Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 20


Khoảng một giờ chiều chủ nhật, tôi từ ký túc xá Washington Duke đến khuôn viên trường Duke. Tôi vừa ăn một bữa sáng đúng chất Bắc Carolina: một tách rưỡi cà phê nóng rất ngon, giăm bông muối tự làm, trứng lòng đào, bánh quy và nước xốt cà phê, bột yến mạch. Tôi đã nghe một bài hát đồng quê bật trong phòng ăn, “Một ngày kia lắc cái chảo rán, anh sẽ không nhìn thấy em nữa đâu”.

Tôi vừa mệt mỏi vừa quẫn trí nên gần một cây số đi bộ tới trường là liệu pháp tốt. Tôi tự kê đơn cho mình và sau đó lắng nghe lời khuyên từ bác sĩ. Hiện trường vụ án đêm hôm trước gây chấn động trong tôi.

Tôi nhớ như in hồi Naomi còn nhỏ, và tôi là người bạn tốt nhất của con bé. Chúng tôi thường hát “Incey Wincey Spider” và “Silkworm, Silkworm” cùng nhau. Bằng cách ấy, cô bé đã chỉ cho tôi cách làm bạn với Jannie và Damon. Cô bé đã sửa soạn cho tôi trở thành một người cha khá tốt.

Hồi đó, anh trai Aaron nhà tôi thường đưa Scootchie đến quán rượu Capri trên phố Thứ ba. Anh trai tôi lúc nào cũng say quắc cần câu. Capri không phải là nơi dành cho trẻ nhỏ, nhưng bằng cách nào đó, Naomi vẫn xoay xở được. Dù còn nhỏ, cô bé hiểu và chấp nhận con người của cha mình. Thường thì khi cô bé và Aaron ghé qua nhà chúng tôi, anh trai tôi đã lê tê phê, nhưng vẫn chưa say hẳn. Naomi chăm sóc cho cha mình. Anh ấy sẽ cố gắng tỉnh táo khi có mặt cô bé. Vấn đề lại nằm ở chỗ, Scootchie không thể luôn luôn ở bên cạnh để cứu cha mình.

Lúc một giờ ngày Chủ nhật, tôi có lịch hẹn với chủ nhiệm nữ sinh trường Duke. Tôi đi đến tòa nhà Allen, ngay bên kia Chapel Drive. Một số văn phòng hành chính được đặt trên tầng hai và tầng ba ở đó.

Chủ nhiệm nữ sinh Browning Lowell là một người đàn ông cao to lực lưỡng. Naomi đã từng kể với tôi rất nhiều về anh ta. Cô bé coi anh ta là một cố vấn thân thiết và cũng là một người bạn. Chiều hôm đó, tôi gặp chủ nhiệm Lowell trong căn phòng ấm cúng chứa đầy những quyển sách cũ dày cộp. Từ trong phòng, có thể nhìn thấy Chapel Drive với những hàng cây mộc lan và cây du ven đường cho đến tận sân Few. Giống như những nơi khác trong trường, khung cảnh chốn này quả là mãn nhãn. Tòa nhà kiểu Gothic xuất hiện ở khắp mọi nơi. Đây đúng là Đại học Oxford phương Nam.

“Qua những cuộc nói chuyện với Naomi về anh, tôi thấy ngưỡng mộ anh.” Chủ nhiệm Lowell nói khi chúng tôi bắt tay nhau. Anh ta bắt tay rất chặt, nhìn bề ngoài là tôi đoán ra.

Browning Lowell khoảng ba lăm tuổi, rất cường tráng, đẹp trai. Đôi mắt xanh lấp lánh như luôn tỏ ra vui vẻ với tôi. Tôi nhớ anh từng có thời là vận động viên thể dục đẳng cấp thế giới. Thời sinh viên anh ta học ở Duke, và được kỳ vọng trở thành ngôi sao đội tuyển Mỹ tại Olympic 1980 ở Moscow.

Đầu năm đó, tin đồn Browning Lowell là kẻ đồng tính, và có quan hệ với một cầu thủ bóng rổ khá nổi tiếng đã phá hỏng tất cả. Anh rời khỏi đội Mỹ trước cả khi có nguy cơ bị Olympic tẩy chay. Theo tôi được biết thì dù câu chuyện có thật hay không thì nó cũng chưa bao giờ được chứng minh. Mặc dù vậy Lowell đã kết hôn, hiện sống cùng vợ tại Durham.

Tôi thấy Lowell là người đáng mến, thân thiện. Chúng tôi đau buồn khi nói về sự biến mất của Naomi. Anh ta đưa ra những nghi ngờ đúng đắn và những lo ngại chính đáng về cuộc điều tra đang tiến hành của cảnh sát.

“Tôi cho rằng báo chí địa phương đã không đưa ra kết nối đơn giản và hợp lý giữa các vụ giết người và mất tích, Tôi thật không hiểu nổi. Chúng tôi đã cảnh báo tất cả các nữ sinh trong khuôn viên trường,” anh nói với tôi. Các sinh viên của Duke được yêu cầu phải đăng ký khi ra vào ký túc xá, anh ta nói thêm. Khuyến khích sinh viên đi cùng bạn bè khi ra ngoài buổi tối.

Trước khi tôi rời văn phòng, anh ta gọi điện thoại đến ký túc xá của Naomi. Anh ta cho biết việc này sẽ tạo điều kiện cho tôi vào ký túc xá dễ dàng hơn một chút, và ngỏ ý muốn tận tâm giúp đỡ.

“Tôi biết Naomi gần năm năm rồi,” anh ta nói với tôi. Anh đưa tay vuốt ngược mái tóc vàng hơi dài ra sau. “Tôi hiểu được phần nào những gì mà anh đang trải qua, và tôi rất tiếc, anh Alex à. Chuyện này làm biết bao người đau buồn.”

Tôi cảm ơn chủ nhiệm Lowell và rời văn phòng, không khỏi cảm thấy xúc động vì người đàn ông đó, và có phần thanh thản hơn. Tôi rời khỏi ký túc xá sinh viên. Đoán xem ai sẽ đến bữa trà mặn nào?
 
Chương 21


Tôi cảm thấy mình giống như Alex ở xứ sở thần tiên.

Khu vực ký túc xá chính tại Duke là nơi mang đầy phong vị đồng quê, gồm những ngôi nhà nhỏ hơn, cùng vài căn nhà tranh chứ không phải các tòa nhà kiểu Gothic thông thường. Sân Myers rợp bóng những cây sồi già cao vút và tán mộc lan rộng, bao quanh là vườn hoa được chăm sóc cẩn thận. Nét lốm đốm ấy chính là vẻ huy hoàng mà Chúa ban tặng.

Một chiếc BMW mui trần màu bạc đậu ở phía trước. Miếng đề can trên tấm hãm xung quanh có dòng chữ: CON GÁI VÀ TIỀN BẠC CỦA TÔI ĐÃ ĐẾN DUKE.

Bên trong, phòng khách của ký túc xá có sàn gỗ cứng được đánh bóng và thảm phương Đông trông có vẻ là hàng thật đã nhạt màu đáng kể. Tôi nhìn quanh trong khi đợi Mary Ellen Klouk. Căn phòng đầy những chiếc ghế đẩu, đi văng, tủ com mốt cao bằng gụ đã “nhuốm màu thời gian”. Dưới cả hai cửa sổ chính đều có ghế băng.

Tôi đến được mấy phút thì Mary Ellen Klouk đi xuống cầu thang. Tôi đã gặp cô bé dăm lần trước chiều Chủ nhật hôm đó. Cô cao gần mét tám, tóc màu tro vàng, trông thật hấp dẫn - giống như những người phụ nữ đã biến mất một cách bí ẩn. Thi thể được tìm thấy bị chim thú trong khu rừng bao quanh Efland ăn nham nhở cũng từng là một phụ nữ tóc vàng xinh đẹp.

Tôi tự hỏi tên sát nhân có để ý đến Mary Ellen Klouk không. Tại sao hắn lại chọn Naomi? Hắn đưa ra lựa chọn cuối cùng thế nào? Cho đến nay đã có bao nhiêu phụ nữ bị chọn?

“Chào chú, Alex. Ơn Chúa, cháu mừng là chú ở đây.” Mary Ellen nắm tay tôi, giữ thật chặt. Gặp cô bé khiến những ký ức ấm áp nhưng cũng rất đỗi đau lòng lại ùa về trong tôi.

Chúng tôi quyết định ra khỏi ký túc xá để tản bộ trên khu đất thoai thoải của khuôn viên phía Tây. Tôi vẫn luôn yêu quý Mary Ellen. Cô bé là sinh viên ngành lịch sử và tâm lý học. Tôi nhớ rằng chúng tôi đã từng nói chuvện về phân tâm học suốt cả một đêm ờ D.C. Cô bé hiểu biết về chấn thương tâm lý cũng tương đương tôi.

“Xin lỗi cháu đã không có mặt ở đây khi chú đến Durham,” cô bé nói trong lúc chúng tôi hướng về phía Đông giữa những tòa nhà kiểu Gothic thanh lịch được xây dựng vào những năm 1920. “Thứ Sáu vừa rồi, em trai cháu tốt nghiệp trung học, Ryan Klouk bé bỏng. Thực ra thằng bé cao gần hai mét. Nặng gần một tạ như thể một chú báo tuyết. Ca sĩ chính của nhóm Scratching Blackboards. Cháu mới trở lại trường vào sáng nay, chú Alex ạ".

“Lần cuối cùng cháu thấy Naomi là khi nào?” Tôi hỏi Mary Ellen trong lúc băng qua một con phố xinh xắn tên là Wannamaker Drive. Không dễ chịu chút nào khi nói chuyện với bạn của Naomi trong vai một thám tử điều tra án mạng, nhưng tôi vẫn phải làm điều đó.

Câu hỏi vừa rồi của tôi dường như làm Mary Ellen đau nhói. Cô hít một hơi sâu rồi mới trả lời. “Sáu ngày trước, chú Alex ạ. Chúng cháu lái xe xuống đồi Chapel. Lúc ấy chúng cháu làm việc tại đó cho nhóm Mái nhà của nhân loại”.

Mái nhà của nhân loại là một nhóm phục vụ cộng đồng với mục đích xây dựng lại nhà ở cho người nghèo. Naomi chưa bao giờ nhắc đến việc cô bé là tình nguyện viên của tổ chức này. “Sau đó cháu có gặp lại Naomi nữa không?” tôi hỏi.

Mary Ellen lắc đầu. Cái chuông vàng lúc lắc trên cổ cô bé khẽ kêu leng keng. Đột nhiên, tôi có cảm giác rằng cô bé không muốn nhìn vào mắt tôi.

“Cháu e đó là lần cuối củng. Chính cháu đã báo cảnh sát, và cháu nhận ra rằng họ có quy tắc hai mươi tư giờ trong hầu hết các vụ mất tích. Naomi biến mất gần hai ngày rưỡi thì họ mới đăng bản tin. Chú có biết tại sao không?”

Tôi lắc đầu, nhưng không muốn phức tạp hóa mọi chuyện trước mặt Mary Ellen. Tôi vẫn không biết chính xác lý do tại sao lại có quá nhiều bí mật xung quanh vụ việc này. Tôi đã gọi cho thám tử Nick Ruskin sáng hôm đó, nhưng anh ta không bắt máy.

“Chú có nghĩ rằng việc Naomi mất tích có liên quan tới những người phụ nữ mất tích gần đây không?” Marry Ellen hỏi. Đôi mắt xanh chứa đầy nỗi đau đớn.

“Có thể có liên quan. Dù vậy không có bằng chứng xác thực tại vườn Sarah Duke. Thành thực mà nói thì có rất ít bằng chứng để điều tra, Mary Ellen ạ.” Nếu Naomi bị bắt cóc tại một vườn hoa công cộng ngay trong khuôn viên trường thì cũng không có nhân chứng. Cô bé đã ở trong khu vườn nửa giờ rồi trốn tiết học Hợp đồng. Casanova đã làm mọi việc hoàn hảo đến đáng sợ. Hắn như một bóng ma vậy.

Chúng tôi dừng lại sau khi đi trọn một vòng rồi trở về đúng vạch xuất phát. Khu ký túc xá còn cách chúng tôi khoảng hai, ba mươi mét qua một lối đi rải sỏi. Nơi đó có các cột cao màu trắng, hành lang lớn chứa đầy những bộ bàn và ghế chao được làm bằng liễu gai sáng bóng. Kiến trúc thời kỳ nội chiến kiểu này là một trong những sở thích của tôi.

“Chú Alex à, thực ra gần đây, Naomi và cháu không còn thân thiết như trước,” Mary Ellen đột nhiên tâm sự với tôi. “Cháu xin lỗi, cháu nghĩ chú nên biết điều đó.”

Mary Ellen vừa nghiêng người hôn lên má tôi vừa khóc. Sau đó, cô bé chạy lên cầu thang quét vôi trắng và biến mất vào bên trong.

Lại một bí ẩn nữa cần phải giải quyết.
 
Chương 22


Casanova dõi theo tiến sĩ Alex Cross. Đầu óc nhanh nhẹn, sắc bén của ông ta xử lý vèo vèo chẳng khác gì một chiếc máy tính tinh vi, có thể là máy tính chạy nhanh nhất trong toàn bộ vùng Tam giác Nghiên cứu không chừng.

Hắn ta lẩm bẩm, hãy nhìn Cross. Đến thăm bạn cũ của Naomi! Không tìm thấy gì ở đó đâu, ngài tiến sĩ. Ông chẳng ấm áp thêm chút nào đâu. Thực ra ông còn lạnh hơn nữa kìa.

Hắn theo sau Alex Cross với một khoảng cách an toàn trong khi ông loanh quanh trong khuôn viên trường Duke. Hắn đã đọc khá nhiều về Cross. Hắn biết tất cả về người nổi tiếng trong vụ lần theo dấu vết một kẻ bắt cóc, giết người tại Washington. Vụ việc được rất nhiều phương tiện truyền thông cường điệu ba hoa gọi là vụ án của thế kỷ.

Vậy hãy xem ai giỏi hơn trong trò chơi này? Hắn muốn hét to cho tiến sĩ Cross nghe thấy. Tôi biết ông là ai. Ông lại chẳng biết cái quái gì về tôi. Sẽ không bao giờ biết.

Cross dừng lại. Ông lấy một mảnh giấy từ trong túi quần sau ra ghi chép.

Gì thế, tiến sĩ? Nghĩ ra điều gì quan trọng rồi sao? Tôi nghi lắm. Thực đấy.

FBI, cảnh sát địa phương, tất cả bọn họ truy lùng tôi nhiều tháng nay. Tôi nghĩ họ cũng ghi chú đấy, nhưng không ai trong số họ tìm ra được điều gì…

Casanova nhìn theo Alex Cross tiếp tục đi bộ dọc theo khuôn viên trường cho đến khi ông đi khuất tầm mắt. Ý nghĩ Cross sẽ lần ra dấu vết của hắn và bắt giữ hắn thật là hoang đường. Điều ấy sẽ không xảy ra đâu.

Hắn cười thành tiếng, rồi lại phải cố nén cười vì vào chiều Chủ nhật khuôn viên trường khá đông đúc.

Không ai có manh mối, tiến sĩ Cross. Ông không nhận ra sao?... Đó chính là manh mối!
 
Chương 23


Tôi lại làm thám tử đường phố một lần nữa.

Tôi dành hầu hết buổi sáng thứ Hai để phỏng vấn những người có quen biết Kate McTiernan. Nạn nhân mới nhất của Casanova là một bác sĩ thực tập năm đầu tiên, bị bắt cóc tại căn hộ của mình ở vùng ngoại ô đồi Chapel.

Tôi cố gắng lập hồ sơ tâm thần của Casanova, nhưng không có đủ thông tin. Chấm hết. FBI không giúp đỡ gì tôi. Nick Ruskin vẫn chưa trả lời những cuộc điện thoại của tôi.

Một giáo sư tại trường Y Bắc Carolina nói với tôi, Kate McTiernan là một trong những sinh viên tận tâm nhất mà bà đã từng giảng dạy hai mươi năm qua. Một giáo sư khác tại trường cho rằng Kate thông minh và rất tận tụy, nhưng “cô ta có tính khí bất thường”.

Ở điểm này có nhiều ý kiến đồng tình. Ngay cả những bác sĩ thực tập đang cạnh tranh với Kate cũng đồng ý rằng Kate McTiernan thật khác người. “Cô ấy là người phụ nữ không chú trọng đến bản thân mình nhất mà tôi từng gặp,” một nữ bác sĩ thực tập nói với tôi. “Kate là người sống rất có mục tiêu, cô ấy biết điều đó nhưng cũng có khi tự cười chính mình.” Một người khác nói, “Cô ấy là người tuyệt vời lắm. Việc cô ấy mất tích khiến tất cả mọi người trong bệnh viện đều đau buồn.” “Cô ấy là người thông minh và rất mạnh mẽ.”

Tôi gọi cho Peter McGrath, một giáo sư lịch sử, anh ta miễn cưỡng đồng ý gặp tôi. Kate McTiernan đã hẹn hò với anh ta trong gần bốn tháng, nhưng mối quan hệ của họ đã đột ngột kết thúc. Giáo sư McGrath cao ráo, vẻ ngoài to khỏe giống vận động viên thể thao, và có phần độc đoán.

“Có thể nói đánh mất cô ấy là tôi đã phạm sai lầm to lớn,” McGrath thừa nhận với tôi. “Và tôi đã phạm sai lầm đó. Nhưng tôi không thể tiếp tục với Kate được nữa. Cô ấy là người thích thử nghiệm. Chắc chắn cô ấy là người có ý chí mạnh nhất trong tất cả những người tôi từng gặp, dù đàn ông hay phụ nữ. Ôi Chúa ơi! Tôi không thể tin rằng điều này lại xảy ra với Kate.”

Khuôn mặt anh ta nhợt nhạt, rõ ràng đã bị chấn động vì Kate mất tích. Ít nhất thì đó là điều anh ta thể hiện ra.

Tôi kết thúc một ngày bằng việc ăn tối một mình trong quán bar ồn ào tại thị trấn đại học ở đồi Chapel. Có những đám sinh viên đại học, và một bàn bi-a đông người, nhưng tôi chỉ ngồi một mình nhâm nhi bia, bánh nhân thịt và pho mát béo ngậy, đắm chìm trong những suy nghĩ ban đầu về Casanova.

Một ngày dài đã làm tôi kiệt sức. Tôi nhớ Sampson, lũ trẻ, ngôi nhà của tôi ở D.C. Một thế giới thanh bình không có quái vật. Dù vậy, Scootchie vẫn còn mất tích. Mấy phụ nữ trẻ khác ở Đông Nam cũng thế.

Tôi lại nghĩ đến Kate McTiernan, và những gì tôi đã nghe nói về cô ngày hôm nay.

Đây là cách giải quyết vụ án - hay ít nhất là cách mà tôi luôn giải quyết chúng. Thu thập dữ liệu. Phân tích dữ liệu. Cuối cùng, chỉ ra những mối liên quan.

Casanova không chỉ bắt cóc những phụ nữ đẹp về thể xác, tôi đột nhiên nhận ra khi ngồi trong quán. Hắn bắt cóc những phụ nữ đặc biệt nhất mà hắn có thể tìm thấy. Hắn chỉ bắt những phụ nữ hoàn hảo… những phụ nữ mọi người đều thèm muốn nhưng không ai có được.

Hắn đang sưu tập họ ở đâu đó ngoài kia.

Tại sao lại là những phụ nữ đặc biệt? Tôi tự hỏi.

Chỉ có một câu trả lời hợp lý. Bởi hắn tin rằng mình cũng đặc biệt.
 
Chương 24


Tôi định quay trở lại hỏi Mary Ellen Klouk lần nữa, nhưng rồi đổi ý mà trở về ký túc xá Washington Duke. Một vài tin nhắn đang chờ đợi tôi.

Tin nhắn đầu tiên là của một người bạn trong sở cảnh sát Washington. Ông ta đang xử lý những thông tin cần thiết để tôi lập hồ sơ có nghĩa về Casanova. Tôi mang theo máy tính xách tay và háo hức sớm được làm việc.

Một phóng viên tên là Mike Hart đã gọi cho tôi bốn lần. Tôi nhận ra tên anh ta, và tôi biết tờ báo của anh ta - National Star, một tờ lá cải của Florida. Biệt danh của anh chàng phóng viên này là Hart Không Tim. Tôi không trả lời tin nhắn của Không Tim. Tôi từng bị lên trang nhất của Star một lần, và một lần là quá đủ rồi.

Cuối cùng thám tử Nick Ruskin cũng trả lời một trong các cuộc gọi của tôi. Anh ta để lại một tin nhắn ngắn ngủi. Chúng tôi không có tin gì mới. Sẽ cho anh biết sau. Tôi thấy thật khó tin. Tôi không tin tưởng thám tử Ruskin cũng như người cộng sự trung thành Davey Sikes của anh ta.

Tôi ngủ chập chờn trên chiếc ghế bành ấm cúng trong căn phòng, nhưng lại gặp cơn ác mộng sống động khủng khiếp. Quái vật thoát ra khỏi bức tranh của Edvard Munch đuổi theo Naomi. Tôi không đủ sức để giúp cô bé, tất cả những gì tôi có thể làm là chứng kiến cảnh tượng rùng rợn trong bộ phim kinh dị. Một nhà tâm lý học lành nghề không khó diễn giải giấc mơ đó.

Tôi thức dậy và có cảm giác ai đó đang ở trong cùng căn phòng khách sạn với mình.

Tôi nhẹ nhàng đặt tay vào báng khẩu súng lục ổ quay và giữ thật im. Tim tôi đập thình thịch. Người ta có thể vào phòng bằng cách nào?

Tôi từ từ đứng lên nhưng vẫn khom người đề phòng bị bắn. Trong bóng tối nhá nhem tôi căng mắt ra nhìn xung quanh.

Tấm rèm cửa sổ bằng vải hoa sặc sỡ chưa kéo hết xuống, ánh sáng từ bên ngoài vẫn đủ để tôi nhận dạng được. Bóng lá nhảy múa trên bức tường phòng khách sạn. Ngoài ra không còn cái gì có vẻ đang di chuyển.

Tôi giương khẩu súng lục Glock kiểm tra phòng tắm. Sau đó là tủ quần áo. Tôi bắt đầu cảm thấy mình hơi ngớ ngẩn, cứ cầm súng đi quanh phòng khách sạn thế này, nhưng tôi chắc chắn mình đã nghe thấy tiếng động!

Cuối cùng tôi phát hiện một mảnh giấy dưới cửa ra vào nhưng vẫn đợi vài giây sau mới bật đèn. Chỉ để cho chắc.

Một tấm ảnh đen trắng đập vào mắt tôi. Những liên tưởng và xâu chuỗi tức thì hiện ra trong tâm trí. Đó là tấm bưu thiếp thời thuộc địa Anh, có thể là đầu những năm 1900. Vào thời điểm đó, người phương Tây sưu tập các bưu thiếp này như một thứ giả nghệ thuật nhưng chủ yếu vì chúng mang nội dung khiêu dâm nhẹ. Chúng đã kích thích các nhà sưu tập nam những năm đầu thế kỷ.

Tôi cúi xuống để nhìn rõ tấm ảnh cũ hơn.

Tấm ảnh chụp một thị tỳ đang hút một điếu thuốc Thổ Nhĩ Kỳ trong tư thế nhào lộn đáng ngạc nhiên. Cô gái da đen, trẻ trung xinh đẹp; có lẽ giữa tuổi thiếu niên. Cô khỏa thân đến thắt lưng, bầu ngực tròn căng lộn ngược thỗn thện trong bức ảnh.

Tôi lấy bút chì lật ngược tấm ảnh.

Có một chú thích in gần chỗ dán tem: Thị tỳ với vẻ ngoài xinh đẹp và trí thông minh tuyệt vời được đào tạo cẩn thận để làm thê thiếp. Họ học cách nhảy sao cho đẹp mắt, chơi nhạc cụ thật hay, và để viết những vần thơ trữ tình sắc sảo. Họ có giá trị nhất trong hậu cung, là kho báu lớn nhất của hoàng đế.

Chú thích được đánh dấu bằng mực cùng với một cái tên được in sẵn. Giovanni Giacomo Casanova de Seignalt.

Hắn biết tôi đang ở Durham này. Hắn biết tôi là ai.

Casanova đã để lại một tấm danh thiếp.
 
Chương 25


Mình vẫn còn sống.

Kate McTiernan ráng mở mắt từ từ trong một căn phòng lờ mờ sáng… ở một nơi nào đó.

Sau khi chớp mắt vài cái, cô tin rằng mình đang ở trong một khách sạn mà cả đời không thể nhớ đã vào như thế nào. Một khách sạn thực sự kỳ lạ trong bộ phim nghệ thuật còn kỳ lạ hơn của Jim Jarmusch. Mặc dù vậy, cũng chẳng sao. Ít nhất thì cô đã không chết.

Đột nhiên, cô nhớ mình đã bị bắn thẳng vào ngực. Cô nhớ ra kẻ đột nhập. Cao… tóc dài… giọng nói dịu dàng, thân mật… thú tính khủng khiếp.

Cô gượng đứng dậy nhưng gạt ý định đó ngay lập tức. “Ối,” cô kêu to. Cổ họng khô rát, giọng nói khản đục ong ong trong đầu cô. Cô có cảm giác cần phải cạo lưỡi.

Mình đang ở địa ngục. Ở tầng thấp nhất trong Địa ngục của Dante, cô nghĩ, và bắt đầu run rẩy. Những gì xảy ra trong khoảnh khắc này thật đáng sợ, nhưng cô thấy kinh khủng, đột ngột đến nỗi không biết phải làm gì.

Xương cốt cô cứng đờ, đau đớn, khắp người nhức mỏi. Cô e lúc này đến quả tạ năm mươi cân cô cũng khó lòng nâng nổi. Đầu nặng trình trịch, sưng lên như trái cây chín nẫu, đau khủng khiếp, nhưng cô vẫn nhớ như in cái kẻ đã tấn công mình. Hắn ta cao, khoảng gần một mét chín, vẫn còn trẻ, vô cùng khỏe mạnh, ăn nói rõ ràng. Các hình ảnh đã mờ nhạt, nhưng cô hoàn toàn chắc chắn những gì mình nhớ là đúng.

Cô nhớ thêm vài chi tiết về cuộc tấn công quái dị trong căn hộ của mình. Hắn dùng một khẩu súng phóng điện hay cái gì đó giống vậy để làm cô bất tỉnh. Hắn cũng dùng chloroform, hoặc có thể là halothane. Chắc đó là lý do khiến đầu óc cô đau nhức.

Đèn đóm trong phòng vẫn được bật một cách có chủ đích. Cô nhận thấy chúng được dẫn từ công tắc điều chỉnh sáng tối có vẻ hiện đại được lắp vào trần nhà. Trần nhà rất thấp, có lẽ dưới hai mét.

Căn phòng trông như thể vừa mới được xây, hoặc tu sửa. Nó được trang trí trang nhã giống như cách mà nếu có tiền bạc và thời gian thì cô sẽ trang trí căn hộ riêng như vậy… Một chiếc giường bằng đồng thật. Chiếc tủ ngăn kéo kiểu cổ màu trắng có tay cầm bằng đồng. Một bàn trang điểm với lược tròn, lược thẳng, gương bằng bạc. Có những chiếc khăn đầy màu sắc thắt trên cột giường giống như cách mà cô vẫn làm trong căn nhà của mình. Điều đó đột nhiên làm cô cảm thấy thật kỳ lạ. Rất kỳ lạ.

Căn phòng không có cửa sổ. Cách duy nhất ra ngoài là một cửa ra vào bằng gỗ nặng nề.

“Cách trang trí hay đấy,” Kate lẩm bẩm. “Tâm thần giai đoạn đầu. Không, giai đoạn cuối mới đúng.”

Chiếc tủ quần áo nhỏ khép hờ khiến cô nhìn thấy những gì bên trong. Nó làm cô phát bệnh.

Hắn mang quần áo của cô đến nơi kinh khủng này, nhà tù kỳ lạ này. Tất cả quần áo của cô đều ở đây.

Vận hết chút sức lực còn lại, Kate McTiernan cố ngồi thẳng trên giường. Nỗ lực vừa rồi làm tim cô đập nhanh hơn, và tiếng tim đập thình thịch cũng khiến cô sợ hãi. Tay chân cô như bị bó chặt vào vật nặng.

Cô hết sức tập trung, mắt gắng nhìn vào cảnh tượng đáng kinh ngạc. Cô không rời mắt khỏi tủ quần áo.

Cô nhận ra rằng quần áo trong tủ không hoàn toàn là của cô. Hắn đã ra ngoài mua quần áo giống của cô! Đúng với sở thích và phong cách của cô. Những bộ quần áo trong tủ còn mới tinh. Cô thấy vài chiếc mác lủng lẳng ở áo váy. Hãng The Limited. Hãng Gap ở đồi Chapel. Những cửa hiệu mà cô vẫn mua sắm.

Mắt cô lia ngược lên nóc chiếc tủ ngăn kéo màu trắng khá cổ bên kia phòng. Nước hoa của cô cũng ở trên đó. Nỗi ám ảnh. Cuộc đi săn. Thuốc phiện.

Có phải hắn đã mua tất cả những thứ đó cho cô?

Cạnh giường là cuốn All the Pretty Horses, y chang cuốn sách mà cô mua trên phố Franklin ở đồi Chapel.

Hắn biết tất cả về mình!
 
Chương 26


Bác sĩ Kate McTiernan ngủ thiếp đi. Tỉnh dậy. Lại ngủ thêm chút nữa. Cô tự chế giễu mình. Gọi mình là “cô nàng lười nhác”. Cô không bao giờ ngủ nướng. Từ trước khi vào trường y cũng vậy.

Cô dần cảm thấy đầu óc sáng suốt và tỉnh táo, kiểm soát được bản thân hơn, ngoại trừ việc mất khái niệm về thời gian. Cô không biết lúc này là buổi sáng, buổi chiều hay ban đêm. Hay hôm nay là ngày nào.

Cho dù thằng con hoang ấy là ai thì hắn đã ở trong căn phòng bí ẩn, đáng khinh bỉ này trong khi cô ngủ. Ý nghĩ ấy khiến cô thấy phát ớn. Có mẩu giấy đặt trên cái bàn cạnh giường ngủ, nơi mà cô dễ dàng nhìn thấy.

Một lá thư tay. Đầu thư viết Kate yêu dấu. Tay cô run lên khi đọc tên của chính mình.

Tôi muốn em đọc bức thư này, để em có thể hiểu rõ tôi hơn cũng như các quy định chung trong nhà. Đây có lẽ là bức thư quan trọng nhất mà em từng nhận được, do đó em cần đọc cẩn thận. Và hãy nhớ cho kỹ.

Không, tôi không hề điên khùng hay mất kiểm soát. Trên thực tế, tôi hoàn toàn ngược lại. Hãy dùng trí thông minh xuất chúng để chấp nhận rằng tôi không điên, và tôi biết chính xác những gì mình muốn. Hầu hết mọi người đều không biết những gì họ muốn.

Em có vậy không Kate? Chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau. Đó là một chủ đề cần một cuộc thảo luận sinh động và thú vị. Em có biết những gì mình muốn không? Em đạt được chưa? Tại sao không? Vì lợi ích xã hội? Mà xã hội của ai? Chúng ta đang sống cuộc đời của ai?

Tôi không định giả vờ rằng em hạnh phúc khi ở đây, nên sẽ không có màn chào mừng giả tạo đâu. Không có giỏ trái cây tươi và rượu sâm banh bọc trong giấy bóng kính. Như chẳng bao lâu nữa em sẽ nhận thấy, hoặc đã nhận thấy, tôi đã cố gắng hết sức khiến cho em thoải mái khi ở đây. Đây chính là một điểm quan trọng, có lẽ là điểm quan trọng nhất trong nỗ lực đối thoại đầu tiên giữa chúng ta.

Em sẽ không ở đây lâu đâu. Em sẽ ra khỏi đây - nếu, NẾU - em lắng nghe những gì tôi nói… vì thế hãy lắng nghe cho kỹ nhé Kate.

Em vẫn nghe đấy chứ? Hãy lắng nghe đi, Kate. Xua đi những giận dữ chính đáng và những thanh âm hỗn loạn trong đầu mình. Tôi không điên khùng hay mất kiểm soát.

Đây là điểm chính: Tôi là người kiểm soát! Thấy sự khác biệt chưa? Tất nhiên là em thấy. Tôi biết em thông minh như thế nào. Sinh viên đạt giải thưởng quốc gia và những điều đại loại như vậy.

Quan trọng là em phải biết với tôi, em đặc biệt đến thế nào. Đó là lý do tại sao em hoàn toàn an toàn khi ở đây. Đó cũng là lý do tại sao, cuối cùng em sẽ ra khỏi đây.

Cũng phải nói rằng tôi đã chọn em từ hàng ngàn phụ nữ trước mắt. Tôi biết, em sẽ nói “tôi may mắn đấy nhỉ”. Tôi biết em hài hước, và hay giễu cợt thế nào. Tôi thậm chí còn biết rằng em dùng tiếng cười để vượt qua những thời điểm khó khăn. Tôi bắt đầu hiểu em nhiều hơn bất cứ ai từng hiểu em. Cũng gần giống như em hiểu chính mình vậy, Kate.

Bây giờ là đến tin xấu. Và Kate này, những tin tiếp theo cũng quan trọng chẳng kém gì những tin tốt tôi đã nêu ở trên.

Đây là những quy tắc của ngôi nhà, và em cần phải nghiêm túc tuân theo:

1. Nguyên tắc quan trọng nhất: Em không bao giờ được tìm cách chạy trốn - nếu không tôi sẽ xử lý em chỉ trong vài giờ, dù điều đó có đau đớn cho cả hai chúng ta đến thế nào. Tin tôi đi, chuyện này có tiền lệ rồi đấy. Cố tình chạy trốn sẽ không được tha thứ.

2. Quy tắc đặc biệt này chỉ dành cho em thôi Kate: Em không bao giờ được dùng các chiêu karate với tôi. (Tôi suýt mang theo đồng phục của em, bộ đồng phục karate trắng tinh ấy, nhưng sao lại phải xúi giục em chứ.)

3. Em không bao giờ được kêu cứu - Em kêu cứu là tôi biết ngay - và em sẽ bị trừng phạt với khuôn mặt và bộ phận sinh dục bị biến dạng.

Em muốn biết nhiều hơn - em muốn biết tất cả mọi thứ cùng một lúc. Nhưng như vậy không được. Đừng cố gắng tìm hiểu em đang ở đâu. Em không đoán ra đâu, chỉ tổ khiến em nhức đầu vô ích thôi.

Bây giờ cứ thế đã. Tôi đã nói với em nhiều hơn cần thiết. Em hoàn toàn an toàn ở đây. Tôi yêu em nhiều hơn em tưởng. Tôi nóng lòng chờ đến lúc chúng ta nói chuyện, một cuộc nói chuyện thực sự.

Casanova

Và mày đang quẫn trí một cách tuyệt vọng! Kate McTiernan nghĩ khi cô đi lại quanh căn phòng khoảng năm mươi mét vuông. Nhà tù ngột ngạt của cô. Địa ngục trần gian của cô.

Cơ thể cô như đang nổi lềnh phềnh, như bị bao quanh bởi chất lỏng nhớt ấm. Cô tự hỏi liệu có phải mình đã bị chấn thương đầu trong cuộc tấn công.

Cô chỉ có một suy nghĩ: làm thế nào để chạy trốn. Cô bắt đầu phân tích tình hình theo mọi cách có thể. Cô đảo ngược những giả định thông thường, và phân tích từng chi tiết.

Chỉ có một cánh cửa gỗ dày, hai lần khóa.

Không có cách nào ra khỏi đây trừ phi qua cánh cửa đó.

Không! Đó chỉ là cách phán đoán thông thường. Phải có một cách khác.

Cô nhớ lại một câu đố giải quyết tình huống trong khóa học đại học vô bổ về logic mà cô đã từng theo học trước đây. Câu đố bắt đầu với mười que diêm được sắp xếp theo chữ số La Mã trong một phương trình toán học:

XI + I = X

Vấn đề là làm sao sửa lại phương trình thành đúng mà không chạm vào bất cứ một que diêm nào. Không thêm vào những que mới. Không rút đi bất kỳ que nào.

Không một phương án dễ dàng.

Không một giải pháp khả thi.

Rất nhiều sinh viên không thể giải được câu đố nhưng cô đã phát hiện ra cách giải tương đối nhanh chóng. Lời giải chính ở chỗ không ai ngờ tới. Cô giải quyết nó bằng cách đảo ngược giả thuyết thông thường. Cô lộn ngược trang giấy lại:

X = I + IX

Nhưng cô không thể làm cho căn phòng giam cầm mình lộn ngược. Hay, biết đâu đấy? Kate McTiernan kiểm tra từng tấm sàn và mỗi một phân tường. Gỗ có mùi rất mới. Có lẽ hắn là thợ xây, chủ thầu, hoặc kiến trúc sư chăng?

Không lối thoát.

Không một giải pháp khả thi.

Cô không thể, sẽ không chấp nhận câu trả lời.

Cô nghĩ đến việc quyến rũ hắn ta - nếu cô miễn cưỡng phải làm điều đó. Không. Hắn quá thông minh. Hắn sẽ biết. Tệ hơn nữa, cô sẽ biết.

Nhất định phải có cách. Cô sẽ tìm ra.

Kate nhìn chằm chằm vào mảnh giấy trên bàn cạnh giường ngủ.

Em không bao giờ được tìm cách chạy trốn - nếu không tôi sẽ xử lý em chỉ trong vài giờ.
 
Chương 27


Buổi chiều hôm sau, tôi đến vườn Sarah Duke, nơi Naomi đã bị bắt cóc sáu ngày trước. Tôi cần phải đến đó, đến thăm hiện trường, để nghĩ về cháu gái tôi, để lặng lẽ khóc thương.

Bên cạnh trung tâm y tế Đại học Duke là khu vườn rừng rộng khoảng hơn hai mươi hécta với phong cảnh tuyệt đẹp, những lối đi với hàng cây dọc hai bên đường dài đúng hàng cây số. Còn vị trí nào thuận lợi hơn để Casanova tiến hành vụ bắt cóc. Hắn đã tính toán kỹ càng. Quá hoàn hảo, cho đến lúc này. Sao hắn có thể làm được điều đó?

Tôi đã nói chuyện với các giáo viên và một số sinh viên có mặt ở khu vườn vào ngày Naomi mất tích. Những khu vườn xinh xắn chính thức mở cửa từ sáng sớm cho đến chiều tối. Lần cuối cùng có người nhìn thấy Naomi là khoảng bốn giờ. Casanova đã bắt cóc cô bé giữa ban ngày ban mặt. Tôi không hiểu hắn làm thế nào. Vẫn chưa hiểu nổi. Cảnh sát Durham hay FBI cũng vậy.

Tôi đi quanh khu rừng và vườn trong gần hai giờ. Tôi không thể gạt khỏi đầu suy nghĩ Scootchie bị đưa đi ngay tại đây.

Một nơi được gọi là sân vườn mới tuyệt đẹp làm sao. Khách tham quan bước vào sẽ đi qua một giàn dây đậu tía leo. Cầu thang gỗ xinh xắn dẫn xuống một ao cá hình dạng kỳ lạ, ngay đằng sau là một khu vườn đá. Nhìn bao quát, sân vườn là những dải đá xếp ngang, nổi bật với những sọc màu đẹp nhất. Hoa tulip, đỗ quyên, hoa trà, diên vĩ, và mẫu đơn thi nhau khoe sắc.

Trực giác mách tôi rằng Scootchie rất thích chốn này.

Tôi quỳ xuống gần một khóm hoa tulip vàng và đỏ tươi hết sức sặc sỡ. Tôi mặc bộ vest xám với áo sơ mi trắng hở cổ. Nền đất mềm làm bẩn quần, nhưng tôi không quan tâm. Tôi cúi đầu xuống. Cuối cùng, tôi khóc vì thương nhớ Scootchie.
 
Chương 28


Tích tắc. Tích tắc

Kate McTiernan nghĩ mình nghe thấy gì đó. Cũng có thể là do cô tưởng tượng. Chắc chắn ở nơi này người ta chỉ muốn phát điên.

Lại âm thanh đó. Sàn gỗ phát ra những âm thanh kẽo kẹt nhỏ xíu. Cửa mở, hắn bước vào phòng mà không nói một lời.

Hắn kia rồi! Casanova. Hắn đã đeo một chiếc mặt nạ khác. Trông hắn giống như một loại chúa tể hắc ám - xương xương, dẻo dai. Đây là hình ảnh tưởng tượng của hắn về chính mình hay sao?

Về mặt hình thể, hắn có lẽ được coi là một gã lực lưỡng tại trường đại học, hay thậm chí là một xác chết trong phòng khám nghiệm tử thi, cách ví von thứ hai cô thấy đúng hơn.

Cô để ý tới quần áo của hắn: quần jean xanh bó sát, bạc phếch, ủng cao bồi đen lấm lem đất, không mặc áo sơ mi. Hắn có cơ thể cực kỳ săn chắc, ắt hẳn rất tự hào về bộ ngực cuồn cuộn của mình. Cô cố gắng nhớ tất cả mọi thứ - để chờ đến giây phút chạy trốn.

“Tôi đã đọc tất cả các quy tắc,” Kate nói, cố hết sức tỏ ra bình tĩnh dù người run lẩy bẩy. “Rất tỉ mỉ, rõ ràng.”

“Cảm ơn. Không ai thích quy tắc cả, tôi lại càng không. Nhưng đôi khi lại cần thế.”

Chiếc mặt nạ che giấu khuôn mặt hắn và thu hút sự chú ý của Kate. Cô không cách nào rời mắt khỏi nó. Nó gợi cho cô nhớ về những chiếc mặt nạ trang trí tinh xảo ở Venice. Một chiếc mặt nạ vẽ tay, đầy tính lễ nghi trong từng chi tiết nghệ thuật, và đẹp kỳ lạ. Có phải hắn ta đang cố tỏ ra quyến rũ? Kate tự hỏi. Thật sao?

“Tại sao anh lại đeo mặt nạ?” cô hỏi, giữ giọng nói ra vẻ khúm núm, tò mò, nhưng không vặn vẹo.

“Như tôi đã nói trong mảnh giấy đó, sẽ có ngày em được tự do. Em sẽ được thả. Đó là tất cả những gì trong kế hoạch dành cho em. Tôi thật không chịu nổi khi thấy em tổn thương.”

“Nếu tôi ngoan ngoãn. Nếu tôi tuân lệnh.”

“Ừ. Nếu em ngoan thì tôi cũng không khó khăn lắm đâu Kate ạ. Tôi thích em vô cùng.”

Cô muốn tấn công hắn, muốn tóm hắn. Bây giờ chưa phải lúc, cô cảnh cáo bản thân. Đợi đến khi mày chắc chắn đã. Mày sẽ chỉ có một cơ hội đánh bại hắn thôi.

Hắn dường như đọc được ý nghĩ của cô. Hắn rất nhanh trí, rất sáng suốt.

“Không karate,” hắn nói, và cô cảm thấy hắn đang mỉm cười phía sau mặt nạ. “Hãy nhớ điều đó, Kate. Tôi đã chứng kiến bài biểu diễn của em trên võ đường. Tôi đã dõi theo em. Em rất nhanh nhẹn, mạnh mẽ. Tôi cũng vậy. Tôi chả lạ gì võ thuật đâu.”

“Tôi có nghĩ thế đâu.” Kate cau mày nhìn lên trần nhà. Cô trợn ngược mắt. Cô nghĩ trong trường hợp đầy căng thẳng này thì diễn như vậy là hợp lý. Emma Thompson hay Holly Hunter[1] không bị đe dọa, nhưng phải tử tế.

[1] Emma Thompson (1959), diễn viên, nhà biên kịch người Anh. Holly Hunter (1958), diễn viên Mỹ.

“Nếu vậy thì tôi xin lỗi. Tha lỗi cho tôi,” hắn nói. “Tôi không nên suy bụng ta ra bụng người. Tôi sẽ không làm như vậy nữa. Hứa đấy.”

Đôi lúc, hắn xem ra khá bình thường, nhưng đó lại là điều khiến cô khiếp sợ hơn bất cứ thứ gì khác cho đến lúc này. Trông họ cứ như đang trò chuyện thân tình trong một ngôi nhà xinh xắn bình thường, chứ không phải ở ngôi nhà kinh dị của hắn.

Kate nhìn bàn tay hắn. Các ngón tay khá dài, thậm chí có thể được coi là thanh lịch. Bàn tay của một kiến trúc sư? Của bác sĩ? Hay của nghệ sĩ? Chắc chắn không phải bàn tay của người lao động chân tay.

“Vậy anh muốn gì ở tôi?” Kate quyết định hỏi trực tiếp hắn. “Tại sao tôi ở đây? Tại sao là căn phòng này, những bộ quần áo này? Tất cả những gì về tôi?”

Giọng hắn vẫn nhẹ nhàng, bình tĩnh. Đúng là hắn đang cố gắng quyến rũ cô. “Ồ, tôi đoán tôi muốn yêu, và được đắm chìm trong tình yêu một thời gian. Mỗi ngày, tôi muốn cảm nhận sự lãng mạn thực sự khi còn có thể. Tôi muốn cảm thấy một cái gì đó thật đặc biệt trong cuộc sống. Tôi muốn được gần gũi người khác. Tôi không khác người. Ngoại trừ việc tôi hành động thay vì mơ mộng…”

“Anh không cảm thấy bất cứ điều gì sao?” cô hỏi, vờ quan tâm đến hắn. Cô biết rằng những kẻ tâm thần xã hội thì không thể có cảm xúc, ít nhất theo sự hiểu biết của cô.

Hắn nhún vai. Cô cảm thấy hắn đang mỉm cười lần nữa, cười cô. “Đôi khi tôi có rất nhiều cảm xúc. Tôi nghĩ mình quá nhạy cảm. Tôi có thể nói với em rằng em đẹp thế nào không?”

“Trong hoàn cảnh hiện tại thì tôi mong là không.”

Hắn cười thoải mái và nhún vai lần nữa. “Được rồi. Thỏa thuận vậy nhé? Ta không nói chuyện ngọt nhạt. Ít nhất không phải bây giờ. Hãy nhớ rằng tôi có thể lãng mạn. Tôi thích thế lắm.”

Cô không kịp chuẩn bị cho hành động bất ngờ, nhanh như sóc của hắn. Khẩu súng gây mê bỗng đâu thò ra bắn trúng cô, nòng súng giật mạnh. Cô nhận ra tiếng súng lách cách, ngửi thấy mùi ozone. Kate ngã dúi dụi vào tường phòng ngủ, cộc đầu vào tường. Cú va chạm khiến cả ngôi nhà rung chuyển - dù cô đang bị giam giữ ở đâu chăng nữa.

“Ôi! Chúa, không,” Kate khẽ rên rỉ.

Hắn đang đè lên người cô. Tay chân vung lên, tất cả trọng lượng của hắn đổ dồn xuống người cô. Hắn sẽ giết cô ngay bây giờ. Ôi Chúa ơi, cô không muốn chết như thế này, kết thúc cuộc sống của mình theo cách này. Thật là vô nghĩa, ngớ ngẩn, thê thảm.

Cơn thịnh nộ dữ dội bừng bừng trào lên trong người cô. Với một nỗ lực tuyệt vọng, cô cố tung chân đá, nhưng không thể cử động cánh tay. Ngực cô nóng ran. Cô cảm thấy hắn xé tung áo, rờ rẫm cơ thể cô. Hắn đang lên cơn dục tính. Cô cảm thấy hắn đang cọ xát vào cô.

“Không, xin đừng,” cô rên rỉ. Giọng cô nghe mơ hồ.

Hắn dùng cả hai tay bóp vú cô. Cô nếm thấy vị máu, những giọt máu ấm nhỏ từ khóe môi. Cuối cùng Kate khóc. Cô uất nghẹn, hầu như không thở được.

“Tôi chỉ cố gắng tỏ ra thân thiện thôi mà,” hắn nói qua hàm răng nghiến chặt.

Hắn bất ngờ dừng lại. Hắn nhổm dậy và cởi phắt chiếc quần jean xanh xuống mắt cá chân. Hắn không thèm cởi hẳn quần ra.

Kate nhìn chằm chằm lên hắn. dương v*t của hắn rất lớn. Cương cứng hết cỡ, tươi sáng với máu rần rật và tĩnh mạch dày. Hắn gieo mình xuống người cô và cọ xát vào cơ thể cô, dần dần từ vú, lên cổ, rồi đến mắt môi.

Kate bắt đầu chìm vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, giữa hư và thực. Cô cố gắng bám vào mỗi suy nghĩ chợt đến với mình. Cô cần cảm thấy được kiểm soát, dù chỉ là kiểm soát suy nghĩ của chính mình.

“Mở mắt ra đi,” hắn cảnh báo cô với một tiếng gầm sâu trong cổ họng. “Hãy nhìn tôi này, Kate. Đôi mắt của em đẹp lắm. Em là người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng biết. Em biết không? Em có biết em khêu gợi thế nào không?”

Hắn đang đê mê. Kate dường như cũng tê dại. Cơ thể mạnh mẽ của hắn uốn éo, trườn bò, quằn quại khi hắn ra vào cửa mình cô. Hắn ngồi dậy mân mê bộ ngực cô lần nữa. Hắn vuốt tóc rồi rờ khắp mặt cô. Những va chạm dần trở nên nhẹ nhàng. Điều đó chỉ làm cô khổ sở hơn. Cô cảm thấy nhục nhã và xấu hổ kinh khủng. Cô căm thù hắn.

“Tôi yêu em nhiều lắm, Kate ạ. Tôi yêu em nhiều đến mức không diễn đạt nổi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy như thế này. Tôi đảm bảo là chưa bao giờ. Chưa bao giờ giống như thế này.”

Kate nhận ra hắn không định giết cô. Hắn sẽ để cô sống. Hắn sẽ trở lại nhiều lần nữa bất cứ khi nào hắn muốn cô. Cảm xúc sợ hãi lấn chiếm khiến Kate cuối cùng cũng ngất đi. Cô để mặc mình chìm vào vô thức.

Cô không hề hay biết lúc hắn đặt lên môi cô nụ hôn tạm biệt nhẹ nhàng nhất. “Tôi yêu em, Kate yêu dấu. Và tôi thực sự xin lỗi về điều này. Tôi có thể cảm thấy… tất cả.”
 
Chương 29


Tôi nhận được điện thoại khẩn từ một sinh viên luật và cũng là bạn cùng lớp của Naomi. Cô gái tự xưng là Florence Campbell và cần phải nói chuyện với tôi càng sớm càng tốt. Cô gái nói, “Cháu cần nói chuyện với chú, tiến sĩ Cross. Việc cấp bách lắm ạ.”

Tôi gặp cô bé trong khuôn viên Duke, gần trung tâm Đại học Bryan. Florence hóa ra là một cô gái da đen khoảng ngoài hai mươi tuổi. Chúng tôi đi giữa những cây mộc lan và toà nhà học đường vững chãi mang phong cách Gothic. Cả hai chúng tôi đều trông lạc lõng với nơi này.

Florence là một cô gái cao ráo, rụt rè và ban đầu có phần bí ẩn. Cô bé có mái tóc cứng cắt cao khiến tôi liên tưởng đến nữ hoàng Ai Cập Nefertiti. Vẻ ngoài của cô rõ ràng là kỳ quặc, hoặc có thể nói là quê mùa, làm tôi liên tưởng đến những người giống như vậy vẫn còn tồn tại ở vùng nông thôn Mississippi hay Alabama. Florence đã tốt nghiệp đại học bang Mississippi, cách rất xa đại học Duke.

“Cháu rất, rất xin lỗi, tiến sĩ Cross,” cô bé nói sau khi chúng tôi ngồi xuống chiếc ghế băng bằng đá và gỗ, tay vịn khắc đầy những sự kiện đáng nhớ của sinh viên. “Cháu xin lỗi chú và gia đình chú.”

“Cháu xin lỗi về điều gì chứ, Florence?” tôi hỏi cô bé. Tôi không hiểu ý cô.

“Cháu đã không đến nói chuyện với chú khi chú tới trường ngày hôm qua. Chẳng ai biết chắc Naomi có bị bắt cóc hay không. Cảnh sát Durham chắc chắc không biết. Họ chỉ suy nghĩ đơn giản mà thôi. Họ còn không cho rằng Naomi đang gặp rắc rối thực sự nữa kìa.”

“Tại sao cháu nghĩ vậy?” tôi hỏi Florence điều đang khiến tôi băn khoăn.

Cô bé nhìn sâu vào mắt tôi. “Bởi vì Naomi là một phụ nữ Mỹ gốc Phi. Cảnh sát Durham, FBI, họ không quan tâm tới chúng cháu như phụ nữ da trắng.”

“Cháu tin là vậy à?” tôi hỏi cô bé.

Florence Campbell trợn tròn mắt. “Đó là sự thật, sao lại không tin chứ? Frantz Fanon cũng chỉ rõ rằng nạn phân biệt chủng tộc vĩnh viễn tồn tại trong nền kinh tế, tâm lý, và văn hóa của xã hội. Cháu cũng nghĩ như vậy.”

Florence là một phụ nữ rất nghiêm túc. Cô bé kẹp cuốn The Omni-Americans của Albert Murray dưới cánh tay. Tôi bắt đầu thích phong cách ấy. Đã đến lúc tìm hiểu cô bé biết bí mật gì về Naomi.

“Nói cho chú biết ở đây có chuyện gì đi, Florence. Cháu không cần phải đắn đo suy nghĩ vì chú là chú của Naomi, hoặc bởi chú là thám tử điều tra. Chú cần ai đó giúp mình thoát ra khỏi mớ bòng bong này. Chú đang phải chống lại cả một hệ thống quan chức ở Durham đấy.”

Florence mỉm cười, khẽ vuốt mớ tóc lòa xòa trước mặt. Cô bé có nét giống triết gia Đức Immanuel Kant, lại có nét giống nhân vật Prissy trong Cuốn theo chiều gió. “Cháu sẽ nói cho chú những gì cháu biết cho đến nay, Tiến sĩ Cross. Đây là lý do tại sao mấy cô bạn ở ký túc xá không hài lòng về Naomi.”

Cô hít một hơi thơm mùi mộc lan. “Mọi chuyện bắt đầu với một người tên là Seth Samuel Taylor. Anh ấy là nhân viên xã hội trong khu ổ chuột Durham. Cháu đã giới thiệu Naomi với Seth. Đó là anh họ cháu.” Đang nói, Florence đột nhiên tỏ ra hơi ngập ngừng.

“Chú vẫn chưa thấy vấn đề nằm ở đâu,” tôi nói với cô bé.

“Seth Samuel và Naomi yêu nhau từ khoảng tháng Mười hai năm ngoái,” cô bé nói tiếp. “Naomi cứ mơ mộng vẩn vơ, chẳng giống cô ấy chút nào, như chú biết đấy. Đầu tiên, Seth đến ký túc xá chơi nhưng sau đó bạn ấy bắt đầu đến sống tại căn hộ của anh ấy ở Durham.”

Tôi hơi ngạc nhiên khi biết Naomi giấu kín chuyện yêu đương với Cilla. Tại sao cô bé không nói với bất kỳ ai trong chúng tôi? Nhưng tôi vẫn không hiểu điều ấy thì có liên quan gì đến các cô bạn khác ở ký túc xá.

“Chú chắc rằng Naomi không phải nữ sinh đầu tiên biết yêu tại Duke. Hoặc vời đàn ông con trai đến nhà uống trà, ăn bánh hay bất kỳ việc gì,” tôi nói.

“Cô ấy không chỉ mời đàn ông con trai đến nhà làm bất kỳ việc gì mà là mời một người đàn ông da đen đến làm bất kỳ việc gì. Seth thường từ khu ổ chuột đến, vận nguyên bộ áo liền quần và đôi ủng bụi bặm cùng áo khoác da lao động. Naomi bắt đầu đội mũ rơm tá điền đi lại xung quanh khuôn viên. Đôi khi Seth đội một chiếc mũ bảo hiểm lao động với dòng chữ “lao động nô lệ”. Anh ấy dám có những lời nhận xét hơi mỉa mai châm biếm về hoạt động xã hội của các nữ sinh cũng như nhận thức xã hội của họ, phỉ phui quá. Anh ấy mắng mỏ những người giúp việc da đen khi họ cố gắng làm tốt công việc của mình.”

“Cháu nghĩ gì về Seth, anh họ cháu?” tôi hỏi Florence.

“Seth rất dễ bị kích động. Anh ấy tức giận về nạn phân biệt chủng tộc đến nỗi đôi khi nó lấn át lý trí của anh ấy. Ngoài điều đó ra thì anh ấy thực sự tuyệt vời. Anh ấy là người sẵn sàng hành động, không ngại khó ngại khổ. Nếu anh ấy không phải là anh họ xa của cháu thì…,” Florence nháy mắt nói.

Tôi bật cười vì khiếu hài hước ngầm của Florence. Cô là một cô gái nhỏ rụt rè vùng Mississippi nhưng lại rất thẳng thắn. Tôi thậm chí bắt đầu thích kiểu tóc cắt cao của cô bé.

“Cháu và Naomi kết thân rất nhanh phải không?” tôi hỏi cô bé.

“Ban đầu thì không ạ. Cháu nghĩ chúng cháu đều cảm thấy phải cạnh tranh nhau trong môn Rà soát luật. Có lẽ chỉ duy nhất một phụ nữ da đen làm được điều đó, chú biết đấy. Nhưng năm đầu tiên qua đi, chúng cháu trở nên gần gũi dần. Cháu yêu quý Naomi. Bạn ấy là người tuyệt vời nhất.”

Đột nhiên tôi băn khoăn lẽ nào sự biến mất của Naomi có liên quan tới bạn trai của cô bé, mà không liên quan gì tới kẻ giết người nhởn nhơ ở Bắc Carolina.

“Anh ấy là người rất tốt. Chú đừng làm anh ấy tổn thương nhé,” Florence cảnh cáo tôi. “Thậm chí chú cũng đừng nghĩ đến chuyện đó.”

Tôi gật đầu. “Chú sẽ chỉ bẻ gãy một chân của anh ta thôi.”

“Anh ấy khỏe như trâu,” cô bé đáp lại tôi.

“Còn chú là trâu đấy,” tôi nói với Florence Campbell, chia sẻ với cô bé bí mật nhỏ của riêng tôi.
 
Chương 30


Tôi nhìn chằm chằm vào đôi mắt đen của Seth Samuel Taylor. Anh ta nhìn lại tôi. Tôi vẫn không rời mắt. Đôi mắt anh như hai hạt hạnh nhân bằng đá cẩm thạch màu đen huyền.

Bạn trai Naomi cao to, cơ bắp cuồn cuộn, và là típ người người lao động chăm chỉ. Tôi thấy anh ta giống sư tử non hơn là trâu bò. Trông anh ta thật phiền muộn, hỏi cung chắc là khó đây. Tôi có linh cảm rằng Naomi sẽ biến mất mãi mãi.

Seth Taylor không cạo râu, nhìn là thấy ngay nhiều ngày qua anh ta không ngủ. Chắc anh ta cũng chẳng buồn thay quần áo. Anh ta mặc sơ mi ca rô nhăn nheo màu xanh dương bên ngoài áo phông, và quần jean Levi’s dòng 501 thủng lỗ chỗ. Anh ta vẫn đi đôi bốt lao động bụi bặm. Trông Seth Taylor có vẻ đau buồn cùng cực, trừ phi anh ta là một diễn viên xuất sắc.

Tôi đưa tay ra, anh ta liền bắt chặt tay tôi. Tôi cảm thấy như thể bị kẹp tay vào ê tô của thợ mộc.

“Trông chú khiếp quá” là những từ đầu tiên Seth Taylor nói với tôi. Bài hát “Humpty Dance” của nhóm nhạc Digital Underground oang oang đâu đó quanh khu phố. Như ở D.C. vậy, chỉ có điều hơi quê mùa.

“Cậu cũng thế.”

“Vâng, mẹ kiếp,” anh ta nói. Đó là lời chào quen thuộc trên đường phố, cả hai chúng tôi đều biết nên cùng cười.

Nụ cười của Seth ấm áp, và có đôi chút lan tỏa. Anh ta có vẻ quá tự tin về bản thân, nhưng tính ấy cũng không khó chịu lắm. Vẫn là hình ảnh quen thuộc tôi từng thấy trước đây.

Tôi đoán chiếc mũi to của anh ta đã bị gãy vài lần, nhưng trông vẫn đẹp trai theo phong cách bụi bặm. Sự hiện diện của anh ta bao trùm lên căn phòng giống như Naomi vậy. Bản năng thám tử trong tôi tò mò về Seth Taylor.

Seth sống trong vùng dành cho dân lao động ở phía Bắc trung tâm Durham. Trước đây, vùng này toàn công nhân nhà máy thuốc lá. Căn hộ của anh ta nằm trong ngôi nhà ván ốp cũ được tách thành hai. Áp phích phim Arrested Development và nhạc sĩ kiêm diễn viên Ice-T treo khắp tường hành lang. Một áp phích có đề: Từ thời kỳ nô lệ đến giờ, người da màu chưa từng phải gánh chịu tai ương nào lớn đến thế.

Bạn bè và hàng xóm ngồi đầy trong phòng khách. Loa đang phát những bài ca buồn của Smokey Robinson. Bạn bè đến để giúp tìm kiếm Naomi. Cuối cùng, có lẽ tôi đã có một số đồng minh ở phía Nam này.

Tất cả mọi người trong căn hộ đều muốn tâm sự với tôi về Naomi. Không ai trong số họ tỏ ý nghi ngờ Seth Samuel.

Tôi đặc biệt ấn tượng với một người phụ nữ có đôi mắt lanh lợi, nhạy cảm, và làn da màu cà phê kem. Keesha Bowie ngoài ba mươi tuổi, là nhân viên bưu điện tại Durham. Naomi và Seth đã thuyết phục cô trở lại trường học để lấy tấm bằng tốt nghiệp ngành tâm lý học. Cô và tôi nhanh chóng làm thân.

“Naomi là người có học thức, ăn nói rất lưu loát, nhưng anh biết rồi còn gì.” Keesha kéo tôi ra một góc mà nghiêm túc nói. “Nhưng Naomi không bao giờ lấy khả năng và học thức của mình ra để hạ thấp người khác, hoặc tỏ vẻ kênh kiệu. Khi gặp cô ấy, chúng tôi ai ai cũng ấn tượng. Cô ấy sống thật lắm, Alex ạ. Lòng dạ cô ấy không có tí giả tạo nào. Chuyện xảy ra với cô ấy quả là đáng tiếc.”

Tôi nói chuyện với Keesha thêm một lát và thấy rất mến cô. Cô thật thông minh, xinh đẹp, nhưng giờ không phải lúc cho chuyện đó. Tôi tìm Seth thì thấy anh ta lên tầng hai một mình. Cửa sổ phòng ngủ mở, anh ta ngồi trên mái nhà hơi dốc. Robert Johnson đang hát giai điệu blues ám ảnh của mình đâu đó trong màn đêm.

“Tôi ra ngoài ngồi cùng cậu thì có phiền không? Cái mái nhà cũ này đủ cho cả hai chúng ta chứ?” tôi nói vọng ra từ cửa sổ.

Seth mỉm cười. “Cùng lắm thì chúng ta trượt xuống hiên trước, rồi mọi người sẽ có trò vui mà xem đây. Có ngã gãy cổ cũng đáng. Nếu chú muốn thì ra đây với cháu.” Giọng anh ta cất lên ngọt ngào, du dương, hơi ê a. Tôi có thể hiểu tại sao Naomi thích anh chàng này.

Tôi leo ra ngoài ngồi với Seth Samuel trong bóng tối bao trùm lên Durham. Chúng tôi nghe thấy còi xe cảnh sát phiên bản tỉnh lẻ và tiếng hò hét phấn khích trong vùng nội đô.

“Chúng cháu từng ngồi ở đây,” Seth thì thà thì thầm. “Naomi và cháu.”

“Cậu không sao chứ?” tôi hỏi anh ta.

“Có sao đấy. Đời cháu chưa gặp chuyện gì tồi tệ đến thế. Còn chú?”

“Chưa bao giờ tồi tệ hơn.”

“Sau khi chú gọi,” Seth nói, “cháu đã suy nghĩ về chuyến thăm này, về cuộc nói chuyện mà chúng ta cuối cùng phải có. Cháu đã cố gắng suy nghĩ theo cách của chú. Chú biết đấy, giống như thám tử cảnh sát. Nhưng xin chú đừng nghĩ rằng cháu có liên quan gì đến việc Naomi mất tích. Đừng phí thời gian vào việc đó.”

Tôi nhìn sang Seth Samuel. Anh ta khom người, cúi đầu gần sát vào ngực. Ngay cả trong bóng tối, tôi cũng thấy đôi mắt đó đang đẫm lệ. Trông anh ta đau buồn cùng cực. Tôi muốn nói với anh ta rằng chúng tôi sẽ tìm ra cô bé và rằng mọi việc sẽ được giải quyết, nhưng bản thân tôi còn không biết chắc.

Cuối cùng, chúng tôi ôm lấy nhau. Chúng tôi đều nhớ Naomi theo cách riêng của mình, cùng nhau thương nhớ, trên mái nhà tối.
 
Chương 31


Tối đó, người bạn của tôi ở FBI cuối cùng cũng trả lời một trong các cuộc gọi của tôi. Lúc ấy tôi đang đọc sách: Sách chẩn đoán và thống kê về chứng rối loạn tâm thần. Tôi đang lập hồ sơ về Casanova và mọi việc vẫn tiến triển hết sức chậm chạp.

Tôi gặp đặc vụ Kyle Craig lần đầu trong cuộc săn lùng tên bắt cóc hàng loạt Gary Soneji dai dẳng, đầy gian khổ. Kyle là người trung thực, thẳng thắn. Anh không địa phương chủ nghĩa như hầu hết các đặc vụ FBI khác, và cũng không quá cứng nhắc với tiêu chuẩn của Cục. Đôi khi tôi nghĩ anh không thuộc về FBI. Anh quá nhân hậu.

“Cảm ơn vì cuối cùng đã trả lời cuộc gọi của tôi, người lạ ạ,” tôi nói qua điện thoại. “Lâu nay anh làm việc ở đâu thế?”

Câu trả lời của Kyle khiến tôi ngạc nhiên. “Tôi ở Durham, Alex ạ. Nói chính xác hơn, tôi đang ở trong tiền sảnh khách sạn anh đang ở. Xuống đây nhâm nhi vài cốc bia trong căn phòng Bull Durham tầm thường này đi. Tôi cần phải nói chuyện với anh. Tôi chuyển lời nhắn đặc biệt của chính J.Edgar[1] cho anh đấy.”

[1] John Edgar Hoover (1895-1972), giám đốc đầu tiên của FBI, một người có sự nghiệp hiển hách nhưng cũng đầy tai tiếng.

“Tôi xuống ngay đây. Tôi cứ tự hỏi chuyện gì xảy ra với lão huênh hoang ấy kể từ khi lão ta giả chết.”

Kyle ngồi bên chiếc bàn hai người kế cửa sổ lớn lồi ra ngoài. Cửa sổ nhìn thẳng ra bãi cỏ xanh của sân golf trường đại học. Một người cao gầy lêu nghêu trông giống nam sinh đang chỉ dẫn một sinh viên trường Duke cách đẩy nhẹ bóng vào lỗ trong bóng tối. Nhà thể thao đứng sau một người phụ nữ, hướng dẫn những động tác đẩy nhẹ bóng chính xác nhất.

Kyle xem bài học trên sân golf với vẻ thích thú ra mặt. Còn tôi nhìn Kyle cũng với vẻ thích thú ra mặt. Anh quay ra như cảm nhận được sự hiện diện của tôi.

“Giời ạ, anh luôn đánh hơi được chuyện xấu đấy nhỉ,” anh nói thay cho lời chào. “Tôi rất tiếc khi biết cháu gái anh mất tích. Rất vui được gặp anh, dù trong hoàn cảnh đáng buồn, trái ngang hết sức này.”

Tôi ngồi xuống đối diện với viên đặc vụ, và chúng tôi bắt đầu hỏi thăm tình hình của nhau. Như mọi khi, anh cực kỳ lạc quan và tích cực mà không ngờ nghệch. Đó là biệt tài của anh. Một số người cho rằng Kyle có thể lên chức giám đốc Cục, và đó sẽ là điều tốt đẹp nhất từng xảy ra.

“Đầu tiên, ngài Ronald Burns đáng kính xuất hiện ở Durham. Bây giờ là anh. Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi Kyle.

“Hãy nói cho tôi anh biết gì nào,” anh đáp. “Đổi lại tôi sẽ cho anh biết những gì tôi biết.”

“Tôi đang lập hồ sơ tâm lý về những phụ nữ bị sát hại,” tôi nói với Kyle. “Cái được gọi là người bị loại bỏ ấy. Trong hai vụ, những người phụ nữ bị loại bỏ có tính cách rất mạnh mẽ. Chắc họ đã gây cho hắn nhiều rắc rối. Có lẽ vì vậy mà hắn giết họ, trừ khử họ. Trường hợp ngoại lệ là Bette Anne Ryerson. Cô ấy là một người mẹ, đang điều trị, chắc hẳn đã bị suy nhược thần kinh.”

Kyle đưa tay xoa da đầu, đồng thời lắc đầu. “Những điều anh vừa nói không có gì mới và cũng không giúp được gì cho tôi. Nhưng ố ồ” - anh mỉm cười với tôi “anh vẫn đi trước người của chúng tôi nửa bước. Đây là lần đầu tiên tôi nghe đến thuyết ‘người bị loại bỏ’. Nó khá thú vị đấy, Alex, đặc biệt nếu hắn là một gã thích kiểm soát.”

“Hắn chắc chắc là một gã thích kiểm soát, Kyle ạ. Đó là lý do hoàn toàn hợp lý cho việc hắn trừ khử ba người phụ nữ kia. Bây giờ đến lượt anh nói cho tôi những điều tôi chưa biết.”

“Tôi có thể nói nhưng anh cần trả lời tôi một số câu hỏi đơn giản nữa, anh bạn ạ. Ngoài ra anh còn phát hiện điều gì nữa?”

Tôi vừa lừ mắt nhìn Kyle vừa từ tốn uống một hớp bia. “Anh biết không, tôi tưởng anh chơi được, nhưng anh cũng lại là một gã khó chịu khác của FBI thôi.”

“Tôi được lập trình sẵn ở Quantico mà,” Kyle ngọng nghịu nhại giọng của máy vi tính. “Anh đã lập xong hồ sơ tâm lý về Casanova chưa?”

“Tôi đang làm.” Tôi nói với anh ta điều anh ta cũng đã biết. “Cố gắng hết sức trong khi hầu như chẳng có thông tin gì.”

Kyle khum khum mấy ngón tay phải, ra hiệu cho tôi nói. Anh muốn biết tất, và sau đó có lẽ sẽ chia sẻ điều gì đó với tôi.

“Hắn phải là người có khả năng hòa nhập cộng đồng tốt,” tôi nói. “Thậm chí chẳng có ai đến gần bắt hắn được. Hắn có thể bị chi phối bởi những ảo tưởng tình dục ám ảnh tương tự mà mình từng có hồi nhỏ. Có lẽ hắn từng là nạn nhân của lạm dụng tình dục, hoặc loạn luân. Hắn từng là kẻ thị dâm, cưỡng dâm hoặc hiếp dâm qua hẹn hò cũng nên. Bây giờ hắn là kẻ cuồng sưu tập những phụ nữ vô cùng xinh đẹp; có vẻ như hắn chỉ chọn những người đặc biệt. Hắn đang nghiên cứu họ, Kyle ạ. Tôi gần như chắc chắn về điều đó. Hắn cô đơn. Có lẽ vì thế mà hắn tìm kiếm người phụ nữ hoàn hảo.”

Kyle gật đầu lia lịa. “Anh xuất sắc bỏ cha. Anh nghĩ giống hắn!”

“Không buồn cười đâu.” Tôi kẹp má Kyle bằng ngón cái và ngón trỏ. “Bây giờ hãy nói cho tôi biết cái mà tôi không biết đi chứ.”

Kyle giằng ra khỏi gọng kìm của tôi. “Vậy thì thỏa thuận nhé Alex. Đây là một thỏa thuận có lợi, do đó đừng nghi ngờ tôi.”

Tôi giơ tay ra hiệu gọi phục vụ bàn. “Tính tiền! Ai trả tiền người nấy.”

“Không, không. Chờ đã. Đây là một thỏa thuận có lợi, Alex. Tôi ghét phải nói, ‘Hãy tin tôi,’ nhưng thực sự là hãy tin tôi. Và để chứng minh cho lòng trung thực của mình, tôi chỉ là không thể nói cho anh biết tất cả mọi điều ngay bây giờ. Tôi thừa nhận vụ này chắc chắn lớn hơn bất cứ vụ nào từ trước đến nay. Anh đã đúng về Burns. Ngài phó giám đốc không phải tự nhiên mà lại xuống đây.”

“Tôi đoán Burns không đến đây để xem đỗ quyên[2].” Tôi gần như hét toáng lên với Kyle bên trong quầy bar yên tĩnh của khách sạn. “Được rồi, hãy nói cho tôi biết một điều mà tôi không biết đi.”

[2] Lễ hội hoa đỗ quyên được tổ chức hằng năm tại thành phố Wilmington, Bắc Carolina. Lễ hội bao gồm hoạt động triển lãm nghệ thuật địa phương, các vườn hoa nghệ thuật và lịch sử thành phố Wilmington.

“Tôi không thể nói với anh nhiều hơn những gì tôi vừa nói.”

“Chết tiệt, Kyle. Anh có nói cho tôi cái quái gì đâu.” Tôi lên giọng. “Vậy thỏa thuận của anh với tôi là gì thế hả?”

Anh đưa một tay lên, ngụ ý tôi phải bình tĩnh. “Nghe đây. Như anh đã biết hoặc nghi ngờ, vụ này là một cơn ác mộng kinh hoàng, nhiều cơ quan phải nhảy vào cuộc, và nó vẫn chưa nóng hẳn lên đâu. Hãy tin tôi đi. Chưa ai đạt được gì cả, Alex ạ. Còn đây là điều tôi muốn anh cân nhắc.”

Tôi trợn mắt. “Tôi vui lòng ngồi lại vì chuyện này,” tôi nói.

“Đây là một đề nghị tuyệt vời mà một người ở vị trí của anh nên cân nhắc. Bởi vì anh đứng ngoài mớ pháp quyền hỗn loạn này và do đó không bị ảnh hưởng, vậy tại sao lại không tiếp tục như thế. Cứ đứng ngoài mà làm việc trực tiếp với tôi.”

“Làm việc với Cục Liên bang ư?” Tôi sặc cả bia. “Cộng tác với các đặc vụ sao?”

“Tôi có thể cung cấp cho anh tất cả thông tin ngay khi chúng tôi vừa nhận được. Cho anh mọi thứ anh cần dưới dạng nguồn lực, thông tin, tất cả các dữ liệu chúng tôi hiện có.”

“Và anh không cần phải chia sẻ bất cứ điều gì tôi có. Ngay cả với cảnh sát địa phương hay cảnh sát bang chứ?” tôi hỏi.

Kyle lại trở nên nghiêm nghị. “Nghe này Alex, vụ điều tra này lớn và tốn kém thật nhưng vẫn chưa có kết quả gì. Các quan chức vẫn đấu đá nhau trong khi phụ nữ ở khắp miền Nam, trong đó có cháu gái anh, đang dần biến mất ngay trước mũi chúng ta.”

“Tôi hiểu vấn đề mà Kyle. Hãy để tôi suy nghĩ về giải pháp của anh. Cho tôi suy nghĩ thêm một chút.”

Kyle và tôi tiếp tục nói chuyện thêm về lời đề nghị của anh, và tôi cũng buộc anh phải tiết lộ thêm một vài chi tiết cụ thể. Mặc dù về cơ bản tôi cũng để lộ khá nhiều điều mình biết. Làm việc với Kyle sẽ giúp tôi có được một đội ngũ hỗ trợ hàng đầu, và tôi sẽ được yểm trợ bất cứ khi nào cần. Tôi sẽ không đơn độc nữa. Chúng tôi gọi bánh mì kẹp thịt, thêm mấy vại bia, tiếp tục nói chuyện và cuối cùng đi đến thỏa thuận của tôi với quỷ dữ. Lần đầu tiên kể từ khi đến miền Nam, tôi cảm thấy có chút hy vọng.

“Tôi còn một điều muốn cho các anh biết,” cuối cùng tôi nói với anh ta. “Đêm qua hắn để lại cho tôi một lời nhắn. Đó là lời nhắn thân thiện ân cần, chào đón tôi đến vùng này.”

“Chúng tôi biết.” Kyle cười toe toét như Andy Hardy[3] tuổi trưởng thành. “Thực ra đó là một tấm bưu thiếp. Trên đó có ảnh một thị tỳ, một nô lệ tình dục trong hậu cung.”

[3] Nhân vật hư cấu trong series phim cùng tên của hãng Metro-Goldwyn-Mayer (Mỹ).
 
Chương 32


Khá muộn mới trở về phòng, nhưng tôi vẫn gọi cho Nana và các con. Khi đi công tác, tôi vẫn thường xuyên gọi điện về nhà hai lần một ngày, sáng và tối. Chưa khi nào tôi quên cả, và cũng không có ý định bỏ thói quen ấy vào tối hôm nay.

“Con có nghe lời Nana và ngoan hơn không con gái?” tôi hỏi Jannie khi con bé cầm máy.

“Con lúc nào cũng ngoan mà bố!” Jannie thét lên với niềm vui sướng trẻ thơ. Con bé thích nói chuyện với tôi. Tôi cũng vậy. Thật lạ là hai cha con vẫn vô cùng quấn quýt sau năm năm bên nhau.

Tôi nhắm mắt lại tưởng tượng ra hình ảnh cô con gái nhỏ. Tôi có thể thấy lồng ngực bé nhỏ phập phồng, khuôn mặt đầy ương ngạnh, nhưng miệng cùng lúc lại cười toe toét khoe hàm răng nhọn mọc lổn nhổn. Naomi đã từng là một cô bé ngọt ngào như thế. Tôi nhớ tất cả mọi thứ vào thời gian đó. Tôi xua tan những suy nghĩ cùng hình ảnh rõ mồn một về Scootchie.

“Vậy anh trai con thì sao? Damon nói rằng anh ấy cũng ngoan lắm. Anh còn bảo hôm nay Nana gọi con là ‘bé hư’ nữa. Có phải như vậy không?”

“Ứ phải thế bố ơi. Đó là Nana gọi anh ấy đó chứ. Trong nhà này Damon mới là bé hư. Con luôn luôn là thiên thần của Nana. Con là thiên thần ngoan ngoãn của Nana Mama. Bố hỏi cụ mà xem.”

“À há. Thế thì tốt rồi,” tôi nói với cô bé giỏi chống chế của mình. “Thế hôm nay con có giật tóc anh Damon một tí tại nhà hàng ăn nhanh Roy Rogers không?”

“Không phải đồ ăn nhanh đâu, bố yêu ạ! Mà anh ấy giật tóc con trước. Damon gần như giật hết tóc của con rồi, bây giờ trông con chả khác gì Baby Clare không có tóc vậy.”

Baby Clare là con búp bê mà Jannie yêu quý nhất từ lúc mới hai tuổi. Con búp bê đó là “em bé” của Jannie, luôn có ý nghĩa thiêng liêng với con bé. Thiêng liêng với cả chúng tôi. Một lần chúng tôi để Baby Clare ở Williamsburg trong một chuyến dã ngoại, và đã phải quay xe trở lại. Kỳ diệu thay, Clare lúc đó đang chờ chúng tôi tại phòng bảo vệ, và đang trò chuyện vui vẻ với chú bảo vệ.

“Dù sao thì con cũng không giật được tóc của anh Damon. Anh ấy gần như trọc mà bố. Nana đã cắt tóc kiểu mùa hè cho anh ấy rồi. Bố cứ chờ đến lúc nhìn thấy anh trai trọc lóc của con mà xem. Anh ấy đúng là một quả bóng bi-a!”

Tôi có thể nghe tiếng con bé cười. Tôi có thể nhìn thấy Jannie cười. m thanh nền là tiếng Damon muốn giành lấy điện thoại. Nó muốn bác bỏ lời của con bé về mái tóc mới cắt của mình.

Sau khi xong chuyện với các con, tôi nói chuyện với Nana.

“Mọi chuyện thế nào rồi, Alex?” bà đi thẳng vào vấn đề như mọi khi. Lẽ ra bà có thể trở thành một thám tử xuất sắc, hoặc bất cứ ai bà muốn. “Alex, bà hỏi mọi chuyện sao rồi?”

“Mọi việc rất ổn bà ạ. Cháu yêu công việc của mình,” tôi nói với bà. “Còn bà khỏe không ạ?”

“Đừng bận tâm tới chuyện đó. Ta có thể trông hai đứa bé kể cả khi ta đang ngủ. Nhưng nghe giọng cháu có vẻ không được khỏe. Cháu không ngủ được và mọi việc chưa có tiến triển gì phải không?”

Chúa ơi, bà thật mạnh mẽ nếu muốn. “Không được tốt như cháu kỳ vọng,” tôi nói với bà. “Nhưng tối nay cũng đã có tín hiệu tốt.”

“Bà biết,” Nana nói, “thế nên cháu mới gọi điện muộn như thế này. Nhưng cháu không định chia sẻ những tin tức tốt lành với bà nội của cháu. Cháu sợ bà gọi đến tòa báo Washington Post.”

Chúng tôi luôn đề cập đến vấn đề này trước mỗi vụ việc mà tôi thực hiện. Bà luôn luôn muốn biết thông tin mật, mà tôi lại không thể nhân nhượng.

“Cháu yêu bà,” cuối cùng tôi nói. “Đó là điều tốt nhất cháu có thể làm ngay bây giờ.”

“Bà cũng yêu cháu, Alex Cross à. Đó là điều tốt nhất bà có thể làm.”

Bà đành phải dừng lại cuộc nói chuyện tại đây.

Sau khi gọi điện xong cho Nana và lũ trẻ, tôi nằm trong bóng tối trên chiếc giường khách sạn bừa bộn, chẳng mấy dễ chịu. Tôi không muốn phục vụ phòng hay bất cứ ai khác vào phòng mình, nhưng tấm bảng Đừng Làm Phiền không phải là vấn đề đối với FBI.

Tôi đặt một chai bia dựng đứng ngay trên ngực. Tôi thở chậm chạp, giữ chai bia cân bằng ở vị trí đó. Tôi chưa bao giờ thích ở trong khách sạn, kể cả khi đi nghỉ.

Tôi lại bắt đầu suy nghĩ về Naomi. Khi còn nhỏ như Jannie, cô bé thường ngồi trên vai tôi để có thể nhìn thấy “xa, rất xa trong Thế Giới Người Lớn”. Tôi nhớ trước đây Naomi nghĩ rằng Giáng sinh là “Ngày để hôn”, vì vậy cô bé cứ hôn mọi người trong suốt kỳ nghỉ.

Cuối cùng, tôi tập trung suy nghĩ về gã quái vật, kẻ đã cướp Scootchie khỏi tay chúng tôi. Cho đến nay, gã quái vật vẫn đang giành phần thắng. Hắn dường như bất khả chiến bại, không ai tóm được hắn; hắn chưa hề phạm sai lầm, và không để lại bất kỳ một manh mối nào. Hắn hoàn toàn tin tưởng vào bản thân mình… hắn thậm chí còn giễu cợt tôi bằng cách để lại một tấm bưu thiếp nhỏ xinh xắn trong phòng tôi. Điều đó có nghĩa gì?

Có thể hắn đã đọc cuốn sách của tôi về Gary Soneji, tôi nghĩ. Chắc hắn đã đọc cuốn sách của tôi. Hắn bắt Naomi để thách thức tôi? Có lẽ để chứng minh hắn giỏi ra sao.

Tôi không thích ý nghĩ này chút nào.
 
Chương 33


Mình vẫn còn sống, nhưng mình đang ở địa ngục!

Kate McTiernan thu hai chân vào sát ngực, rùng mình. Cô chắc chắn mình đã bị đánh thuốc mê. Dù có cố gắng thế nào thì cảm giác run lẩy bẩy đi kèm với cơn buồn nôn cồn cào vẫn không ngừng ồ ạt xâm chiếm toàn thân cô.

Cô không biết mình đã ngủ trên sàn nhà lạnh giá bao lâu, hay lúc này là mấy giờ. Liệu hắn có đang theo dõi cô? Liệu có cái lỗ nhòm nào trong những bức tường kia? Kate gần như cảm thấy đôi mắt hắn quét khắp cơ thể mình.

Cô nhớ từng chi tiết kinh khủng gớm ghiếc của vụ hãm hiếp. Cảm giác ấy vẫn còn nguyên vẹn. Ý nghĩ bị hắn chạm vào da thịt thật ghê tởm, và những hình ảnh kinh hoàng nhất đang ám ảnh cô.

Cảm giác giận dữ, tội lỗi, bị xúc phạm cùng lúc bùng nổ trong đầu cô. Chất adrenaline mạnh mẽ dâng trào toàn thân. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc… Đức Chúa Trời ở bên Người.” Cô nghĩ mình đã quên phải cầu nguyện như thế nào. Cô hy vọng mình sẽ không bị Chúa bỏ quên.

Đầu Kate quay cuồng. Chắc chắc hắn đang cố gắng bẻ gãy ý chí cùng sức kháng cự của cô. Đây liệu có phải là kế hoạch của hắn?

Cô phải nghĩ, bắt buộc bản thân mình phải suy nghĩ. Nhưng mọi thứ trong căn phòng không còn rõ nét. Những viên thuốc! Kate ráng đoán xem hắn đã sử dụng cái gì. Thuốc gì? Loại nào đây?...

Có lẽ đó là Forane, một loại thuốc làm giãn cơ khá mạnh được dùng cho bệnh nhân trước khi gây mê. Loại thuốc này đựng trong chai một trăm mililít, có thể xịt trực tiếp vào mặt nạn nhân, hoặc đổ lên một miếng vải rồi phủ lên mặt nạn nhân. Cô cố nhớ những biểu hiện của thuốc. Run rẩy và buồn nôn. Khô cổ. Hoạt động thần kinh suy giảm trong một đến hai ngày. Cô có những triệu chứng này! Tất cả!

Hắn là bác sĩ! Ý nghĩ đó khiến cô bàng hoàng như bị giáng một cú đấm móc. Thế nhưng lại hoàn toàn hợp lý. Còn ai có thể tiếp cận với loại thuốc như Forane?

Tại võ đường ở đồi Chapel, người ta dạy một phương pháp giúp học viên kiểm soát cảm xúc. Bạn phải ngồi trước một bức tường trống của võ đường, ngồi im dù có muốn, hay nghĩ rằng mình cần, nhúc nhích đến đâu chăng nữa.

Toàn thân Kate ướt đẫm mồ hôi, nhưng cô đã quyết tâm. Cô sẽ không bao giờ để hắn làm thui chột ý chí mình. Cô có thể mạnh mẽ đáng kinh ngạc khi cần. Nhờ thế mà cô đã tốt nghiệp trường y trong điều kiện không xu dính túi và đầy rẫy khó khăn.

Cô ngồi trong tư thế hoa sen hơn một giờ tại “phòng giam”. Cô thở nhẹ nhàng và tập trung xóa bỏ cảm giác đau đớn, buồn nôn, và vụ hãm hiếp khỏi tâm trí. Cô tập trung suy nghĩ xem tiếp theo mình sẽ phải làm gì.

Một ý tưởng đơn giản.

Bỏ trốn.
 
Chương 34


Kate từ từ đứng lên sau những giờ thiền định. Tuy vẫn còn cảm giác buồn nôn, nhưng cô cảm thấy khá hơn một chút, kiểm soát tốt hơn. Cô quyết định tìm kiếm lỗ nhòm của hắn. Nó phải ở đó, ẩn đâu đó trong bức tường làm bằng gỗ tự nhiên.

Phòng ngủ chỉ rộng đúng mười bảy mét vuông. Cô đã đo đi đo lại vài lần. Cái hốc tường bé tí bằng tủ quần áo trông như một căn nhà phụ.

Kate xem xét kỹ những khe hở dù là nhỏ nhất trong tường, nhưng không thấy gì. Nhà vệ sinh trong hốc tường hình như được xả thẳng xuống đất. Không có hệ thống ống nước, ít nhất là trong phần này của ngôi nhà. Mình đang bị giam giữ ở đâu? Mình đang ở đâu?

Nước mắt cô chảy giàn giụa bởi một mùi cay sè xộc lên trong lúc quỳ xuống chiếc ghế gỗ màu đen, nheo mắt nhìn xuyên qua lỗ đen ngòm. Cô cố gắng cưỡng lại cái thứ mùi nồng nặc ấy, và lần này chỉ bị nôn khan.

Khe hở có vẻ như kéo dài gần ba, bốn mét. Kéo dài đến đâu? Kate tự hỏi.

Nó trông rất hẹp, và cô nghĩ mình không thể chui qua, thậm chí cả khi không mặc gì. Mà nhỡ được thì sao. Đừng bao giờ nói không bao giờ.

Bỗng cô nghe giọng hắn ngay phía sau mình. Trái tim cô đập yếu ớt và cô muốn ngất xỉu.

Hắn ở đó! Lại không mặc áo. Cả người hắn cuồn cuộn cơ bắp, đặc biệt là phần xung quanh bụng và đùi. Hắn đeo một chiếc mặt nạ khác. Một mặt nạ giận dữ. Những vạch đỏ thẫm và trắng nhởn trên nền đen bóng. Hôm nay hắn giận dữ sao? Những mặt nạ thể hiện tâm trạng của hắn ư?

“Không có ý nào hay hơn sao Katie. Chỗ đó chỉ dành cho những người mảnh mai hơn em thôi,” hắn nói, giọng trầm bổng. “Tôi không xuống đó để giúp em bỏ trốn đâu. Một cách tìm đến cái chết rất đau lòng. Hãy nghĩ cho kỹ đi.”

Vừa chật vật đứng lên, Kate liền nôn khan. Cô cố tỏ ra thật thuyết phục. “Tôi không khỏe. Chắc tôi sắp nôn rồi,” cô nói với Casanova.

“Tôi tin chắc em cảm thấy không khỏe,” hắn nói. “Cứ cho là vậy đi. Nhưng đó không phải là lý do em quỳ trên bồn cầu. Nói thật xem nào.”

“Anh muốn gì ở tôi?” Kate hỏi. Hôm nay giọng hắn có vẻ khác… hoặc có thể thuốc mê của hắn khiến cô nghễnh ngãng. Cô nhìn chăm chăm vào chiếc mặt nạ. Nó dường như biến hắn trở thành người khác. Một kẻ khủng khiếp khác. Có phải hắn bị đa nhân cách?

“Tôi muốn được yêu. Tôi muốn làm tình với em một lần nữa. Tôi muốn em làm đẹp vì tôi. Có lẽ là một chiếc váy đáng yêu của Neiman Marcus. Tất nylon và giày cao gót.”

Kate sợ hãi và cảm thấy ghê tởm, nhưng cố không thể hiện ra. Cô phải làm gì đó, nói gì đó để thoát khỏi hắn ngay lúc này.

“Giờ tôi không có tâm trạng cưng ạ,” Kate bật ra câu trả lời. “Tôi chưa sẵn sàng ăn mặc đẹp.” Giọng cô vẫn thoáng chút mỉa mai. “Tôi nhức đầu. Hôm nay là ngày quỷ gì không biết? Tôi còn chưa được ra ngoài.”

Hắn cười. Nụ cười gần như bình thường; một nụ cười đẹp vừa đủ phía sau chiếc mặt nạ ghê tởm. “Bầu trời Carolina trong xanh ánh nắng, Kate. Nhiệt độ trên hai mươi độ C. Một trong mười ngày đẹp nhất trong năm.”

Hắn bất chợt đẩy cô xuống chỉ với một tay. Hắn giật mạnh cánh tay cô như thể muốn nó đứt lìa khỏi hõm tay. Cánh tay đau đớn rụng rời khiến Kate hét ầm lên. Cơn đau đớn lan ra khắp phần da mềm, chỗ hốc mắt.

Giận dữ và hoảng sợ, cô chìa tay kéo chiếc mặt nạ xuống.

“Ngu ngốc! Ngu ngốc!” hắn hét vào mặt cô. “Mà cô có phải con đàn bà ngu ngốc đâu cơ chứ!”

Nhìn thấy súng gây mê trong tay hắn, Kate liền nhận ra mình đã mắc một sai lầm khủng khiếp. Hắn đặt nó ngang ngực cô và bắn.

Cô cố đứng vững, cố giữ mình tỉnh táo, nhưng cơ thể không còn đủ sức, cô đổ sụp xuống nền nhà.

Hắn đang phát điên. Cô nhìn chằm chằm vào hắn với nỗi kinh hoàng không nói nên lời khi hắn giơ ủng đá liên tiếp vào người cô. Một chiếc răng từ từ xoay tròn, xoay tròn mãi qua sàn nhà gỗ.

Cô mê mụ nhìn theo chiếc răng xoay vòng. Cô nhận ra ngay chiếc răng kia là của mình.

Cô nếm thấy vị máu, và cảm thấy môi mình sưng phồng lên.

Có tiếng ù ù trong tai Kate, và cô biết mình sắp bất tỉnh. Cô cố ghi nhớ những gì đã thấy phía sau mặt nạ.

Casanova biết cô đã nhìn thấy một phần khuôn mặt hắn.

Một bên má hồng hào mịn màng; không có râu ria.

Mắt bên trái - màu xanh.
 
Chương 35


Naomi Cross run rẩy ép chặt mình vào cánh cửa cài chốt bịt kín phòng cô. Đâu đó trong ngôi nhà kinh hoàng này, một phụ nữ đang la hét.

m thanh dù bị nghẹn lại bởi các bức tường, bởi hệ thống cách âm mà hắn đã lắp đặt trong nhà, nhưng vẫn rùng rợn. Naomi nhận ra cô đang cắn tay mình. Cắn mạnh. Cô chắc chắn hắn đang giết ai đó. Đây không phải lần đầu tiên. Tiếng la hét bỗng im bặt.

Naomi ép mạnh hơn vào cánh cửa, căng tai nghe tiếng động gì đó.

“Ồ, không, làm ơn,” cô thì thầm, “đừng để cô ấy chết.”

Naomi lắng nghe sự im lặng hồi hộp một hồi lâu. Cuối cùng, cô rời khỏi cửa. Cô không thể làm gì giúp người phụ nữ tội nghiệp ấy. Không ai có thể làm được.

Naomi biết lúc này cô nên ngoan ngoãn. Nếu cô phá vỡ bất kỳ quy tắc nào, hắn sẽ đánh cô. Cô không thể để điều đó xảy ra.

Hắn dường như biết mọi thứ về cô. Những bộ quần áo cô thích mặc, cỡ quần lót, màu sắc yêu thích, ngay cả cặp kính râm cô ưa dùng. Hắn biết về Alex, Seth Samuel, thậm chí cả cô bạn Mary Ellen Klouk. “Cái thứ cao ráo tóc vàng xinh đẹp,” hắn gọi cô ấy như vậy. Cái thứ.

Casanova rất lập dị; hắn diễn trò và đóng vai trong vở kịch tâm lý tưởng tượng. Hắn thích nói chuyện với cô về những hành vi khiêu dâm: quan hệ tình dục với các thiếu nữ mới lớn và động vật; trò bạo dâm rợn tóc gáy; khổ dâm; chế độ nữ quyền; tra tấn bằng cách thụt ruột. Hắn thản nhiên nói về tất cả mọi thứ. Đôi lúc hắn thậm chí còn tỏ ra thi vị một cách bệnh hoạn. Hắn trích dẫn thơ Jean Genet, John Rechy, Durrell, de Sade. Hắn đọc khá nhiều, có lẽ là người có học thức.

“Em đủ thông minh để hiểu tôi khi tôi nói chuyện,” trong một chuyến thăm, hắn nói với Naomi như vậy. “Thế nên tôi chọn em, em yêu.”

Naomi giật mình bởi tiếng la hét lại cất lên. Cô chạy ra cửa, tì má lên cánh cửa gỗ dày lạnh. Đó có phải người phụ nữ lúc trước, hay hắn lại đánh người khác? Cô tự hỏi.

“Ai đó giúp tôi với!” cô nghe thấy. Người phụ nữ la hét đến lạc cả giọng. Cô ấy đang phá vỡ những quy tắc trong căn nhà.

“Ai đó giúp tôi! Tôi đang bị giam giữ ở đây. Ai đó giúp tôi…. tên tôi là Kate… Kate McTiernan. Ai đó giúp tôi với!”

Naomi khép chặt mắt. Thế này thì quá tệ. Người phụ nữ đó phải dừng lại. Nhưng những lời kêu cứu cứ lặp đi lặp lại. Thế tức là Casanova không ở nhà. Chắc hẳn hắn đã đi ra ngoài.

Nguồn ebook: https://www.luv-ebook.com

“Ai đó giúp tôi với! Tên tôi là Kate McTiernan… Tôi là bác sĩ bệnh viện Đại học Bắc Carolina.” Những tiếng la hét tiếp tục… mười lần, hai mươi lần. Naomi nhận ra, không phải trong cơn hoảng loạn. Mà là giận dữ!

Chắc chắn hắn không có nhà. Hắn không đời nào để cô ấy tiếp tục lâu đến thế. Cuối cùng, Naomi thu hết can đảm hét to hết sức. “Dừng lại đi! Cô không được kêu la nữa. Hắn sẽ giết cô! Im đi! Tôi chỉ có thể nói như vậy thôi!”

Im lặng… may là cuối cùng cũng im lặng. Naomi nghĩ chắc cô ấy nghe thấy sự căng thẳng khắp bốn bề. Chắc chắn cô ấy cảm thấy điều đó.

Kate McTiernan không dừng lại quá lâu. “Tên cô là gì? Cô bị nhốt ở đây bao lâu rồi? Làm ơn nói chuyện với tôi… này cô, tôi đang nói chuyện với cô đấy,” cô hét lên.

Naomi không trả lời cô. Người phụ nữ kia làm sao vậy nhỉ? Có phải trận đánh lúc trước đã làm cô ấy mụ người đi không?

Kate McTiernan gọi to lên lần nữa. “Nghe này, chúng ta có thể giúp đỡ nhau, tôi chắc chắn chúng ta có thể. Cô có biết chúng ta bị giam giữ ở đâu không?”

Người phụ nữ đó quả là dũng cảm… nhưng cũng thật ngu ngốc. Giọng nói mạnh mẽ, nhưng bắt đầu khàn dần. Kate.

“Hãy nói chuyện với tôi. Hắn lúc này không ở đây, nếu không thì hắn đã mang súng gây mê đến rồi. Cô biết là tôi đúng mà! Hắn không biết cô nói chuyện với tôi đâu. Làm ơn… tôi muốn nghe giọng cô lần nữa.”

“Xin cô đấy, hai phút thôi. Chỉ cần thế thôi. Tôi hứa với cô. Hai phút thôi. Xin cô đấy. Chỉ cần một phút thôi.”

Naomi vẫn không trả lời. Hắn có thể trở lại ngay bây giờ. Hắn có thể ở trong nhà nghe ngóng họ. Thậm chí theo dõi họ qua các bức tường.

Kate McTiernan lại nói tiếp. “Được rồi, ba mươi giây thôi. Rồi chúng ta sẽ dừng lại. Được chứ? Tôi hứa tôi sẽ dừng lại… nếu không, tôi sẽ tiếp tục cầu xin cô cho đến khi hắn trở lại…”

Ôi, Chúa ơi, làm ơn, đừng nói nữa, tiếng nói bên trong Naomi cất lên. Dừng lại đi, ngay bây giờ.

“Hắn sẽ giết tôi.” Kate hét lên. “Dù thế nào hắn vẫn sẽ làm thế! Tôi đã thấy một phần khuôn mặt hắn. Cô từ đâu đến? Đã ở đây bao lâu rồi?”

Naomi cảm thấy như nghẹt thở. Cô không thở được, nhưng vẫn ở nguyên chỗ cửa ra vào lắng nghe từng lời của người phụ nữ kia. Cô muốn nói chuyện với cô ấy khôn cùng.

“Hắn có thể đã sử dụng một loại thuốc gọi là Forane. Thuốc đó dùng trong bệnh viện. Có thể hắn là bác sĩ. Thôi nào. Chúng ta còn phải sợ gì nữa - ngoài sự tra tấn và cái chết?”

Naomi mỉm cười. Kate McTiernan can đảm, lại có khiếu hài hước. Chỉ cần nghe một giọng nói khác cũng quá tốt rồi.

Lời nói buột khỏi miệng Naomi, gần như chống lại lý trí cô. “Tôi là Naomi Cross. Tôi nghĩ mình đã ở đây được tám ngày. Hắn ẩn sau các bức tường. Hắn dõi theo mọi lúc. Chắc hắn không bao giờ ngủ. Hắn đã hãm hiếp tôi,” cô nói khá rành mạch. Đây là lần đầu tiên cô nói to những lời đó. Hắn đã hãm hiếp tôi.

Kate trả lời lại ngay lập tức. “Hắn cũng hãm hiếp tôi, Naomi. Tôi biết cô cảm thấy thế nào, kinh khủng… bẩn thỉu vô cùng. Được nghe giọng cô thật tốt quá, Naomi. Tôi không còn cảm thấy cô đơn nữa.”

“Tôi cũng vậy, Kate. Bây giờ làm ơn im đi.”

Ở tầng dưới, trong phòng mình, Kate McTiernan cảm thấy quá mệt mỏi. Mệt mỏi, nhưng vẫn còn hy vọng. Cô ngồi sụp xuống dựa vào tường thì nghe thấy những tiếng nói xung quanh mình.

“Maria Jane Capaldi. Tôi nghĩ mình đã ở đây khoảng một tháng.”

“Tên tôi là Kristen Miles. Xin chào.”

“Melissa Stanfield, tôi là y tá thực tập. Tôi đã ở đây chín tuần.”

“Christa Akers, bang Bắc Carolina. Hai tháng trong địa ngục này.”

Có ít nhất sáu người trong số họ.

=== ====== ===

Phần hai: Trốn tìm
 
Chương 36


Phóng viên tờ Los Angeles Times, Beth Lieberman, hai chín tuổi, nhìn chằm chằm vào những ký tự xanh mờ nhỏ xíu trên thiết bị cuối máy tính. Cô lờ đờ nhìn bởi một trong những câu chuyện lớn nhất của Times trong nhiều năm vẫn chưa hé mở. Chắc chắn câu chuyện này có tầm quan trọng nhất trong sự nghiệp của cô, nhưng cô gần như không còn quan tâm đến nó nữa.

“Điều này thật là… điên rồ và bệnh hoạn… bàn chân. Chúa ơi,” Beth Lieberman khẽ rên rỉ. “Bàn chân.”

Đây là cuốn “nhật ký” thứ sáu do Vị Khách Lịch Thiệp gửi đến căn hộ của cô ở phía Tây Los Angeles vào sáng sớm hôm đó. Giống như các vụ khác trong nhật ký trước đây, kẻ giết người cung cấp chính xác nơi vứt thi thể người phụ nữ bị sát hại trước khi gửi lời nhắn đầy ám ảnh và điên loạn này cho cô.

Ngay lập tức, Beth Lieberman gọi FBI từ căn hộ của mình, sau đó nhanh chóng lái xe đến tòa soạn Times ở phố South Spring. Khi cô đến nơi, Cục Liên bang đã xác minh vụ giết người mới nhất.

Kẻ Lịch Thiệp đã để lại chữ ký của mình: hoa tươi.

Thi thể một cô gái Nhật Bản mười bốn tuổi được tìm thấy ở Pasadena. Giống như trường hợp của năm người phụ nữ khác, Sunny Ozawa đã biến mất không một dấu vết hai đêm trước. Cứ như thể cô bé đã tan biến vào màn sương ẩm ướt, mù mịt.

Đến nay, Sunny Ozawa là nạn nhân trẻ tuổi nhất được phát hiện của Kẻ Lịch Thiệp. Gã đặt những bông hoa mẫu đơn hồng và trắng ở phần thân dưới của cô gái. Tất nhiên là hoa khiến tôi liên tưởng đến môi âm hộ của người phụ nữ, gã đã viết như vậy trong nhật ký. Trông rõ giống phải không?

Sáu giờ bốn lăm sáng, tòa soạn vẫn vắng vẻ, rờn rợn. Sớm thế này thì làm gì có ai dậy ngoài những kẻ thác loạn vẫn còn chưa lên giường đi ngủ, Lieberman nghĩ. Tiếng điều hòa kêu rì rì hòa lẫn tiếng xe cộ ì ầm bên ngoài vọng vào khiến cô khó chịu.

“Tại sao lại là bàn chân?” nữ phóng viên lẩm bẩm.

Ngồi trước máy tính với bộ dạng có phần phờ phạc, cô ước gì mình chưa bao giờ viết bài báo về phương thức khiêu dâm qua thư đặt hàng tại California. Theo như Kẻ Lịch Thiệp thì đó là lý do gã “phát hiện” ra cô; cách gã chọn cô để “liên lạc với các công dân khác của Thành phố của Những thiên thần”. Hắn cho rằng họ có cùng “bước sóng”.

Sau một chuỗi những cuộc họp hành chính ở cấp cao nhất, tòa báo Los Angeles Times đã quyết định công bố nhật ký của kẻ giết người. Không còn nghi ngờ gì nữa, những trang nhật ký đó do chính tay Kẻ Lịch Thiệp viết ra.

Gã biết thi thể nạn nhân ở đâu trước cảnh sát. Gã cũng đe dọa sẽ thưởng thêm “món hoa hồng đặc biệt là mạng người” nếu nhật ký của gã không được công bố cho người dân Los Angeles đọc trong bữa sáng. Kẻ Lịch Thiệp đã viết trong nhật ký: “Ta là vô địch, và ta vĩ đại nhất nhất nhất.” Ai có thể tranh luận điều đó? Beth tự hỏi. Richard Ramirez? Caryl Chessman? Charles Manson?

Nhiệm vụ hiện tại của Beth Lieberman là giữ liên lạc với gã. Cô cũng là người đầu tiên chỉnh sửa từ ngữ của Kẻ Lịch Thiệp. Không đời nào các bài nhật ký kích động, đầy hình ảnh của gã được giữ lại nguyên vẹn. Toàn là nội dung khiêu dâm tục tĩu cùng những mô tả bạo lực tàn ác nhất về các vụ giết người mà gã gây ra.

Lieberman gần như có thể nghe thấy giọng gã tâm thần ấy khi cô đánh máy bài viết mới nhất của gã trên máy chữ. Kẻ Lịch Thiệp lại đang nói chuyện với cô một lần nữa, hoặc thông qua cô:

Để tôi kể với cô về Sunny, tất cả những gì tôi biết về Sunny. Hãy lắng nghe, bạn đọc yêu quý. Ở đó cùng tôi. Cô ấy có đôi bàn chân nhỏ nhắn, mềm mại, khéo léo. Đó là những gì tôi nhớ nhất; đó là những gì tôi sẽ luôn nhớ về cái đêm bên Sunny xinh đẹp của tôi.

Beth Lieberman nhắm chặt mắt. Cô không muốn nghe thứ cứt đái ấy. Một điều chắc chắn: Vị Khách Lịch Thiệp rõ ràng đã mang lại cho Beth Lieberman cơ hội đầu tiên tại Times. Tên tuổi của cô luôn xuất hiện trên mỗi chuyên mục trang nhất được quan tâm rộng rãi. Kẻ giết người cũng đã biến cô trở thành ngôi sao.

Hãy lắng nghe tôi. Ở lại cùng tôi.

Hãy suy nghĩ về bái vật giáo, và tất cả những khả năng tuyệt vời của nó để giải phóng linh hồn. Đừng tỏ ra ta đây hiểu biết. Hãy mở rộng tâm trí. Mở rộng tâm trí ngay bây giờ! Bái vật giáo chứa đựng vô số những khoái cảm khác nhau đầy mê đắm mà bạn có thể đang bỏ lỡ.

Đừng quá mủi lòng về Sunny “non nớt”. Sunny Ozawa là một phần của cuộc chơi đêm nay. Cô ấy nói với tôi điều đó, tất nhiên là kín đáo. Tôi đã chọn cô ấy ở Monkey Bar. Chúng tôi đến nơi ở cũng là chốn ẩn náu của tôi, nơi chúng tôi bắt đầu thử nghiệm, xua tan đêm tối.

Cô ấy hỏi tôi đã làm chuyện này với phụ nữ Nhật nào trước đây chưa. Tôi đáp chưa từng nhưng luôn luôn khao khát. Sunny bảo tôi “đúng là người lịch thiệp”. Tôi cảm thấy thật vinh dự.

Đêm đó, tôi thấy dường như không gì gợi dục bằng việc tập trung vào bàn chân người phụ nữ, vuốt ve chúng khi làm tình với Sunny. Tôi đang nói về đôi bàn chân rám nắng xỏ tất nylon sang trọng cùng đôi giày cao gót đắt tiền hiệu Saks. Tôi đang nói về bàn chân nhỏ bé, khéo léo. Những công cụ truyền tải thông điệp hết sức tinh tế.

Nghe này. Để thực sự thưởng lãm bàn chân chuyển động gợi tình của người phụ nữ xinh đẹp, phụ nữ nên nằm ngửa trong khi đàn ông đứng. Đó là cách Sunny và tôi làm đầu buổi tối nay.

Tôi nâng đôi chân mảnh mai của cô ấy lên mà nhìn sát vào chỗ hai chân chạm nhau sao cho âm hộ hình thành những nếp nhăn từ mông. Tôi hôn đầu tất của cô ấy nhiều lần. Tôi đắm đuối nhìn mắt cá chân hoàn hảo, những đường nét tuyệt vời dẫn đến chiếc giày đen bóng.

Tôi tập trung toàn bộ sự chú ý vào đôi giày gợi tình khi màn mây mưa nóng bỏng của chúng tôi làm chân cô ngó ngoáy lẹ làng. Lúc này đôi bàn chân nhỏ bé của cô ấy đang nói chuyện với tôi. Cảm giác hưng phấn tuyệt vời dâng lên trong lồng ngực tôi, như thể tiếng chim hót râm ran, lảnh lót bên trong.

Beth Lieberman ngừng đánh máy và nhắm mắt lại một lần nữa. Nhắm nghiền! Cô cần phải chấm dứt những hình ảnh lóa lên trước mắt. Gã kể về cô gái trẻ bị mình sát hại mà cứ thản nhiên như không.

Chẳng mấy chốc FBI và cảnh sát Los Angeles sẽ ào đến tòa soạn Times tương đối yên tĩnh này. Họ sẽ đưa ra hàng loạt câu hỏi quen thuộc. Bản thân họ cũng chưa tìm ra câu trả lời. Không có hướng đi quan trọng nào cho tới thời điểm này. Họ nói Kẻ Lịch Thiệp đã gây ra “tội ác hoàn hảo”.

Các đặc vụ FBI sẽ lại muốn nói chuyện hàng giờ về những chi tiết khủng khiếp tại hiện trường án mạng. Bàn chân! Kẻ Lịch Thiệp đã cắt bỏ chân của Sunny Ozawa bằng một loại dao rất bén. Hiện trường vụ án ở Pasadena cho thấy cô gái bị mất cả đôi bàn chân.

Sự tàn bạo là biểu trưng của gã, nhưng cho đến nay đó chỉ là một mô hình mang tính phù hợp. Trong quá khứ, gã đã từng cắt bộ phận sinh dục. Gã từng giao phối qua đường hậu môn với nạn nhân, sau đó đốt chết người đó. Gã đã cắt ngực một nhân viên ngân hàng và móc tim nạn nhân. Gã đang thử nghiệm sao? Gã không có vẻ gì là lịch thiệp một khi lựa chọn nạn nhân của mình. Gã đúng là Jekyll và Hyde[1] những năm chín mươi.

[1] Nhân vật mắc chứng đa nhân cách trong tiểu thuyết kinh dị “Strange Case of Dr. Jekyll and Mr. Hyde” của nhà văn Scotland, Robert Louis Stevenson.

Khi Beth Lieberman mở mắt ra, cô thấy một người đàn ông cao gầy đứng sát cô trong phòng tin tức. Cô thở dài đánh sượt và cau mày lại.

Đó là Kyle Craig, thanh tra đặc nhiệm của FBI.

Kyle Craig biết điều gì đó mà cô rất muốn biết, nhưng anh ta sẽ không nói gì với cô. Anh ta biết tại sao tuần trước phó giám đốc của FBI cất công bay tới Los Angeles. Anh ta biết bí mật mà cô cần phải biết.

“Xin chào, cô Lieberman. Cô có tin gì cho tôi không?” anh ta hỏi.
 
Chương 37


Tích tắc, tịch tặc.

Đây là cách hắn săn tìm phụ nữ. Đây là cách mọi việc xảy ra trên thực tế, hết lần này đến lần khác. Bản thân hắn chưa bao giờ gặp bất kỳ nguy hiểm gì. Hắn thích hợp với mọi nơi hắn chọn săn tìm. Hắn cố hết sức tránh bất kỳ rắc rối hoặc sai lầm nào. Hắn luôn mong muốn mọi thứ phải đúng vào khuôn khổ, và trên hết là sự hoàn hảo.

Buổi chiều hôm đó, hắn kiên nhẫn chờ đợi tại hành lang mái vòm đông đúc của một trung tâm mua sắm thời trang ở Raleigh, Bắc Carolina. Hắn theo dõi những phụ nữ hấp dẫn ra vào cửa hàng Victoria’s Secret địa phương qua một con đường tắt dài lát đá hoa. Hầu hết những người phụ nữ này đều ăn mặc sang trọng. Bên cạnh hắn trên băng ghế đá cẩm thạch là tờ tạp chí Time và USA Today gấp gọn. Tin nhất tờ báo là: Kẻ Lịch Thiệp ra tay lần thứ sáu tại L.A.

Hắn nghĩ bụng, “Kẻ Lịch Thiệp” đang tung hoành ở miền Nam California. Gã sưu tập những kỷ vật khủng khiếp, đôi khi giết hại hai phụ nữ một tuần, chơi trò tâm lý ngu ngốc với Los Angeles Times, cảnh sát L.A., và FBI. Hắn sẽ sớm bị bắt thôi.

Đôi mắt xanh của Casanova lại hướng trở lại trung tâm mua sắm đông đúc. Hắn là một người đàn ông đẹp trai, giống Casanova nguyên bản. Nhà thám hiểm thế kỷ mười tám có vẻ đẹp, tính ham nhục dục trời phú, và cả sự đam mê phụ nữ - và do đó, hắn cũng vậy.

Bây giờ Anna đáng yêu đang ở đâu? Chắc chắn là cô đã đi vào cửa hàng Victoria’s Secret để mua món đồ màu mè cho bạn trai. Anna Miller và Chris Chapin học chung trường luật tại bang Bắc Carolina. Giờ Chris Chapin cộng tác với một công ty luật. Họ thích mặc quần áo của nhau. Mặc quần áo của nhau để tạo hưng phấn. Hắn biết tất cả về họ.

Hắn đã theo dõi Anna bất cứ khi nào có thể suốt hai tuần nay. Cô gái hai mươi ba tuổi có vẻ đẹp tuyệt trần với mái tóc đen, có thể không phải là một bác sĩ Kate McTiernan khác, nhưng có nhiều điểm tương đồng.

Hắn nhìn Anna cuối cùng cũng ra khỏi Victoria’s Secret và gần như đi thẳng về phía hắn. Tiếng lách cách của đôi giày cao gót khiến cô đầy vẻ kiêu ngạo. Cô thừa biết mình là một kiều nữ nổi bật. Đó là điều tuyệt vời nhất của cô. Sự tự tin tuyệt đối của cô gần giống với hắn.

Trông cô đầy vẻ kiêu kỳ dễ thương với những sải chân dài. Những đường nét thanh mảnh mỹ miều nhịp nhàng lên xuống trên cơ thể cô. Trong vai trò người hỗ trợ pháp lý bán thời gian ở Raleigh, cô đi tất da chân tối màu và giày cao gót. Bộ ngực đẹp như tạc khiến hắn khao khát được vuốt ve. Hắn còn nhìn thấy được những đường viền tinh tế của chiếc quần lót sau lớp váy bó màu nâu. Tại sao cô lại khiêu khích đến vậy? Bởi vì cô có thể.

Cô cũng có vẻ thông minh. Nhiều khả năng là vậy. Cô vừa cúp tiết Rà soát Luật. Anna ấm áp, ngọt ngào, ở bên cô lúc nào cũng vui vẻ. Một người chăm nom. Người yêu gọi cô là “Anna Chuối”. Hắn yêu sự thân mật ngọt ngào, ngốc nghếch trong cái biệt danh này.

Tất cả những gì hắn phải làm là giành lấy cô. Cũng dễ thôi.

Một người phụ nữ cũng rất hấp dẫn khác bất ngờ làm sao lãng ánh nhìn của hắn. Cô mỉm cười với hắn, và hắn mỉm cười lại. Hắn đứng dậy vươn vai, sau đó đi về phía cô. Trên hai tay cô là những gói đồ và túi cao ngất ngưởng.

“Xin chào, người đẹp,” hắn nói khi tiến lại gần. “Anh cầm đỡ cho một ít nhé? Giảm tải sức nặng trên đôi tay em yêu nhé?”

“Anh đúng là cái thứ đẹp trai, ngọt ngào,” người phụ nữ nói với hắn. “Nhưng lúc nào anh chả vậy. Luôn luôn lãng mạn nữa.”

Casanova hôn lên má vợ mình và giúp cô xách đồ. Người phụ nữ toát lên vẻ thanh lịch, tự tin. Cô mặc quần jean, áo công sở rộng thùng thình, áo khoác vải tuýt màu nâu. Cô ăn mặc đẹp. Cô gây ấn tượng sâu sắc với hắn ở nhiều phương diện. Hắn đã lựa chọn vô cùng kỹ lưỡng.

Khi hắn xách đỡ mấy cái túi thì những suy nghĩ tốt đẹp nhất, ấm áp nhất chợt hiện ra: Một nghìn năm nữa họ cũng không bắt được tôi. Họ còn chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Họ không thể nhìn thấu lớp vỏ ngụy trang hoàn hảo, hoàn hảo này, bộ mặt hết sức chuẩn mực này. Tôi không thể bị nghi ngờ.

“Em thấy anh ngắm con ranh kia rồi. Cặp giò đẹp đấy,” vợ hắn vừa cười cười ra vẻ hiểu biết vừa đảo mắt. “Miễn sao anh chỉ nhìn thôi là được.”

“Em bắt quả tang anh rồi,” Casanova nói với vợ mình. “Nhưng chân cô ta không đẹp bằng chân em.”

Hắn nở một nụ cười thoải mái và quyến rũ. Ngay cả khi cười, một cái tên vẫn lóe lên trong đầu hắn. Anna Miller. Hắn phải có cô.
 
Chương 38


Vụ này khó như lên trời.

Trở về nhà tại Washington, tôi nở một nụ cười vui vẻ gượng gạo khi bước qua cửa trước. Tôi cần nghỉ ngơi một ngày giữa cuộc truy lùng tội phạm. Quan trọng hơn, tôi đã hứa với gia đình là sẽ gặp và thông báo tình hình của Naomi. Tôi cũng nhớ các con và Nana. Tôi cảm thấy mình như anh lính được về phép giữa cuộc chiến.

Tôi không hề muốn Nana và lũ trẻ biết tôi lo lắng cho Scootchie ra sao.

“Chưa có may mắn gì cả bà ạ,” tôi nói khi cúi xuống hôn lên má Nana. “Dù vậy mọi chuyện cũng có chút tiến triển.” Tôi rời khỏi bà trước khi bà gặng hỏi tôi.

Đứng giữa phòng khách, tôi múa may một tiết mục hay nhất của người cha công sở. Tôi hát bài “Daddy’s Home, Daddy’s Home” nhưng không phải phiên bản của ban nhạc Shep & the Limelites mà theo giai điệu độc đáo của riêng tôi. Tôi nhấc bổng Jannie và Damon trong vòng tay.

“Damon, con lớn hơn, khỏe hơn này và đẹp trai như hoàng tử Marốc vậy!” tôi nói với cậu con trai. “Jannie, con cũng lớn hơn, khỏe hơn và xinh đẹp như một nàng công chúa rồi này!” Tôi nói với cô con gái.

“Bố cũng vậy!” Lũ trẻ đáp lại tôi bằng những tiếng kêu ré vô nghĩa dễ thương.

Tôi vờ như định nhấc bổng bà lên, nhưng Nana Mama đã làm dấu hình chữ thập nghiêm trang để xua tôi ra. Dấu hiệu riêng của gia đình chúng tôi. “Đừng có lại gần bà, Alex,” bà nói. Bà cười, và nhìn tôi vẻ lo ngại. Bà có thể làm điều đó. Bà thích nói, “Bao nhiêu thập kỷ thực hành đấy”. Tôi luôn đáp lại bà: “Thế kỷ chứ ạ”.

Tôi thơm Nana một cái thật ấm áp nữa. Sau đó, lũ trẻ gần như “nằm gọn trong lòng bàn tay tôi”. Tôi ôm chúng như cách mà những người đàn ông to lớn ôm quả bóng rổ, như thể chỉ cần duỗi tay ra là được.

“Đây có phải là hai nhóc quỷ ngoan ngoãn không nhỉ?” Tôi bắt đầu sử dụng kỹ năng thẩm vấn đối với hai kẻ vi phạm kinh niên của riêng tôi. “Lau dọn phòng, làm việc nhà, ăn cải bruxen của các con chưa nhỉ?”

“Rồi bố ạ!” chúng hét lên cùng một lúc. “Bọn con ngoan như cừu ý,” Jannie nói thêm để tăng tính thuyết phục.

“Có tin được không đó? Cải bruxen? Bông cải xanh nữa? Con không nói dối trắng trợn với bố đấy chứ? Mười rưỡi đêm hôm trước bố gọi về nhà, cả hai đứa vẫn còn chưa đi ngủ. Vậy mà dám nói với bố rằng chúng con rất ngoan. Ngoan như cừu!”

“Nana cho chúng con xem bóng rổ nhà nghề!” Damon ríu rít cười với niềm vui sướng không giấu giếm. Thằng nhóc láu lỉnh luôn biết cách thoát tội, đôi khi cũng khiến tôi lo lắng. Nó là một đứa bé có tài bắt chước bẩm sinh, nhưng cũng khéo léo sáng tạo ra những trò của chính mình. Vào lúc này, khả năng hài hước của thằng bé đã gần ngang với chương trình truyền hình In Living Color nổi tiếng.

Cuối cùng, tôi với cái túi du lịch để phát quà cho chúng. “Được rồi, trong trường hợp đấy, bố mang về cho chúng mi quà từ chuyến đi miền Nam. Bố nói chúng mi. Bố học từ đó ở Bắc Carolina đấy.”

“Chúng mi,” Jannie nhại tôi. Con bé cười ngặt nghẽo và làm động tác xoay vòng ngẫu hứng trong khiêu vũ. Con bé giống như cún con dễ thương nhất chờ bạn ở nhà vào buổi chiều. Rồi khi bạn trở về, con bé vây quanh bạn giống như keo dính ruồi. Cũng như Naomi hồi nhỏ.

Tôi lấy mấy chiếc áo phông vô địch giải bóng rổ NCAA của trường đại học Duke ra cho Jannie và Damon. Đối với hai đứa nhóc này là phải dùng mẹo mua đồ giống nhau. Cùng một kiểu thiết kế. Cùng màu. Chuyện này cũng sẽ chỉ kéo dài vài năm nữa, đến khi đó chẳng đứa nào chịu mặc bất kỳ thứ đồ nào hao hao giống nhau.

“Cảm ơn bố ạ,” từng đứa nói một. Tôi cảm nhận được tình yêu chúng dành cho tôi - thật vui khi trở về nhà. Nghỉ phép, hay gọi là gì cũng được. Được yên bình và thảnh thơi trong vài giờ ít ỏi.

Tôi quay sang Nana nói, “Chắc bà nghĩ cháu quên bà rồi phải không?”

“Cháu quên bà thế nào được, Alex.” Nana Mama nheo nheo đôi mắt nâu nhìn tôi chăm chú.

“Đúng rồi, bà yêu quý.” Tôi cười tươi.

“Tất nhiên là phải đúng chứ.” Bà phải là người nói câu cuối cùng.

Tôi lấy ra một gói quà được bọc hết sức đẹp mắt từ chiếc túi vải của những điều kỳ diệu và bất ngờ. Nana mở gói quà ra, và trước mắt bà là chiếc áo len đan tay đẹp nhất mà tôi từng thấy. Chiếc áo là tác phẩm của những người phụ nữ nghèo khổ, khoảng tám, chín mươi tuổi vẫn phải nai lưng kiếm sống ở Hillsborough, Bắc Carolina.

Lần này, Nana Mama không biết phải nói gì. Không một phản ứng nhanh trí nào. Tôi giúp bà khoác chiếc áo đan tay, và bà mặc suốt cả ngày hôm đó. Bà trông có vẻ tự hào, hạnh phúc, thật đẹp, tôi rất thích nhìn bà như vậy.

“Đây là món quà tuyệt đẹp nhất,” cuối cùng bà run run nói, “ngoài việc cháu ở nhà, Alex ạ. Bà biết cháu là một đứa cứng rắn, nhưng bà vẫn lo lắng cho cháu khi xuống Bắc Carolina.”

Nana Mama đủ biết không nên hỏi tôi quá nhiều về Scootchie. Bà cũng biết chính xác sự im lặng của tôi nghĩa là gì.

[/size]
 
Chương 39


Vào buổi chiều muộn, khoảng ba mươi người bạn thân cùng họ hàng của tôi tụ họp tại ngôi nhà trên phố Năm mươi. Chủ đề cuộc trò chuyện là công việc điều tra ở Bắc Carolina. Cuộc gặp vẫn diễn ra tự nhiên ngay cả khi họ biết rằng nếu có bất kỳ tin tốt nào cần thông báo thì tôi đã nói với họ rồi. Tôi đã bịa ra những manh mối tích cực mà thật ra chúng không hề tồn tại. Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm cho họ.

Cuối cùng Sampson và tôi cũng đứng bên nhau trên hiên sau khi uống quá nhiều bia nhập khẩu và ăn món bít tết tái. Sampson cần phải biết mọi chuyện; còn tôi thì muốn nói chuyện cảnh sát với người bạn kiêm đồng sự của mình.

Tôi kể với cậu ấy tất cả những gì đã xảy ra ở Bắc Carolina cho đến nay. Cậu ấy hiểu những khó khăn trong việc điều tra và truy lùng tội phạm. Trước đây, cậu ấy đã từng sát cánh cùng tôi trong những vụ án không một manh mối.

“Lúc đầu, họ hoàn toàn gạt tớ ra ngoài. Cũng không thèm nghe tớ lấy một lời. Gần đây, mọi việc dần tốt hơn một chút,” tôi nói với bạn mình. “Thám tử Ruskin và Sikes kiểm tra và cập nhật thông tin cho tớ đầy trách nhiệm. Ít nhất là Ruskin. Đôi khi anh ta còn cố tỏ ra nhiệt tình. Kyle Craig cũng tham gia vụ này. FBI vẫn không cho tớ biết họ đã nắm được những gì.”

“Có dự đoán gì không, Alex?” Sampson muốn tôi chia sẻ. Cậu ấy lắng nghe rất nghiêm túc và đôi lúc nêu rõ vấn đề.

“Có thể một trong những phụ nữ bị bắt cóc có liên quan tới người nào đó quan trọng. Không chừng con số nạn nhân lớn hơn rất nhiều so với những gì họ công khai. Có thể kẻ giết người có liên quan tới một người có quyền lực hay ảnh hưởng lớn.”

“Cậu không cần phải xuống đó nữa,” Sampson nói sau khi đã nghe tất cả các chi tiết. “Có vẻ như họ đã có đủ ‘tay chuyên nghiệp’ cho vụ này rồi. Đừng dính vào thù hận, Alex ạ.”

“Dính mất rồi,” tôi nói với anh bạn. “Tớ nghĩ Casanova thích thú với việc làm ta bối rối vì tội ác hoàn hảo của hắn. Tớ nghĩ hắn muốn tớ phải bối rối và thất vọng. Còn cái gì khác nữa mà tớ vẫn chưa tài nào nghĩ ra được. Tớ nghĩ hắn ta đang sôi máu.”

“Hừm, hừm. Nghe như cậu cũng đang sôi máu ý. Thôi quên cha hắn đi, Alex. Đừng chơi trò Sherlock Holmes chết tiệt với gã điên lập dị này.”

Tôi không nói gì. Tôi chỉ lắc đầu, cái đầu hết sức kiên quyết.

“Giả sử cậu không tóm được hắn,” cuối cùng Sampson nói. “Giả sử cậu không thể phá được vụ này. Cậu phải suy nghĩ về điều đó, chiến hữu ạ.”

Đó là khả năng mà tôi không tính đến.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom