgia, cha Jeremiah đã dạy con trai mình tất cả các kỹ năng để có thể sống sót, tuy nhiên bài học quan trọng hơn tất thảy chỉ đơn giản thế này: Tin tưởng vào tự nhiên thì được, con người thì không. Jeremiah đã quên bẵng bài học đó trong một thời gian. Giờ đây ông sống bằng nó.

Sợ cảnh sát truy tìm gần thành phố mình sinh ra, Jeremiah đến cánh rừng ở Pennsylvania. Ông cuốc bộ một thời gian, đổi chỗ cắm trại mỗi đêm hay hai đêm một lần, cho đến khi ông tình cờ phát hiện ra khu hồ Charmaine khá dễ chịu và an toàn. Khu cắm trại của hồ có đám giường cũ có thể vào trong đó trú ngụ được khi bên ngoài quá bẩn thỉu. Không mấy người lai vãng đến hồ - phần lớn là vào mùa hè, và ngay cả mùa hè thì cũng chỉ những ngày cuối tuần. Ở đây, ông săn hươu giết thịt trong khung cảnh khá yên bình. Một vài lần trong năm khi hồ có người sử dụng, ông đơn giản chỉ trốn hoặc đi dịch xa lên phía Tây một chút.

Hoặc ông quan sát.

Với những đứa trẻ thường đến đây, Jeremiah Renway là ông Ba Bị.

Bây giờ Jeremiah đứng yên dõi nhìn cảnh sát đi đi lại lại trong những chiếc áo gió màu đen. Áo gió của FBI. Nhìn thấy ba chữ cái in hoa màu vàng đó vẫn làm cho đầu ông như bị một trụ băng đập vào.

Không ai buồn căng cái dải băng vàng khoanh khu vực này lại, có thể vì nó quá hẻo lánh. Renway đã không hề ngạc nhiên khi người ta tìm thấy những thi thể. Phải, hai người đàn ông đã bị chôn sâu và kỹ, nhưng Renway biết nhiều hơn hết thảy: bí mật không thích nằm mãi dưới mặt đất. Đồng phạm trước đây của ông, Evelyn Cosmeer, đã tự biến mình thành một bà mẹ hoàn toàn bình thường ở Ohio trước khi bị bắt, cũng hiểu điều đó. Jeremiah không thoát khỏi được sự trớ trêu.

Ông trốn trong bụi rậm. Ông rất rành ngụy trang. Họ sẽ không nhìn thấy ông.

Ông nhớ cái đêm tám năm trước khi hai gã kia chết - những tiếng súng nổ bất thình lình, tiếng xẻng sục vào đất, tiếng rền rĩ từ đáy huyệt. Ông thậm chí đã cân nhắc có báo lại với cảnh sát chuyện đã xảy ra - tất cả.

Nặc danh, dĩ nhiên.

Nhưng cuối cùng ông không muốn mạo hiểm. Không ai, sinh ra để chịu cảnh ngục tù, Jeremiah biết, mặc dù một số sống sót được qua kiếp nạn ấy. Jeremiah không thể. Ông có một người em họ tên là Perry đã ở tám năm trong nhà tù liên bang. Perry bị giam trong một xà lim nhỏ tí hai mươi ba giờ một ngày. Một buổi sáng, Perry cố tự sát bằng cách đập đầu vào tường xi măng.

Jeremiah cũng sẽ như thế.

Vì vậy ông ngậm chặt miệng và không làm gì cả. Cũng đã tám năm.

Nhưng ông nghĩ về cái đêm hôm đó rất nhiều. Ông nghĩ về người phụ nữ trẻ khỏa thân. Ông nghĩ về những gã đang rình rập. Ông nghĩ về trận ẩu đả gần cái xe. Ông nghĩ về tiếng đập kinh người của gỗ lên da thịt trần. Ông nghĩ về người đàn ông bị bỏ lại sắp chết.

Và ông nghĩ về những lời nói dối. Những lời nói dối, hơn tất thảy, ám ảnh ông.
 
Chương 12


Khi tôi quay lại phòng khám, phòng đợi chật cứng những người đang phàn nàn, sốt ruột. Một chiếc tivi bật lại cuộn băng phim The Litte Mermaid, khi hết băng thì tự động tua và chiếu lại từ đầu, màu trong phim đã bị mờ và rạn rạn do phim được chiếu quá nhiều. Sau những giờ ở cùng nhân viên FBI, tâm trí tôi rất đồng cảm với cuốn băng. Tôi cứ nhắc đi nhắc lại những lời của Carlson - anh ta rõ là tay cầm đầu - để cố nghĩ ra xem anh ta thực sự muốn gì, nhưng tất cả những thứ đó chỉ làm cho sự việc càng u ám và kỳ dị hơn. Nó cũng khiến đầu tôi đau như búa bổ.

“Này, bác sĩ.”

Tyrese Barton bất ngờ xuất hiện. Anh mặc một cái quần rộng lùng thùng cạp trễ và cái trông giống áo jacket quá cỡ hay có ở trường đại học, tất cả đều được tạo ra bởi một nhà thiết kế nào đó tôi chưa từng nghe tên nhưng chẳng mấy chốc sẽ được biết đến.

“Chào, Tyrese,” tôi nói.

Tyrese bắt tay tôi kiểu rất rắc rối, hơi giống một cuộc trình diễn nhảy múa anh dẫn đầu còn tôi theo sau. Anh và Latisha có một đứa con trai sáu tuổi đặt tên là TJ. TJ bị mắc chứng bệnh máu khó đông. Thằng bé cũng bị mù. Tôi gặp nó khi thằng bé còn ẵm ngửa này được đưa khẩn cấp vào bệnh viện còn Tyrese mấy giây sau thì bị bắt. Tyrese cả quyết tôi cứu mạng con trai anh vào ngày hôm đó. Nói thế hơi quá.

Nhưng có lẽ tôi thực sự đã cứu Tyrese.

Anh nghĩ chuyện đó khiến chúng tôi trở thành bạn bè - như kiểu anh là một con sư tử và tôi là một con chuột nào đó đã nhổ cái gai ra khỏi vuốt của anh. Anh sai.

Tyrese và Latisha không kết hôn, nhưng anh là một trong số những người cha hiếm hoi tôi gặp ở chỗ này. Bắt tay tôi xong, anh nhét cho tôi hai tờ một trăm dollar như thể tôi là một tay quản lý nhà hang ở Le Cirque.

Anh nhìn tôi bằng ánh mắt tin cậy. “Anh chăm sóc tốt cậu bé của tôi từ giờ nhé.”

“Ừ.”

“Anh là đỉnh của đỉnh, bác sĩ.” Anh đưa cho tôi tấm danh thiếp không tên, không địa chỉ, không chức vụ nghề nghiệp. Chỉ một số điện thoại di động. “Cần bất cứ thứ gì, gọi.”

“Tôi sẽ luôn nhớ,” tôi nói.

Vẫn ánh mắt ấy. “Bất cứ thứ gì, bác sĩ.”

“Ừ.”

Tôi nhét tiền vào túi. Chúng tôi đã làm như thế này trong suốt sáu năm qua. Tôi biết rất nhiều những người buôn ma túy từ khi làm việc ở đây; tôi không biết ai còn sống sót được qua sáu năm.

Dĩ nhiên tôi không giữ số tiền. Tôi đưa Linda quyên cho quỹ từ thiện của chị. Có thể không hợp pháp, tôi biết, nhưng tôi nghĩ, tiền vào quỹ từ thiện hơn là một kẻ buôn ma túy. Tôi không biết Tyrese có bao nhiêu tiền. Tuy nhiên, anh luôn có xe hơi mới - anh chuộng những chiếc BMW có cửa trên gắn kính màu - và quần áo của thằng nhóc nhà anh thì đắt tiền hơn bất cứ thứ gì trú ngụ trong tủ quần áo của tôi. Nhưng, hỡi ôi, mẹ thằng bé được Trợ cấp Y tế bao trọn, vì vậy những lần đến khám là được miễn phí.

Phát điên lên được, tôi biết.

Điện thoại di động của Tyrese đổ nhạc chuông hiphop gì đó.

“Nghe cuộc gọi này đã, bác sĩ ạ. Chuyện làm ăn.”

“Ừ,” tôi lại nói.

Thỉnh thoảng tôi cũng thực sự phát điên. Ai lại không chứ? Nhưng khi tâm trạng rối rắm qua rồi, còn lại những đứa trẻ. Chúng đau. Tôi khẳng định tất cả bọn trẻ đều tuyệt vời. Chúng không thể. Tôi thỉnh thoảng điều trị cho những đứa tôi biết - biết - rốt cuộc sẽ thành người không tốt. Nhưng trẻ em - nếu không phải là gì khác nữa - cần được giúp đỡ. Chúng yếu đuối và không có khả năng tự vệ. Tin tôi đi, tôi đã chứng kiến bao nhiêu sự kiện có thể làm đổi thay quan niệm về con người của bạn.

Vì vậy tôi tập trung tâm huyết cho trẻ em.

Tôi định chỉ làm việc đến trưa, nhưng để bù lại khoảng thời gian FBI chiếm mất, tôi tiếp bệnh nhân đến tận ba giờ. Không có gì là lạ, tôi nghĩ về cuộc thẩm vấn suốt cả ngày. Những bức hình Elizabeth, hình ảnh cơ thể bị biến dạng, bị đánh đập, cứ bất thình lình lóe trong đầu tôi như một thứ ánh sáng nhấp nháy kỳ quặc.

Ai có thể biết về những bức ảnh đó?

Câu trả lời, khi tôi dành thời gian suy nghĩ, trở nên rõ ràng đôi chút. Tôi nhoài người về phía trước và nhấc điện thoại lên. Tôi đã không nhấn số này bao năm rồi, nhưng tôi vẫn nhớ.

“Studio Schayes,” một phụ nữ trả lời.

“Xin chào, Rebecca.”

“Đồ quỷ tha ma bắt. Cậu khỏe không, Beck?”

“Khỏe. Cậu thế nào?”

“Không tồi. Bận như quỷ.”

“Cậu làm việc nhiều quá.”

“Đâu có nữa. Tớ kết hôn năm ngoái rồi.”

“Tớ biết. Xin lỗi tớ không đến được.”

“Vớ vẩn.”

“Ừ. Nhưng dù sao cũng chúc mừng.”

“Vậy có chuyện gì?”

“Tớ cần hỏi cậu về cái này,” tôi nói.

“Ừ.”

“Về vụ tai nạn ôtô.”

Tôi nghe thấy một tiếng vang nho nhỏ. Rồi im lặng.

“Cậu có nhớ vụ tai nạn ôtô không? Cái vụ trước khi Elizabeth bị giết ấy?”

Rebecca Schayes, bạn thân nhất của vợ tôi, không trả lời.

Tôi hắng giọng. “Ai lái xe?”

“Cái gì?” Cô không nói vào điện thoại. “Được rồi, đợi đã.” Rồi quay lại với tôi: “Nghe này, Beck, tớ có chút chuyện ở đây. Lát nữa tớ gọi lại cho cậu được không?”

“Rebecca...”

Rồi điện thoại ngắt.

Đây là sự thật về thảm kịch: nó tốt cho tâm hồn.

Sự thật là, tôi trở thành người tốt hơn nhờ những cái chết. Nếu trong cái rủi có cái may, phải thừa nhận cái may này hơi nhỏ bé. Nhưng có may. Điều đó không có nghĩa là nó đáng vậy hay một cuộc đổi chác công bằng hoặc đại loại thế, nhưng tôi biết tôi là người tốt hơn so với trước kia. Tôi nhạy cảm hơn với những thứ biết là quan trọng. Tôi thấm thía hơn nỗi đau của con người.

Có một thời - bây giờ nghe thì buồn cười - tôi rất hay lo nghĩ không biết mình là thành viên câu lạc bộ nào, mình lái loại xe nào, mình dán lên tường tấm bằng đại học nào - tất cả những trò dớ dẩn địa vị xã hội đó. Tôi muốn trở thành một bác sĩ phẫu thuật vì nó khiến thiên hạ ngây ngất thán phục. Tôi muốn gây ấn tượng với những kẻ được gọi là bạn bè. Tôi muốn trở thành một nhân vật tầm cỡ.

Như tôi nói đấy, buồn cười.

Một số có thể vặn lại rằng sự tiến bộ của bản thân tôi đơn giản chỉ là vấn đề trưởng thành. Một phần nào đó, đúng thế. Và phần lớn những đổi thay là nhờ thực tế tôi giờ đây là chính mình. Elizabeth và tôi là một đôi, một thực thể đơn nhất. Nàng tốt đến nỗi tôi có thể không tốt mấy cũng được, như thể tính tốt của nàng nâng cả hai chúng tôi lên, và hai chúng tôi tốt ngang nhau, hài hòa.

Hơn nữa, cái chết là một người thầy vĩ đại. Nó chỉ quá khắc nghiệt thôi.

Tôi ước mình có thể nói với bạn, qua thảm kịch đó tôi đã khám phá được một thứ chân lý tuyệt đối đến mức có thể làm đổi đời những ai chưa từng nhận ra, và tôi có thể truyền lại cho bạn. Nhưng tôi đã không tìm được cách nói. Những lời sáo rỗng được tôi lôi ra áp dụng - con người quan trọng cuộc sống quý giá, xem trọng vật chất được đánh giá cao quá mức, những thứ nhỏ nhặt tầm thường có ý nghĩa quan trọng, sống trong khoảnh khắc hiện tại - và tôi nhắc đi nhắc lại những thứ đó với bạn đến nỗi phát ngán lên được. Bạn lắng nghe, nhưng bạn sẽ không tiếp thu. Thảm kịch làm hằn nó vào trong đầu bạn. Thảm kịch khắc sâu nó lên tâm hồn bạn. Bạn có thể không hạnh phúc hơn. Nhưng bạn sẽ tốt hơn.

Điều khiến tất cả những chuyện này càng mỉa mai hơn là tôi vẫn luôn ước giá như Elizabeth có thể nhìn thấy tôi bây giờ. Mặc cho rất muốn, tôi không tin người chết dõi theo chúng ta hay bất cứ kiểu tưởng tượng nào tương tự nhằm an ủi mà chúng ta tự thuyết phục mình tin vào. Tôi tin những người chết đã ra đi vĩnh viễn. Nhưng tôi không thể dừng được ý nghĩ: Có lẽ, giờ đây, tôi xứng đáng được có nàng.

Một người sùng đạo hơn có thể tự hỏi liệu đó có phải lý do nàng quay trở về.

Rebecca Schayes là một nhiếp ảnh gia tự do thành công lẫy lừng. Tác phẩm của cô xuất hiện trên hết thảy các tạp chí nổi tiếng quen thuộc, tuy nhiên khá lập dị, cô chuyên chụp đàn ông. Các vận động viên thể thao chuyên nghiệp đồng ý xuất hiện trên trang bìa, chẳng hạn, GQ thường đề nghị cô bấm máy. Rebecca thích đùa sở trường của cô ở cơ thể đàn ông là nhờ “cả đời nghiên cứu cao độ”.

Tôi tìm thấy studio của cô trên Phố 23 Tây, cách Ga Penn không xa lắm. Tòa nhà dạng kho chứa hàng xấu xí gớm ghiếc bốc mùi hôi thối từ ngựa và những cỗ xe độc mã của Central Park trú ngụ ở tầng trệt. Tôi bỏ không đi thang máy chuyên để chở hàng hóa mà lên thang bộ.

Rebecca đang vội vã đi ra hành lang. Theo sát cô, một trợ lý gầy gò mặc đồ đen với đôi cánh tay mảnh khảnh và bộ râu lơ thơ kéo lê hai cái vali bằng nhôm. Tóc Rebecca vẫn rối, như kiểu xù lên giận dữ và lòa xòa tùy ý. Hai mắt xanh, cách nhau một quãng rộng, và nếu có gì đã thay đổi ở cô trong tám năm qua, tôi không hề nhận ra.

Cô gần như không bước chậm lại khi nhìn thấy tôi. “Không phải lúc, Beck.”

“Hệ trọng,” tôi nói.

“Tớ phải đi chụp. Nói sau được không?”

“Không.”

Cô dừng lại, thì thầm gì đó với tay trợ lý vận đồ đen cáu bẳn kia, rồi nói, “Được rồi, theo tớ.”

Studio của cô có trần cao và tường xi măng sơn trắng. Đầy những ô có đèn, màn chắn sáng màu đen và ổ cắm điện có dây nối dài ngoằn ngoèo khắp mọi chỗ. Rebecca nghịch nghịch cái hộp đựng phim máy ảnh vờ bận rộn.

“Kể cho tớ về vụ tai nạn xe ôtô đó,” tôi nói.

“Tớ không hiểu chuyện này, Beck.” Cô mở cái hộp nhỏ, đặt xuống, đóng nắp hộp lại, rồi lại mở ra. “Chúng ta hầu như không nói chuyện trong, bao nhiêu nhỉ, tám năm? Bất thình lình cậu lại ám ảnh về một vụ tai nạn xe hơi từ ngày xưa?”

Tôi khoanh tay lại và chờ đợi.

“Tại sao, Beck? Cuối cùng là lần này. Tại sao cậu lại muốn biết?”

“Kể cho tớ.”

Cô vẫn ngoảnh đi. Mái tóc rối xòa phủ đến nửa mặt cô, nhưng cô không buồn vuốt ra sau. “Tớ nhớ cô ấy,” cô nói. “Và tớ cũng nhớ cậu.”

Tôi không đáp lại.

“Tớ đã gọi,” cô nói.

“Tớ biết.”

“Tớ cố giữ liên lạc. Tớ muốn ở bên.”

“Tớ xin lỗi,” tôi nói. Và tôi cảm thấy có lỗi thực. Rebecca đã là bạn thân nhất của Elizabeth. Họ ở cùng nhau trong một căn hộ gần Washington Square Park trước khi chúng tôi kết hôn. Tôi lẽ ra phải trả lời điện thoại của cô hay mời cô lại nhà hay cố gắng chút ít. Nhưng không.

Nỗi đau có thể ích kỷ đến quá quắt.

“Elizabeth nói với tớ, hai cậu bị một tai nạn xe hơi nhỏ,” tôi nói tiếp. “Đó là lỗi của cô ấy, cô ấy bảo thế. Cô ấy không nhìn đường. Thật thế không?”

“Chuyện đó bây giờ thì thay đổi được gì?”

“Rất nhiều thứ.”

“Những gì?”

“Cậu sợ cái gì, Rebecca?”

Bây giờ tới phiên cô im lặng.

“Có tai nạn hay không?”

Vai cô sụm xuống như thể thứ gì đó bên trong đã bị đứt gãy. Cô hít sâu và cúi mặt xuống. “Tớ không biết.”

“Ý cậu là sao, cậu không biết?”

“Cô ấy cũng bảo với tớ là tai nạn ôtô.”

“Nhưng cậu không có mặt ở đó ư?”

“Không. Tớ đi vắng, Beck ạ. Một đêm tớ về nhà, và Elizabeth đã có ở đó. Cô ấy bị bầm tím. Tớ hỏi chuyện gì đã xảy ra. Cô ấy bảo với tớ bị tai nạn ôtô và nếu có ai hỏi, thì nói chúng tớ đã ở cùng nhau trên xe ôtô của tớ.”

“Nếu có ai hỏi?”

Rebecca cuối cùng ngước lên. “Tớ nghĩ ý cô ấy là cậu, Beck.”

Tôi cố gắng tiêu hóa chuyện này. “Vậy chuyện gì thực sự đã xảy ra?”

“Cô ấy không nói.”

“Cậu có đưa cô ấy tới gặp bác sĩ không?”

“Cô ấy không cho tớ làm thế.” Rebecca nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lùng. “Tớ vẫn không hiểu. Tại sao bây giờ cậu lại hỏi tớ chuyện này?”

Đừng nói một ai.

“Tớ chỉ cố tìm hiểu kỹ hơn.”

Cô gật đầu, nhưng cô không tin tôi. Không ai trong hai chúng tôi có khả năng nói dối điêu luyện.

“Cậu có chụp cái ảnh nào cho cô ấy không?” tôi hỏi.

“Ảnh?”

“Những vết thương của cô ấy. Sau vụ tai nạn.”

“Chúa ơi, không. Tại sao tớ lại làm thế?”

Một câu hỏi hay khủng khiếp. Tôi ngồi nghĩ về chuyện đó. Tôi không biết trong bao lâu.

“Beck?”

“Ừ.”

“Trông cậu tệ kinh.”

“Cậu thì không,” tôi nói.

“Tớ đang yêu.”

“Tình yêu hợp với cậu.”

“Cảm ơn.”

“Anh ấy có tốt không?”

“Đỉnh của các loại đỉnh.”

“Có lẽ anh ấy xứng với cậu.”

“Có lẽ.” Cô ngoài người tới và hôn lên má tôi. Cảm giác rất dễ chịu, thoải mái. “Có chuyện gì xảy ra à?”

Lần này tôi chọn sự thật. “Tớ không biết.”
 
Chương 13


Shauna và Hester Crimstein ngồi trong văn phòng luật hào nhoáng ở khu gần trung tâm. Hester nói chuyện điện thoại xong và đặt lại ống nghe lên giá điện thoại.

“Chẳng ai chịu nói gì nhiều,” Hester nói.

“Nhưng họ không bắt giam cậu ấy?”

“Không. Vẫn chưa.”

“Vậy chuyện gì đang xảy ra?” Shauna hỏi.

“Những gì tôi có thể nói, họ nghĩ Beck giết vợ cậu ấy.”

“Thần kinh,” Shauna nói. “Cậu ấy ở trong bệnh viện, gào khóc thống thiết. Thằng KillRoy điên dại kia bây giờ đợi ngày tử hình.”

“Không phải vì tội giết cô ấy,” luật sư đáp lại.

“Sao cơ?”

“Kellerton bị tình nghi giết ít nhất mười tám phụ nữ. Hắn thú nhận mười bốn, nhưng họ chỉ có vừa đủ bằng chứng để truy tố và kết án hắn giết mười hai. Thế là đủ. Ý tôi là, một người cần bao nhiêu cái án tử hình?”

“Nhưng mọi người biết hắn giết Elizabeth.”

“Đính chính: mọi người đã biết.”

“Tôi không hiểu. Làm thế nào họ có thể nghĩ Beck liên quan tới chuyện này?”

“Tôi không biết,” Hester nói. Bà gác chân lên bàn và đặt tay ra sau đầu. “Ít nhất, vẫn chưa. Nhưng chúng ta sẽ lên tinh thần cảnh giác cao độ.”

“Thế nào?”

“Đầu tiên, chúng ta phải giả định FBI theo dõi từng bước đi của cậu ấy. Nghe trộm điện thoại, giám sát, kiểu thế.”

“Vậy?”

“Vậy, ý chị là sao?”

“Cậu ấy vô tội, Hester. Hãy để bọn họ theo dõi.”

Hester ngước lên và lắc đầu. “Đừng ngây thơ.”

“Nói thế nghĩa là thế quái gì?”

“Nghĩa là nếu bọn họ mà quay được cậu ấy đang ăn trứng vào bữa sáng, họ có thể rút ra vài kết luận. Cậu ấy phải cẩn trọng. Nhưng còn có gì đó nữa.”

“Cái gì?”

“FBI sẽ bám Beck.”

“Như thế nào?”

“Biết thế quái nào được, nhưng tin tôi đi, bọn họ sẽ bám. Bọn họ đang có hứng với bạn của chị. Và đã tám năm rồi. Thế có nghĩa là bọn họ tuyệt vọng. FBI tuyệt vọng là cái lũ xấu xa, chà đạp lên mọi quyền được quy định theo hiến pháp.”

Shauna ngồi lại và nghĩ đến những email lạ kỳ “Elizabeth” gửi.

“Sao?” Hester nói.

“Không có gì.”

“Đừng có giấu tôi, Shauna.”

“Ở đây tôi đâu phải thân chủ.”

“Chị nói Beck không kể với tôi tất cả mọi thứ?”

Một ý nghĩ vụt đến với Shauna rằng có thứ gì đó đáng sợ đang ập đến. Cô nghĩ thêm chút nữa, nghiền ngẫm ý nghĩ đó ở vài khía cạnh khác nhau, nâng lên đặt xuống một lúc.

Có vẻ hợp lý, và Shauna hy vọng - không, nguyện cầu - cô sai. Cô đứng lên và vội vã tiến về phía cửa. “Tôi phải đi.”

“Chuyện gì thế?”

“Hỏi thân chủ của bà.”

Đặc vụ Nick Carlson và Tom Stone đặt mình lên đúng chiếc đi văng mà Beck vừa lúc trước bị quá khứ nuốt chửng. Kim Parker, mẹ Elizabeth, ngồi đối diện với họ, tay đặt nghiêm nghị trên đùi. Khuôn mặt bà là một chiếc mặt nạ bằng sáp, lạnh cứng. Hoyt Parker đi tới đi lui.

“Vậy có chuyện gì quan trọng đến nỗi hai người không nói được qua điện thoại?” Hoyt hỏi.

“Chúng tôi muốn hỏi ông một vài câu hỏi,” Carlson nói.

“Về chuyện gì?”

“Con gái ông.”

Cả hai sững người.

“Cụ thể hơn, chúng tôi xin phép hỏi ông về mối quan hệ của cô ấy với chồng, bác sĩ David Beck.”

Hoyt và Kim liếc nhìn nhau. “Tại sao?” Hoyt hỏi.

“Có liên quan đến một vấn đề hiện đang còn ở trong vòng điều tra.”

“Vấn đề gì? Nó chết đã tám năm. Kẻ giết nó bây giờ đang đợi bị tử hình.”

“Xin vui lòng, thanh tra Parker. Chúng ta ở đây cùng một phe.”

Căn phòng tĩnh lặng. Đôi môi Kim Parker mỏng dính và run run. Hoyt nhìn vợ rồi gật đầu với hai đặc vụ.

Carlson nhìn chằm chằm vào Kim. “Bà Parker, bà mô tả mối quan hệ giữa con gái bà và chồng cô ấy như thế nào?”

“Chúng nó rất thân thiết, rất thương yêu nhau.”

“Không có vấn đề gì?”

“Không,” bà nói. “Không có.”

“Bà có có rằng bác sĩ Beck là một người bạo lực không?”

Bà nhìn sửng sốt. “Không, không bao giờ.”

Họ nhìn Hoyt. Hoyt gật đầu tán thành.

“Theo như ông biết, bác sĩ Beck có bao giờ đánh con gái ông bà không?”

“Cái gì cơ?”

Carlson cố gắng nở nụ cười thân thiện. “Xin ông chỉ trả lời câu hỏi.”

“Không bao giờ,” Hoyt nói. “Không ai đánh con gái tôi.”

“Ông chắc chắn?”

Giọng ông kiên quyết. “Rất chắc.”

Carlson nhìn Kim. “Bà Parker?”

“Nó yêu con bé vô cùng.”

“Tôi hiểu điều đó, thưa bà. Nhưng rất nhiều gã đánh vợ tự nhận yêu thương vợ mình.”

“Nó chưa bao giờ đánh con bé.”

Hoyt dừng bước. “Chuyện gì đang diễn ra ở đây?”

Carlson nhìn Stone một lúc. “Tôi muốn cho hai người xem một số bức ảnh, nếu có thể. Chúng sẽ gây bối rối một chút, nhưng tôi nghĩ quan trọng.”

Stone đưa cho Carlson chiếc phong bì nhựa. Carlson mở ra. Từng cái một, anh ta đặt những tấm ảnh Elizabeth bị thâm tím lên chiếc bàn uống cà phê. Anh ta dõi nhìn chờ đợi một phản ứng. Kim Parker, như dự đoán, thốt ra một tiếng kêu nhỏ. Mặt Hoyt Parker dường như xung đột với chính nó, cuối cùng biểu lộ sự trống rỗng xa xăm.

“Anh lấy đâu ra những cái này?” Hoyt nhẹ nhàng hỏi.

“Trước kia ông đã thấy chúng chưa?”

“Chưa bao giờ,” ông nói. Ông nhìn vợ. Bà lắc đầu.

“Nhưng tôi nhớ những vết thâm tím,” Kim Parker nói.

“Khi nào?”

“Tôi không nhớ chính xác. Không lâu trước khi con bé chết. Nhưng tôi nhìn thấy chúng, chúng ít” - bà tìm từ - “hơn.”

“Con gái bà có nói vì sao cô ấy bị thế không?”

“Nó bảo nó bị tai nạn ôtô.”

“Bà Parker, chúng tôi đã kiểm tra công ty bảo hiểm của con gái bà. Cô ấy chưa bao giờ báo lại một vụ tai nạn ôtô nào. Chúng tôi đã kiểm tra hồ sơ chỗ cảnh sát. Không có ai đòi cô ấy phải bồi thường. Không có nhân viên cảnh sát nào từng điền vào một biên bản.”

“Vậy ý hai người là gì?” Hoyt chen vào.

“Đơn giản thế này: Nếu con gái hai người không bị tai nạn ôtô, làm thế nào cô ấy bị những vết thâm tím này?”

“Anh nghĩ chồng nó đánh nó?”

“Đó là giả thuyết mà chúng tôi đang đề ra.”

“Dựa vào cái gì?”

Hai người đàn ông kia ngập ngừng. Sự ngập ngừng nói lên một trong hai điều: không nói trước mặt người phụ nữ này hay không nói trước mặt người không làm việc trong ngành. Hoyt quyết định tiếp chuyện. “Kim, mình có phiền nếu tôi nói chuyện riêng với hai đặc vụ đây một lát được không?”

“Không hề.” Bà đứng dậy trên đôi chân run run và loạng choạng đi về phía cầu thang. “Em sẽ ở trong phòng ngủ.”

Khi bà đi khuất, Hoyt nói, “Được rồi, tôi nghe đây.”

“Chúng tôi không nghĩ bác sĩ Beck chỉ đánh con gái ông,” Carlson nói. “Chúng tôi nghĩ anh ta giết cô ấy.”

Hoyt nhìn Carlson rồi Stone và rồi lại Carlson, như thể chờ đợi điểm gút. Khi không có gì xuất hiện, ông ngồi xuống ghế. “Tốt hơn là anh nên bắt đầu giải thích đi.”
 
Chương 14


Elizabeth còn giấu tôi chuyện gì nữa?

Khi đi xuống Đại lộ 10 về phía bãi đỗ xe, tôi lại cố gắng xua đi hình ảnh từ những tấm ảnh kia, coi chúng đơn thuần chỉ là thứ chụp lại những vết thương tai nạn xe của nàng. Tôi nhớ Elizabeth đã thờ ơ thế nào với toàn bộ sự việc vào lúc đó. Chỉ là một vụ va chạm nhỏ thôi mà, nàng nói. Không có gì nghiêm trọng cả. Khi tôi hỏi chi tiết, nàng một mực gạt đi.

Giờ đây tôi biết nàng đã nói dối tôi.

Tôi có thể nói với bạn Elizabeth chưa bao giờ nói dối tôi, nhưng điều đó có lẽ là, nhờ khám phá gần đây soi rọi, một luận cứ không thuyết phục lắm. Tuy nhiên, đây là lời nói dối đầu tiên mà tôi biết. Tôi đoán cả hai chúng tôi đều có những bí mật của mình.

Khi đến bãi đỗ xe, tôi phát hiện thấy thứ gì đó hơi lạ - hay tôi muốn nói, ai đó hơi lạ. Ở đó, chỗ góc đường, một gã vận áo khoác nâu.

Gã đang nhìn tôi.

Và gã trông quen đến kỳ quặc. Tôi không biết là ai, nhưng vẫn có cảm giác bứt rứt kiểu déjà vu. Tôi đã gặp gã đàn ông này rồi. Thậm chí ngay sáng nay. Ở đâu? Tôi lục lại sự kiện trong buổi sáng và tìm thấy gã trong trí nhớ nhạt nhòa của mình.

Khi tôi lái xe tạt lại bên đường mua cà phê vào lúc tám giờ. Gã đàn ông vận áo khoác nâu kia đã có mặt ở đó. Ở bãi đỗ xe của Starbucks.

Tôi có chắc không?

Không, dĩ nhiên không. Tôi liếc sang chỗ khác và vội đi lại chỗ quầy người phục vụ. Người phục vụ chỗ bãi đỗ xe - bảng tên của anh ta ghi Carlo - đang xem tivi và ăn sandwich. Anh ta vẫn dán mắt vào màn hình tivi nửa phút rồi mới liếc sang tôi. Rồi anh ta chậm chạp phủi phủi những mẩu vụn bánh trên tay xuống, lấy vé của tôi, đóng dấu. Tôi nhanh chóng trả tiền cho anh ta và anh ta đưa tôi chìa khóa xe.

Gã vận áo khoác nâu vẫn ở đó.

Tôi cố không nhìn về phía gã khi bước lại xe mình. Tôi vào xe, nổ máy, và khi đến Đại lộ 10, tôi nhìn vào gương chiếu hậu.

Gã vận áo khoác nâu không mảy may liếc tôi. Tôi vẫn quan sát gã cho đến khi rẽ sang West Side Highway. Gã không nhìn về phía tôi. Hoang tưởng. Tôi chỉ hoang tưởng dở hơi thôi.

Vậy tại sao Elizabeth lại nói dối tôi?

Tôi nghĩ về chuyện đó và chẳng đi đến được kết luận gì.

Vẫn còn ba tiếng nữa mới tới lúc thông điệp Bat Street xuất hiện. Ba tiếng. Trời, tôi cần phải thư giãn đầu óc. Nghĩ ngợi quá nhiều xem thứ gì rồi sẽ xuất hiện sau rốt ở cái mối nối nhờ mạng Internet kia khiến bụng tôi quặn lên dữ dội.

Tôi biết mình phải làm gì. Tôi chỉ đang cố trì hoãn điều không thể tránh được.

Khi tôi về đến nhà, ông đang ngồi ở chiếc ghế quen thuộc, một mình. Tivi tắt. Cô y tá đang phun liên tục tiếng Nga trên điện thoại. Cô ta không làm được việc. Tôi sẽ phải gọi đến chỗ môi giới và yêu cầu thay người.

Một vài mẩu trứng nhỏ còn dính trên khóe miệng ông, vì vậy tôi lấy khăn mùi soa ra và nhẹ nhàng lau đi. Ánh mắt chúng tôi gặp nhau, nhưng mắt ông dán chặt vào thứ gì đó xa xăm đằng sau tôi. Tôi nhìn thấy tất cả chúng tôi ở chỗ khu hồ. Ông đang thực hiện tư thế giảm cân trước-và-sau đặc biệt yêu thích. Ông quay sang một bên, ngồi sụp xuống, ưỡn cái bụng mềm dẻo ra, và hét “Trước!” và rồi hít mạnh một cái, gập người lại và hét “Sau!”. Ông thực hiện cực điệu nghệ. Cha tôi sẽ cười toáng lên. Cha có tiếng cười giòn tan và dễ lây lan nhất. Nó là sự giải phóng hoàn toàn trong cơ thể. Tôi cũng đã từng có tiếng cười đó. Nó đã chết cùng cha. Tôi không bao giờ có thể cười như thế một lần nữa. Dù thế nào, nó có vẻ xúc phạm.

Nghe tiếng tôi, cô y tá vội dập điện thoại và cười toe toét giấu biến nó vào phòng. Tôi không cười đáp lại.

Tôi quan sát cửa tầng hầm. Tôi vẫn đang trì hoãn việc không thể tránh được.

Không chần chừ thêm nữa.

“Ở lại cùng ông,” tôi nói.

Cô y tá cúi đầu chào và ngồi xuống.

Tầng hầm này đã được thiết kế vào thời kỳ mà người ta chưa thiết kế tầng hầm, và giờ rõ là thế. Một tấm thảm lông từng có màu nâu bị thủng lỗ chỗ và biến dạng do ngấm nước. Gạch trắng giả làm từ thứ chất liệu tổng hợp kỳ dị nào đó được gắn lên bức tường trát hắc ín. Một vài viên đã rơi xuống tấm thảm lông; một số khác nữa lung lay, như những cái cột của Acropolis.

Giữa phòng, màu xanh lá cây của cái bàn chơi bóng bàn đã biến thành thứ màu xanh lục đang rất hợp thời. Lưới ngăn bị rách trông giống như những chướng ngại vật sau khi quân đội Pháp càn quét qua. Những cái vợt chơi bị tháo ra thành gỗ vụn.

Một vài thùng các tông đầy những nấm mốc đặt trên cái bàn bóng bàn. Một lô những thứ khác chất đống ở góc phòng. Quần áo cũ ở trong hộp đựng quần áo. Không phải của Elizabeth. Shauna và Linda đã dọn sạch chúng đi hộ tôi. Bị lòng tốt xui khiến, tôi nghĩ thế. Nhưng một số hộp khác đựng vài đồ lặt vặt cũ. Đồ của nàng. Tôi không thể vứt chúng đi, và tôi không thể để người khác giữ chúng. Tôi không rõ vì sao. Một số thứ chúng ta đóng gói lại, nhét vào chỗ trong cùng của tủ, không bao giờ mong thấy lại - nhưng chúng ta không thể buộc mình vứt đi. Như giấc mơ, tôi cho là thế.

Tôi không chắc mình để nó ở đâu, nhưng tôi biết nó ở đó. Tôi bắt đầu lục xem những bức ảnh cũ, một lần nữa ngoảnh mặt đi. Tôi làm việc đó khá tốt, cứ buông cho thời gian trôi qua, những tấm ảnh đó không còn khiến đau đớn nhiều nữa. Khi tôi nhìn thấy Elizabeth và tôi chụp cùng nhau trong một vài ảnh dùng tấm Polaroid màu táo lục, cứ như thể tôi đang nhìn vào những người xa lạ.

Tôi ghét làm việc này.

Tôi thọc sâu hơn vào cái hộp. Đầu ngón tay tôi chạm phải thứ gì đó làm bằng nỉ, và tôi kéo chữ cái thêu trên bộ đồng phục tennis thời cấp ba của nàng lên. Mỉm cười buồn bã, tôi nhớ đến đôi chân rám nắng của nàng và hình ảnh bím tóc nàng tung lên khi nàng chúi người về phía tấm lưới. Trên sân, mặt nàng nghiêm nghị tập trung cao độ. Đó là cách mà Elizabeth hạ được bạn. Nàng sở hữu kha khá những cú vụt sát đất và giao bóng khá ổn, nhưng cái nâng nàng lên trên đám bạn cùng lớp chính là sự tập trung đó.

Tôi cẩn thận đặt chữ cái đó xuống và bắt đầu thọc tay vào lại. Tôi thấy cái mình đang tìm kiếm dưới đáy hộp.

Quyển sổ ghi chép hàng ngày của nàng.

Cảnh sát đã muốn có nó sau vụ bắt cóc. Hay như tôi được kể thế. Rebecca ghé qua căn hộ và giúp họ tìm. Tôi cho rằng họ tìm kiếm đầu mối trong đó - cũng là việc tôi sắp làm - nhưng khi thi thể xuất hiện với chữ K đóng dấu, họ có lẽ đã thôi.

Tôi nghĩ về chuyện đó chút ít - việc làm thế nào mọi thứ gắn một cách hoàn hảo với KillRoy - và một ý nghĩ khác vụt đến trong đầu tôi. Tôi chạy lên cầu thang đến chỗ máy tính và lên mạng. Tôi tìm địa chỉ trang web của Ban An ninh thành phố New York. Có hàng tỉ thứ ở đó, gồm cả tên và số điện thoại tôi cần.

Tôi thoát mạng và gọi đến Nhà tù Briggs.

Đó là nhà tù giam KillRoy.

Khi nghe đoạn giới thiệu qua thu âm sẵn, tôi nhấn số máy lẻ thích hợp và được nối máy. Ba hồi chuông sau, một người đàn ông trả lời, “Phó giám đốc trại Brown nghe.”

Tôi nói với ông ta muốn đến thăm Elroy Kellerton.

“Và ông là?” ông ta hỏi.

“Bác sĩ David Beck. Vợ tôi, Elizabeth Beck, là một trong những nạn nhân của hắn.”

“Tôi hiểu.” Brown ngập ngừng. “Tôi có thể hỏi mục đích chuyến đến thăm của ông?”

“Không.”

Sự yên lặng lại tràn ngập điện thoại.

“Tôi có quyền đến thăm hắn nếu hắn sẵn lòng gặp tôi,” tôi nói.

“Vâng, dĩ nhiên, nhưng đây là một lời yêu cầu cực kỳ bất bình thường.”

“Dù sao tôi vẫn yêu cầu ông điều đó.”

“Thủ tục thông thường là có luật sư của ông đi cùng...”

“Nhưng tôi không phải thế,” tôi cắt ngang. Tôi biết được điều này tại một trang web nói về quyền của nạn nhân - rằng tự tôi có thể yêu cầu. Nếu Kellerton sẵn lòng gặp tôi, tôi được gặp. “Tôi chỉ muốn nói chuyện với Kellerton. Ông có giờ thăm nom vào ngày mai, phải không?”

“Phải, chúng tôi có.”

“Vậy nếu Kellerton đồng ý, ngày mai tôi sẽ đến. Việc đó có vấn đề gì không?”

“Không, thưa ông. Nếu hắn đồng ý, không có vấn đề gì.”

Tôi cảm ơn ông ta rồi gác máy. Tôi đang hành động. Cảm thấy dễ chịu kinh khủng.

Quyển sổ ghi chép hàng ngày nằm trên cái bàn cạnh tôi. Tôi lại đang tránh nó, bởi cũng có thể gây đau đớn như một bức ảnh hay tiếng nói được thu âm, chữ viết tay thậm chí còn tồi tệ hơn, thậm chí còn riêng tư theo lối trực tiếp hơn. Những chữ cái viết hoa nhô cao vút lên của Elizabeth, kiểu viết cứng cáp hai chữ cái t và s bằng cách gạch chéo, quá nhiều nét chân giữa các chữ cái, cái kiểu tất cả đều nghiêng về bên phải...

Tôi mất một giờ để xem nó. Elizabeth rất cặn kẽ. Nàng không viết tắt nhiều quá. Điều khiến tôi ngạc nhiên là tôi hiểu rõ vợ tôi đến mức nào. Mọi thứ đều rõ ràng và không hề có chút bất ngờ nào. Thật ra, chỉ có một cuộc hẹn mà tôi không rõ lắm.

Ba tuần trước khi nàng chết, có một mục chỉ ghi: PF.

Và một số điện thoại không có mã vùng.

Luôn nghĩ nàng đặc biệt chi tiết ở tất cả mọi điểm, tôi thấy mục này hơi đáng bận tâm. Tôi không có tí manh mối cái mã vùng kia có thể là gì. Cuộc điện thoại được gọi vào tám năm trước. Mã vùng đã được phân lại và thay đổi vài lần kể từ khi đó.

Tôi thử số 201 nhưng không gọi được. Tôi thử 973. Một phụ nữ lớn tuổi trả lời. Tôi bảo bà vừa được một suất đặt mua báo New York Post dài hạn miễn phí. Bà nói tên bà. Chữ cái đầu tiên trong họ và tên không trùng. Tôi thử 212, một thành phố. Và đó là nơi tôi bắt trúng.

“Văn phòng luật sư Peter Flannery,” một phụ nữ vừa nói vừa ngáp.

“Xin cho tôi nói chuyện với ông Flannery.”

“Ông ấy ở tòa án.”

Cô ta nói nghe còn chán hơn nhưng không phải không có một nét đặc biệt nào đó. Tôi nghe rất nhiều tiếng ồn phía đầu dây bên kia.

“Tôi muốn có một cuộc hẹn với ông Flannery.”

“Ông hồi đáp lại lời quảng cáo?”

“Quảng cáo?”

“Ông bị hại?”

“Phải,” tôi nói. “Nhưng tôi không thấy quảng cáo gì. Một người bạn giới thiệu luật sư. Đây là một vụ hành nghề y bất cẩn. Tôi đi chữa trị do một cánh tay bị gãy và bây giờ tôi không cử động được cánh tay đó. Tôi bị mất việc. Cơn đau kéo dài mãi mãi.”

Cô ta sắp xếp cho tôi một cuộc hẹn vào chiều hôm sau.

Tôi đặt điện thoại lên giá và cau mày. Elizabeth có thể làm gì với một tay luật sư mạt hạng chuyên xúi bẩy kiện tụng như Flannery?

Tiếng điện thoại làm tôi giật bắn mình. Tôi vồ lấy cái điện thoại khi nó chưa đổ hết hồi chuông đầu tiên.

“Alô,” tôi nói.

Đó là Shauna. “Cậu đang ở đâu?” cô hỏi.

“Nhà.”

“Cậu cần đến đây ngay lập tức,” cô nói.
 
Chương 15


Đặc vụ Carlson nhìn thẳng vào mắt Hoyt Parker. “Như ông biết, chúng tôi vừa phát hiện ra hai thi thể ở gần khu Hồ Charmaine.”

Hoyt gật đầu.

Một máy điện thoại di động kêu. Stone xoay xở kéo người mình lên và nói “Xin lỗi” rồi ì ạch lết vào bếp. Hoyt quay về phía Carlson và đợi.

“Chúng tôi biết bản báo cáo chính thức về cái chết của con gái ông,” Carlson nói. “Cô ấy và chồng, David Beck, đến chỗ cái hồ để thực hiện một nghi thức hàng năm. Họ bơi trong bóng tối. KillRoy nằm đợi sẵn. Hắn tấn công bác sĩ Beck và bắt cóc con gái ông. Hết.”

“Và anh không nghĩ đó chính là chuyện đã xảy ra?”

“Không, Hoyt - tôi gọi ông là Hoyt được không?”

Hoyt gật đầu.

“Không, Hoyt, chúng tôi không nghĩ thế.”

“Vậy các anh thấy thế nào?”

“Tôi nghĩ David Beck giết con gái ông và đổ tội cho một tên giết người hàng loạt.”

Hoyt, một người kỳ cựu lão luyện của Sở cảnh sát thành phố New York trong hai mươi tám năm qua, biết làm thế nào để giữ một khuôn mặt bình tĩnh, nhưng ông vẫn ngả người ra sau như thể những lời kia đã thọc mạnh vào cằm mình. “Nói cụ thể hơn đi.”

“Được rồi, hãy bắt đầu từ đoạn mở đầu. Beck đưa con gái ông đến chỗ một cái hồ hẻo lánh, phải không?”

“Phải.”

“Ông đã đến đó chưa?”

“Rất nhiều lần.”

“Sao?”

“Tất cả bọn tôi là bạn bè. Kim và tôi rất thân thiết với cha mẹ David. Chúng tôi từng đến đó suốt.”

“Vậy ông biết nó hẻo lánh đến thế nào rồi đấy.”

“Phải.”

“Đường đất, một dấu hiệu chỉ có thể nhìn thấy khi ông biết mình cố tìm kiếm nó. Bị che khuất hết mức. Không có dấu hiệu nào của cuộc sống.”

“Ý của anh là gì?”

“Làm thế quái nào mà KillRoy dừng lại chỗ con đường đó.”

Hoyt giơ hai tay lên không trung. “Làm thế quái nào một người đụng phải một tên giết người hàng loạt?”

“Đúng vậy, được rồi, nhưng những vụ khác đều có logic. Kellerton bắt cóc ai đó trên đường phố, hắn dùng vũ lực bắt tài xế lái xe đi đâu đó rồi biến người đó thành nạn nhân, thậm chí đột nhập vào nhà. Nhưng hãy nghĩ thử xem. Hắn thấy con đường đất và tự dưng bằng cách nào đó quyết định tìm kiếm một nạn nhân ở đấy? Ý tôi không phải là không thể, nhưng rất khó xảy ra.”

Hoyt nói, “Tiếp đi.”

“Ông có công nhận có rất nhiều chỗ hổng về mặt logic trong một giả thuyết đã được công nhận?”

“Mọi trường hợp đều có lỗ hổng về mặt logic.”

“Đúng vậy, được rồi, nhưng hãy để tôi thử đề ra một giả thuyết khác. Hãy giả sử bác sĩ Beck muốn giết con gái ông.”

“Tại sao?”

“Vì một thứ, hai trăm nghìn dollar tiền bảo hiểm nhân thọ.”

“Nó không cần tiền.”

“Ai cũng cần tiền, Hoyt. Ông biết điều đó.”

“Tôi không tin.”

“Nghe này. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục đào xới ở đây. Chúng tôi chưa biết được tất thảy những động cơ. Nhưng hãy để tôi nói ra giả thuyết của chúng tôi, được chứ?”

Hoyt nhún vai ngụ ý tùy anh ta.

“Chúng tôi có bằng chứng ở đây bác sĩ Beck đánh vợ.”

“Bằng chứng nào? Anh có vài bức ảnh. Con bé nói với mẹ đẻ nó bị tai nạn ôtô.”

“Thôi nào, Hoyt.” Carlson đưa tay chỉ qua những tấm hình. “Nhìn nét mặt con gái ông đi. Vẻ mặt đó có giống của một người phụ nữ bị tai nạn ôtô không?”

Không, Hoyt nghĩ, không giống. “Anh tìm thấy những bức ảnh này ở đâu?”

“Tôi sẽ nói đến chuyện đó ngay sau đây, nhưng hãy quay lại giả thuyết của tôi, được chứ? Hãy giả định trong một khoảnh khắc bác sĩ Beck đánh con gái ông và rồi ý nghĩ được thừa kế nảy ra trong óc anh ta.”

“Có rất nhiều giả định.”

“Đúng vậy, nhưng hãy nghe tôi. Hãy nghĩ về cái giả thuyết đã được chấp nhận và tất cả những lỗ hổng trong đó. Giờ thì so sánh nó với cái này: bác sĩ Beck đưa con gái ông tới một địa điểm hẻo lánh nơi anh ta biết sẽ không có nhân chứng. Anh ta thuê hai gã côn đồ vồ lấy cô ấy. Anh ta biết về KillRoy. Báo chí đăng đầy. Hơn nữa, em trai ông phụ trách vụ đó. Ông ấy có bao giờ thảo luận về hắn với ông hay Beck?”

Hoyt ngồi yên một lát. “Tiếp đi.”

“Hai gã côn đồ được thuê kia bắt cóc và giết con gái ông. Một cách tự nhiên, đối tượng tình nghi đầu tiên sẽ là người chồng - luôn vậy trong một vụ như thế, đúng không? Nhưng hai tên côn đồ kia đóng lên má cô ấy một chữ cái K. Điều tiếp theo chúng ta biết, tất cả bị đổ lên đầu KillRoy.”

“Nhưng Beck đã bị tấn công. Vết thương ở đầu nó là thật.”

“Phải, nhưng cả hai chúng ta đều biết có gì đó không hợp lý khi anh ta nằm ngoài chuyện này. Làm thế nào Beck giải thích được việc thoát khỏi vụ bắt cóc mà hoàn toàn không bị làm sao? Xin chào, biết gì không, ai đó bắt cóc vợ tôi, nhưng tôi thì ổn? Không tài nào hợp lý nổi. Bị choảng vào đầu giúp câu chuyện anh ta kể được tin tưởng.”

“Nó bị một cú chí mạng.”

“Anh ta phải đối phó với bọn côn đồ, Hoyt. Bọn nó có thể tính toán nhầm. Và vết thương của anh ta thì sao nhỉ? Anh ta kể lại câu chuyện kỳ quặc nào đó rằng bò một cách phi thường lên khỏi mặt nước và gọi 911. Tôi đã đưa cho vài bác sĩ bệnh án cũ của Beck. Họ khẳng định những gì anh ta làm mâu thuẫn với logic về mặt y học. Chuyện đó hầu như là không thể, căn cứ vào những vết thương của anh ta.”

Hoyt ngẫm nghĩ về chuyện đó. Chính ông cũng thường băn khoăn tự hỏi. Làm thế nào mà Beck còn sống và gọi giúp đỡ? “Gì nữa?” Hoyt nói.

“Có bằng chứng rất đáng tin cậy hai tên côn đồ, không phải KillRoy, đã tấn công Beck.”

“Bằng chứng nào?”

“Chôn cùng với hai thi thể, chúng tôi tìm thấy một cây gậy bóng chày có dính máu. Kiểm tra ADN toàn diện để khẳng định có liên quan cần mất một thời gian, nhưng kết quả sơ bộ đưa ra giả thuyết rất chắc chắn máu đó là của Beck.”

Đặc vụ Stone lại nặng nề lê vào phòng và khó nhọc ngồi xuống. Hoyt một lần nữa lại nói, “Tiếp đi.”

“Phần còn lại khá rõ ràng. Hai tên côn đồ làm mọi thứ. Chúng giết con gái ông và đổ cho KillRoy. Rồi chúng quay lại để lấy nốt tiền thanh toán - hoặc có thể chúng quyết định moi thêm tiền của bác sĩ Beck. Tôi không biết. Dù chuyện gì, Beck cũng phải giũ sạch bọn kia. Anh ta sắp xếp một cuộc hẹn trong khu rừng hẻo lánh gần hồ Charmaine. Hai tên côn đồ có thể nghĩ chúng đang đối mặt với một tay bác sĩ yếu ớt hoặc có thể anh ta bắt được chúng lúc chúng sơ hở. Cách nào cũng thế, Beck bắn chúng rồi chôn thi thể cùng với cây gậy bóng chày và bất cứ bằng chứng nào sau này có thể ám anh ta. Một tội ác hoàn hảo, cho đến bây giờ. Không có gì kết nối được anh ta với kẻ sát nhân. Hãy thử nghĩ xem. Nếu chúng ta không gặp may mắn kinh dị, những thi thể kia sẽ không bao giờ được tìm thấy.”

Hoyt lắc đầu. “Đúng là giả thuyết.”

“Còn nữa.”

“Thế nào?”

Carlson nhìn Stone. Stone chỉ vào điện thoại di động. “Tôi vừa nhận một cú điện thoại kỳ lạ gọi từ Nhà tù Briggs,” Stone nói. “Có vẻ như con rể ông gọi đến đó ngày hôm nay và yêu cầu gặp KillRoy.”

Hoyt bây giờ trông sửng sốt rõ ràng. “Vì cái quái gì nó lại làm thế?”

“Ông nói chúng tôi nghe,” Stone đáp lại. “Nhưng hãy nhớ Beck biết chúng tôi đang nghi ngờ anh ta. Bất thình lình, anh ta ao ước dữ dội đến gặp kẻ anh ta sắp đặt là kẻ giết con gái ông.”

“Trùng hợp kinh khủng,” Carlson nói thêm.

“Anh nghĩ nó đang cố che đậy dấu vết?”

“Ông có giải thích nào hợp lý hơn?”

Hoyt ngồi lại và cố dàn xếp tất cả những thứ này ổn thỏa trong đầu. “Anh bỏ sót cái này.”

“Cái gì?”

Ông chỉ những bức ảnh trên bàn. “Ai đưa cho anh cái này?”

“Bằng cách nào đó,” Carlson nói, “tôi nghĩ con gái ông đưa.”

Mặt Hoyt trông hốc hác.

“Cụ thể hơn, người mang bí danh của cô ấy đưa. Một Sarah Goodhart. Tên đệm của con gái ông và tên con đường này.”

“Tôi không hiểu.”

“Tại hiện trường vụ án,” Carlson nói. “Một trong hai tên côn đồ - Melvin Bartola - có một chiếc chìa khóa nhỏ trong giày hắn.” Carlson giơ chìa khóa lên. Hoyt cầm lấy từ anh ta, trân trối nhìn chiếc chìa khóa như thể nó nắm giữ câu trả lời huyền bí nào đó. “Nhìn thấy chữ UCB rồi chứ?”

Hoyt gật đầu.

“Cái này viết tắt của United Central Bank. Cuối cùng chúng tôi truy nguyên chiếc chìa khóa này đến được chi nhánh của nó ở số 1772 Broadway tại thành phố này. Chiếc chìa khóa mở hộp 174, được một người tên là Sarah Goodhart đăng ký. Chúng tôi đã ra lệnh lục soát cái hộp.”

Hoyt ngước lên. “Những tấm ảnh này ở trong đó?”

Carlson và Stone liếc nhìn nhau. Họ vốn đã quyết định sẽ không nói cho Hoyt tất cả mọi điều về cái hộp - không cho đến khi tất cả các cuộc điều tra bắt đầu lại và họ biết chắc chắn - nhưng cả hai giờ đây lại cùng gật đầu.

“Hãy thử nghĩ xem, Hoyt. Con gái ông cất giữ những tấm ảnh này trong một cái két an toàn ở ngân hàng. Lý do quá rõ ràng. Thêm nữa không? Chúng tôi đã thẩm vấn bác sĩ Beck. Anh ta chưa bao giờ nhìn thấy chúng. Tại sao con gái ông lại giấu anh ta những bức ảnh này?”

“Anh đã nói chuyện với Beck?”

“Phải.”

“Nó còn nói gì nữa?”

“Không nhiều lắm vì anh ta yêu cầu một luật sư.” Carlson chờ một lời phản công. Rồi anh ta nhoài người tới. “Anh ta không gọi bất kỳ một luật sư nào, anh ta gọi Hester Crimstein. Điều đó nghe có vẻ gì giống với hành động của một người vô tội với ông không?”

Hoyt đang ghì chặt tay vào thành ghế, cố trấn tĩnh. “Anh không thể chứng minh được bất cứ thứ gì.”

“Vẫn chưa. Nhưng chúng tôi biết. Như thế là nửa cuộc chiến rồi.”

“Vậy anh định sẽ làm gì?”

“Chỉ duy nhất một điều chúng tôi có thể làm.” Carlson mỉm cười với ông. “Dùng sức ép cho đến khi thứ gì đó gãy.”

Larry Gandle xem xét diễn biến trong ngày qua và lẩm bẩm một mình, “Không tốt.”

Một, FBI đưa Beck đi thẩm vấn hắn.

Hai, Beck gọi một chuyên gia chụp ảnh tên Rebecca Schayes. Hắn hỏi cô về một vụ tai nạn ôtô ngày xưa có liên quan đến vợ hắn. Rồi hắn ghé đến studio của cô.

Một chuyên gia chụp ảnh, đáng ngạc nhiên.

Ba, Beck gọi đến Nhà tù Briggs và nói hắn muốn gặp Elroy Kellerton.

Bốn, Beck gọi đến văn phòng của Peter Flannery.

Tất cả những việc này thật khó hiểu. Không có việc nào tốt lành cả.

Eric Wu gác máy điện thoại và nói, “Mày sẽ không thích cái này đâu.”

“Cái gì?”

“Nguồn tin của chúng ta với FBI cho biết họ nghi ngờ Beck giết vợ hắn ta.”

Gandle suýt ngã bổ chửng. “Giải thích đi.”

“Đó là tất cả những gì nguồn tin biết. Bằng cách nào đó, họ nối kết hai xác chết ở gần hồ lại với Beck.”

Thực sự rất khó hiểu.

“Để tao xem lại những cái email kia,” Gandle nói.

Eric Wu đưa chúng cho gã. Khi Gandle nghĩ xem ai có thể gửi chúng, cảm giác từ đáy bụng gã bắt đầu cào xé và mạnh dần lên. Gã cố ghép các mảnh lại với nhau. Gã luôn luôn tự hỏi làm thế nào Beck sống sót được trong đêm đó. Bây giờ gã tự hỏi thêm một điều khác.

Có ai khác nữa còn sống sót sau đêm đó?

“Mấy giờ rồi?” Gandle hỏi.

“Mười tám giờ ba mươi.”

“Beck vẫn chưa mở cái địa chỉ Bat-gì đó?”

“Bat Street. Chưa.”

“Có thêm gì về Rebecca Schayes không?”

“Vẫn chỉ những cái đã biết. Bạn thân của Elizabeth Parker. Chúng ở cùng nhau trong một căn hộ trước khi Parker lấy Beck. Tao kiểm tra số liệu ghi chép các số điện thoại đã gọi đi. Beck đã không gọi cho cô ta hàng bao năm nay rồi.”

“Vậy tại sao bây giờ hắn lại liên lạc với cô ta?”

Wu nhún vai. “Cô nàng Schayes hẳn phải biết gì đó.”

Griffin Scope đã nói rất rõ ràng. Phát hiện được cái gì có thể, rồi chôn vùi nó.

Và sử dụng Wu.

“Chúng ta cần nói chuyện với cô ta,” Gandle nói.
 
Chương 16


Shauna gặp tôi tại tầng trệt tòa nhà cao tầng số 462 Park Avenue, Manhattan.
“Đi nào,” cô bập luôn. “Tớ có cái này muốn cho cậu xem trên kia.”
Tôi nhìn đồng hồ. Gần hai tiếng nữa lá thư Bat Street mới xuất hiện. Chúng tôi vào thang máy. Shauna nhấn nút lên tầng hai mươi ba. Đèn báo chạy lên và thiết bị dành cho người mù kêu bíp.
“Hester khiến cho tớ nghĩ ngợi,” Shauna nói.
“Về cái gì?”
“Bà ấy nói bọn FBI rất tuyệt vọng. Rằng bọn chúng sẽ làm bất cứ thứ gì để tóm được cậu.”
“Thế thì sao?”
Thang máy kêu ầm ĩ khi đến nơi.
“Đợi chút, cậu sẽ thấy.”
Cửa thang máy mở ra một tầng gồm một phòng lớn chia làm tổ hợp các phòng nhỏ. Kiểu ở thành phố hiện nay. Xé toạc trần ra và nhìn từ trên xuống, bạn sẽ cực kỳ vất vả để chỉ ra được sự khác biệt giữa tầng này và một mê cung chuột.
Shauna bước đi giữa vô số những bức ngăn phòng có phủ vải. Tôi bám gót theo sau. Được nửa đường, cô rẽ trái, rồi phải và rồi lại trái.
“Có lẽ tớ nên rải vụn bánh mỳ,” tôi nói.
Giọng cô nhàn nhạt. “Ý kiến được đấy.”
“Cảm ơn, tớ ở đây suốt tuần được.”
Cô không cười.
“Mà chỗ này là chỗ nào thế?”
“Một công ty tên là DigiCom. Đại diện của tớ làm việc với họ đôi lần.”
“Làm cái gì?”
“Cậu sẽ thấy.”
Chúng tôi rẽ ngoặt lần cuối cùng vào một căn phòng nhỏ, kín bừa bộn đồ đạc, nơi cư ngụ của một anh chàng có cái đầu dài và những ngón tay thon thả của nghệ sĩ chơi dương cầm.
“Đây là Farrell Lynch. Farrell, đây là David Beck.”
Tôi bắt bàn tay thon thả đó rất nhanh. Farrell nói, “Xin chào.”
Tôi gật đầu.
“Được rồi,” Shauna nói. “Kích hoạt đi.”
Farrell Lynch quay ghế để anh ta đối diện với máy tính. Shauna và tôi nhìn qua vai anh. Anh ta bắt đầu gõ bằng những ngón tay thon thả kia.
“Đã kích hoạt,” anh ta nói.
“Cho chạy đi.”
Anh ta nhấn phím quay lại. Màn hình tối đen và rồi Humphrey Bogart xuất hiện. Anh đội một cái mũ phớt mềm và mạc áo choàng. Tôi nhận ra cảnh này ngay lập tức. Sương mù, máy bay ở phía sau. Trường đoạn cuối trong Casablanca.
Tôi nhìn Shauna.
“Đợi,” cô nói.
Máy quay hướng về phía Bogie. Anh đang nói với Ingrid Bergman rằng cô sẽ lên máy bay kia với Laszlo và rằng những vấn đề rắc rối của ba con người nhỏ bé chẳng đáng là cái gì cả trong thế giới này. Và rồi, khi ống kính máy quay hướng lại về Ingrid Bergman...
... đó không phải là Ingrid Bergman.
Tôi chớp mắt. Ở đó, bên dưới cái mũ nổi tiếng kia, đang nhìn chằm chằm vào Bogie và ngập trong ánh sáng màu xám, là Shauna.
“Em không thể đi với anh, Rick,” Shauna trên máy tính nói đầy vẻ bi kịch, “vì em yêu Ava Gardner đến điên dại.”
Tôi quay sang Shauna. Mắt tôi đầy thắc mắc. Cô gật đầu phải. Tôi nói thêm.
“Cậu nghĩ...” tôi lắp bắp. “Cậu nghĩ tớ bị thủ thuật nhiếp ảnh lừa?”
Farrell nhân đó nói. “Ảnh kỹ thuật số,” anh ta chỉnh lại. “Thao tác đơn giản hơn rất nhiều.” Anh ta quay ghế về phía tôi. “Thấy rồi đấy, những hình ảnh trên máy tính không phải là phim. Chúng thật ra chỉ là những điểm ảnh trên các file. Không khác việc tạo văn bản là mấy. Anh biết để thay đổi một văn bản đang được gõ dễ như thế nào rồi chứ? Thay đổi nội dung, hay font chữ, hay khoảng cách?”
Tôi gật đầu.
“Vậy thì, một người chỉ cần có kiến thức sơ đẳng về xử lý ảnh kỹ thuật số cũng có thể rất dễ dàng tạo tác một chuyển động hàng loạt của các hình ảnh trên máy tính. Chúng không phải là hình ảnh, cũng không phải là phim hay băng. Những dòng chuyển động video trên máy tính đơn giản là một đống các điểm ảnh. Bất cứ ai cũng có thể tạo ra chúng. Đơn giản chỉ cắt và dán rồi chạy một chương trình tổng hợp.”
Tôi nhìn Shauna. “Nhưng trong đoạn video đó cô ấy trông già hơn,” tôi khăng khăng. “Khác.”
Shauna nói, “Farrell?”
Anh ta nhấn phím khác. Bogie trở lại. Lần này, khi chiếu đến đoạn Ingrid Bergman, Shauna trông như bảy mươi tuổi.”
“Phần mềm xử lý tuổi,” Farrell giải thích. “Nó phần lớn chỉ được sử dụng để làm già đi hình ảnh những đứa trẻ bị mất tích, nhưng ngày nay người ta có bán một phiên bản dùng tại nhà có thể mua tại bất kỳ cửa hàng phần mềm nào. Tôi cũng có thể thay đổi bất cứ phần nào trên hình ảnh của Shauna - kiểu tóc, màu mắt, kích cỡ mũi. Tôi có thể làm môi cô ấy mỏng đi hoặc dày hơn, cho cô ấy có hình xăm, hay bất cứ thứ gì.”
“Cám ơn, Farrell,” Shauna nói.
Cô ra hiệu bằng mắt bảo anh đi chỗ khác mà một người mù cũng có thể nhận thấy. “Xin lỗi,” Farrell nói rồi biến mất.
Tôi không nghĩ được.
Khi Farrell đã đi khuất, Shauna nói, “Tớ nhớ lại lần chụp ảnh tháng trước. Một bức ảnh rửa ra đẹp mỹ mãn - nhà tài trợ thích lắm - trừ một điểm là khuyên tai của tớ hơi trễ quá. Bọn tớ mang bức ảnh đó lại đây. Farrell thực hiện một phát cắt-và-dán và voilà, thế là, khuyên tai của tớ trở lại đúng chỗ.”
Tôi lắc đầu.
“Nghĩ thử xem, Beck. FBI nghĩ cậu giết Elizabeth nhưng bọn họ không có cách nào chứng minh được. Hester giảng giải là bọn họ đã trở nên tuyệt vọng đến mức nào. Tớ bắt đầu nghĩ: có thể bọn họ chơi trò thử đầu óc với cậu. Còn trò thử nào hay hơn trò gửi cho cậu những cái email này?”
“Nhưng thời điểm hôn...?”
“Nó thì sao?”
“Làm thế nào bọn họ biết thời điểm hôn?”
“Tớ biết. Linda biết. Tớ cá Rebecca cũng biết, có thể cả bố mẹ Elizabeth nữa. Bọn họ hoàn toàn có thể tìm ra được.”
Tôi thấy nước mắt trào lên. Tôi cố thu lấy giọng và rền rĩ thốt ra, “Một vố lừa ư?”
“Tớ không biết, Beck. Tớ thực sự không biết. Nhưng việc này hãy lý trí một chút. Nếu Elizabeth còn sống, cô ấy đã ở đâu trong suốt tám năm qua? Tại sao trong bao thời điểm lại chọn đúng lúc này để từ huyệt mộ quay về - cùng lúc, thật trùng hợp, FBI bắt đầu nghi ngờ cậu giết cô ấy? Mà thôi đi nào, chẳng lẽ cậu thực sự tin cô ấy vẫn còn sống? Tớ biết cậu muốn thế. Mẹ kiếp, tớ cũng muốn thế. Nhưng hãy cố nhìn nhận việc này một cách lý trí. Khi cậu thực sự nghĩ đến chuyện này, giả thuyết nào hợp lý hơn?”
Tôi loạng choạng và ngồi sụp xuống một cái ghế. Tim tôi bắt đầu vỡ vụn. Tôi cảm thấy hy vọng bắt đầu teo lại.
Một vố lừa. Tất cả những chuyện này không là gì cả ngoài một vố lừa ư?
 
Chương 17


Khi đã vào được trong studio của Rebecca Schayes, Larry Gandle gọi di động cho vợ. “Anh sẽ về muộn,” gã nói.

“Đừng quên uống thuốc,” Patty bảo gã.

Gandle bị bệnh tiểu đường nhẹ, điều trị bằng ăn kiêng và thuốc. Không chứa insulin.

“Anh nhớ rồi.”

Eric Wu, vẫn đeo headphone Walkman, cẩn trọng trải một tấm bạt bằng nhựa vynil xuống gần cửa.

Gandle cúp máy điện thoại và đeo vội đôi găng tay cao su nhân tạo vào. Việc sục sạo phải toàn diện và rất mất thời gian. Như hầu hết bọn thợ chụp ảnh, Rebecca Schayes lưu trữ lại hàng tấn các bản âm. Mấy thứ đó được tống đầy trong bốn tủ kim loại to. Chúng xem lịch làm việc của Rebecca Schayes. Cô sắp kết thúc một ca chụp. Cô sẽ quay lại đây làm việc trong phòng tối trong vòng một giờ nữa. Không đủ thời gian.

“Mày biết cái gì có thể có ích không,” Wu nói.

“Cái gì?”

“Biết chúng ta đang tìm cái chó chết gì.”

“Beck nhận được những cái email bí ẩn,” Gandle nói. “Và hắn làm gì? Lần đầu tiên trong tám năm, hắn lao đến gặp cô bạn cũ của vợ. Chúng ta cần biết tại sao.”

Wu nhìn gã một lúc. “Tại sao chúng ta không đơn giản là đợi rồi hỏi cô ta?”

“Sẽ thế, Eric.”

Wu chậm chạp gật đầu và quay đi.

Gandle phát hiện ra một bàn kim loại dài trong phòng tối. Gã thử kiểm tra cái bàn. Vững. Kích cỡ phù hợp. Bạn có thể đặt ai đó trên bàn và trói chân vào chân bàn.

“Chúng ta mang theo bao nhiêu dây trói?”

“Đủ,” Wu nói.

“Vậy thì làm hộ tao cái này,” Gandle nói. “Chuyển cái miếng trải kia ra mặt dưới cái bàn.”

Còn nửa tiếng nữa là đến giờ tôi nhận được lá thư ở Bat Street.

Màn trình diễn của Shauna đập vào tôi như một cú đấm móc tay trái bất ngờ. Tôi lảo đảo, và rồi lãnh đủ lần đếm từ một tới mười. Nhưng một chuyện lạ lùng đã xảy ra. Tôi nhấc mông lên được khỏi tấm vải bạt. Tôi đứng thẳng trở lại và giơ tay phủi cái đám mạng nhện đi và bắt đầu di chuyển vòng tròn.

Chúng tôi ngồi trong xe. Shauna nằng nặc đòi về nhà cùng tôi. Một chiếc limousine sẽ đón cô vài giờ sau. Tôi biết cô muốn an ủi tôi, nhưng cũng rõ ràng chẳng kém là cô chưa muốn về nhà.

“Có chuyện này tớ không hiểu,” tôi nói.

Shauna quay sang tôi.

“FBI nghĩ tớ giết Elizabeth, đúng không?”

“Đúng.”

“Vậy tại sao bọn họ còn gửi mail giả vờ là cô ấy vẫn còn sống?”

Shauna không trả lời ngay được.

“Thử nghĩ mà xem,” tôi nói. “Cậu bảo đây là trò thêu dệt để khiến tớ lộ ra tội của tớ. Nhưng nếu tớ giết Elizabeth, tớ sẽ biết đây là một trò bịp chứ.”

“Đây là một trò nắn gân,” Shauna nói.

“Nhưng nó không hợp lý. Nếu cậu muốn nắn gân tớ, gửi cho tớ vài cái email và giả vờ là - tớ không biết - ai đó đã chứng kiến vụ án mạng hay gì đó.”

Shauna nghĩ ngợi. “Tớ nghĩ bọn họ chỉ đang cố khiến cậu mất thăng bằng thôi, Beck ạ.”

“Ừ, nhưng vẫn thế. Không hợp lý.”

“Được, lá thư tiếp theo bao lâu nữa thì xuất hiện?”

Tôi nhìn đồng hồ. “Hai mươi phút.”

Shauna ngồi lại trong ghế. “Bọn mình sẽ đợi và xem nó viết gì.”

Eric Wu mở laptop ra đặt trên góc sàn studio của Rebecca Schayes.

Hắn kiểm tra máy tính ở văn phòng Beck trước. Vẫn ở tình trạng để không. Đồng hồ chỉ hai mươi giờ hơn. Phòng khám đã đóng cửa từ lâu. Hắn chuyển sang máy tính ở nhà. Trong một vài giây không có gì. Và rồi.

“Beck vừa mới đăng nhập,” Wu nói.

Larry Gandle vội lao tới. “Chúng ta vào và xem lá thư trước hắn được không?”

“Không phải là ý hay lắm.”

“Tại sao không?”

“Nếu chúng ta truy cập rồi hắn cũng làm thế, nó sẽ thông báo cho hắn biết ai đó đồng thời sử dụng tên truy cập.”

“Hắn sẽ biết hắn đang bị theo dõi?”

“Phải. Nhưng không quan trọng. Chúng ta đồng thời theo dõi hắn. Ngay lúc hắn đọc lá thư, chúng ta cũng sẽ đọc được nó.”

“Được, thông báo tao biết khi nào.”

Wu liếc nhìn màn hình. “Hắn vừa mới mở trang Bigfoot. Nó sẽ xuất hiện vài giây nữa thôi.”

Tôi gõ bigfoot.com và nhấn nút Back.

Chân phải tôi bắt đầu rung dữ dội. Nó bị như vậy mỗi khi tôi căng thẳng. Shauna đặt tay lên đầu gối tôi. Nó rung nhẹ dần rồi ngừng hẳn. Cô nhấc tay lên. Đầu gối tôi ở yên một phút, và rồi nó lại bắt đầu rung. Shauna đặt tay lại lên đầu gối tôi. Chu kỳ lại bắt đầu.

Shauna cố tỏ ra bình thản, nhưng tôi biết cô liên tục liếc trộm tôi. Cô là bạn thân nhất của tôi. Cô ủng hộ tôi đến cùng. Nhưng chỉ một kẻ ngu ngốc mới không đặt câu hỏi liệu tôi có bị điên hay không. Người ta bảo rằng bệnh điên, cũng như đau tim hay trí thông minh, có di truyền. Ý nghĩ đó nảy ra trong đầu tôi từ lúc tôi lần đầu tiên nhìn thấy Elizabeth trên cái camera đường phố. Nó không phải là một ý nghĩ dễ chịu cho lắm.

Cha tôi chết trong một tai nạn ôtô khi tôi hai mươi tuổi. Xe của ông lật qua một con đê. Theo một nhân chứng - tài xế xe tải từ Wyoming - chiếc Buick của cha đâm thẳng vào nó. Đó là một đêm lạnh giá. Con đường, mặc dù gồ ghề, lại rất trơn.

Nhiều người đưa ra giả thuyết - ừ thì dầu sao cũng là đưa ra bằng những lời thì thầm - cha tôi tự sát. Tôi không tin. Phải, ông đã ngày càng thu mình và im lặng trong vài tháng cuối cùng. Và phải, tôi thường tự hỏi liệu có đúng rất cả những việc đó khiến ông càng dễ bị tai nạn không. Nhưng tự sát? Không đời nào.

Mẹ tôi, luôn là một người yếu ớt có vẻ bị chứng loạn thần kinh chức năng nhẹ, phản ứng bằng cách dần dần mất đi sự minh mẫn. Bà quả thật đã rút lui vào cái vỏ ốc của mình. Linda cố gắng chăm sóc bà trong ba năm, cho đến khi ngay cả chị cũng phải đồng ý mẹ cần được đưa đi chữa trị. Linda đến thăm bà suốt. Tôi thì không.

Sau vài giây nữa, trang chủ Bigfood hiện ra. Tôi tìm ô tên đăng nhập và gõ vào Bad Street.

Tôi nhấn phím tab và ở ô mật khẩu tôi gõ Teenage. Tôi nhấn Back.

Không có gì xảy ra.

“Cậu quên nhấn vào biểu tượng Đăng nhập,” Shauna nói.

Tôi nhìn cô. Cô nhún vai. Tôi nhấn vào biểu tượng đó.

Màn hình trở nên trắng. Rồi một quảng cáo của cửa hàng bán CD xuất hiện. Cái bảng quảng cáo nằm ở cuối trang dập dềnh đi lên đi xuống. Phần trăm hiển thị chậm chạp tăng dần. Khi nó chạy được mười tám phần trăm cái bảng biến mất và rồi vài giây sau một thông báo xuất hiện.

LỖI - Hoặc tên đăng nhập hoặc mật khẩu bạn vừa gõ không có trong dữ liệu của chúng tôi.

“Thử lại đi,” Shauna nói.

Tôi làm lại. Một bảng báo lỗi như vậy xuất hiện. Máy tính đang bảo tôi tài khoản này thậm chí không tồn tại.

Thế là có nghĩa gì?

Tôi không biết. Tôi cố nghĩ ra một lý do tại sao tài khoản không tồn tại.

Tôi xem giờ: 8:34 tối.

Thời điểm hôn.

Nó có thể là câu trả lời không? Có thể nào tài khoản này, cũng giống như đường link ngày hôm qua, đơn giản là vẫn chưa tồn tại? Tôi ngẫm thêm một lần nữa. Dĩ nhiên là có thể, nhưng không chắc xảy ra.

Như thể đọc được ý nghĩ của tôi, Shauna nói, “Có lẽ chúng ta nên đợi đến tám giờ mười lăm.”

Vì vậy tôi thử lại vào lúc tám giờ mười lăm. Lúc tám giờ mười tám. Lúc tám giờ hai mươi.

Không có gì ngoài bảng thông báo lỗi y như vây.

“Bọn FBI hẳn là đã chặn rồi,” Shauna nói.

Tôi lắc đầu, chưa chịu từ bỏ.

Chân tôi lại bắt đầu run. Shauna dùng một tay để làm nó đứng yên và một tay để trả lời điện thoại di động. Cô bắt đầu hét ai đó ở phía đầu dây bên kia. Tôi nhìn đồng hồ. Tôi thử lần nữa. Không có gì. Hai lần nữa. Không có gì.

Bây giờ đã quá tám giờ ba mươi.

“Cô ấy, ừ thì, có thể muộn,” Shauna nói.

Tôi cau mày.

“Khi cậu thấy cô ấy hôm qua,” Shauna cố nói, “cậu không biết cô ấy ở đâu, phải không?”

“Ừ.”

“Vậy có thể là cô ấy ở một múi giờ khác,” Shauna nói. “Có thể đó là lý do tại sao cô ấy muộn.”

“Một múi giờ khác?” Tôi càng cau mày hơn. Shauna nhún vai.

Chúng tôi đợi một giờ nữa. Shauna, thật đáng ngợi khen, không hề nói tớ đã bảo với cậu rồi mà. Sau một lúc, cô đặt tay lên lưng tôi và nói, “Này, tớ có một ý.”

Tôi quay lại cô.

“Tớ sẽ đợi ở một phòng khác,” Shauna nói. “Tớ nghĩ thế có thể có tác dụng.”

“Sao cậu nghĩ thế?”

“Thì đấy, nếu đây là một bộ phim, nó có thể là đoạn tớ chán đến tận cổ sự điên rồ của cậu và bỏ biến đi và rồi bingo, thư xuất hiện, cậu biết đấy, vì vậy có mỗi mình cậu nhìn thấy nó và tất cả mọi người vẫn nghĩ cậu bị điên. Như trong phim Scooby-Doo khi chỉ có mỗi anh chàng và Shaggy nhìn thấy ma và không ai tin họ ấy?”

Tôi nghĩ về chuyện đó. “Đáng để thử,” tôi nói.

“Tốt. Vì vậy sao tớ không sang đợi trong bếp một lúc nhỉ? Tận dụng cơ hội nhé. Khi nào thư xuất hiện, chỉ việc hét lên một tiếng.”

Cô đứng lên.

“Cậu chỉ đang cố chiều lòng tớ thôi, phải không?” tôi nói.

Shauna nghĩ. “Ừ, có lẽ.”

Rồi cô đi ra. Tôi quay lại và đối diện với màn hình. Và tôi đợi.
 
Chương 18


“Không có gì xảy ra,” Eric Wu nói. “Beck vẫn cố đăng nhập, nhưng tất cả những gì hắn nhận được là một thông báo lỗi.”

Larry Gandle toan hỏi câu hỏi tiếp theo thì gã nghe thấy tiếng thang máy chạy lên. Gã nhìn đồng hồ.

Rebecca Schayes về đúng giờ.

Eric Wu quay khỏi máy tính. Hắn nhìn Larry Gandle bằng ánh mắt khiến người ta phải lùi một bước. Gandle rút súng ra - lần này một khẩu chín li. Chỉ phòng khi. Wu cau mặt. Hắn dịch đến chỗ cửa và tắt đèn.

Chúng chờ trong bóng tối.

Hai mươi giây sau, thang máy dừng lại ở tầng chúng đang đứng.

Rebecca Schayes hầu như không còn nghĩ đến Elizabeth và Beck nữa. Rốt cuộc thì cũng đã tám năm rồi. Nhưng sự việc sáng nay lại khuấy lên một số cảm giác đã ngủ yên từ lâu. Những cảm giác bứt rứt bám đuổi.

Về vụ “tai nạn ôtô”.

Sau tất cả những năm qua, Beck cuối cùng đã hỏi cô về nó.

Tám năm trước, Rebecca đã chuẩn bị để kể cho anh về nó. Nhưng Beck không gọi lại cho cô. Thời gian trôi qua - và sau khi đã có vụ bắt giữ - cô nghĩ vực quá khứ dậy thì ích gì. Nó chỉ khiến Beck tổn thương. Và sau khi KillRoy bị bắt giam, càng không có liên quan gì cả.

Nhưng cảm giác bứt rứt đó - cảm giác những vết thâm tím trên người Elizabeth do “tai nạn ôtô” thế nào đó lại là điềm báo cho việc cô ấy bị giết - nấn ná còn mãi, mặc dù nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Còn hơn thế, cảm giác bứt rứt đó mắng nhiếc cô, khiến cô tự hỏi nếu cô, Rebecca, khăng khăng nài, thực sự khăng khăng nài, tìm ra sự thật về vụ “tai nạn ôtô”, thì có lẽ, chỉ có lẽ thôi, cô đã có thể cứu được bạn mình.

Tuy nhiên, cảm giác bứt rứt đó nhạt dần theo thời gian. Suy cho cùng, Elizabeth từng là bạn cô, dù có thân thiết cỡ nào, bạn cũng sẽ vượt qua được cái chết của một người bạn. Gary Lamont đã bước vào cuộc sống của cô ba năm trước và thay đổi mọi thứ. Phải, Rebecca Schayes, cô thợ chụp ảnh bôhêmiêng từ Greenwich Village, đã phải lòng một tay buôn bán cổ phiếu ở Wall Street siêng năng xoay xở kiếm chác. Họ kết hôn và chuyển đến một nhà cao tầng thời thượng ở Upper West Side.

Cuộc đời vận động mới kỳ lạ làm sao.

Rebecca bước vào thang máy chở hàng hóa và đẩy nhẹ cái cửa xuống. Đèn không sáng, một điều bất bình thường ở tòa nhà này. Thang máy bắt đầu đi lên tầng của cô, tiếng ầm ầm dội lên nền đá. Thỉnh thoảng trong đêm, cô nghe thấy tiếng ngựa hí, nhưng bây giờ chúng im bặt. Mùi cỏ khô và thứ gì đó có lẽ còn hôi hơn vảng vất trong không khí.

Cô thích ở đây buổi đêm. Sự tĩnh mịch nơi này trộn lẫn với những tiếng ồn ào trong đêm thành phố theo một cách khiến cô cảm thấy mình “nghệ sĩ” hơn.

Đầu óc cô bắt đầu thả trôi về cuộc đối thoại tối qua với Gary. Anh muốn chuyển khỏi thành phố New York, tốt nhất là đến sống tại một căn nhà rộng rãi ở Long Island, tại Sands Point, nơi anh lớn lên. Ý tưởng chuyển đến ngoại ô làm cô kinh hoàng. Còn hơn cả tình yêu dành cho thành phố này, cô biết đó sẽ là sự phản bội cuối cùng với gốc rễ bôhêmiêng của mình. Cô sẽ trở thành cái mà cô thề sẽ không bao giờ trở thành: mẹ cô và mẹ của mẹ cô.

Thang máy dừng lại. Cô nâng cửa lên và bước ra hành lang. Tất cả đèn ở trên này đều tắt ngóm. Cô vuốt tóc ra sau và buộc túm lại thành một cái đuôi ngựa dày. Cô liếc đồng hồ. Gần chín giờ. Tòa nhà vắng tanh. Ít nhất không một bóng người.

Giày cô nện lách cách trên nền xi măng lạnh. Sự thật là - và Rebecca đang phải trải qua một thời gian khó khăn để chấp nhận nó, cô là một bôhêmiêng và kể cả điều này nữa - càng nghĩ về chuyện đó, cô càng nhận ra rằng, đúng vậy, cô muốn có con, và thành phố này là một nơi quá ồn ào để nuôi chúng. Trẻ con cần có sân sau và xích đu và không khí trong lành và...

Rebecca Schayes đã gần đi đến quyết định - một quyết định không nghi ngờ gì sẽ làm gã chồng môi giới buôn bán Gary của cô cảm động run lên - khi cô nhét chìa khóa vào cửa và mở studio. Cô bước vào trong và bật công tắc đèn.

Đó chính là lúc cô nhìn thấy gã người châu Á hình dáng kỳ quặc.

Trong một vài giây, gã kia đơn giản chỉ nhìn cô chằm chằm. Rebecca đứng chết cứng trong cái nhìn của gã. Rồi gã châu Á bước đến bên, gần như sau cô, và tung một cú đấm vào thắt lưng cô.

Như thể một cái búa tạ vừa quai vào thận cô.

Rebecca khuỵu gối. Gã kia túm lấy cổ cô bằng hai ngón tay. Gã siết chặt. Rebecca thấy những ngọn đèn sáng rỡ. Dùng bên tay còn đang rỗi việc, gã thọc sâu những ngón như rìu đập đá vào lồng ngực cô. Khi chúng chạm đến gan, mắt cô lồi lên. Sự đau đớn vượt quá bất cứ thứ gì cô từng tưởng tượng ra. Cô cố hét lên, nhưng chỉ có một tiếng ú ớ bị nghẹt thoát ra từ miệng cô.

Phía bên kia phòng, một giọng đàn ông xuyên qua cơn mơ màng.

“Elizabeth đâu?” giọng đó hỏi.

Lần đầu tiên.

Nhưng không phải lần cuối cùng.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom