Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 20


Tin tức về việc những chiếc Tornado của Anh đã trượt mục tiêu thực của mình tại Al Qubai là một cú sốc lớn đối với người đàn ông chỉ được biết đến với cái tên Jericho. Ông ta chỉ có thể cũng tự bắt mình vỗ tay phụ họa để tỏ lòng ngưỡng mộ Rais của mình như tất cả những người khác.

Trong chiếc xe bus cửa sổ đen ngòm cùng với các vị tướng khác chuyển đến trung tâm Baghdad, ông ta ngồi im lặng ở băng ghế sau, chìm vào những suy nghĩ của riêng mình.

Việc sử dụng thứ vũ khí đang được cất giấu ở đâu đó - tại một chỗ có tên là Qa'ala, Pháo đài, mà ông ta chưa từng nghe đến tên và cũng không biết nằm ở đâu - có thể gây ra nhiều, rất nhiều cái chết, chắc chắn không thể nào là ít được. Chính vị thế của ông ta đã làm ông ta lạc lối. Trong ba năm liền ông ta mạo hiểm tất cả mọi thứ - sự an toàn, sụp đổ, và một cái chết ghê rợn - để phản bội lại chế độ của chính đất nước mình. Vấn dề không chỉ đơn giản là xây dựng một gia tài khổng lồ cho mình ở nước ngoài; ông ta có thể làm được điều đó bằng cách lạm dụng chức quyền của mình, ngay ở Iraq này, dù làm việc đó ở đây cũng không phải là không có nguy cơ gì.

Vấn đề là phải ra được nước ngoài với một lý lịch và hình dạng khác hẳn, do những người nước ngoài trả tiền cho ông ta chu cấp: được bảo đảm an toàn khỏi các đội hành hình chuyên đi ám sát. ông ta đã nhìn thấy số phận của những người chỉ đơn giản là ăn cắp và sau đó chạy trốn; họ thường trực sống trong nỗi sợ hãi cho đến một ngày, những người báo thù Iraq tóm cổ được họ.

Ông ta, Jericho, muốn cả sự giàu có lẫn an toàn, vì lẽ đó ông ta vui mừng khi người đứng sau mình chuyển từ Israel sang Mỹ. Họ có thể lo cho ông ta, do phụ thuộc vào lời cam đoan, và tạo cho ông ta lý lịch mới, cho phép ông ta trở thành một người khác với quốc tịch khác, mua cho ông ta ngôi nhà đẹp đẽ cạnh bờ biển tại Mexico, nơi ông ta sống một cuộc sống nhàn nhã và đầy đủ.

Giờ đây mọi chuyện đã bắt đầu thay đổi. Nếu ông ta im lặng và thứ vũ khí đó được sử dụng, người Mỹ có thể nghĩ ông ta đã nói dối về Al Qubai. ông đã không nói dối, nhưng trong khi giận dữ họ sẽ không bao giờ quên điều đó. Tệ hơn thế nhiều, người Mỹ có thể sẽ phanh phui tài khoản của ông ta, và điều này có thể được làm vì không lẽ gì cả. Bằng cách nào đó ông ta phải báo cho họ rằng đã có sự nhầm lẫn. Nhiều nguy cơ hơn, và có thể mọi chuyện sẽ qua - Iraq thất bại, Rais bị đổ, và ông ta, Jericho, sẽ thoát khỏi nơi đây và cao chạy xa bay.

Trong văn phòng riêng ông ta viết bức thông điệp của mình, vẫn bằng tiếng Arập, trên tờ giấy mỏng không để lộ mấy khoảng trống. Ông ta giải thích về cuộc họp tối đó; rằng khi ông ta gửi đi thông tin trước, vũ khí đã đúng là có ở Al Qubai. Như ông ta đã nói, nhưng trong 48 giờ sau đó khi những chiếc Tornado đã rút đi, nó đã được chuyển chỗ. Đó không phải là lỗi của ông ta.

Ông ta muốn nói tất cả những gì mình biết: rằng có một địa điểm bí mật tên là Pháo đài; rằng vũ khí đang nằm ở đó, và từ Qa'ala nó có thể được phóng ra khi người Mỹ đầu tiên vượt qua biên giới lraq.

Ngay sau nửa đêm, ông ta đi một chiếc xe ôtô không biển số và biến mất vào trong những đường phố tối om của Baghdad. Không ai dám hỏi ông ta đi đâu, không ai dám. Ông ta để bức thông điệp của mình dưới cán cờ trong một cái sân cũ ở đường Abu Nawas, rồi đánh dấu phấn sau nhà thờ Thánh Joseph ở khu của người Thiên chúa giáo. Lần này dấu phấn có hơi khác một chút. Ông ta hy vọng người mà ông ta không biết thường đến nhận tin của mình sẽ không để mất thời gian.

Và quả đúng là như vậy, Mike Martin rời khỏi ngôi biệt thự của người Xôviết rất sớm vào buổi sáng ngày 15 tháng Hai. Người đầu bếp Nga đã đưa cho anh một danh sách dài thức ăn tươi cần mua, một danh sách rất khó để có thể thực hiện đầy đủ Đồ ăn thức uống đang hiếm dần. Không còn những người nông dân ở nông thôn nữa; đã có những vấn đề về vận chuyển. Hầu hết các cây cầu đều đã bị phá. Vùng đồng bằng trung tâm của Iraq là một vùng đất với những con sông cung cấp nước tưới cho cây cối, là nguồn thực phẩm cho Baghdad. Buộc phải trả chi phí tàu phà để đi qua được những con sông đó, những người sản xuất nghĩ tốt hơn hết là ở lại nhà mình.

Thật may mắn, Martin lại bắt đầu từ chợ gia vị ở đường Shurja, rồi đạp xe đến nhà thờ Thánh Joseph để đến con đường đi vòng sau nhà thờ. Khi nhìn thay dấu phấn, anh thiếu điều nhảy dựng lên. Dấu phấn trên bức tường đặc biệt này luôn được thỏa thuận là số 8 viết đúng chiều, với một nét ngắn đi qua giao điểm của hai đường tròn. Nhưng anh đã nói Jericho trong trường hợp thực sự khẩn cấp sẽ thay một nét ngắn bằng hai đường tròn nhỏ, mỗi cái trong một hình tròn tạo nên số 8 đó.

Hôm nay dấu vết quả là như thế. Martin đạp vội đến cái sân đường Abu Nawas, đợi cho đến khi mọi người đi cả, lại dừng xe cúi xuống như thể đang sửa dép, luồn một tay vào kẽ tường, và tìm thấy cái bì thư mềm. Khoảng giữa trưa, anh trở về ngôi biệt thự, giải thích cho ông bếp đang cáu kỉnh rằng anh đã cố lắm nhưng thực phẩm hôm nay chẳng chịu đến thành phố gì cả. Anh có thể quay lại để mua vào buổi chiều.

Khi đọc thông điệp của Jericho, anh cảm thấy lạnh toát như người bị một cơn sợ rất lớn. Martin thảo nhanh một thông điệp của chính mình, giải thích cho Riyadh tại sao anh cần phải tự mình đứng ra giải quyết theo cách riêng của mình. Không còn đủ thời gian cho những cuộc họp ở Riyadh và những lần gửi tin tức qua lại nữa. Điều tồi tệ nhất, đối với anh, là tin Phản gián Iraq đã biết được về một máy phát tin bất hợp pháp gửi đi những tín hiệu mật. Anh có thể không biết họ đã ở gần mình đến đâu, nhưng anh phải đặt giả thuyết không thể tiếp tục gửi tin với Riyadh được nữa. Do đó anh phải tự mình ra quyết định.

Martin đọc thông điệp của Jericho bằng tiếng Arập trước, rồi dịch sang tiếng Anh vào máy thu. Anh đọc luôn vào đó thông điệp của chính mình và chuẩn bị để gửi đi. Anh không thể gửi tin đi cho đến đêm muộn - đêm luôn được chọn vì cả nhà Kulikov đều đi ngủ sớm. Nhưng, cũng giống như Jericho, anh có cách liên lạc trong những trường hợp khẩn cấp

Đó là một lần chuyển tin với một âm thanh dài và sắc, trong trường hợp này, là một tiếng huýt gió cao, trên một tần số khác hẳn, so với dải VHF vẫn thường sử dụng. Anh kiểm tra lại xem người lái xe đã đi cùng Bí thư thứ nhất Kulikov đến đại sứ quán ở trung tâm thành phố chưa và người quản gia Nga cùng vợ mình đã đi ăn trưa. Rồi. dù có nguy cơ bị lộ, anh vẫn dựng đĩa vệ tinh ra gần cứa ra vào mở rộng và gửi đi tiếng còi dài.

Trong căn phòng trực đài, một phòng ngủ trước đây trong ngôi biệt thự của SIS tại Riyadh, một ánh đèn lóe lên. Đã là hai giờ rưỡi chiều. Người trực điện, đang nhận những thông tin thường ngày giữa ngôi biệt thự và London, ngừng việc mình đang làm, kêu to qua cánh cửa, và mở máy Nhận với tần số ngày hôm đó.

Kỹ thuật viên thứ hai thò đầu vào cửa.

- Cái gì thế

- Gọi Steve và Simon nhanh lên. Tin của Râu Đen đấy, khẩn lắm.

Người đó biến đi. Martin cho Riyadh 15 phút, rồi chuyển đi bức thông diệp chính.

Riyadh không phải duy nhất có đài bắt được tín hiệu này. Ngoài thành phố Baghdad, một đĩa vệ tinh khác, đang chầm chậm quét dải bằng VHF, cũng bắt được một phần trong đó. Bức thông điệp dài đến mức, dù đã được làm ngắn đi, vẫn kéo dài tới 4 giây. Những người nghe trộm Iraq bắt được 2 giây cuối và đã định vị dược.

Ngay khi gửi đi, Martin đóng ngay máy lại và giấu nhanh thiết bị của mình xuống dưới những tấm tôn ở sàn nhà. Anh đang làm thì nghe có tiếng bước chân trên sỏi. Đó là người đầu bếp người Nga, vốn tốt bụng, đang đi qua sân để cho anh một điếu thuốc Balkan. Martin nhận nó với trống ngực đập dữ dội và thì thầm "Shukran".

Người Nga, tự hào vì lòng tốt của mình, quay trở lại ngôi nhà. "Tội nghiệp chưa kìa". Anh nghĩ. "Đúng là cuộc đời".

Khi ở lại một mình, kẻ tội nghiệp bắt đầu viết những ký tự Arập thật sít trên một tờ giấy viết thư anh để dưới cái hộp. Trong khi anh đang làm thế, thiên tài về phát thanh tên là thiếu tá Zayeed đang dò trên một bản đồ thành phố có tỉ lệ xích cực kỳ cao, đặc biệt về quận Mansour. Khi kết thúc những tính toán của mình, anh ta kiểm tra lại lần nữa cho chắc ăn rồi gọi cho thiếu tướng Hassan Rahmani ở đại bản doanh đóng tại Mukhabarat, cách ngôi nhà hình viên kim cương ở Mansour 500 yard mà anh đang dò tìm bằng mực xanh. Cuộc gặp gỡ được ấn định vào lúc 4 giờ.

Tại Riyadh, Chip Barber đang đi vòng quanh căn phòng khác chính của ngôi biệt thự với một tờ giấy in trên tay, theo cách thức ông ta chưa từng lặp lại kể từ rời khỏi Hải quân 30 năm trước.

- Anh ta đang làm cái quỷ quái gì vậy? ông hỏi hai sĩ quan tình báo Anh cũng đang ở trong phòng.

- Dễ hiểu thôi mà, Chip. Laing nói. Anh ta đang phải làm cái quỷ quái dài hạn. Anh ta đang gặp nguy hiểm lớn đấy. Bọn xấu đang ở gần anh ta lắm rồi. Mọi đường dây đều cho chúng ta biết chúng ta nên rút anh ta ra khỏi đó - ngay bây giờ.

- Phải, tôi biết chứ, anh ta là tay cừ. Nhưng anh ta không có quyền làm như thế. Chúng ta là người ra lệnh chứ, nhớ không nào?

- Chúng tôi nhớ chứ, Paxman nói, nhưng anh ta là người của chúng tôi, và anh ta đang gặp nguy hiểm. Nếu anh ta chọn ở lại, thì có nghĩa là hết chuyện, cho các anh cũng như cho chúng tôi.

Barber đã bình tĩnh lại.

- Ba triệu đôla. Làm thế quái nào tôi có thể nói với Langley anh ta đã cho Jericho thêm ba triệu đôla lần này cơ chứ? Thằng cha Iraq này đã có quyền đòi hỏi rồi cơ đấy. Với tất cả những gì tôi biết được, thì hắn ta dang chơi trò lường gạt để kiếm tiền thôi.

- Chip, Laing nói. chúng ta đang nói đến chuyện nghiêm túc đấy nhé.

- Có thể, Barber nhăn nhó, có thể chúng ta đang nói. Có thể Saddam có đủ uranium vào lúc này rồi, có thể ông ta lúc này đã lắp đặt xong tất cả. Mọi thứ chúng ta thực sự có là những tính toán của một số nhà khoa học và lời tuyên bố của Saddam - nếu thực tế lão ta từng nói thế. Mẹ kiếp, Jericho là thằng chỉ giỏi moi tiền. hắn ta có thể nói dối lắm chứ. Các nhà khoa học có thể sai lầm, Saddam có thể nói dối, hắn vẫn thế mà. Thế thì tại sao lại có thể chi một khoản tiền như thế

- Ông muốn nhận mạo hiểm về phần mình à? Laing hỏi.

Barber đung đưa người trên một cái ghế.

- Không, ông ta chậm rãi nói, không đâu. Tốt thôi, tôi sẽ giải quyết vấn đề đó với Washington. Rồi chúng tôi sẽ nói với các vị tướng. Họ phải được biết điều này. Nhưng tôi nói với các anh một điều nhé: một ngày nào đó tôi sẽ gặp thằng cha Jericho này, và nếu hắn chơi chúng ta, tôi sẽ đấm vỡ mặt hắn và dần hắn đến chết thì thôi.

Bốn giờ chiều hôm đó, thiếu tá Zayeed mang theo các bản đồ và các tính toán của mình đến văn phòng của Hassan Rahmani. Anh ta cẩn thận trình bày rằng hôm đó anh ta đã đảm bảo chính xác các tính toán của mình và đã thu hẹp được địa chỉ ở Mansour. Rahmani nhìn anh ta nghi ngờ.

- Chỉ còn 100 yard vuông nữa thôi, anh ta nói. Tôi nghĩ công nghệ hiện đại có thể tìm ra nguồn của lần chuyển tin này với độ chính xác một yard vuông.

- Nếu tôi bắt được một lần chuyển tin dài, phải, tôi có thể, viên thiếu tá trẻ kiên nhẫn giải thích. Tôi có thể tìm ra chỗ của máy nhận không lớn hơn một yard vuông đâu. Cộng cái đó với mẩu tin bắt được từ một vị trí khác, thế là ta sẽ có được một yard vuông cần thiết. Nhưng chúng ngắn khủng khiếp. Chúng chỉ xuất hiện trong không trung có hai giây là đã tắt. Cái tốt nhất tôi thu nhận được là một dải sóng hình nón rất hẹp, điểm của máy nhận, ở ngoài nước và đi rộng lắm. Có thể một góc của một giây của một độ trên com pa. Nhưng chỉ cách có hai dặm, và chúng ta có được 100 yard vuông. Thì nó vẫn là một diện tích nhỏ thôi mà.

Rahmani nhìn vào bản đồ. Địa điểm được đánh dấu gồm có 4 ngôi nhà.

- Thế thì đến thử đó xem sao, anh ta gợi ý.

Hai người theo bản đồ khu Mansour cho đến khi tới được địa điểm.đã nêu. Đó là một khu sang trọng và rất giàu có. Bốn toà nhà đều kín cổng cao tường, và là đất riêng. Trời đã tối khi họ đến được nơi.

- Sáng mai hãy khám xét họ, Rahmani nói. Tôi sẽ cho quân đội đến phong toả khu vực, nhưng kín đáo thôi. Anh biết anh đang tìm gì rồi mà. Anh sẽ vào cùng với các chuyên gia của mình và kiểm tra cả bốn chỗ, nhưng một cách riêng biệt. Nếu anh tìm ra, thì có nghĩa chúng ta sẽ bắt được tên gián điệp.

- Một vấn đề là, viên thiếu tá nói, có nhìn thấy cái bảng đồng đằng kia không? Nhà của đại sứ quán Liên Xô đấy.

Rahmani suy nghĩ. Anh không hề muốn làm phát sinh một vụ ầm ĩ mang tầm quốc tế.

- Thế thì kiểm tra ba toà nhà kia trước đi, anh ra lệnh Nếu không tìm thấy gì, tôi sẽ xử lý nhà của người Liên Xô với sự giúp đỡ của Bộ Ngoại giao.

Trong khi họ nói chuyện, một nhân viên của toà nhà Liên Xô đó đang ở cách xa ba dặm. Người làm vườn Mahmoud Al- Khouri đang ở nghĩa trang cũ của người Anh, đặt một phong bì thư mỏng vào một chiếc bình bằng đá dưới một tấm bia mộ. Sau đó: anh đành một dấu phấn lên bức tường của toà nhà Hội Nhà báo. Trong khi đi về quận Mansour khi đã khuya lắm, anh nhận ra ngay trước nửa đêm rằng vệt phấn đã biến mất.

Tối đó có một cuộc họp ở Riyadh. một cuộc họp rất kín tại một văn phòng kín đáo dưới toà nhà Bộ quốc phòng Arập Xêut hai tầng ngầm. Bốn vị tướng có mặt, một trong số đó ngồi ở đầu bàn, cộng thêm hai người mặc đồ dân sự, Laing và Barber. Khi những người dân sự ngừng nói, bốn vị tướng ngồi trong sự im lặng bão tố.

- Việc đó là nghiêm túc đấy chứ? Một trong số những người Mỹ hỏi.

- Một trăm phần trăm. Barber nói, thì chúng tôi không chắc. Nhưng chúng tôi nghĩ rất nhiều khả năng thông tin đó là đúng.

- Cái gì làm anh chắc chắn đến thế hả? viên tướng của USAF hỏi.

- Như các ông chắc cũng đã từng đoán. từ cách đây vài tháng chúng tôi đã có một cá chìm làm việc cho chúng tôi ở chức vụ cao ở Baghdad.

Nhiều nụ cười mỉa mai hiện ra.

- Xin đừng nói rằng thông tin về mục tiêu đến từ quả bóng chiêm tinh của Langley nữa nhé, vị tướng của Không quân nói, vẫn còn thù CIA vì đã làm ông mất đi các phi công.

- Vấn đề là, Laing nói, cho đến giờ, chúng tôi vẫn chưa hề thấy một thông tin nào của anh ta là không chính xác cả. Nếu anh ta nói dối chúng ta vào lúc này, thì thật kỳ quặc. Thứ hai, chúng ta liệu có sẵn sàng chấp nhận nguy cơ này không?

Một sự yên lặng kéo dài trong nhiều phút.

- Có một việc người của các anh đã lầm. Người chỉ huy USAF nói. Vận chuyển.

- Vận chuyên ư? Barber hỏi.

- Đúng đấy. có một vũ khí là một chuyện: chuyên chở nó đi ngay trước mũi kẻ thù thì lại là chuyện khác. Xem nào, không ai có thể tin Saddam lại có tài thu nhỏ mọi vật. Cái đó đòi hỏi công nghệ cực kỳ cao. Tóm lại ông ta không thể bắn cái thứ đó đâu, nếu quả thật ông ta có nó, từ một nòng súng xe tăng. Hay là một thứ pháo bình thường. Hoặc một khẩu đội theo kiểu Cachiusa. Hoặc một hoả tiễn.

- Thế tại sao không phải là bằng rocket được: thưa Tướng quân?

- Vì tải trọng của nó. viên phi công nói vẻ châm chọc. Cái thứ tải trọng quỷ quái. Nếu đó là một thứ vũ khí dữ dội. thì chúng ta phải tìm được đến nửa tấn. Tức là chừng 1000 pound. Nếu giờ đây chúng ta đã biết được những quả tên lửa Al-Abeid và Al-Tammuz vẫn chỉ đang được phát triển khi chúng ta nghiền nát dụng cụ ở Saad-l6. Al.Abbas và Al-Badr, cũng giống thế. Không thể được đâu - dù là nghiền ra hay tải trọng cực nhỏ.

- Thế còn Scud thì sao? Laing hỏi.

- Cũng thế thôi, vị tướng nói. Tầm xa được gọi là Al- Husayn sẽ làm vỡ nòng khi bắn và có một tải trọng lên tới 160 kg. Ngay cả với tên lửa Scud do Liên Xô tài trợ cũng chỉ có tải trọng tối đa lên tới 600 kg. Quá nhỏ.

- Thế thì vẫn còn một quả bom ném từ trên máy bay, Barber gợi ý.

Viên tướng Không quân nhăn mặt: " Thưa các quý ngài, tôi dám đưa ra đảm bảo của riêng mình, bây giờ và ở đây: kể từ lúc này. không một máy bay chiến đấu nào của Iraq ra được tới biên giới nữa.

Thậm chí không thể rời được đường bay. Những cái đi về phía nam sẽ bị bắn hạ cách biên giới nửa dặm. Tôi đã có đủ AWACS, đủ máy bay chiến đấu - tôi có thể đảm bảo điều đó.

- Thế còn Pháo đài thì sao? Laing hỏi. Cái máy phóng, Một hangar tuyệt đối bí mật.có thê là ngầm dưới đất. một thứ chỉ rất ít người biết: có một chiếc Mirage, một chiếc MIG, một Sukhoi - đã được lắp đặt và sẵn sàng đi. Nhưng chúng ta sẽ tóm được nó trước khi nó đến biên giới.

Quyết định đã được đưa ra bởi vị tướng Mỹ ngồi đầu bàn chủ trì.

- Các anh có đi tìm kiếm nơi đó không. cái pháo đài ấy? Ông trầm tĩnh hỏi.

- Có thưa ngài. Barber nói. Chúng tôi bây giờ đã thử rồi.

- Chúng tôi cho rằng sẽ mất không nhiều ngày nữa đâu.

- Hãy tìm ra nó đi, và chúng tôi sẽ tiêu diệt nó.

- Thế còn thời hạn đổ quân sắp tớỉ. thưa ngài? Laing hỏi.

- Tôi sẽ cho các anh biết sau nhé.

Tối đó, đã được thông báo rằng cuộc tấn công trên bộ vào Kuwait và Iraq đã được hoãn lại và được lên lại kế hoạch vào ngày 24 tháng Hai.

Sau này. các sử gia đã đưa ra hai nguyên nhân cho sự trì hoãn này. Một: Hải quân Mỹ muốn chuyên trục tấn công chính sang xa hơn vài dặm về phiía tây và như thế cần rất nhiều vận chuyển, về đồ đạc, và các chuẩn bị khác nữa. Điều này cũng là đúng.

Lý do thứ hai đi trước trên báo chí cho rằng hai tên tin tặc người Anh đã đột nhập hệ thống máy tính của Bộ Quốc phòng và phá mất các thông tin về dự báo thời tiết cho khu vực sẽ tấn công, gây ra sự hoang mang đối với lựa chọn ngày tốt nhất cho cuộc tấn công từ quan điểm khí hậu.

Trên thực tế, thời tiết vẫn đẹp và trong giừa ngày 12 và ngày 24, và nó chỉ xấu đi khi đội quân tiên phong bắt đầu tiến lên.

Tướng Norman Schwarzkopf là một người đàn ông to lớn và mạnh khoẻ, về thể chất cũng như tinh thần. Nhưng tâm trạng của ông có thể thay đổi tuỳ thuộc vào những ngày vừa qua không bắt đầu nói với ông.

Ông đã làm việc mỗi ngày 20 tiếng đồng hồ trong suốt 6 tháng mà không nghỉ. Ông không chỉ được coi là nhà quân sự lớn nhất và nhanh nhất trong lịch sử, một kỷ lục có thể hạ gục một người kém cỏi hơn, nhưng ông cũng phải đối mặt với những điều phức tạp về quan hệ với những điều nhạy cảm trong xã hội Arập Xêut, phải giữ cho được hoà bình hàng chục lần có nguy cơ làm tan rã Liên quân, và phải nghe theo những can thiệp rất nhiều nhưng chẳng mấy cần thiết của đồi Capitol.

Và đó còn chưa phải là mọi thứ quấy nhiễu giấc ngủ cực kỳ cần thiết của ông trong những ngày vừa qua. Chính trách nhiệm về những sinh mệnh trai trẻ đã khiến ông có những cơn ác mộng.

Trong cơn ác mộng, có một tam giác. Luôn như thế. Đó là một tam giác đất đều đặn, nằm trên bờ của nó. Cái có thể là đáy của tam giác là được từ Khafji trải xuống đi qua Jubail cho đến ba thành phố nối liền với nhau là Dammam, Al Khoba và Dhahran.

Đường chéo của tam giác là đường biên giới chạy sang phía tây từ bờ biển, đầu tiên là giữa Arập Xêut và Kuwait, rồi đi vào trong sa mạc để trở thành biên giới của Iraq. Đường trung trực là đường nối điểm ngoài cùng phía tây trong sa mạc với bờ biển ở Dhahran.

Trong tam giác đó gần nửa triệu đàn ông và đàn bà đang ngồi đợi lệnh của ông. 80 phần trăm trong số họ là người Mỹ.

Phía đông là người Xêut, những đội quân Arập khác, và Hải quân. Tại trung tâm là các đơn vị bộ binh Mỹ đồ sộ trang bị tối tân. và giữa họ là Sư đoàn Thứ nhất của Anh. Ớ sườn bên kia là người Pháp.

Lại thêm một lần nữa, cơn ác mộng lại là hàng chục nghìn chàng trai trẻ đổ vào để tấn công, để rồi phải hứng lấy một trận mưa khí độc và chết giữa những bức tường cát và hàng rào dây thép. Giờ đây mọi chuyện lại còn tồi tệ hơn.

Chỉ mới một tuần trước thôi, quan sát tam giác trên một bản đồ quân sự, một sĩ quan tình báo Quân đội đã thực tế gợi ý, có thể Saddam định sẽ đặt quân ở đây". Người đó từng nghĩ là mình đang nói đùa.

Đêm đó, vị tướng tổng chỉ huy lại cố ngủ và lại thất bại. Luôn là cái Tam giác. Rất nhiều người, và không gian thì quá nhỏ hẹp.

Tại biệt thự của SIS, Laing, Paxman, và hai kỹ thuật viên phát thanh đang chia nhau một cái gì đó được bí mật mang từ Đại sứ quán Anh đến. Họ cũng đang nghiên cứu bản đồ; họ cũng nhìn thấy cái Tam giác. Họ cũng cảm thấy kinh sợ.

- Quả bom khốn khiếp, một quả bom nhỏ, tàn bạo chết mẹ, lần đầu tiên sau quả bom Hiroshima ở đây sẽ có một quả khác, không khí tung lên hay mặt đất sẽ tung lên... Laing nói.

Họ không cần đến các nhà khoa học để biết được rằng vụ nổ đầu tiên có thể giết chết 100.000 người lính trẻ trung. Trong nhiều giờ, cơn mưa phóng xạ, sẽ nhiễm vào hàng tỷ tấn cát trong sa mạc, có thể bắt đầu tác hại, làm mọi thứ trên đường đi của nó phải chết.

Những chiếc tàu đậu ngoài biển có thể còn đủ thời gian để chạy thoát, nhưng những đội quân đang đóng trên mặt đất ở các thành phố Arập Xêut này thì không thể. Về phía đông nó có thể lan rộng về phía Bahrain và các sân bay của Liên quân, làm nước biển nhiễm xạ, đi qua cho đến bờ biển của Iran, tại đó sẽ loại trừ những người mà Saddam Hussein từng tuyên bố là không xứng đáng được sống - " Bọn Ba Tư, bọn Do Thái,. và ruồi"

- Hắn ta nhất định không thể phóng nó đi được. Paxman nói Hắn không thể có một quả hoả tiễn hay một máy bay có thể làm được việc đó.

Rất xa về phía bắc, giấu mình trong Jebal ở Hamreen, rất sâu trong nòng một khẩu súng với nòng dài 180 mét và tầm bắn hàng nghìn km. Cú đấm của Thượng đế đang nằm im lìm nhưng đã sắp được gọi để bay lên.

Ngôi nhà ở Qadisiyah chỉ mới lơ mơ tỉnh dậy và còn chưa chuẩn bị cho các vị khách đến vào lúc bình minh. Khi người chủ nhà xây nó vào nhiều năm trước. nó đã được đặt vào giữa một vườn hoa lan lớn. Nó nằm đó cách bốn biệt thự ở Mansour mà thiếu tá Zayeeh của Cục phản gián đã chuẩn bị để giám sát đúng ba dặm. Sự lan rộng của vùng ngoại ô tây nam của Baghdad đã bao bọc lấy ngôi nhà, và đường cao tốc Qadisiyah lao lên qua cái đã từng là những đồng ruộng trồng lê và mơ.

Nó vẫn là một ngôi nhà đẹp thuộc sở hữu của một người giàu có từ lâu đã về hưu, kín cổng cao tường và vẫn giữ được một số cây ăn quả ở cuối vườn.

Có hai chiếc xe tải lớn đầy lính AMAM dưới sự chỉ huy của một thiếu tá, và họ không tham dự vào vở kịch. Khóa của cửa chính đã bị phá, cánh cổng bị đá tung, và bọn lính ùa vào, phá tung cánh cửa trước và đánh người hầu đang cố ngăn chúng lại.

Họ chạy qua ngôi nhà, lật tung các chạn bát và đồ đạc. trong khi người đàn ông chủ ngôi nhà kinh hoàng cố phòng thủ và bảo vệ vợ mình.

Bọn lính xông vào khu đất trống và không tìm thấy gì. Khi người đàn ông cầu xin chúng nói cho ông ta biết họ muốn tìm gì, viên thiếu tá chỉ nói ông ta biết quá rõ còn gì. và sự kiểm tra lại tiếp tục.

Sau ngôi nhà, bọn lính khám đến khu vườn. T'ại góc vườn gần bức tường chúng tìm thấy đất mới được đào lên. Hai trong số chúng giữ lấy người đàn ông trong khi bọn còn lại đào. Ông kêu lên là mình không biết thế quái quỷ nào mà đất lại được đào lên, rằng ông ta không giấu cái gì hết. Nhưng chúng đã tìm thấy.

Đó là một cái túi rộng và có thể nhìn thấy. Khi chúng đổ nó ra, một bộ điện đàm. Người đàn ông chẳng hề biết gì về đài phát thanh, cũng không thể biết rằng chiếc máy phát tín hiệu Morse ở trong cái túi chẳng liên quan gì tới máy phát siêu hiện đại qua vệ tinh mà Mỉke Martin sử dụng và vẫn nằm dưới sàn nhà ở vườn nhà Bí thư thứ nhất Kulikov. Đối với viên thiếu tá AMAM. cứ điện thoại là đồng nghĩa với gián điệp, và chỉ cần như thế là đã đủ.

Ông già bắt đầu than vãn rằng ông chưa từng nhìn thấy nó trước đây, rằng ai đó hẳn là đã vượt tường vào ban đêm để chôn nó ớ đó, nhưng bọn lính AMAM đánh ông ngã bằng báng súng, và vợ ông cũng bị chúng đánh khi bà kêu lên.

Viên thiếu tá kiểm tra chiến lợi phẩm, và thậm chí hắn có thể nhìn thấy một số ký tự trên cái túi dường như là chử Hebrew.

Họ không hề muốn bắt người hầu của ngôi nhà hay bà vợ - mà chỉ người đàn ông, ông đã vào khoảng 70 tuổi, nhưng chúng lôi ông đi xềnh xệch, mắt cá và cổ tay bị bọn lính túm lấy, và ông ta bị đẩy lên thùng xe tải giống như một cái túi đựng cá.

Viên thiếu tá rất hoan hỉ. Hành động theo một lời tố cáo nặc danh, hắn ta đã hoàn thành được nhiệm vụ của mình. thượng cấp của hắn hẳn sẽ mừng lắm. Đó không phải là một trường hợp cho nhà tù Abu Ghraib. Hắn chở người tù của mình đến đại bản doanh AMAM và Nhà tập. Hắn lý luận, đó là chỗ duy nhất cho bọn gián điệp Israel.

Cùng ngày hôm đó l6 tháng Hai. Gidi Barzilai đang ở Paris, cho Michel Levy xem bức tranh. Ông già chuyên gia đồ cổ cũng là một sayan rất vui mừng vì có thể giúp được cho Gidi. Trước đây ông ta mới được nhờ làm việc có một lần, việc chuyển một số đồ đạc cho một katsa để cố xâm nhập một tòa nhà nào đó, vào vai một tay trung gian đồ cổ.

Với Michel Levy thật là mừng và thật phấn khích, một cái gì đó làm sống động trở lại cuộc sống của một người đã luống tuổi khi được Mossad hỏi và có thể giúp đỡ theo một cách nào đó

- Boulle. ông ta nói.

- Xin ông tha lỗi nhé, Barzilai nói, nghĩ mình đã quá đường đột.

- Boulle. ông già nhắc lại. Được đánh vần là B-u-h-l. Nghệ nhân làm bàn nổi tiếng người Pháp. Phong cách của ông ta, anh thấy không, thật rõ nét. Anh có thấy không. Không phải ông ta làm đâu. Thời đó thì quá xa đối với ông ta.

- Thế thì ai làm?

Mexừ Levy khoảng hơn 80 tuổi, với mái tóc trắng mảnh trên một cái sọ méo mó, nhưng đôi má hồng hào và đôi mắt sáng vẫn long lanh niềm vui sống. ông đã nói cho kaddish cho nhiều người trong thế hệ của ông ta.

- Tốt, Boulle khi chết đã nhường lại cửa hàng của mình cho người mà ông ta bảo trợ, German Oeben. Rồi theo truyền thống ông này lại để lại cho một German khác là Riesener. Tôi nghĩ đây có thể vào thời Riesener. Chắc chắn là do bàn tay một người thợ khéo, có thể chính là người chủ. Anh định sẽ mua nó

Ông ta nheo mắt, dĩ nhiên rồi. ông biết Mossad không bao giờ mua đồ để sưu tầm nghệ thuật cả. Đôi mắt ông ta nhảy múa những ánh nhìn tinh quái.

- Chỉ cần biết là tôi đang quan tâm đến nó. Barzilai nói.

Levy rất vui vẻ. Họ lại giở những ngón nghề cũ ra rồi đây. Ông sẽ không bao giờ biết được, nhưng như thế này cũng đã vui chán rồi.

- Làm những bàn đó...

- Bàn làm việc chứ, Levy nói.

- Thôi được rồi, làm những cái bàn đó có ngăn bí mật nào ở bên trong không?

- Càng lúc càng tốt hơn rồi đây - vui thật! Ôi, thật phấn khích làm sao!

- A, ý anh muốn nói đến một cachette phải không. Dĩ nhiên rồi. Anh biết đấy, anh bạn trẻ, nhiều năm trước, khi một người có thể bị gọi ra và bị giết trong một cuộc dấu súng về một vấn đề danh dự, một quý bà có việc gì đó thật là bí mật. Không có điện thoại, không fax. không vi deo vào thời đó. Mọi thứ tư tưởng kỳ dị nhất của người tình bà ta sẽ được viết ra giấy. Thế thì bà ta phải giấu chồng mình như thế nào? Không phải trong một tủ sắt trong tường - họ không hề có đâu. Cũng không phải trong một cái hộp sắt - chồng bà ta có thể sẽ đòi đưa chìa khóa.

Thế thì những người trong xã hội thời đó cần phải có những loại đồ gỗ có cachette. Không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng có lúc Cần phải làm thật khéo, nếu không sẽ lộ mất.

- Thế làm cách nào người ta có thể biết nếu một thứ đồ như thế... nghĩ đến chuyện mua một cái cachette như thế.

Ôi thế này thì tuyệt quá rồi. Người đàn ông từ Mossad sẽ không đi mua bureau của Riesner, anh ta đang cần phá một cái như thế.

- Anh có muốn nhìn một cái không? Levy hỏi.

Ông ta gọi nhiều cú điện thoại, và một lúc sau họ cùng ra khỏi cửa hàng của ông ta và lên một chiếc xe bus. Đó là một người môi giới khác. Levy trò chuyện một lúc ngắn, người đàn ông gật đầu và để họ lại một mình. Levy đã nói nếu ông ta có thể đảm bảo một vụ mua bán, thì sẽ chỉ mất một khoản phí không đáng kể, và chỉ có thế. Người môi giới tỏ ra hài lòng: vẫn thường là như thế trong thế giới đồ cổ.

Chiếc bàn mà họ xem xét rất giống cái ở Vienna.

- Bây giờ, Levy nói, cái cachette sẽ không rộng lắm đâu,. Nó có thể ở bên ngoài cũng như gắn ở bên trong. Nó sẽ rất mỏng. thẳng đứng hoặc nằm ngang. Có khả năng không rộng hơn hai cm đâu, giấu trong một cái ngăn có vẻ như rất cứng, rộng tới ba cm, nhưng trên thực tế có hai ngăn bằng gỗ với cái cachette nằm ở giữa. Đầu mối là cái nút bấm.

Ông kéo một trong hai ngăn trên cùng ra.

- Đây này. ông ta nói.

Barzilai sờ bằng đầu ngón tay cho đến đáy.

- Vòng quanh xem nào.

- Chẳng có gì cả. viên katsa nói.

- Thế là bởi vì chẳng có gì thật, Levy nói. Không phải ở trong cái ngăn này. Nhưng có thể có một cái nút hoặc lẫy gì đó.

Một cái nút rất mềm. Anh ấn vào đó đi: một cần gạt, anh quay nó đi; nếu là một thanh ngang. Anh hãy dịch chuyển sang hai bên, và xem điều gì xảy ra.

- Cái gì sẽ xảy ra?

Một tiếng động nhẹ, và một mẩu hoa văn bằng ngà thò ra, nhảy lên. Bên dưới đó là cái cachette.

Ngay cả sự tài hoa của người thợ đồ gỗ thế kỷ XVIII cũng có chỗ hạn chế. Trong suốt một giờ đồng hồ, mexừ Levy dạy cho viên katsa về mười chỗ cơ bản cần xem xét cái lẫy bí mật có thể làm mở được cái ngăn đó.

- Đừng bao giờ cố đẩy mạnh quá để tìm. Levy nhấn mạnh vì nó đề lại dấu vết trên gỗ đấy.

Ông ta liếc nhìn Barzilai và mỉm cười. Barzilai thết ông già một bữa trưa thịnh soạn ớ nhà hàng Coupole, rồi đi taxi ra sân bay để quay về Vienna.

Sáng sớm hôm đó, ngày 16 tháng Hai, thiếu tá Zayeed và đội của mình cũng có mặt ở ngôi biệt thự đầu tiên trong số ba biệt thự sẽ bị khám xét. Hai cái khác đã bị niêm phong, với những người án ngữ ở tất cả các lối vào và những người canh gác cẩn mật ở bên trong.

Viên thiếu tá vô cùng lịch sự, nhưng lệnh của anh ta là không thể chống lại. Không giống người của AMAM cách đó một dặm rưỡi tại Qadisiyah, người của Zayeeh là các chuyên gia, rất ít gây ra các thiệt hại trong khi khám nhà, và rất hiệu quả trong việc tìm kiếm của mình.

Bắt đầu từ tầng trệt, tìm kiếm lối vào của một địa điểm bí mật dưới các mái tôn. rồi đi khắp nhà, từng phòng một, từng tủ một, từng hầm một. Khu vườn cũng bị tìm kiếm, nhưng không dấu vết nào được tìm thấy Trước buổi trưa, viên thiếu tá cuối cùng cũng thỏa mãn: xin lỗi những người sống trong đó và rời đi. Anh ta bắt tay vào khám xét ngôi nhà kế bên.

Tại căn phòng dưởi đại bản doanh của AMAM tại Saadun, ông già đang bị treo ngược. cổ tay cổ chân buộc chặt vào một cái bàn gỗ và xung quanh là bốn chuyên gia đang khai thác lời khai. Ngoài những người đó ra, còn có một bác sĩ, và tướng Omar Khatib bàn bạc với trung sĩ Ali ở góc phòng.

Chính người chỉ huy của AMAM đã quyết định danh mục các đòn tra tấn sẽ được thực hiện. Trung sĩ Ali nhướng lông mày; anh ta có thể, anh ta nhận ra, chắc chắn cần đến mọi biện pháp trong ngày hôm nay. Omar Khatib gật đầu đồng tình và đi ra. ông ta có giấy hẹn gặp ở tầng trên.

Ông già tiếp tục van xin nói rằng mình chẳng biết gì về máy phát, và đã không vào vườn từ nhiều ngày nay do thời tiết xấu Những tay hỏi cung chăng mảy may quan tâm. Chúng treo cả hai mắt cá chân lên một cái cán chổi đang chạy đi chạy lại. Hai trong số bốn tên giơ chân ông ta lên đến vị trí vừa đủ với đế giày hướng vào trong phòng, trong khi Ali và tên đồng nghiệp còn lại của mình dốc xuống từ trên tường những luồng điện mạnh.

Khi trận đòn vào lòng bàn chân bắt đầu, ông già thét lên, và khi tất cả đã làm xong, cho đến khi mất giọng, rồi tái nhợt. Một gáo nước lạnh ngắt từ trong phòng phun ra, nơi một loạt ca nước đã được xếp sẵn, làm ông ta tỉnh lại.

Đôi khi, trong buổi sáng, những người còn đang ở lại, để thả lỏng cơ bắp cho đôi tay, đã trở nên mệt mỏi với những đòn đánh. Khi chúng dừng lại, những chiếc cốc uống xong bị vứt thẳng vào chân người tù. Rồi, khi đã lại sức, chúng tỉếp tục đánh. Giừa những lần tỉnh đi tỉnh lại, ông già tiếp tục phản đối rằng mình còn chẳng biết bật đài radio và do đó chắc là có nhầm lẫn gì đó.

Vào khoảng giữa buổi sáng, da thịt cả hai bàn chân đã rách rưới hết cả và những vụn xương trắng rơi ra qua dòng máu. Viên trung sĩ Ali gật đầu và ra hiệu rằng đã có thể ngừng được rồi. Hắn ta châm một điếu thuốc và nhâm nhi làn khói trong khi trợ tá của hắn dùng một thanh sắt ngắn để bẻ xương chân từ mắt cá lên đầu gối.

Ông già van vỉ viên bác sĩ, với tư cách là người điều trị bệnh nhân hãy giúp ông, nhưng viên bác sĩ của AMAM nhìn chằm chằm lên trần nhà. Hắn ta đã có lệnh, là phải giữ cho tù binh sống và còn suy nghĩ được.

Bên kia thành phố, thiếu tá Zayeed đã kết thúc việc lục soát đối với ngôi biệt thự thứ hai vào lúc 4 giờ chiều, ngay trước khi Barzilai và Michel Levy đứng dậy khỏi bàn ăn ở Paris. Lại lần nữa anh ta không tìm thấy gì hết cả. Nhã nhặn xin lỗi cặp vợ chồng kinh hoàng thấy căn nhà mình bị gỡ ra từng mảnh một cách có hệ thống, anh ta rời đi với đội của mình đi về ngôi biệt thự thứ ba và là cuối cùng.

Ở Saadun, ông già ngất đi mỗi lúc một nhanh hơn, và viên bác sĩ bảo các nhân viên tra tấn rằng ông ta cần có thời gian dể hồi phục. Một mũi tiêm đã được chuẩn bị sẵn và được phóng vào động mạch chủ của người tù. Nó có hiệu quả tức thì, đưa ông ta từ trạng thái lâm sàng về tỉnh táo và kích thích thần kinh ông ta khả năng suy nghĩ.

Sáu giờ ông già lại rơi vào trạng thái mê man, và lần này viên bác sĩ quá chậm trễ. Hắn ta làm cuống cuồng, mồ hôi sợ hãi chảy đầy trên mặt, nhưng mọi thứ thuốc kích thích, được tiêm trực tiếp vào tim ông già, đều không có hiệu quả. Ali rời khỏi phòng và quay trở lại sau 5 phút cùng Omar Khatib. Viên tướng nhìn vào cái xác, và hàng bao nhiêu năm kinh nghiệm cho ông ta biết đến lúc này không thể cầu viện vào bất kỳ thứ thuốc nào nữa. Ông ta quay lại, và lòng bàn tay mở rộng của ông ta nắm lấy viên bác sĩ đang run cầm cập đập thẳng vào mặt anh ta.

Sức mạnh của cái tát cũng như uy danh của ông ta khiến viên bác sĩ nằm bẹp trên sàn nhà giữa những dụng cụ y tế của mình.

- Thằng chó. Khalib rít lên. Ra khỏi đây ngay.

Viên bác sĩ thu dọn vội đồ đạc cho vào túi và bò ra khỏi phòng. Đồ tể nhìn vào công cụ của Ali. Có mùi mồ hôi trong không khí mà cả hai đều đã rất quen thuộc, và một thứ trộn lẫn giữa mồ hôi, sự kinh hoàng, nước tiểu, máu, đồ nôn, và mùi thuốc gây mê của một thứ thức ăn quá lửa.

- Cho đến lúc cuối lão ta vẫn khăng khăng, Ali nói. Tôi xin thề, nếu lão ta biết gì, chúng ta sẽ có được ngay.

- Cho lão ta vào trong một cái bao, Omar Khatib lạnh lùng, và chuyển về cho vợ lão ta để chôn cất.

Đó là một chiếc túi to màu trắng dài sáu fít và rộng hai fit. và được để ở bậc cầu thang của ngôi nhà ở Qadisiyah vào lúc 10 giờ tối. Rất chậm và rất khó khăn, vì cả hai người đều đã già cả. người vợ góa và người hầu phòng lôi cái túi vào, kiểm tra ở bên trong, và để nó lại trên bàn ăn. Người đàn bà ngồi phịch xuống cuối bàn và bắt đầu lên tiếng than vãn.

Người hầu tên Talat đi ra chỗ điện thoại nhưng nó đã bị gỡ ra khỏi tường và không còn hoạt động. Cầm lấy sổ điện thoại của bà chủ, mà anh ta không thể đọc được. anh ta đi xuống phố đến nhà người dược sĩ và nhờ người hàng xóm thử liên lạc với cậu chủ - ai trong số các cậu chủ cũng dược.

Cùng vào giờ đó, trong khi người dược sĩ cố gọi điện trong Iraq qua hệ thống điện thoại trong nước, và Gidi Barzilai, trở về Vienna, đang chuyển một bức điện khẩn về cho Kobi Dror, thiếu tá Zayeed đang báo cáo về ngày làm việc không kết quả của mình cho Hassan Rahmani.

- Thế thì có nghĩa nó không nằm ở đó, anh ta nói với chỉ huy Cục Phản gián. Nếu có, chúng tôi đã tìm ra rồi. Thế thì chỉ còn lại ngôi biệt thự thứ tư, của tay ngoại giao đó thôi.

- Anh tin là mình không nhầm chứ? Rahmani hỏi. Cũng có thể là ngôi nhà khác thì sao?

- Không. thưa ngài. Ngôi nhà gần bốn biệt thự nhất nằm bên ngoài khu vực mà chúng tôi định vị được. Nguồn gốc của những lần chuyển tin nhanh đó là nằm ở trong hình viên kim cương này trên bản đồ.

Tôi xin thề đấy. .

Rahmani lưỡng lự. Các nhà ngoại giao thật là quỷ quái để mà có thể kiểm tra, luôn luôn sân sàng gửi lời phàn nàn lên bộ Ngoại giao. Để vào được trong nhà của đồng chí Kulikov, anh có thể phải lên cấp cao

- cao đến mức anh có thể tới được.

Khi viên thiếu tá đã đi, Rahmani gọi điện cho Bộ Ngoại giao. Anh may mắn: Bộ trưởng Ngoại giao, người đã đi liên tục trong mấy tháng nay. đang ở Baghdad. Hơn thế nữa, ông ta đang ngồi ở phòng làm việc của mình. Rahmani có được lời hẹn gặp vào lúc 10 giờ sáng hôm sau.

Viên dược sĩ là một người đáng mến, đã cố gọi điện suốt trong đêm. Ông không liên lạc được với người con trai, nhưng, sử dụng một đầu mối liên lạc trong Quân đội, ông đã chuyển được tin cho đứa con út của người quá cố. Ông không thể trực tiếp nói chuyện với anh ta, nhưng bên Quân đội sẽ chuyển tin đó hộ ông.

Thông tin đến được với người con trai út tại căn cứ của anh rất xa Baghdad vào bình minh. Ngay khi nghe tin, viên sĩ quan đã lên ôtô lái xe trở về. Thường thì anh chỉ mất không đầy hai giờ lái xe. Nhưng lần này, ngày 17 tháng Hai, anh mất tới sáu tiếng. Có đầy các đội tuần tra và chốt giao thông. Với cấp bậc của mình, anh ta được phép lái xe lên đầu hàng, không phải xếp hàng, và được vẩy tay cho qua.

Điều này không thể làm được với các cây cầu gẫy. Tại tất cả cầu anh phải dừng xe đợi phà. Mãi đến giữa trưa anh ta mới về được đến căn nhà của bố mẹ anh ở Qadisiyah. Mẹ anh chạy ra ôm chầm lấy anh và kêu gào trên vai anh. Anh cố hiểu được các chi tiết chính xác những việc đã xảy ra, nhưng bà không còn trẻ nữa và đã bị lên cơn động kinh. Cuối cùng, anh phải bế bà lên và đưa bà về phòng. Trong sự hỗn loạn những dấu vết nhà binh để lại mọi nơi trên sàn nhà tắm, anh ta tìm thấy một cái chai thuốc ngủ bố anh đã sử dụng khi mùa đông lạnh đưa mua ở hiệu thuốc. Anh đưa cho mẹ hai viên, và bà nhanh chóng thiếp đi.

Trong bếp anh ra lệnh cho ông già Talat pha cà phê cho cả hai người, và họ ngồi vào bàn trong khi người hầu miêu tả điều đã xảy ra kể từ bình minh ngày hôm trước. Khi ông ta dừng lại, ông chỉ cho cậu chủ cái hố trong vườn nơi bọn lính đã tìm thấy cái gói với bộ đồ điện đàm. Chàng thanh niên khám xét bờ tường và phát hiện những dấu vết mà kẻ đột nhập đã để lại trong đêm để lẻn vào chôn nó. Rồi anh ta trở lại ngôi nhà.

Hassan Rahmani phải ngồi đợi, điều mà anh không thích, nhưng anh có cuộc hẹn gặp với Bộ trưởng Ngoại giao, Tariq Aziz, ngay trước 11 giờ.

- Tôi không nghĩ hiểu rõ điều anh nói lắm. vị bộ trưởng tóc màu ghi nói, nhìn một cách thông minh qua cặp kính. Các đại sứ quán được phép liên lạc với thủ đô của họ qua radio, và những lần phát sóng của họ luôn được mã hóa.

- Phải, thưa Bộ trưởng, và chúng đến từ tòa nhà đại sứ quán. Đó là một phần trong công tác ngoại giao. Nhưng đây thì khác. Chúng ta đang nói về một máy phát bí ẩn, được các gián điệp sử dụng, gửi đi các thông tin cực ngắn cho một máy phát mà chúng tôi tin là không phải ở Matxcơva mà ở gần hơn nhiều.

- Những lần phát cực ngắn? Aziz hỏi.

Rahmani giải thích đó là cái gì.

- Tôi vẫn không thể theo kịp anh dược. Thế tại sao một nhân viên KGB nào đó - và hẳn đây là một chiến dịch của KGB - lại gửi đi những thông điệp cực ngắn từ nhà của Bí thư thứ nhất trong khi họ có quyền tuyệt đối được gửi chúng từ những máy phát mạnh hơn nhiều từ đại sứ quán?

- Điều này thì tôi không biết.

- Thế thì anh phải cho tôi những lời giải thích tốt hơn mới được, thưa tướng quân. Thế anh có ý tưởng nào về những việc đang xảy ra ở bên ngoài văn phòng của anh không? Chẳng nhẽ anh không biết rằng hôm qua mãi muộn tôi mới từ Matxcơva về sau những lần thảo luận căng thẳng với ngài Gorbachev và đại diện Yevgeny Primacov của ông ta, người đã ở đây vào tuần trước? Anh không biết rằng tôi đã mang theo mình một đề nghị hòa bình mà, nếu Rais chấp nhận - và tôi sẽ trình lên ông trong hai giờ nữa - có thể khiến Liên Xô phản đối trong Hội đồng Bảo an và chặn Mỹ tấn công chúng ta sao? Và trước tất cả những việc đó, vào chính lúc này, anh lại bảo tôi làm nhục Liên Xô bằng cách cho lục soát biệt thự của Bí thư thứ nhất của họ? Thẳng thắn mà nói, thưa tướng quân, anh có lẽ bị điên rồi đó.

Cuộc nói chuyện đã kết thúc như vậy. Hassan Rahmani rời Bộ cảm thấy đã tuyệt vọng. Dù sao, cũng có một điều mà Tariq Aziz không cấm. Trong những bức tường của ngôi nhà, Kulikov có thể là bất khả xâm phạm. Trong xe anh ta có thể là không thể chạm tới. Nhưng đường phố thì không thuộc về Kulikov.

- Tôi muốn nó phải đầu hàng, Rahmani nói với đội theo dõi giỏi nhất của mình khi quay trở về văn phòng. Hãy yên lặng, kín đáo, chậm rãi thôi. Nhưng tôi muốn phải theo dõi sát sao tòa nhà đó. Mọi người khách đến và đi - và sẽ phải có khách khứa đấy - tôi muốn các anh phải theo đuôi họ.

Vào buổi trưa. các đội theo dõi đã vào vị trí. Họ ngồi trong những chiếc ôtô đậu dưới những tán cây phủ lên bốn bức tường của ngôi nhà của Kulikov và theo dõi cả hai đầu của con đường duy nhất dẫn đến đó. Những người khác, đứng xa hơn nhưng có liên lạc bằng điện đàm, có thể báo cáo về mọi sự đến gần và có thể đi theo bất kỳ ai ra khỏi nhà.

Người con út ngồi trong phòng ăn của ngôi nhà bố mẹ mình và nhìn vào cái bao tải lớn có chứa bố mình. Những dòng lệ chảy dài trên mặt và rơi xuống bộ quân phục anh ta đang mang. Anh nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ngày xưa. Bố anh là một bác sĩ giàu có vào thời đó, với một phòng khám lớn, thậm chí còn khám bệnh cho một số gia đình người Anh sau khi được giới thiệu đến cho họ bởi người bạn Nigel Martin.

Anh ta nghĩ về khoảng thời gian cùng anh trai mình chơi đùa trong sân nhà Martin với Mike và Terry, và anh ta tự hỏi không biết điều gì đã xảy đến với họ vào lúc này.

Sau một giờ anh ta nhận thấy mùi từ cái túi đã nặng lên. Anh ta đứng lên và đi ra cửa.

- Talat.

- Thưa cậu chủ?

- Mang kéo và một cái dao lại đây.

Còn lại một mình trong phòng, đại tá Osman Badri mở phanh cái túi ra, từ trên miệng dọc sang bên và dọc đến đáy. Rồi anh kéo đầu cái túi ra và quay nó vào. Xác của bố anh gần như trần truồng.

Theo truyền thống, đó là công việc của phụ nữ, nhưng mẹ anh không thể làm gì được vào lúc này. Anh bảo mang đến nước và bông băng, tắm rửa lau chùi cho cái xác tơi tả, lắp lại cái chân gẫy, duỗi thẳng nó ra và phủ hoa lên. Trong khi làm việc, anh khóc, và trong khi khóc, anh thay đổi.

Vào hoàng hôn anh gọi cho Imam ở nghĩa trang Alwazia ở Risafa và thỏa thuận cho một đám tang vào sáng ngày hôm sau.

Mike Martin trên thực tế đã đi vào trong thành phố trên chiếc xe đạp của mình vào buổi sáng chủ nhật, ngày 17 tháng Hai đó, nhưng anh đã quay về sau khi mua xong rau quả và kiểm tra ba bức tường xem có dấu phấn nào không, trở về đến ngôi biệt thự đúng trước buổi trưa. Trong buổi chiều anh rất bận rộn chăm sóc khu vườn. Ông Kulikov, trong khi không người Công giáo cũng như đạo Hồi nào kỷ niệm dù là ngày lễ thánh Hồi giáo vào thứ Sáu hay ngày lễ Sabbath của người Công giáo vào Chủ nhật, vẫn ở nhà với vẻ lạnh lùng, phàn nàn về tình trạng những bông hoa hồng của mình.

Trong khi Martin làm việc với những khóm hoa hồng, các đội theo dõi của Mukhabarat đã kín đáo nhìn vào trong qua bức tường. Anh lập luận rằng Jericho sẽ không có tin tức gì mới trong ít nhất hai ngày nữa; Martin sẽ có thể đi kiểm tra những dấu phấn lại vào tối ngày hôm sau.

Đám tang của tiến sĩ Badri diễn ra ở Alwazia rất ngắn sau 9 giờ. Các nghĩa trang của Baghdad rất bận rộn trong thời gian đó, và Imam phải có nhiều việc phải làm. Chỉ vài ngày trước, Mỹ đã ném bom một hầm trú ẩn công cộng, làm hơn 300 người chết. Nỗi buồn thương dâng cao. Nhiều người khóc lóc ở đám tang bên cạnh đều tưởng viên đại tá có người thân chết vì những quả bom của quân Mỹ. Anh trả lời ngắn gọn bố mình chết vì những lý do tự nhiên.

Theo phong tục đạo Hồi, tang lễ thường diễn ra nhanh chóng, không mất thời gian chờ đợi giữa khi chết và khi chôn xuống đất. Và cũng không có quan tài gỗ như ở người Công giáo; xác chết được quấn trong vải. Viên dược sĩ tới, giúp đỡ bà Badri, và họ đi về thành nhóm khi nghĩa trang nhỏ bé đã đông người.

Đại tá Badri chỉ cách vài yard từ cửa Alwazia khi anh nghe gọi tên mình. Đứng cách anh vài bước chân là một chiếc limousin với cửa sổ màu đen. Một cửa sổ ở băng ghế sau đang mở. Lại có tiếng gọi tên anh. Đại tá Badri bảo viên dược sĩ đưa mẹ mình về nhà ở Qadisiyah; anh sẽ quay về gặp họ sau. Khi họ đã đi, anh bước tới chiếc ôtô.

Giọng nói vang lên: "Lên đây nào, đại tá. Chúng ta cần nói chuyện".

Anh mở cửa xe và bước vào trong. Người duy nhất trong xe dịch vào dành chỗ cho anh. Badri nghĩ mình biết khuôn mặt này, nhưng thật mù mờ. Anh đã nhìn thấy ở đâu đó. Anh bước vào và đóng cửa.

Người đàn ông trong bộ com lê màu ghi đậm nhấn một cái nút, và cửa sổ đóng trở lại, ngăn tiếng động trong xe không vang ra ngoài.

- Anh vừa mới chôn cất cha mình xong.

- Phải. Người đàn ông đó là ai? Tại sao ông ta không lộ mặt ra?

- Thật điên rồ, cái điều đã xảy ra với ông. Nếu tôi được biết đúng lúc, tôi có thể chặn nó lại. Tôi biết muộn quá.

Osman Badri cảm thấy điều gì đó như một cú đấm vào bao tử. Anh đã nhận ra mình đang nói chuyện với ai - một người đã nói chuyện với anh ở một cuộc tiếp tân của giới quân sự hai năm trước đây.

- Tôi đang định nói cho anh đây, đại tá, rằng, nếu anh báo cáo lại chuyện này, tôi có thể phải chết thảm còn hơn cha anh nhiều.

Thì cũng chỉ vẫn chuyện đó thôi, Badri nghĩ. Phản phúc.

- Một lần nữa, người đàn ông trầm giọng nói, tôi nhắc lại là tôi yêu Rais.

- Thì tôi cũng thế, Badri nói.

- Nhưng mọi chuyện đã thay đổi. Ông ấy đang trong cơn điên. Trong cơn điên giận ông ta hành động kinh khủng lắm.

- Ông ta phải bị chặn lại. Anh chắc là cũng biết Qa'ala rồi chứ.

Badri lại ngạc nhiên, lần này bởi sự thay đổi chủ đế đột ngột.

- Dĩ nhiên, tôi đã xây dựng nó rồi mà.

- Chính xác là như thế. Anh có biết nó nằm ở đâu không?

- Không.

Viên sĩ quan cấp trên nói với anh.

- Ông ta hẳn là không nghiêm túc rồi, Badri nói.

- Ông ta hoàn toàn nghiêm túc. ông ta có ý định sử dụng nó để chống lại người Mỹ. Điều đó có thể không phải là điều chúng ta phải bận tâm. Nhưng anh có biết người Mỹ sẽ trả đũa như thế nào không?

Sẽ rất kinh khủng. Không một viên gạch nào ở đây lành lặn nổi đâu, không một viên đá nào hết. Chỉ Rais là còn sống sót thôi. Anh có muốn là nạn nhân trong đó không?

Đại tá Badri nghĩ về những xác chết nằm trong nghĩa trang, trên đó những sexton ngang bằng với nhau khi đó sẽ tung khỏi mặt đất.

- Thế ông muốn gì? anh hỏi.

- Nói cho tôi biết về Qa'ala.

- Tại sao?

- Người Mỹ sẽ phá huỷ nó đi.

- Ông có thể chuyển thông tin cho họ à?

- Tin tôi đi, có cách mà. Qa'ala...

Thế là đại tá Osman Badri, người kỹ sư trẻ đã từng muốn xây những công trình lớn cho hàng thế kỷ, cũng như tổ tiên anh từng làm, nói với người có tên là Jericho.

- Địa điểm đây.

Badri đưa cho ông ta cái đó.

- Đi về chỗ của anh đi, đại tá. Anh sẽ được an toàn.

Đại tá Badri rời khỏi chiếc xe và đi, lòng anh nặng trĩu. Đi dược 100 yard anh bắt đầu tự hỏi mình, hỏi đi hỏi lại: mình vừa làm gì vậy? Đột nhiên, anh hiểu là anh phải nói cho anh trai mình, người anh trai luôn có một cái đầu lạnh lùng. là một người cố vấn khôn ngoan hơn nhiều.

Người mà đội Mossad gọi là kẻ chi điểm quay lại Vienna vào thứ Hai đó, do Tel Aviv triệu tập. Lại một lần nữa anh ta vào vai luật gia có uy tín từ New York đến, với mọi thứ giấy tờ cần thiết để chứng minh.

Ngay cả dù cho người luật gia thực sự không còn đang đi nghỉ, các cơ may để Gemuetlich, người ghét điện thoại và fax, gọi điện đến New York để kiểm tra được coi là rất nhỏ. Đó là nguy cơ mà Mossad đã chuẩn bị để ứng phó.

Lại một lần nữa người kẻ chỉ điểm lại ngồi ở Sheraton viết một bức thư riêng đến Herr Gemuetlich. Anh ta lại xin lỗi về đã đường đột đến thủ đô nước Áo nhưng giải thích mình có mang theo kế toán của hãng, và hai người muốn gửi tiền nhân danh khách hàng của mình.

Bức thư được gửi bằng tay vào buổi chiểu muộn, và sáng hôm sau trả lời của Gemuetlich đã đến khách sạn, hẹn gặp vào 10 giờ sáng hôm đó.

Kẻ chỉ điểm quả thực có người đi theo. Người đi cùng anh ta chỉ được biết là người phá khoá, chuyên môn của anh ta. Nếu Mossad có được ở đại bản doanh Tel Aviv của mình một bộ sưu tập không thể sánh được các loại công ty giả, hộ chiếu mạo, hòm thư, và mọi thứ linh tinh khác để đánh lừa, thì niềm tự hào của nó phải tính đến những tay chuyên bẻ khoá két sắt và hòm thư. Khả năng của Mossad đột nhập vào những nơi được khoá kỹ là sở trường trong thế giới ngầm. Về khoa học đột nhập, Lừ lâu Mossad đã được coi là giỏi nhất. Đã từng có đội neviot trong vụ Watergate, không ai có thể biết được. Tiếng tăm của những tay phá khoá Israel cao đến nỗi khi các nhà sản xuất Anh gửi một sản phẩm đến SIS theo lời đề nghị của họ, Nhà Thế kỷ đã chuyển ngay nó sang cho Tel Aviv. Mossad nghiên cứu nó, phá được nó, rồi chuyển về London với nhận xét chắc chắn". SIS bèn bỏ nó.

Lần tới một công ty khoá của Anh đã làm ra được một loại khoá mới rất ưu việt, Nhà Thế kỷ đã đề nghị họ mang về, giữ lấy nó, nhưng cung cấp một cái khác dễ dàng hơn cho các nhà phân tích. Cái dễ hơn đó được chuyển sang Tel Aviv. Tại đó nó được nghiên cứu và cuối cùng bị phá, rồi được chuyển về London với nhận xét "không thể phá được". SIS bèn khuyên nhà sản xuất tung khoá ra thị trường.

Điều này dẫn đến một vụ khá rắc rối một năm sau đó, khi một người phá khoá của Mossad mất nhiều giờ toát mồ hôi và tức điên lên khi làm việc với một cái khoá như thế trong hành lang một toà nhà văn phòng tại một thủ đô châu Âu trước khi phải rời đi trong cơn tức giận. Kể từ đó, người Anh tự kiểm tra lấy khoá của mình và buộc Mossad phải tự mầy mò.

Chuyên gia phá khoá mang theo từ Tel Aviv không phải là người giỏi nhất ở Israel mà là người giỏi thứ hai. Nguyên nhân cho việc này: anh ta có một số phẩm chất mà người giỏi nhất không có.

Trong đêm chàng thanh niên đã nghiên cứu một báo cáo dài sáu giờ từ Gidi Barzilai về chủ đề sản phẩm thế kỷ XVIII của nhà sản xuất đồ gỗ Đức-Pháp, Riesener, và một miêu tả đầy đủ của kẻ chỉ điểm về cấu tạo của toà nhà Winkler. Đội theo dõi yarid hoàn tất việc truyền đạt thông tin với việc thông báo các chuyển động của người gác đêm, được quan sát nhiều lần và nhiều địa điểm về ánh sáng ở bên trong cũng như bên ngoài ngân hàng trong đêm.

Cũng trong ngày thứ Hai đó. Mike Martin đợi cho đến năm giờ chiều trước khi đạp chiếc xe cà khổ của mình qua cái sân lát gạch đến cửa sau của khu vườn Kulikov, mở cửa, và đi ra.

Anh lên xe và bắt đầu xuôi phố theo hướng lối sang sông gần nhất, tại nơi nơi cầu Jumhuriya từng đứng trước khi những chiếc Tornado chú ý đến nó. Anh quay sang góc, ngoài tầm nhìn của biệt thự, và nhìn thấy chiếc ôtô đầu tiên. Rồi chiếc thứ hai, đỗ xa hơn. Khi hai người đi ra từ chiếc xe thứ hai và ra đứng giữa đường, dạ dày anh bắt đầu thắt lại. Anh cả gan ném một cái liếc nhìn về phía sau, hai người đàn ông từ chiếc xe kia đã phong toả mọi lối ra.

Biết mọi chuyện đã lộ, anh đạp xe đi. Không còn việc gì khác để làm nữa rồi. Một trong những người đàn ông đứng trước mặt anh chỉ sang vệ đường.

- Này anh kia, hắn ta kêu lên. Lại đây.

Anh dừng lại dưới các tán cây ven đường. Ba người đàn ông khác hiện ra, toàn là lính. Súng của họ chĩa thẳng vào anh. Anh chầm chậm giơ hai tay lên.
 
Chương 21


Chiều đó ở Riyadh, các đại sứ Anh và Mỹ gặp nhau, không chính thức, cho mục đích rất bình thường là uống trà và ăn bánh theo truyền thống nước Anh. Cũng có mặt tại cơ ngơi người Anh là Chíp Barber, người mà chỉ nhân viên sứ quán biết, và Steve Laing, người nói với tất cả những ai tò mò rằng mình làm việc ở bộ phận Văn hoá Đại sứ quán. Một người khách thứ ba, trong một trong những lần rời khỏi chỗ của mình sâu dưới lòng đất, là tướng Norman Schwarzkopf.

Trong một thời gian ngắn, năm người cùng ở một góc phòng, uống trà. Cuộc sống trở nên dễ dàng hơn khi mọi người đều biết cái mọi người khác thực sự làm trong cuộc sông. Trong số những người khách đó, chủ đề nói chuyện duy nhất là cuộc chiến tranh đang diễn ra, nhưng năm người đó có những thông tin mà không ai biết được hết cả. Một mẩu thông tin là tin tức về các chi tiết kế hoạch chiến tranh do Tariq Aziz đưa ra cho Saddam Hussein, kế hoạch đã được chuyển đến từ Matxcơva và những cuộc nói chuyện với Mikhail Gorbachev.

Thật là một chủ đề đáng lo lắng đối với mỗi người trong số năm người khách. nhưng với mỗi người là một nguyên nhân khác nhau.

Tướng Schwarzkopf ngày hôm đó đã nhận được từ Washington ý kiến rằng ông có thể tấn công sớm hơn kế hoạch đã định. Kế hoạch hoà bình của Liên Xô kêu gọi một sự ngừng bắn được tuyên bố, và Iraq phải rút quân khỏi Kuwait trong ngày tiếp sau đó.

Washington biết các chi tiết này không phải từ Baghdad mà từ Matxcơva. Lời trả lời sớm sủa của Nhà Trắng là kế hoạch có giá trị nhưng thất bại trong những vấn đề then chốt. Nó không hề gợi lên ý rằng Iraq phải vĩnh viễn từ bỏ sự lăm le với Kuwait; nó không hề gợi lên một sự thiệt hại khó tưởng tượng nổi đối với Kuwait – 500 vụ cháy dầu mỏ, hàng triệu tấn dầu thô bị chảy ra làm ô nhiễm nguồn nước ở vùng Vịnh, 200 người Kuwait bị hành hình, Kuwait City bị tàn phá.

- Colin Powell bảo tôi, vị tướng nói, Bộ Ngoại giao sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Họ muốn có được sự đầu hàng vô điều kiện.

- Thế thì họ sẽ có, chắc chắn đấy, đại sứ Mỹ nói.

- Tôi nói với họ, vị tướng nói. Tôi nói rằng các ông cần một người Arập để nhìn nhận vấn đề đó.

- Quả thế, đại sứ Anh đáp, thế tại sao lại có thể?

Cả hai vị đại sứ đều là những nhà ngoại giao lão luyện từng làm việc nhiều năm tại Trung Đông. Cả hai đều nghiên cứu rất nhiều về Arập học.

- Tốt, vị chỉ huy tối cao nói, cái kiểu tối hậu thư này không chơi được người Arập đâu. Trước tiên họ sẽ chết cái đã.

Một sự im lặng trong nhóm. Hai viên đại sứ tìm thấy trên mặt vị tướng một nét mỉa mai.

Hai sĩ quan tình báo vẫn không nói gì, nhưng cả hai đều có chung suy nghĩ ở trong đầu: đó chính là điểm mấu chốt đó, tướng quân thân mến của tôi ạ!

- Anh đi từ trong nhà người Nga ra.

Đó là một lời khẳng định, không phải câu hỏi. Người của Cục Phản gián đang mặc đồ dân sự nhưng chắc chắn đó là một sĩ quan.

- Vâng, bey.

- Giấy tờ đâu.

Martin lần tìm trong các túi của dish-dash của mình và trình căn cước và bức thư nhàu nát do Bí thư thứ nhất Kulikov đưa. Viên sĩ quan săm soi thẻ căn cước, liếc nhìn để so sánh với ảnh, và nhìn vào lá thư.

Những người Iraq làm việc rất tốt. Khuôn mặt lạnh lùng của Mahmoud Al-Khouri nhìn xuyên qua cái túi nhựa.

- Khám đi, viên sĩ quan nói.

Người còn lại thò tay vào trong áo dưới cái dish-dash rồi lắc đầu Không có vũ khí.

- Các loại túi

Các túi có một vài tờ tiền dinar, một vài đồng xu, một chiếc dao ăn, những mẩu phấn màu khác nhau, và cái túi bằng nhựa. Viên sĩ quan chú ý đầu tiên đến cái túi.

- Gì đây?

- Người vô đạo sẽ vứt nó đi. Tôi dùng để đựng thuốc lá.

- Không có thuốc trong này.

- Không có, bey, hết rồi. Tôi đang định đi mua ở chợ.

- Và đừng có gọi tôi là bey. Chỉ người Thổ mới nói thế thôi.

- Thế anh từ đâu đến vậy?

Martin miêu tả ngôi làng nhỏ ở phía bắc. "Rất nổi tiếng với dưa hấu", anh thêm vào.

- Câm mõm về những thứ dưa chết tiệt của anh đi! viên sĩ quan dọạ, có cảm giác rằng lính của mình đang cố nén cười.

Một chiếc limousin đi vào đầu kia của phố và dừng lại, cách đó 200 yard.

Viên sĩ quan cấp dưới ra hiệu cho thượng cấp và gật đầu. Thượng cấp quay lại, nhìn. và nói với Martin. "Đợi ở đây". Anh bước trở lại chiếc xe lớn và dừng lại để nói với ai đó qua cửa sổ băng ghế sau.

- Anh bắt được ai đấy? Hassan Rahmani hỏi.

- Tên làm vườn, thưa ngài. Làm việc ở đây. Trông coi hoa hồng và làm đất, đi chợ cho tay đầu bếp.

- Khôn ngoan không?

- Không, thưa ngài, đầu óc rất ù lì. Một lão nông dân từ mãi phía bắc, từ một chỗ nào đó trồng dưa ấy.

Rahmam suy nghĩ. Nếu anh giữ lại tên điên khùng này, những người Nga sẽ tự hỏi tại sao người của họ không trở lại. Anh hy vọng nếu tiến trình hoà bình của người Nga thất bại, anh có thể bước vào.

Nếu anh để người này đi mua hàng và quay về, anh ta có thể báo động những người chủ Liên Xô của mình. Theo kinh nghiệm của Rahmani đây là một thứ ngôn ngữ mọi người Iraq nghèo khổ đều nói và nói rất tốt. Anh đưa ra một cái ví và rút ra 100 dinar.

- Đưa cho anh ta. Nói với anh ta đi chợ đi và quay về. Rồi sau đó anh ta sẽ phải theo dõi ai đó với một cái ô lớn, bằng bạc. Nếu anh ta im lặng về chúng ta và ngày mai đến báo cáo đã nhìn thấy gì, anh ta sẽ được thưởng. Nếu nói với người Nga, chúng ta sẽ đưa anh ta đến chỗ AMAM.

- Rõ, thưa tướng quân.

Viên sĩ quan cầm lấy tiền, bước lại, và nói với người làm vườn. Người đàn ông trở nên bối rối.

- Một cái ô, sayidi?

- Phải: một cái bằng bạc rất lớn, hoặc cũng có thể màu đen, hướng lên trên trời. Anh đã từng bao giờ thấy nó chưa?

- Chưa, sayidi, người đàn ông buồn rầu nói. Mỗi khi trời mưa tất cả đều chạy vào nhà hết cả.

- Allah chí Thánh ơi, viên sĩ quan lẩm bẩm, không phải cho trời mưa đâu! Mà là để gửi tin.

- Ô mà gửi được tin, người làm vườn chầm chậm nói. Tôi sẽ thử xem có không, sayidi.

- Thế thì đi đi, viên sĩ quan thất vọng nói. Và phải im lặng về những gì anh đã nhìn thấy nhé.

Martin đạp xe xuôi phố, đi ngang qua chiếc limousin. Khi anh lại gần, Rahmani cúi đầu vào trong băng ghế sau. Không cần để cho anh ta nhìn thấy mặt Trùm Phản gián của nước Cộng hoà Iraq.

Martin tìm thấy dấu phấn vào lúc bảy giờ và nhận được bức thông điệp vào lúc chín giờ. Anh đọc nó trong ánh sáng từ cửa sổ của một quán cà phê - không có đèn điện, không có nữa, mà là một thứ đèn khí. Khi anh đọc bản giấy, anh huýt sáo nhè nhẹ, gấp nhỏ tờ giấy lại, và nhét nó vào trong đồ lót của mình.

Anh không bị chặn lại lần nào trên đường về ngôi biệt thự. Máy phát cần phải bỏ đi, vì chỉ cần thêm một lần phát sóng có thể gây ra thảm hoạ. Anh quan sát bến xe bus, nhưng khắp nơi đều có các đội kiểm tra của quân đội và AMAM, tìm kiếm những người từ sa mạc đi vào.

Thay vì đó, anh đi ra chợ rau quả ở Kasra và tìm thấy một người lái xe tải đang đi về phía tây. Người đàn ông sẽ đến nơi cách Habbaniyah vài dặm, và 20 dinar đã thuyết phục được anh ta chở thêm một hành khách. Nhiều xe tải thích đi vào ban đêm, tin rằng bọn Con của Chó ở đó trong những chiếc máy bay không thể nhìn thấy họ trong bóng tối, mà không biết dù ngày hay đêm, những xe tải chở hoa quả có gây ra tiếng động chẳng hề là ưu tiên cao của tướng Chuck Horner.

Vì vậy họ lái xe xuyên màn đêm, nhờ vào những ánh đèn tờ mờ như ngọn nến, và vào bình minh Martin đã đứng trên đường cao tốc ngay ở phía tây hồ Habbaniyah, nơi người lái xe quay sang các trang trại giàu có của vùng thượng thung lũng Euphrates.

Họ bị các đội kiểm tra dừng xe hai lần, nhưng chỉ một lần Martin phải trình giấy và bức thư của người Nga, giải thích rằng anh đã từng làm vườn cho họ, nhưng họ sắp về nước và đã sa thải anh. Anh ca thán về cách họ đối xử với anh cho đến khi những người lính hết kiên nhẫn bảo anh ngậm miệng lại và để anh đi.

Đêm đó, Osman Badri đang ở không xa Mike Martin, đang hướng về cùng một hướng nhưng đi trước. Đích đến của anh là căn cứ máy bay nơi người anh, Abdelkarim đang là chỉ huy đội bay.

Trong những năm 1980, một công ty xây dựng Bỉ tên là Sixco đã thắng thầu để dựng lên tám căn cứ quân sự được bảo vệ nghiêm ngặt cho các máy bay chiến đấu tốt nhất của Iraq vốn rất được cưng chiều.

Vấn đề với họ là hầu như mọi thứ đều được chôn ngầm dưới đất - doanh trại, hangar, kho nhiên liệu, nhà ăn, cửa hàng, phòng họp, khu cho phi công, và những máy phát điện diezel lớn để cung cấp năng lượng cho các căn cứ.

Chỉ một thứ được nhìn thấy từ trên cao là những đường băng, dài 3000 mét. Nhưng vì không hề có nhà cửa hay hangar dính liền, nên liên quân nghĩ chúng chỉ là những sân bay bình thường, như Al-Kharz ở Arập Xêut đã từng như vậy trước khi người Mỹ đổ quân vào.

Nhìn gần hơn vào mặt đất có thể thấy những cửa sắt dày tới một mét dựng ở cuối con đường. Một căn cứ rộng 5 km vuông, chu vi bao quanh bởi hàng rào. Nhưng cũng giống như Tarmiya. các căn cứ quân sự Sixco trông như là bỏ không, không dùng đến.

Để vận hành chúng, các phi công phải sống ngầm dưới đất, trong khoang máy bay của mình, và khởi động động cơ tại đó Chỉ khi họ đã sẵn sàng, với bức tường chắc chắn bảo vệ phần còn lại của căn cứ khỏi luồng phản lực và phóng ra chất khí lên trên để đi ra sa mạc bên ngoài, các cánh cửa của bệ phóng mới được mở ra.

Các máy bay chiến đấu có thể chạy qua các bệ phóng, lao lên với tốc lực mạnh nhất, phụt khói xa sau, lao lên đường băng, và ở trên không trung trong vài giây. Ngay cả khi các AWAC định vị được họ, họ cũng có vẻ như đến từ nơi khác và được cho là đang đi làm những nhiệm vụ tầm thấp đến từ nơi nào đó.

Đại tá Abdelkarim Badri đóng ở một trong các căn cứ Sixco đó, chỉ được biết đến với cái tên KM 160 vì nó nằm trên được từ Baghdad đi Ar-Rutba, cách Baghdad 160 km. Em trai anh trình giấy tờ ở trạm gác ở chỗ hàng rào vào lúc hoàng hôn.

Nhờ vào cấp bậc của anh, một cú điện thoại ngay lập tức được gọi vào từ tháp canh cho nơi ở riêng của người chỉ huy đội bay, và rất nhanh chóng một chiếc xe jeep xuất hiện, lăn bánh qua sa mạc trống không, có vẻ như đến từ nơi nào đó.

Một trung úy Không.lực trẻ tuổi dẫn vị khách vào trong căn cứ, chiếc xe jeep lăn bánh vào một bệ phóng khác được giấu kín nhưng rất nhỏ để đi vào khu nhà dưới lòng đất, nơi chiếc xe jeep đỗ lại. Viên trung uý dẫn đường qua các hành lang phức tạp đi qua các hầm nơi các kỹ thuật viên đang vận hành những chiếc MIG 29. Không gian thoáng mát và được lọc khí, và ở mọi nơi đều đầy tiếng động cơ phát điện. Ngay khi bước vào khu vực dành cho các sĩ quan cao cấp. viên trung úy gõ một cánh cửa. Khi có lệnh vang ra từ bên trong, anh ta chỉ cho Osman Badri căn hộ của viên chỉ huy.

Abdelkarim đứng lên, và hai anh em ôm choàng lấy nhau. Người anh 37 tuổi, cũng là đại tá và rất đẹp trai, với một hàng ria mỏng. Anh không lấy vợ nhưng không bao giờ thiếu đàn bà vây quanh. Vẻ ngoài của anh ta, cái vẻ hững hờ, bộ quân phục đẹp của anh ta và những huy hiệu của phi công đảm bảo cho anh ta điều đó. Vẻ ngoài của anh rất chân thật; các vị tướng Không lực đã coi anh là phi công lái máy bay chiến đấu giỏi nhất nước, và người Nga, những người đã đào tạo anh làm quân bài chiến lược cho phi đội bay của Liên Xô, MIG 29 Fulcrum loại máy bay chiến đấu siêu âm, cũng đồng ý với điều đó.

- Nào, em trai, ngọn gió nào đưa em đến đây vậy? Abdelkarim hỏi.

Osman, khi đã ngồi xuống và uống cà phê từ một cái tách nóng hôi hổi, đã có đủ thời gian để nghiên cứu vẻ mặt của anh trai. Có những nếp nhăn ở khoé miệng nơi trước đây chưa hề có, và có vẻ cảnh giác trong mắt.

Abdelkarim không phải một kẻ điên khùng cũng không hề hèn nhát. Anh đã bay tám phi vụ chống Mỹ và Anh. Anh đều quay về được. Anh đã nhìn thấy những đồng nghiệp giỏi nhất của mình bị hạ gục hoặc bị thổi tung bởi tên lửa Sparrow và Sidewinder, và anh đã từng dính bốn quả như thế. Những lệch lạc, anh đã nhận ra ngay sau lần đầu tiên thử đánh các máy bay ném bom Mỹ, là không thể chấp nhận được Về phần mình, anh không hề có thông tin hay hướng dẫn nơi có kẻ thù, có bao nhiêu, loại nào, trọng tải, đi hướng nào. Các ra đa Iraq đều đã bị bắn hạ, các trung tâm kiểm soát và chỉ huy đều đã bị nghiền vụn, và các phi công chỉ còn có thể dựa vào chính mình.

Tệ hơn thế, người Mỹ với những chiếc AWACS của mình có thể biết được chỗ của các máy bay chiến đấu Iraq trước khi họ đi được quá 1000 fít, nói cho phi công của mình cần đi đâu và phải làm gì để đảm bảo có được vị trí tấn công tốt nhất. Với người lraq, Abdelkarim Badri biết, mỗi phi vụ chiến đấu chẳng khác gì một đòi hỏi tự sát.

Về tất cả những thứ đó, anh không hề nói gì, cố tạo ra một nụ cười và hỏi tin tức của em trai. Tin đó giết chết ngay lập tức nụ cười.

Osman kể lại những sự kiện trong 60 tiếng đồng hồ qua: lính AMAM đến nhà bố mẹ họ vào sáng sớm, lục soát, và tìm kiếm trong vườn, đánh mẹ và Talat, và bắt bố họ. Anh nói anh đã được người dược sĩ hàng xóm gọi về như thế nào, và bằng cách nào anh đã lái xe về nhà để thấy xác chết của bố trên chiếc bàn ăn.

Miệng Abdelkarim mím chặt thành một đường giận dữ khi Osman kể đến khi anh khám phá cái gói chứa xác, và cách bố họ đã được chôn cất sáng hôm đó.

Người anh chồm về phía trước rất đột ngột khi Osman kể anh đã gặp ai và đã rời khỏi nghĩa trang, và về cuộc trò chuyện với người đàn ông.

- Em nói với ông ta tất cả những thứ đó rồi à? Anh hỏi khi em trai mình đã nói xong.

- Vâng.

- Đúng không đấy? Có đúng không đấy? Em đúng là đã xây dựng Pháo đài Qu'ala đấy à?

- Vâng.

- Và em nói với ông ta nó ở đâu, và ông ta có thể nói cho người Mỹ biết à?

- Vâng. Em có làm sai không?

Abdelkarim suy nghĩ một lúc.

- Có bao nhiêu người. ở toàn Iraq, biết về điều đó hả em?

- Sáu người.

- Kể tên xem nào.

- Rais, Hussein Kamil, người cung cấp tài chính và nhân lực; Amer Saadi, người cung cấp công nghệ. Rồi đến tướng Ridha, người cung cấp pháo binh, và tướng Musuli ở bên Công binh - ông ta đã đề xuất em làm việc đó. Và em, người đã xây dựng nó.

- Thế còn các phi công trực thăng chở khách đến thì sao?

- Họ hẳn là có biết hướng để có thể bay được, nhưng không phải cái gì ở trong đó. Và họ bị cấm trại ở một căn cứ nào đó, em không biết là ở đâu cả.

- Thế khách thì sao - bao nhiêu người trong số họ có thể biết?

- Không ai đâu. Họ bị bịt mắt trước khi máy bay cất cánh cho đến tận khi đến nơi.

- Nếu người Mỹ phá huỷ Cú đấm của Thượng đê đó, em nghĩ AMAM sẽ nghi ngờ ai? Rais, các bộ trưởng, các vị tướng - hay là em?

Osman gục đầu vào tay.

- Em đã làm gì thế này? anh rên rỉ.

- Anh sợ là, em trai ạ, em đã tiêu diệt tất cả chúng ta.

Cả hai anh em đều biết các quy tắc. Nếu phản bội, Rais sẽ không đòi một sự hy sinh duy nhất mà sẽ hành hình cả ba thế hệ: cha và chú, do đó không thể còn có dòng giống lưu truyền lại, anh em với cùng lý do, và con trai và cháu trai, để không còn ai có thể lớn lên để trả thù ông ta. Osman Badri đã bắt đầu trở nên yên lặng.

Abdelkarim đứng lên, kẻo Osman lại gần và ôm em trai.

- Em đã làm đúng, em ạ. Em đã làm đúng. Bây giờ chúng ta phải tính cách để thoát khỏi nơi đây.

Anh nhìn đồng hồ: tám giờ tối.

- Không có đường dây điện thoại nào cho công cộng từ đây về Baghdad đâu, anh nói. Chỉ có các đường dây ngầm dưới đất đến những người ở Bộ Quốc phòng đang trốn trong các boong ke tại đó Nhưng thông tin này không phải để cho họ. Em mất bao nhiêu thời gian để lái xe về nhà mẹ?

- Khoảng bốn tiếng, Osman nói.

- Em có tám tiếng để đến đó và quay lại đây. Hãy nói với mẹ gói ghém mọi thứ quý giá nhất vào xe ôtô của bố. Mẹ có thể lái xe - không tốt lắm nhưng được. Mẹ có thể mang theo Talat và về làng của Talat. Mẹ nên tìm chỗ trú ẩn ở bộ lạc của Talat cho đến khi một trong hai chúng ta liên lạc với mẹ. Hiểu chưa nào?

- Rồi. Em sẽ trở về vào lúc sáng sớm. Tại sao?

- Trước khi trời sáng. Ngày mai anh sẽ dẫn đầu đội máy bay MIG bay sang Iran. Những người khác sẽ đi trước. Đó thật là một chiến thuật điên rồ của Rais để bảo vệ những máy bay chiến đấu tốt nhất của mình. Chẳng có nghĩa gì cả, dĩ nhiên là như thế, nhưng nó có thể cứu sống bọn anh. Em sẽ đi cùng với anh.

- Em tưởng MIG 29 chỉ có một chỗ ngồi thôi chứ?

Anh còn có một cái dành cho tập luyện với hai chỗ. Loại UB. Em sẽ được ăn mặc như một sĩ quan Không quân. Nếu may mắn, chúng ta có thể đi được bằng cách đó. Giờ thì đi đi.

Mike Martin đang đi bộ về hướng tây trong đêm đó dọc theo đường Ar-Rutba khi chiếc xe chở Osman Badri đi vượt qua anh, hướng về phía Baghdad. Không ai nhận ra người kia. Đích đến của Martin là chỗ nối tới của dòng sông, còn cách đó 15 dặm đường. Tại đó, vì cầu đã bị hạ, xe tải có thể phải đứng chờ phà, và anh có cơ hội rất tốt để cho tiền một tài xế khác để đưa anh đi xa hơn về phía tây.

Gần sáng anh quả có tìm được một chiếc ôtô, nhưng nó chỉ có thể mang anh đến một nơi ngay trên Muhammadi. Đến đó sẽ lại phải chờ tiếp. Ba giờ sáng chiếc xe của đại tá Badri lại tăng tốc quay trở lại.

Anh không thương nó chút nào, không hề dừng lại Người lái rõ ràng là đang rất vội. Ngay trước khi trời sáng một chiếc xe tải thứ ba tới, dừng lại ở bên một đường cao tốc lớn, và dừng lại cho anh lên.

Anh lại trả tiền cho người tài xế từ kho tiền dinar của mình, đủ để mọi người nghĩ đã đưa cho anh ở Mansour. Sáng sớm, anh nghĩ vậy, người nhà Kulikov có thể thông báo đã mất người làm vườn của mình.

Việc tìm kiếm anh có thể làm lộ ra cuốn sổ ghi chép giữa tấm đệm - một thứ thật không hay ho gì với một kẻ mù chữ - và tìm tiếp có thể thấy máy phát dưới mái nhà. Khoảng giữa ngày, việc truy lùng sẽ bắt đầu, khởi đầu ở Baghdad nhưng sẽ lan rộng ra toàn quốc. Khoảng đến đêm, anh cần phải ở đủ xa trong sa mạc, đi thẳng về hướng biên giới.

Chiếc xe tải trong đó anh đang ngồi đang ở trên KM 160 khi chiếc máy bay MIG 20 bắt dầu cất cánh. Osman Badri đang kinh hoàng, như những người khác lần đầu bay. Trong các hầm ngầm của căn cứ, anh đã đứng bên cạnh anh trai mình với bốn phi công trẻ khác sẽ cùng bay trong phi vụ. Phần lớn những người cùng độ tuổi Abdelkarim đều đã chết; chỉ còn những người trẻ hơn, kém anh đến cả chục tuổi, rời trường học chưa được bao lâu. Họ lắng nghe với sự chú ý cao độ người chỉ huy đội bay của mình và gật đầu ra dấu tuân lệnh.

Trong chiếc MIG, ngay cả khi đã buộc chặt dây, Osman vẫn nghĩ mình chưa từng nghe thấy tiếng gầm nào giống như thế, trong không gian đóng kín, hai động cơ phản lực RD 33 của Liên Xô chạy lên hết công suất. Ngồi rúm ró ở đằng sau anh trai mình, Osman nhìn thấy những cánh cửa kiên cố mở ra với những pít tông thuỷ lực và một bầu trời xanh nhợt nhạt ở cuối hầm. Tiếng ồn tăng lên khi viên phi công chạy băng qua cổng và lao lên, và chiếc máy của người Liên Xô gầm rú lao lên bầu trời. Khi phanh đã dừng lại, Osman nghĩ mình đã bị một con la đá hậu lao về phía sau. Chiến MIG nhảy lên trước, những bức tường bị băng qua, và lao khỏi bệ phóng để bay vào ánh sáng của buổi bình minh.

Osman nhắm chặt mắt và cầu nguyện. Tiếng bánh máy bay quay đã dừng lại, anh thấy như mình bị co thắt lại, và mở mắt ra. Họ đã ở trong không trung, chiếc máy bay đã ở trên KM 160 trong khi bốn chiếc khác đang rời khỏi đường hầm ở bên dưới. Khi các cánh cửa đóng lại, căn cứ đã ngừng tồn tại. Xung quanh anh, vì chiếc UB là một máy bay tập luyện, là những thứ khoá, nút bấm, cần gạt, màn hình, nút bấm, và cần đẩy Giữa chân anh là một cần số. Anh trai anh đã nói anh để mọi thứ nguyên đấy, mà anh thì lại thích làm gì đó. Lên đến độ cao 1000 fít đội bay gồm 5 chiếc MIG tạo thành một dường cong, bốn phi công trẻ phía dưới viên chỉ huy đội bay. Anh trai anh đang trên đường đi thẳng về phía nam lệch sang đông, giữ mình bay ở thấp, hy vọng tránh được sự do thám và đi qua vùng ngoại ô phía nam của Baghdad, thoát khỏi sự dò tìm của người Mỹ trong những nhà máy và các hình ảnh ra đa khác. Đó là một canh bạc nhiều rủi ro, cố tránh khỏi các ra đa của AWACS bay trên vùng Vịnh, nhưng anh không còn lựa chọn nào khác. Những mệnh lệnh xuống anh rất chính thức, và giờ đây Abdelkarim Badri đã có một lý do phụ khác để mong đến được Iran.

Sáng hôm đó anh gặp may, loại may mắn không mấy khi đến trong chiến tranh. Vào cuối chặng đường ở vùng Vịnh, AWACS phải quay về căn cứ của mình và được thay bằng cái khác. Việc này được gọi là đi ta xi. Trong khi thay thế như vậy, có một khoảng thời gian khi rađa dò sóng ngừng làm việc. Chuyến bay thấp của những chiếc MIG qua nam Baghdad và Salman Pak rơi đúng vào lúc nghỉ may mắn đó. Viên phi công Iraq hy vọng bằng cách giữ độ cao 1000 fít. anh có thể bay ở bên dưới các máy bay chiến đấu của Mỹ, thường bay ở độ cao 20000 fít và cao hơn. Anh muốn đến được bên ngoài thành phố Al Kut ở phía bắc, rồi đi thẳng một cách an toàn tới biên giới Iran ở điểm gần nhất.

Sáng hôm đó, vào giờ đó, đại úy Don Walker của Đội bay chiến thuật số 336 bay từ sân bay Al Kharz dẫn đầu đội bay gồm bốn chiếc Strike Eagle đi về phía bắc hướng Al Kut, nhiệm vụ của anh là ném bom một câu cầu chính qua sông Tigris ngang qua đó những chiếc xe tăng của đội Vệ binh Cộng hòa đã bị một chiếc J-STAR bay hướng nam Kuwait phát hiện ra. Đội 336 đã chủ yếu tốn thời gian trong cuộc chiến tranh trong những nhiệm vụ buổi đêm, nhưng chiếc cầu phía bắc Al Kut có thể là một "fix nhanh", có nghĩa là không có thời gian để mất nếu những chiếc xe tăng Iraq sử dụng nó để đi về phía nam.

Cho nên nhiệm vụ ném bom sáng hôm đó được mang mật danh "trực tiếp Jeremiah": tướng Chuck Horner muốn nó được thực hiện, và ngay lập tức.

Những chiếc Eagle đang lao đi với những quả bom 2000 pound có laser hướng lối cùng với các tên lửa không đối không. Vì việc đặt vị trí của các cột bom ở dưới cánh chiếc Eagle, trọng tải trở nên mất cân bằng, những quả bom ở một bên sẽ nặng hơn là những hỏa tiễn Sparrow ở bên kia. Điều này được gọi là trọng tài chó chết. Có điều khiển tự động lo cho việc đó, nhưng đó vẫn là loại trọng tải mà hầu hết phi công đều không muốn chọn khi phải đối mặt với kẻ thù.

Cũng như những chiếc MIG, giờ đang bay ở độ cao 500 fit nhìn thẳng xuống phía dưới, đang tiến về phía tây, những chiếc Eagle đang đi về phía nam, cách đó 800 dặm.

Chỉ dẫn thứ nhất mà Abdelkanm Badri có được về sự có mặt của họ là một tiếng động ì ầm nhỏ trong tai-mình. Em trai anh ở đằng sau không hề biết chuyện gì xảy ra, nhưng các phi công chiến đấu thì biết. Chiếc MIG dành cho tập luyện đang dẫn đầu, bốn chiếc đi kèm đang đi ngay sau tạo thành hình chữ V Tất cả đều nghe thấy tiếng động đó.

Tiếng ồn nhỏ đến từ RWR của họ - máy nhận cảnh báo từ ra đa. Điều đó có nghĩa là có các ra đa khác đang ở đâu đó, quét lên nền trời.

Bốn chiếc Eagle có rada của mình trong hệ thống kiểm tra, những tín hiệu radio ở phía trước họ đều nhìn thấy là có. Những máy nhận cảnh báo rađa của Liên Xô đã nhận ra các tín hiệu đó và đang nói lại cho các phi công của mình. Những chiếc MIG không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục bay. Ở độ cao khoảng 500 fít họ đã ở dưới những chiếc Eagle khá nhiều và đang đi ngang qua tầm bắn của những chiếc đó.

Cách 60 dặm, tiếng ồn trong tai các phi công Iraq to dần thành tiếng ồn rất lớn. Điều này có nghĩa các RWR nói với họ: ai đó ở đằng kia đã bỏ chế độ tìm kiếm và đang lao về phía các anh.

Sau Don Walker, người wizzo Tim của anh nhìn thấy thay đổi trên màn hình ra đa. Từ một máy quét ra đa tinh vi, những chiếc ra đa của Mỹ đã bật lên, thu hẹp dần dải quét và chỉ tập trung vào cái mình đã phát hiện được.

- Chúng ta có năm chiếc máy bay chưa thể xác định của bên nào, thấp dưới mười độ. người wizzo thì thầm, và bật IFF. Những người wizzo khác trong đội hình bay cũng làm như vậy.

Sự định vị Bạn hay Thù là một kiểu chuyển tin được mọi máy bay chiến đấu sử dụng. Nó gửi đi một sóng với các tần số nào đó, sẽ được thay đổi hàng ngày. Các máy bay chiến đấu cùng một bên sẽ nhận được xung lực đó và trả lời: "Tôi là bạn". Máy bay đối phương không thể làm như thế. Năm tiếng bịp trên màn hình ra da đang dò tìm hàng dặm phía trước và đang tiến lại gần khu vực có thể năm chiếc máy bay bạn đang quay trở lại từ một phi vụ - hoặc đúng hơn, từ nơi không xa những máy bay Liên quân khác trên bầu trời chứ không phải của Iraq.

Tim hỏi các máy bay lạ theo kiểu 1,2,3,4. Không có câu trả lời

- Bọn địch đấy, anh ta báo cáo. Don Walker, chuyển kim báo tên lửa lên rađa, thì thầm: "Sẵn sàng" với ba phi công khác, đang căng thẳng nhìn ra trước và lao lên.

Abdelkarim Badri đang ở thế bất lợi, và anh biết điều đó. Anh biết điều đó kể từ thời điểm người Mỹ dang tiến dần về phía anh. Anh biết mà không cần chiếc IFF nào phải báo với anh rằng những máy bay lạ đó không thể là người Iraq anh em. Anh biết đã bị đối phương định vị, và anh biết các đồng nghiệp trẻ tuổi của mình có thể không hề biết chuyện đó. Bất lợi của anh nằm ở chiếc MIG anh đang lái. Vì đó là loại bay huấn luyện, dạng duy nhất có hai chỗ ngồi, nó không bao giờ được dành cho chiến đấu. Rađa của đại tá Badri chỉ có 60 độ ngoài đỉnh. Anh không thể nhìn thấy ai đang tiến lại gần mình.

- Anh có gì vậy? anh hất hàm về phía người cùng bay. Câu trả lời đầy hồi hộp và kinh hoàng.

- Bốn máy bay địch, cao hơn ba độ, đang lao xuống rất nhanh.

Thế là canh bạc đã thất bại. Người Mỹ không bao giờ lao xuống từ bầu trời từ phía nam, chủ đích lao vào họ ngay trên không trung.

- Lao xuống, xuống nhanh lên, đi về sau, hướng về phía Iran, anh gào lên.

Các phi công trẻ không cần đợi chờ gì để ngừng lại. Từ các ống khói của những chiếc phản lực của mỗi chiếc MIG một làn khói dày đặc bắn ra, đưa các phi công vượt tốc độ âm thanh và gần như lao đi với vận tốc gấp đôi.

Mặc kim báo nhiên liệu đã tăng vọt lên. những chiếc máy bay một chỗ có thể bay được xa đủ để tránh người Mỹ và vẫn có thể đến được Iran. Việc họ lao đi trước sẽ tránh cho họ bị các máy bay Mỹ đuổi kịp, cho dù họ đã ở gần kề.

Abdelkarim Badri không có lựa chọn đó. Khi làm các máy bay huấn luyện, các kỹ sư Liên Xô đã không chỉ đưa vào một ra đa đơn giản, mà còn gắn thêm vào trọng tải của người tập luyện và khoang ngồi của anh ta, họ do đó phải giảm bớt khả năng nhiên liệu bên trong.

Viên đại tá phi công đang bay ở rất xa những chiếc máy bay tiếp nhiên liệu, nhưng như thế vẫn còn chưa đủ. Anh có bốn lựa chọn. Nó khiến anh mất hơn hai giây để thực hiện.

Anh có thể chuyển sang chế độ tăng tốc, thoát khỏi các máy bay Mỹ, và quay trở về căn cứ Iraq, nơi đó anh sẽ bị bắt và sớm hay muộn sẽ bị đưa đến chỗ AMAM để bị tra tấn và sẽ chết.

Anh có thể tăng tốc và tiếp tục bay đến Iran, tránh được người Mỹ nhưng hết nhiên liệu ngay sau khi vượt được biên giới Ngay cả khi anh và em trai anh nhảy ra được ngoài một cách an toàn, họ vẫn có thể rơi vào các bộ lạc Ba Tư, những người đã chịu đựng khủng khiếp trong chiến tranh Iran-Iraq từ những chuyến hàng do máy bay Iraq thả xuống đầu họ.

Anh có thể tăng tốc tránh những chiếc Eagle, rồi bay về phía nam để sang A rập Xêut và trở thành một tù binh. Anh không mong gì sẽ được đối xử tử tế.

Có một câu thơ đi vào trong óc anh từ lâu rồi, những câu thơ anh học được ở trường của ông Hartley ở thành phố Baghdad thời anh còn là cậu học trò. Của Tennyson? Wordsworth? Không. Macaulay, đúng rồi, Macaulay, điều gì đó về một người dàn ông trong khoảnh khắc cuối đời mình, điều gì đó mà anh đã đọc to ở trong lớp học.

Với mỗi người trên thế gian này

Cái chết sẽ đến không sớm thì muộn

Và bằng cách nào ai đó có thể chết tốt đẹp hơn

Là đối mặt với những điều xấu xa đáng sợ

Với tro di hài của cha ông anh ta

Và những đền thờ của thánh thần của anh ta ?

Badri đẩy cần gạt qua cánh cổng để chuyển sang chế độ tăng tốc, lao chiếc MIG Fulcrum vào đường vòng lớn, và lao lên để đối đầu với người Mỹ.

Ngay khi anh quay đầu, bốn chiếc Eagle đã lọt vào tầm rada của anh. Hai chiếc đã được định vị, đang tiến xuống sau chiếc máy bay hai chỗ ngồi đang bay, cả hai đều đang phóng rất nhanh, trên tốc độ âm thanh.

Nhưng người chỉ huy đội bay Mỹ đang tiến thẳng xuống lao vào anh. Badri cảm thấy sự rung chuyển khi chiếc Fulcrum đạt tốc độ siêu thanh, khiến cột chỉ huy biến thành một màn rung, và lao lên tìm chiếc Eagle đang lao xuống thẳng vào anh.

- Chúa tôi, hắn lao thẳng vào chúng ta! Tim nói từ băng ghế sau. Walker không cần được nhắc. Màn hình ra đa của anh cho anh thay bốn nháy đã biến mất của đội bay Iraq đang chuyển hướng sang Iran và chỉ còn một chiếc trong số đó đang lao thẳng về anh. Chiếc máy kêu lên như tiếng chuông báo thức đã ngoài tầm kiểm soát. Còn cách khoảng 30 dặm, họ lao thẳng vào nhau với vận tốc 2200 dặm một giờ. Anh vẫn chưa nhìn rõ được chiến Fulcrum, nhưng sẽ không còn lâu la nữa dâu.

Trong chiếc MIG, đại tá Osman Badri đã hoàn toàn mất ý niệm. Anh không hiểu gì hết về điều dang diễn ra. Việc đột ngột tăng tốc đã đẩỵ anh bắn ra đằng sau lần nữa. và việc quay vòng ngược lại khiến anh chết giấc mất mấy giây.

- Điều gì đang xảy ra vậy? anh gào vào mặt nạ của mình, không hề hay biết nút tắt tiếng đã được bật, nên anh trai không thể nghe thấy anh nói gì.

Ngón tay Don Walker đang chỉ vào nút điều khiển tên lửa. Anh có hai lựa chọn: tên lửa tầm xa AIM-7, được rađa hướng dẫn từ chính chiếc Eagle, hoặc quả Sidewinder AIM - 9 tầm ngắn, là kiểu dò mục tiêu theo nhiệt lượng.

Còn cách 15 dặm anh đã có thể nhìn thấy nó, cái chấm đen nhỏ xíu đang lao thẳng vào anh. Hai cánh sải rộng cho thấv đó là một chiếc MIG 29 Fulcrum - một trong số những máy bay chiến đấu lao thẳng tốt nhất thế giởi ở bên tay phải. Walker không biết dược anh đang đối mặt với một chiếc dành cho huấn luyện không được trang bị vũ khí. Điều anh biết là nó có thể chở theo tên lửa AA-10 của Liên Xô, với tầm bắn dài bằng những quả AIM-7 của anh. Do đó anh đã chọn tên lửa Sparrow.

Còn cách 12 dặm anh bắn thẳng hai quả Sparrow ra trước. Những quả hỏa tiễn bay đi, hướng theo sự chỉ dẫn của rađa nhận được năng lượng từ chiếc MIG và ngoan ngoãn lao thăng về hướng dó.

Abdelkarim Badri nhìn thấy chớp sáng khi hai quả Sparrow rời chiếc Eagle, chỉ còn để lại cho anh thêm vài giây sống trừ khi anh có thể khiến cho người Mỹ ngừng tay lại. Anh lùi người sang bên trái và hạ một bậc. Don Walker vẫn thường tự hỏi điều đó có thể giống gì. Và giờ đây anh đã hiểu. Từ dưới cánh của chiếc MIG bay ra một chớp ánh sáng. Nó giống như một bàn tay lạnh lùng đang gỡ ra, cái cảm giác lạnh lẽo, tê cứng của nỗi sợ hãi ghê gớm. Một người khác đã bắn hai quả tên lửa vào anh. Anh nhìn chằm chằm vào cái chết chắc chắn đang ở ngay trưởc mặt.

Hai giây sau khi bắn ra hai quả tên lửa Sparrow. Walker những muốn đã từng chọn những quả Sidewinder. Lý do thật đơn giản: chiếc Sidewinder là những quả tên lửa nổ và biến đi, nó có thể tìm ra mục tiêu mà không biết chiếc Eagle ở đâu.

Những quả Sparrow cần chiếc Eagle phải hướng dẫn chúng, nếu anh bỏ đi, những quả tên lửa, không có người hướng dẫn, có thể "xịt", hoặc đi lang thang trên trời cho đến khi rơi xuống mặt đất một cách vô hại.

Anh chỉ còn một tích tắc nữa là ấn nút thôi thì nhìn thấy những quả tên lửa do chiếc MIG bay ra rơi thẳng xuống phía dưới. Kinh ngạc anh nhận ra chúng hoàn toàn không phải là những quả hỏa tiễn; tên Iraq đã lừa anh bằng cách bắn các thùng xăng dưới cánh vào anh. Các thùng nhôm đựng xăng đã bắt ánh nắng mặt trời buổi sáng trong khi chúng rơi ra, lấp lánh như đuôi những quả hỏa tiễn được phóng ra. Đó là một trò lừa đảo, và anh, Don Walker, đã suýt nữa thì mắc bẫy.

Trong chiếc MIG Abdelkanm Badri nhận ra tên người Mỹ không chịu lùi bước. Anh đã thử thần kinh của đối thủ, nhưng anh đã thua. Trên băng ghế sau Osman đã tìm thấy nút đàm thoại. Anh có thể nhìn được bằng cách nhìn qua vai anh mình rằng họ đang lao xuống, đã xuống hàng dặm rồi.

- Chúng ta đi đâu thế này? anh gào lên. Điều cuối cùng anh nghe thấy là giọng nói của Abdelkarim, khá bình thản:

- Đến với sự yên bình, em trai của anh ạ. Đến gặp cha. Allah-o-Akhabar.

Đúng lúc đó Walker nhìn thấy hai quả Sparrow phát nổ, những mẩu lớn lửa đỏ cách đó 3 dặm, rồi những mảnh vỡ của chiếc máy bay chiến đấu Liên Xô rơi xuống vùng đất phía dưới.

Anh cảm thấy mồ hôi lạnh toát đầm đìa đầy người. Người cùng bay với anh, Randy Roberts, người đã giữ vị trí bên trên và đằng sau anh, xuất hiện ở bên cánh phải, bàn tay đeo găng trắng giơ lên với ngón tay cái dựng lên. Anh trả lời bằng cách đó, và hai chiếc Eagle, đã rời bỏ sự rượt đuổi vô vọng những chiếc MIG còn lại, bay lên trên để tiếp tục đến cây cầu trên Al Kut.

Với tốc độ của những chiếc máy bay chiến đấu, toàn bộ sự việc, kể từ khi ra đa được bật lên cho đến khi tiêu diệt xong chiếc Fulcrum, chỉ kéo dài đúng 30 giây đồng hồ.

Kẻ chỉ điểm có mặt ở ngân hàng Winkler vào đúng 10 giờ sáng hôm đó, có người "kế toán" đi cùng. Người trẻ hơn cầm theo một cái cặp tài liệu có chứa 100.000 đôla Mỹ tiền mặt. Tiền trên thực tế là một khoản vay nóng do người sayan làm ngành ngân hàng dàn xếp, người đã được cho biết số tiền đó sẽ được gửi vào ngân hàng Winkler trong một thời gian, rồi sẽ được lấy về và đem trả lại cho anh ta.

Khi nhìn thấy tiền, Herr Gemuetlich thấy thật thoải mái. Ông có thể kém nhiệt tình hơn nhiều nếu nhận ra những đồng đôla đó chỉ chứa trong phân nửa bề dày của cái cặp tài liệu, và ông có thể còn phải kinh hoàng thấy cái đang nằm ở tận đáy chiếc cặp giả.

Vì lý do kín đáo, người kế toán yêu cầu không để cô Hardenberg vào phòng trong khi người luật sư và ông chủ nhà băng thống nhất những mật mã cho tài khoản mới.

Người kế toán chịu trách nhiệm về hoá đơn và tiền, và khoảnh 11 giờ vấn đề đã được giải quyết. Herr Gemuetlich triệu tập người lục sự để đi theo các vị khách đến hàng lang và ra đến cửa ngoài. Trên đường đi xuống người kế toán thì thầm điều gì đó vào tai viên luật gia người Mỹ, và người luật gia dịch lại cho viên lục sự. Với một nút bấm của người lục sự đã dừng chiếc thang máy cổ lỗ sĩ ở tầng đệm và ba người đi ra ngoài.

Luật sư chỉ vào cánh cửa phòng vệ sinh nam cho đồng nghiệp của mình, và anh chàng kế toán đi vào. Luật sư và viên lục sự vẫn đứng ở bậc đệm bên ngoài phòng.

Đúng lúc đó vang đến tai họ âm thanh hoảng hốt trong hành lang, rõ ràng bởi vì tầng đệm chỉ cách hành lang có 20 fít và thấp hơn 15 bậc thang gác. Lẩm bẩm xin lỗi viên lục sự chạy thẳng ra hành lang cho đến khi anh ta có thể nhìn từ đầu đoạn cầu thang xuống toàn bộ các bậc thang bằng đá để xem việc gì xảy ra.

Đó là một cảnh tượng kinh hoàng. Bằng cách nào đó ba tên ma cà bông, say khướt, dã đi vào trong hành lang và đang đòi tiền người tiếp tân để đi uống rượu tiếp. Cô ta sau đó chỉ có thể kể lại rằng bọn họ đã lừa cô mở cửa bằng cách nói mình là nhân viên bưu điện.

Thật là nhục nhã, viên lục sự tức tốc tìm cách đẩy những tên hooligan ra ngoài. Không ai nhận ra là một trong ba kẻ đó, khi đã vào được, đã ném một hộp thuốc lá vào khe cửa nên dù đã đóng được nhưng tiếng quát tháo vẫn lọt vào. Cũng không ai để ý, trong khi đang xô đẩy nhau, một người thứ tư đã bò vào trong hành lang. Khi đứng dậy, anh đã đứng cùng vị luật gia từ New York, người đã theo viên lục sự đi xuống từ trên thang gác xuống đến hành lang.

Họ đứng một bên viên lục sự đang đẩy ba tên say về nơi của chúng - trên hè phố. Khi anh ta quay nhìn quanh, người lục sự của ngân hàng nhìn thấy vị luật sư và người kế toán đã đi xuống khỏi tầng đệm cùng với nhau. Với những lời xin lỗi cuống cuồng, anh ta mời họ đi ra khỏi ngân hàng.

Khi đã ra đến ngoài phố, viên kế toán thở ra một tiếng.

- Tôi hy vọng không bao giờ phải làm thế này nữa, anh ta nói .

- Đừng lo, luật gia nói. Anh làm khá tốt đấy.

Họ nói bằng tiếng Do Thái, bởi vì viên kế toán không biết thứ tiếng nào khác nữa cả. Trên thực tế anh ta là một người làm cho ngân hàng ở Beershe'eva, và lý do duy nhất anh ta có mặt ở Vienna, trong công vụ đóng giả đầu tiên và duy nhất của mình, là do anh ta trông khá giống với người phá khoá, người giờ đây đã đứng bất động trong bóng tối của nhà vệ sinh trên tầng đệm. Anh ta sẽ phải nín thở đứng đó 12 tiếng đồng hồ.

Mike Martin đến Ar-Rutba vào giữa trưa. Anh mất 20 tiếng đồng hồ để di qua khoảng cách mà nếu đi bằng ôtô thì chỉ mất không hơn 6 tiếng.

Tại vùng ngoại ô của thành phố anh tìm thấy một người nông dân với một đàn dê và khiến anh ta có vẻ gì đó kỳ bí nhưng khá hạnh phúc khi được đề nghị bán bốn con trong số chúng với toàn bộ số dinar còn lại trong tay, với giá gấp đôi mà người nông dân có thể bán được ở chợ.

Những con dê cũng có vẻ sung sướng lại được đi ra sa mạc, ngay cả khi chúng giờ đây đã bị choàng dây buộc cổ. Chúng khó có thể đoán trước có thể chúng chỉ có ở đó để giải thích tại sao.

Mike Martin lại đi lang thang quanh sa mạc ở phía nam con đường dưới ánh mặt trời giữa trưa. Vấn đề của anh là không có la bàn - nó đang nằm lại với các loại đồ đạc của anh, ở bên dưới những tấm tôn trần nhà ở Mansour. Sử dụng ánh mặt trời và chiếc đồng hồ rẻ tiền của mình, anh tìm kiếm cố hết sức có thể được để đi được từ tháp phát thanh của thành phố để đến wadi nơi xe mô tô của anh đang được chôn giấu.

Lại mất 5 dặm lang thang nữa, bị chậm lại bởi lũ dê, nhưng chúng cũng đáng giá bởi đã hai lần anh nhìn thấy bọn lính đang nhìn chằm chằm vào anh từ con đường cho đến khi anh đi khuất. Nhưng chúng không làm gì cả.

Anh tìm thấy wadi bên phải vào lúc mặt trời đang xuống, nhận ra những dấu hiệu để lại trên các tảng đá gần đó, và anh đứng đó cho đến khi ánh sáng lóe lên trước khi bắt đầu tắt lịm. Những con dê sung sướng đi dạo nhởn nhơ.

Nó vẫn còn ở đó, được gói vào trong cái túi nylông, một chiếc Yamaha vượt địa hình 125 phân khối, toàn thân màu đen, với những cái giỏ để đựng thêm các bình xăng dự trữ. Cái la bàn được chôn ở đó, cộng thêm một khẩu súng ngắn và đồ ăn.

Anh gài khẩu súng tự động vào bên mình. Kể từ lúc đó, không còn vấn đề gì để sợ hãi nữa; không người nông dân Iraq nào có thể chạy loại máy móc này. Nếu anh bị bắt chợt, anh có thể bắn súng và trốn thoát.

Anh lái xe suốt đêm, cố tận dụng tối đa thời gian những chiếc Land-Rover không thể đi được. Với bụi cát anh có thể tăng tốc băng qua những chỗ bằng phẳng và lái chiếc xe về những chỏm đá của các wadi, sử dụng động cơ và chân để đẩy.

Nửa đêm anh đổ thêm xăng và dừng lại uống nước ăn vài viên đạm để trong cái túi. Rồi anh lái tiếp về phía nam để đến biên giới Arập Xêut.

Anh không hề biết khi nào thì vượt qua biên giới. Đó là cả một vùng đất hoang vu không dấu hiệu gì đặc biệt toàn đá và cát, hang hốc và đá vụn, và với chuyến đi hình zigzag anh đang thực hiện, không có cách nào biết được anh đã đi được bao nhiêu dặm đường.

Anh cho rằng mình đã sang được Arập Xêut khi anh đến Tapline Road, con đường cao tốc duy nhất ở vùng đó. Địa hình trở nên dễ đi hơn, và anh đi được tới 20 dặm một giờ khi anh nhìn thấy chiếc xe.

Anh không mệt mỏi, anh có thể phản ứng nhanh hơn, nhưng anh đang cảm thấy tê dại và suy nghĩ cũng chậm chạp đi.

Bánh trước chiếc xe lao vào dây thép, và anh ngã ra, rơi xuống cho đến khi chạm lưng xuống. Khi mở mắt nhìn lên anh nhìn thấy một khuôn mặt đang đứng phía trên và một họng súng thép.

- Bouge pas, mec. (Đừng có động đậy, anh bạn)

Không phải tiếng Arập. Anh cố vận động trí óc mệt mỏi của mình. Cái gì đó như là đã lâu lắm rồi. Haileybury, một thầy giáo kém may mắn nào đó của trường học đã cố dạy anh những thứ phức tạp rối rắm của tiếng Pháp.

- Ne tirez pas, (Đừng bắn) anh nói chầm chậm. Je suis Anglais. (Tôi là người Anh)

Chỉ có ba trung sĩ trong đội quân lê dương Pháp, và một trong số đó tên là Mccullin.

- Anh đang ở đâu ấy à? Anh ta nói bằng tiếng Anh. Rồi, anh tốt hơn là đừng có đâm vào xe chỉ huy chứ. Và tôi sẽ phải sửa pit tông thôi, nếu anh không có ý kiến gì.

Đội tuần tra Lê dương đang ở phía tây của vị trí được chỉ định của họ trong hàng lối Liên quân, đang đi kiểm tra Tapline Road để ngăn chặn những kẻ xâm nhập từ Iraq có thể có. Với trung sĩ Mccullin làm thông ngôn, Martin giải thích cho viên trung uý người Pháp rằng anh trở về từ một công vụ bên trong Iraq.

Điều này có vẻ dễ chấp nhận đối với đội quân Lê dương: làm việc sau các trận tuyến là một trong số các chuyên môn của họ. Tin tốt lành là họ có điện đàm.

Người phá khoá kiên nhẫn đợi trong bóng tối của phòng để chổi qua hết ngày thứ ba và cho đến đêm. Anh ta nghe thấy nhiều nhân viên vệ sinh nam đi vào phòng vệ sinh, làm việc thúc bách, và rời đi.

Qua tường anh có thể nghe thấy đôi khi thang máy kêu lạo xạo đi lên đi xuống. Anh ngồi lên trên cái cặp của mình, lưng dựa vào tường, và đôi khi liếc nhìn chiếc đồng hồ dạ quang của mình để xem giờ giấc trôi qua.

Khi quá năm giờ hơn gần sáu giờ anh nghe tiếng các nhân viên đi ra hành lang để về nhà. Anh biết là vào sáu giờ người gác đêm sẽ đến, viên lục sự sẽ tiếp anh ta, sau đó sẽ kiểm tra mọi nhân viên đi qua bàn của mình theo danh sách trong ngày.

Khi người lục sự đi về sau sáu giờ, người gác đêm sẽ đóng cửa trước lại và bật hệ thống còi báo động. Rồi anh ta sẽ ngồi xem chiếc vô tuyến xách tay luôn mang theo hàng tối và xem các chương trình trò chơi cho đến khi phải đi kiểm tra vòng một.

Theo đội yarid, ngay cả các nhân viên vệ sinh cũng bị giám sát. Họ chỉ làm việc các nơi chung - sảnh, cầu thang, và phòng vệ sinh - trong các đêm thứ hai, thứ tư, và thứ sáu, nhưng vào đêm thứ ba người phá khoá có thể ở đó mà không vấn đề gì Các ngày thứ bảy họ trở lại để lau dọn các phòng làm việc dưới sự giám sát của người lục sự, người lúc nào cũng sẽ kè kè bên cạnh họ.

Thói quen của người gác đêm có vẻ như bao giờ cũng vẫn thế. Anh ta đi kiểm tra toà nhà ba lần, kiểm tra mọi cánh cửa, vào mười giờ tối, hai giờ sáng và năm giờ sáng. Khoảng thời gian giữa thời điểm anh ta đến và lần đi kiểm tra đầu tiên, anh ta xem vô tuyến và ăn món súp mang theo. Trong khoảng thời gian trong dài nhất, giữa mười giờ và hai giờ, anh ta bật một chiếc đồng hồ báo thức để báo cho anh ta dậy vào lúc hai giờ sáng. Người phá khoá đợi để thực hiện vụ ăn cắp của mình trong khoảng thời gian này.

Anh ta đã từng tận mắt nhìn thấy phòng làm việc của Gemuetlich và cánh cửa quan trọng dẫn vào đó. Cánh cửa đó bằng gỗ dày nhưng thật may là không hề gắn thiết bị báo động. Cửa sổ thì có báo động, và anh ta đã nhận ra những sợi dây nhỏ giữa cái hộp và cái thảm.

Đúng mười giờ anh ta nghe thấy tiếng thang máy đi lên trên, nghĩa là người gác đêm bắt đấu vòng đi kiểm tra đầu tiên của mình các cánh cửa phòng làm việc, bắt đầu từ tầng trên cùng và đi xuống từng tầng một. Nửa tiếng đồng hồ sau, người đàn ông đứng tuổi đó kết thúc, thò đầu vào phòng vệ sinh nam, bật đèn lên để kiểm tra cái cửa sổ có chấn song và hệ thống báo động, đóng cửa lại, và quay trở về bàn của mình với trò giải trí ưa thích. Tại đó anh ta chọn xem chương trình trò chơi muộn.

Vào lúc 10 giờ 45 người phá khoá, trong bóng tối mịt mùng, rời khỏi phòng vệ sinh và đi lên thang gác cho đến tầng bốn.

Cửa phòng làm việc của Herr Gemuetlich làm anh ta mất đến mười lăm phút mới mở được. Cuối cùng khoá cũng quay, và anh ta bước vào trong phòng. Mặc dù anh ta đeo một dải băng trên đầu có gắn một chiếc đèn pin nhỏ xíu, anh vẫn phải lấy một cái khác, có vòng sáng toả rộng hơn để quan sát toàn bộ căn phòng. Trong ánh sáng của cái đèn, anh ta có thể tránh được hai sợi dây và lại gần cái bàn từ phía không có bảo vệ. Rồi anh ta tắt nó đi và chỉ còn dựa vào ánh sáng của cái đèn nhỏ như cây bút.

Khoá của ba ngăn kéo trên cùng không thành vấn đề - chỉ là những ngăn nhỏ bằng đồng già cả hàng trăm năm nay. Khi ba ngăn tủ đó đã được mở, anh ta thò tay vào và bắt đầu tìm kiếm một cái chốt, một cái nút hay lẫy. Không có gì hết cả. Phải đến một tiếng sau, ở đằng sau cái ngăn thứ ba ở dưới phía bên phải, anh ta mới tìm thấy. Khi anh ta nhấn vào đó, một tiếng cách nhỏ của ổ khoá vang lên, và một dải phía dưới của cái chân bàn mở ra chừng một cm.

Cái khay bên trong khá là hẹp, chỉ nhỏ hơn một inch, nhưng cũng đủ cho hai tờ giấy mỏng. Đó là bản sao của bức thư giao quyền chỉ dành cho các tài khoản dưới sự phụ trách của Gemutlich.

Người đột nhập lấy máy ảnh ra và bấm máy, một thiết bị gồm bốn thanh nhôm giữ cho máy ảnh đứng giữ đúng khoảng cách với tờ giấy bên dưới để có được độ nét tốt nhất.

Tờ giấy trên cùng là một miêu tả phương pháp vận hành của tài khoản do kẻ chỉ điểm mở trước đó vào buổi sáng, nhân danh một người khách hàng bí mật ở Mỹ. Người mà anh ta muốn tìm ở hàng thứ bảy. Số tài khoản đã được biết – Mossad đã chuyển tiền cho tài khoản của Jericho hai năm trước khi người Mỹ tiếp quản ông ta.

Để chắc chắn, anh ta chụp ảnh toàn bộ từ mọi hướng. Sau khi đã quay cái cachette trở lại vị trí ban đầu của nó, anh ta đặt nó lại và khóa lại toàn bộ các ngăn kéo và đi ra, đóng lại cửa căn phòng làm việc sau lưng mình. Vào lúc 1 giờ 10 phút anh ta quay trở lại phòng vệ sinh nam.

Khi ngân hàng mở cửa vào sáng hôm sau, người đột nhập để cho thang máy chạy lên chạy xuống một tiếng đồng hồ, biết rằng viên lục sự không bao giờ cần đi cùng với nhân viên đi vào các văn phòng của họ. Người khách hàng đầu tiên xuất hiện vào lúc 10 giờ 10 phút. Khi thang máy đi lên ngang qua anh ta, người đột nhập rút ra khỏi phòng vệ sinh, rón rén đi đến cuối hành lang, và nhìn xuống cầu thang. Chiếc bàn người lục sự không có ai; anh ta đang ở trên tầng đi theo người khách hàng.

Người đột nhập nhấn một cái chuông hai lần. Trong ba giây cửa trước có tiếng chuông. Người tiếp tân bật máy nói và hỏi:

- Ja?

- Lieferung, một giọng nói từ tốn trả lời. Cô ta nhấn nút mở cửa, và một người đưa hàng to lớn dễ mến đi vào trong hành lang, Anh ta mang đến một bức tranh sơn dầu gói trong một tờ giấy màu nâu và nói:

- Đây này, thưa cô, đã sạch sẽ để treo lại rồi đấy.

Phía sau anh ta cửa đóng lại. Trong khi nó đang đóng lại như thế, một bàn tay chặn nó lại và luồn vào đó một đoạn giấy. Cửa lại mở ra và không đóng được nữa.

Người đưa hàng dựng bức tranh sơn dầu cạnh bàn người tiếp viên. Bức tranh thật lớn, rộng năm fit và cao bốn fít. Nó ngăn cô ta không thể nhìn được về hướng hành lang.

- Nhưng tôi chẳng biết gì về việc này cả - cô ta phản đối.

Cái đầu của người giao hàng thò vào qua mép của bức tranh.

- Thì chỉ cần ký giấy biên nhận thôi mà, thưa cô, anh ta nói, và đẩy vào trước mặt cô ta một cái bảng với mẫu ký nhận.

Trong khi cô ta xem nó, người đột nhập đi xuống các bậc thang bằng đá và đi ra đến cửa.

- Nhưng mà nó nói là Phòng tranh Harzmann cơ mà, cô ta nhận xét.

- Đúng rồi. Ballgasse, số 14.

- Nhưng chúng tôi chỉ là số 8 thôi. Đây là ngân hàng Winkler. Phòng tranh phải đi nữa cơ.

Người giao hàng bối rối xin lỗi và đi. Viên lục sự quay trở lại trên những bậc thang đá. Cô ta giải thích việc vừa xảy ra. Anh ta cau có, quay chiếc ghế của mình về phía hành lang từ chiếc bàn tiếp tân, và lại chúi mũi vào với giấy tờ.

Khi chiếc trực thăng Blackhawk chở Mike Martin về căn cứ không quân ở Riyadh vào giữa ngày hôm đó, thì đã có sẵn tại đó một hội đồng chuẩn bị sẵn để đón anh. Steve Laing có mặt ở đó, cùng với Chíp Barber. Người mà anh không nghĩ mình sẽ gặp là chỉ huy của mình, đại tá Bruce Craig. Trong khi Martin còn ở Baghdad, việc diễu hành của những người SAS ở các sa mạc phía tây Iraq đã tăng lên với đầy đủ cả hai đội bay bên ngoài Hereford. Một cái còn ở lại ở Hereford để làm đội dự bị, đội kia là các đơn vị nhỏ hơn trong các phi vụ huấn luyện khắp thế giới.

- Anh tóm được rồi chứ, Mike? Laing hỏi.

- Phải, thông điệp cuối cùng của Jericho. Không thể gửi được bằng điện đàm.

Anh giải thích ngắn ngọn tại sao và chìa ra một tờ giấy mỏng ghi báo cáo của Jencho.

- Này anh bạn, chúng tôi đã rất lo lắng khi không thể có tin tức gì của anh trong suốt 48 tiếng đồng hồ vừa rồi đấy, Barber nói. Anh đã thực hiện được một chiến tích lớn, thiếu tá.

- Chỉ là một việc thôi mà, thưa các ngài, đại tá Craig nói. Nếu anh đã kết thúc với anh ta, có thể để anh ta quay về chỗ chúng tôi được không?

Laing đang nghiên cứu tờ giấy, dịch tiếng Arập theo cách tốt nhất có thể được. Ông nhìn lên.

- Tại sao lại phải hỏi, tôi cũng nghĩ thế. Với những lời cảm ơn chân thành nhất của chúng tôi.

- Đợi một phút nào, Barber nói. Thế anh sẽ làm gì với anh ta bây giờ hả, thưa đại tá?

- Ô, một cái thùng ở sân bay, thức ăn gì đó...

- Thế thì hãy tìm một ý tưởng tốt hơn đi, Barber nói. Thiếu tá này, thế một miếng bít tết và khoai tây chiên vùng Kansas thì thế nào, một giờ trong phòng tắm hơi, và một cái giường thật êm?

- Với những cái kỳ lưng phải không, Martin cười.

- Đúng. Đại tá, người của anh có một đoàn tùy tùng ở Hyatt dọc theo phố trong suốt 24 tiếng đồng hồ, những người ở nước chúng tôi. Đồng ý không nào?

- Tốt thôi. Thế thì ngày mai gặp lại vào giờ này nhé, Mike, Craig nói.

Trong chuyến đi ngắn về khách sạn dối diện đại bản doanh CENTAF, Martin đưa cho Laing và Barber một bản dịch thông điệp của Jericho. Laing ghi chép chăm chú.

- Điều này có nghĩa là, Barber nói. Các chàng trai phi công sẽ bay tới đó và thổi bay nó đi.

Điều này đòi hỏi Chip Barber kiểm tra lại người nông dân Iraq bẩn thỉu để mặc cho anh ta bộ quần áo đẹp nhất ở Hyatt, và khi anh ta đã mặc xong đồ, Barber rời đi để đến đường tới Hố Đen.

Martin có một giờ của mình để tắm rửa, xông hơi sạch sẽ và sử dụng bọt để cạo râu và gội đầu, và khi anh đi ra, bít tết và khoai tây chiên đã ở trên một cái khay trong phòng khách. Anh đang dùng dở bữa ăn của mình thì bị giấc ngủ xâm chiếm. Anh chỉ kịp lăn vào cái giường êm ái ở phòng bên cạnh và lăn ra ngủ.

Trong khi ngủ, một số việc đã xảy ra. Những thứ quần áo, giày dép, tất vớ mới toe được chuyển đến phòng cho anh.

Tại Vienna, Gidi Barzilai đã gửi các chi tiết cụ thể về tài khoản có đánh số của Jericho cho Tel Aviv, nơi một bản sao tương tự đã được chuẩn bị sẳn với từ ngữ rất chuẩn.

Karim gặp Edith Hardenberg khi cô rời khỏi nhà băng đi về nhà, mời cô đi uống cà phê, và giải thích anh phải trở về Jordan thăm mẹ anh đang bị ốm. Cô chấp nhận lý do đó, nắm tay anh, và bảo anh phải sớm quay trở lại với cô ngay khi nào có thể.

Các mệnh lệnh đã được Hố Đen truyền đi cho căn cứ không quân ở Taif nơi một máy bay do thám TR- 1 đã chuẩn bị sẵn để cất cánh cho một phi vụ ở tận cực bắc Iraq, để chụp thêm các bức ảnh của khu sản xuất vũ khí quan trọng ở As-Sharqat.

Phi vụ được gắn thêm một nhiệm vụ mới với bản đồ mới. đặc biệt dành cho việc đi thăm và chụp ảnh một vùng đất với một dải đồi nằm ở phía bắc Jebal và Hamreen. Khi người chỉ huy đội bay phản đối sự thay đổi đột ngột đó, anh ta được cho biết các lệnh đó được xếp vào loại "bí mật Jeremiah". Sự phản đối liền chấm dứt.

Chiếc TR- 1 cất cánh ngay sau hai giờ, và đến bốn giờ, những bức ảnh đã xuất hiện trên các màn hình trong phòng họp dưới hành lang của Hố Đen.

Hôm đó trời nhiều mây và có mưa ở Jebal, nhưng với ra da hình ảnh mới theo nhiệt, thiết bị ASARSI không sợ mây, mưa, sương mù, tuyết và bóng tối, chiếc máy bay do thám vẫn có được các bức ảnh của mình. Chúng được nghiên cứu khi được đại tá Beatty của USAF và chỉ huy bay Peck của RAF mang tới, đó là hai chuyên gia phân tích hình ảnh do thám giỏi nhất của Hố Đen.

Cuộc họp lập kế hoạch đã bắt đầu vào 6 giờ. Chỉ có 8 người có mặt. Ngồi ghế chủ toạ là đại diện của tướng Horner, cũng có ý nghĩa quyết định tương tự nhưng vui vẻ hơn là tướng Buster Glosson. Hai sĩ quan tình báo, Steve Laing và Chip Barber, có mặt ở đó bởi vì họ là những người biết được mục tiêu và biết từ đâu có lời tiết lộ đó Hai nhà phân tích, Beatty và Peck, được triệu tập để giải thích các chú giải của họ về các bức ảnh vùng đó Và còn có thêm ba sĩ quan, hai người Mỹ và một người Anh, những người có thể ghi chép những sự việc xảy ra và đảm bảo điều đó

Đại tá Beatty khai mạc vấn đề với cái đã trở thành công thức của các cuộc họp.

- Chúng ta đang có một vấn đề, ông ta nói.

- Nói rõ xem nào, vị tướng nói.

- Thưa tướng quân, thông tin cung cấp cho chúng ta một điểm tham chiếu quan trọng. Nhưng đó chưa phải là tham chiếu của SATNAV, đang quay quanh vùng đất để khoanh lại vài yard vuông. Chúng ta đang nói tới một km vuông. Để có thể chính xác hơn, chúng tôi đã mở rộng địa điểm thành một dặm vuông.

- Thế thì sao?

- Và đã có rồi đây.

Đại tá Beatty chỉ lên trên tường. Gần như toàn bộ khoảng không gian mà một bức ảnh khổ lớn chụp được, với độ phân giải cao và được máy tính xử lý rõ, rộng mỗi chiều sáu fít. Tất cả mọi người nhìn chăm chú vào đó.

- Tôi chẳng nhìn thấy gì hết cả, vị tướng nói. Toàn là núi.

- Vâng, thưa tướng quân, đó chính là vấn đề. Nó không nằm ở đây đâu.

Sự chú ý tăng đến cực điểm. Tất cả đều suy nghĩ rất lung.

- Thế thì cái gì, vị tướng chậm rãi nói, có gì ở đó nào?

- Một khẩu súng, Laing nói.

- Một khẩu súng?

- Gọi là súng Babylon.

- Tôi nghĩ người của các anh đã có tất cả các thứ đó ở giai đoạn xây dựng.

- Đúng là thế thật. Có vẻ như ai đó đã vào.

- Chúng ta chưa từng làm trước đây. Trước ai cũng nghĩ là một quả tên lửa, hoặc một căn cứ máy bay chiến đấu. Không khẩu súng nào có thể bắn được một trọng tải lớn đến thế đâu.

- Cái này thì có thể, thưa tướng quân. Tôi đã kiểm tra với London. Một nòng súng dài hơn 180 mét, đường kính đến một mét. Trọng tải hơn nửa tấn. Tầm bắn 1000 km, theo cái được sử dụng. Và tầm bắn từ đây đến Tam giác?

- 470 dặm, tức là 750 km. Thưa tướng quân, liệu các phi công của ngài có ném được một quả đạn như thế không?

- Không.

- Các tên lửa Patriot thì sao?

- Có thể, nếu nó được đặt đúng chỗ và đúng thời điểm và rơi đúng lúc. Có khả năng là không đâu.

- Vấn đề là, đại tá Beatty xen vào, súng hay tên lửa, cũng không có ở đây đâu.

- Được chôn ngầm dưới đất giống như nhà máy ở Ai Qubai à? Barber gợi ý.

- Nó được nguỵ trang với một bãi rác ôtô ở trên, chỉ huy đội bay Peck lên tiếng. Ở đây thì chẳng có gì hết cả. Không đường sá, không lối mòn, không dường dây điện, không có bảo vệ, không sân bay trực thăng, không dây thép gai, không trại lính - chỉ là một vùng đồi và núi thấp hoang vu với rất nhiều thung lũng.

- Cứ cho là, Laing trả đũa, chúng sử dụng cùng trò ở Tarmiya - đẩy chu vi bảo. vệ ra thật xa, tít ở ngoài vùng đó?

- Chúng tôi đã thử như thế rồi, Beatty nói. Chúng tôi đã nhìn ra mọi hướng xa đến 50 dặm. Không có gì - không có bảo vệ.

- Thế chỉ là một chiến dịch thất vọng thôi à? Barber đề xuất.

- Không có cách nào đâu. Người Iraq luôn luôn bảo vệ những gì thuộc về mình, ngay cả người của họ cũng thế. Xem này...

Đại tá Beatty tiến lên trước đến bức ảnh và chỉ vào một nhóm lều.

- Một ngôi làng nông dân, ngay cạnh. Khói lò, chuồng dê, những con dê đang đi ăn cỏ ở thung lũng đây này. Còn có hai làng khác ở bên ngoài nữa.

- Cũng có thể họ đào cả quả núi, Laing nói. Các ông đã từng như thế ở núi Cheyenne rồi cơ mà.

- Đó là cả một loạt những hầm hào, đường ngầm, một loạt những phòng đằng sau các cánh cửa được gia cố, Beatty nói. ông đang nói về một nòng súng dài 180 mét. Hãy thử đặt nó vào trong một quả núi, ông sẻ thấy nó lồi lên khủng khiếp thế nào. Hãy nhìn vào đây, thưa các ngài, tôi có thể nhìn thấy bãi biển, cửa hàng, mọi khu dân cư đang ở dưới ngầm, nhưng một cái nòng súng như thế thì phải ở đâu đó chứ. Làm gì có.

Tất cả lại nhìn vào bức ảnh. Trong khuông giấy có ba ngọn đồi và một phần ngọn thứ tư. Cái lớn nhất không thể nhìn thấy bởi những cánh cửa chắc chắn hoặc đi ngang qua đường.

- Nếu ở đâu đó trong này, Peck lên tiếng, thì tại sao lại ném bom san phẳng cả một dặm vuông đó đi? Điều này có thể làm rụng xuống mọi quả núi phía trên thứ vũ khí.

- Ý kiến hay đấy, Beatty nói. Thưa tướng quân, chúng ta có thể sử dụng các Buff. Hãy cho nó đánh cả một dặm vuông này.

- Tôi có thể có một đề xuất không? Barber hỏi.

- Xin mời, tướng Horner nói.

Nếu tôi là Saddam Hussein, và tôi có một thứ vũ khí giá trị như thế, tôi sẽ phải có một người chỉ huy mà tôi có thể tin cậy Và tôi sẽ ra lệnh cho ông ta rằng nếu Pháo đài chịu bất kỳ sự không kích nào, ông ta phải bắn luôn. Nói tóm lại, nếu những quả bom đầu tiên rơi vu vơ - và một dặm vuông quả là một diện tích lớn đấy - thì phần còn lại có thể sẽ trở thành bình địa trong vòng một giây thôi.

Tướng Glosson chồm lên trước.

- Chính xác ông muốn nói gì, ông Barber?

- Thưa tướng quân, nếu Cú đấm của Thượng đê' quả có ở trong những quả đồi này, nó sẽ được giấu bằng một chiến lược với một kỹ năng cực kỳ cao. Cách duy nhất là 100 phần trăm chắc chắn nó bị phá huỷ bởi một chiến dịch tương tự. Chỉ một máy bay thôi, bay đến bất thần, mang đến một cuộc tấn công, và bắn tung mục tiêu bằng cái nút nhấn bom đầu tiên và duy nhất.

- Tôi không biết bao lần đã nói điều đó, đại tá Beatty trở nên tức giận, nhưng chúng ta không biết cái nút đó ở đâu cả - một cách chính xác.

- Tôi nghĩ đồng nghiệp của tôi sẽ nói về việc xác định mục tiêu, Laing nói.

- Nhưng điều đó có nghĩa là phải có một máy bay khác,

Peck phản đối. Giống như những chiếc Buccanneer đã làm với những chiếc Tornado. Ngay cả người xác định mục tiêu trước hết cũng phải biết mục tiêu ở đâu đã chứ.

- Thì nó làm việc với tên lửa Scud, Laing nói.

- Chắc chắn rồi, người của SAS xác định các máy bắn tên lửa, và chúng tôi thổi bay chúng đi. Nhưng chỉ có thể làm được trên mặt đất mà thôi, hàng nghìn dặm từ những quả tên lửa với ống nhòm, Peck nói.

- Chính xác là như vậy.

Im lặng mất nhiều giây.

- Các anh đang nói, tướng Glosson nói, đến chuyện đưa người vào vùng núi để cho chúng tôi mục tiêu rộng mười yard vuông.

Cuộc tranh luận kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Nhưng vẫn phải quay lại với lời biện luận của Laing.

- Thứ nhất là tìm ra nó, rồi đánh dấu nó, rồi phá huỷ nó - và tất cả những cái đó phải sao cho người Iraq không phát hiện được cho đến khi đã quá muộn.

Quãng nửa đêm một hạ sĩ của Không lực Hoàng gia đi đến khách sạn Hyatt. Anh ta không thấy có trả lời ở cửa phòng họp, nên người quản lý đêm để anh ta vào. Anh ta đi vào phòng ngủ và lay vai một người đàn ông đang ngủ trong bộ đồ ngủ ở đầu giường.

- Thưa ngài, dậy đi. Ngài được điều động, thưa thiếu tá.
 
Chương 22


Nó ở đó, Mike Martin nói hai giờ sau đó.

- Đâu cơ? đại tá Beatty hỏi với sự tò mò lộ rõ.

- Ở đâu đó

Trong phòng họp ở dưới hành lang từ Hố Đen, Martin đang đứng dựa vào bàn nghiên cứu một bức ảnh về phần đất rộng hơn ở Jeban và dãy Hamreen. Nó chỉ ra một diện tích năm dặm vuông. Anh chỉ vào với đầu ngón tay.

- Những ngôi làng đó, ba ngôi làng - ở đây, ở đây, và ở đây.

- Có chuyện gì với chúng nào?

- Chúng là giả mạo đấy: Được làm thật tuyệt, chúng là những bản sao hoàn hảo của các ngôi làng của nông dân miền núi, nhưng chúng đầy lính gác đấy.

Đại tá Beatty nhìn chằm chằm vào ba ngôi làng. Một cái ở thung lũng cách khoảng giữa ba hòn núi chỉ nửa dặm nằm chính trung tâm khu vực. Hai làng khác ở ngoài rìa xa hơn.

Không ngôi làng nào đủ lớn để có được một nhà thờ; thực tế, chúng quá nhỏ, chỉ hơn một thôn mà thôi. Mỗi cái có kho thóc chính và ở trung tâm để tích trữ cho mùa đông và thức ăn, và những kho nhỏ hơn cho cừu và dê. Khoảng chừng hơn chục túp lều đơn giản tạo nên phần còn lại, những ngôi nhà xây bằng gạch và bùn với thạch hoặc mái tôn theo dạng có thể được nhìn thấy khắp nơi ở vùng núi Trung Đông. Vào mùa hè có thể có những đồng ruộng nhỏ hoặc những ruộng gần đó, nhưng mùa đông thì không.

Cuộc sống vùng núi Iraq rất khắc nghiệt vào mùa đông, với những cơn mưa lạnh giá và mây mù. Khái niệm cho rằng lúc nào ở Trung Đông cũng nóng ấm là sự sai lầm chung xưa nay.

- Tốt thôi, thiếu tá, anh biết nhiều về Iraq. Tôi thì không.

- Thế tại sao chúng là giả mạo?

- Hệ thống trợ giúp cho cuộc sống, Martin nói. Những ngôi làng quá nhỏ, quá nhiều nông dân, quá nhiều dê và cừu. Không đủ thức ăn. Họ sẽ chết đói.

- Mẹ nó chứ, Beatty nổi điên lên. Đơn giản quá.

- Cũng có thể, nhưng nó cho thấy Jericho đã không nói dối, hoặc nhầm lẫn lần nữa. Nếu chúng đã làm vậy, thì tức là chúng đang giấu cái gì đó.

Đại tá Craig, sĩ quan chỉ huy của đội SAS số 22, đã đến chỗ họ từ căn cứ của mình. Anh đang thì thầm nói chuyện với Steve Laing. Bây giờ anh mới tham gia vào câu chuyện.

- Anh nhận ra gì thế, Mike?

- Ở đây đấy, Bruce ạ. Ai đó có khả năng nhìn thấy - từ cách 1000 yard bằng ống nhòm.

- Brass muốn đưa một đội vào đó để đánh dấu. Anh thua rồi.

- Trời ơi, thưa ngài. Những ngọn đồi đó đầy các đội canh phòng. Ông có thể thấy không có đường sá gì cả.

- Thế thì sao? Có thể tránh các đội canh phòng chứ.

- Và thế nếu rơi vào một đội thì sao? Không có ai nói được tiếng Arập như tôi, và ông cũng biết điều đó. Ngoài ra, đó là một HALO. Máy bay trực thăng cũng không làm được gì đâu.

- Anh đã làm mọi thứ anh cần, cho đến giờ tôi có thể nói thế.

- Thật ngớ ngẩn. Tôi chưa từng thấy hành động nào như thế cả. Tôi chán ngán cái việc này rồi. Để tôi làm. Những người khác đã ở sa mạc hàng tuần, trong khi tôi phải đi chăm sóc một khu vườn.

Đại tá Craig nhướng lông mày. Anh đã không hỏi Laing chính xác Martin đã làm gì - anh cũng không muốn nói đến dù là gì đi nữa - nhưng anh đã ngạc nhiên khi một trong những sĩ quan của mình lại phải đi làm người làm vườn.

- Thế thì quay về căn cứ đi. Chúng ta có thể lên kế hoạch tốt hơn ở đó. Nếu tôi có ý tưởng nào, anh có thể thực hiện.

Trước khi trời sáng, tướng Schwarzkopf đã đồng ý không có lựa chọn nào khác và cho sự chuẩn y của mình. Tại cái góc bí mật của căn cứ không quân Riyadh này là chỗ riêng dành cho người của SAS, Martin vạch phác thảo các ý tưởng của mình cho đại tá Craig và đã được chấp thuận để thực hiện.

Sự điều phối của việc lập kế hoạch có thể ở lại với đại tá Craig cho những người trên mặt đất và với tướng Glosson cho vụ tấn công bằng máy bay cuối cùng.

Buster Glosson đã uống cà phê buổi sáng với bạn mình và thượng cấp Chuck Horner.

- Không có ý tưởng nào khác cho đơn vị chúng ta sẽ dùng cho vụ này à? ông ta hỏi.

Tướng Horner nghĩ đến một sĩ quan nào đó hai tuần trước đã khuyên ông làm cái gì đó thật là dữ dội.

- Có chứ, ông nói. Hãy dành cho đội 336.

Mike Martin đã thuyết phục được đại tá Craig khi chỉ ra - một cách lôgic - rằng với phần lớn các lính SAS ở vùng Vịnh đã được sử dụng ở Iraq, anh là sĩ quan cao cấp có khả năng làm được, mà anh là chỉ huy đội B, đội đã từng làm những chiến dịch trong sa mạc dưới sự chỉ huy của người dưới quyền anh, và chỉ một mình anh nói được tiếng Arập trôi chảy.

Nhưng lý luận vững chắc của anh là anh từng được huấn luyện và có kinh nghiệm nhảy dù tự do. Chỉ một cách để vào được vùng núi Iraq một cách bí mật là đi đến vùng HALO - mở dù thật thấp - có nghĩa là ra ngoài máy bay ở độ cao 25.000 fít và rơi tự do và chỉ mở dù khi còn cách mặt đất 3.500 fít. Đó không phải công việc cho những tay mơ.

Việc lập kế hoạch toàn bộ phi vụ phải mất đến một tuần lễ, nhưng không còn thời gian nữa. Giải pháp duy nhất là với nhiều kiểu nhảy dù, đi bộ qua vùng đất, và lựa chọn một vị trí lý tưởng để lên kế hoạch. Với cái đó, Martin cần người anh có thể tin cậy cả cuộc đời mình, đó chính xác là cái anh sẽ làm dù thế nào đi nữa.

Quay trở lại cái góc dành cho SAS ở căn cứ không quân Riyadh, câu hỏi dầu tiên đại tá Craig dành cho anh là:

- Tôi có thể lấy ai?

Danh sách rất ngắn; chỉ là những người từng đi chiến dịch trong sa mạc.

Khi người thượng sĩ có tên trong danh sách, một cái tên nảy ra trong anh.

- Peter Stephenson - chắc chắn.

- Anh may mắn đấy, Craig nói. Anh ta vừa quay trở lại qua biên giới một tuần trước. Đang nghỉ ngơi. Anh ta được đấy

Martin đã biết thượng sĩ Stephenson khi viên trung sĩ còn là một viên đội và anh là đại uý lần đầu tiên đi trong sư đoàn với tư cách một chỉ huy nhóm. Cũng giống như bản thân anh, Stephenson có thể nhảy dù tự do và là một thành viên lính dù của đội anh ta.

- Anh ta tốt đấy, Craig nới. chỉ một cái tên khác. Một người quen đi núi nhé. Tôi cho là anh cần hai người.

Tên được chỉ định là hạ sĩ Ben Eastman.

- Tôi biết anh ta. Anh nói đúng đấy - tôi sẽ lấy anh ta. Ai nữa nào?

Lựa chọn cuối cùng là hạ sĩ Kevin North, từ một dội khác. Martin chưa từng bao giờ đi đánh trận với anh ta, nhưng North là một chuyên gia về núi và được người chỉ huy của anh khuyến khích nên sử dụng.

Có năm địa bàn lập kế hoạch mà anh phải tuần tự hoàn thành. Martin chia ra các nhiệm vụ trong đó anh chịu trách nhiệm chung.

Đầu tiên là lựa chọn máy bay để nhảy dù. Không do dự, Martin chọn chiếc Hercules C-130, máy nhảy thông thường SAS sử dụng, và ở đó đã có chín chiếc phục vụ ở vùng Vịnh. Chúng đều đóng ở gần sân bay quốc tế Vua Khaled. Thậm chí tin tốt hơn đến vào bữa sáng: ba trong số chúng đến từ đội số 47, đóng ở Lyneham ở Wiltshire, một đội đã có nhiều năm kinh nghiệm với các vụ nhảy dù của lính SAS.

Giữa những phi công của ba chiếc Hercules là một trung úy tên là Glyn Morris.

Qua cuộc chiến tranh vùng Vịnh, những chiếc máy bay vận chuyển Hercules đã là một phần trong chiến dịch chuyển hàng hoá đến được Riyadh ở các căn cứ bên ngoài của Không quân Hoàng gia ở Tabuq, Muharraq, Dhahran, và thậm chí Seeb ở Oman. Morris đã từng là người chuyên chở hoặc giám sát hàng hoá, nhưng nhiệm vụ chính thức của anh ở miền này là một PJI, hướng dẫn nhảy dù, và Martin đã từng trước đây nhảy dù dưới sự chỉ dẫn của anh ta.

Ngược hẳn với khái niệm mà Paras và SAS tìm kiếm ở sự nhảy dù của mình, mọi sự nhảy dù quân sự trong các lực lượng quân sự Anh quốc đều diễn ra dưới sự chỉ đạo của RAF, và mối quan hệ được dựa trên niềm tin lẫn nhau khi mà mỗi bên đều biết được chính xác đang làm gì. Người chỉ huy bay Ian Macfadyen, chỉ huy RAF Ở vùng Vịnh, đã ra lệnh cho những chiếc Hercules được chỉ định cho nhiệm vụ của SAS vào lúc nó quay trở về sau chuyến chở hàng từ Tabuq, và bắt đầu chuyển nó cho nhiệm vụ HALO được lên kế hoạch cho cùng đêm hôm đó.

Quan trọng nhất trong số các nhiệm vụ phối hợp là tạo ra một chỗ có ôxi trên sàn của chiếc máy bay chở hàng. Chủ yếu bay ở tầm thấp, chiếc cho đến lúc đó không bao giờ cần ô xi ở đằng sau để giữ cho những người ở trong sống được ở độ cao.

Trung uý phi công Morris không cần chỉ dẫn thêm về công việc anh sẽ làm, và anh dẫn đến một PJI thứ hai từ một chiếc Hercules khác, trung sĩ phi công Sammy Dawlish. Họ đã làm việc cả ngày trên chiếc Hercules và đã xong việc chuẩn bị vào lúc mặt trời xuống.

Ưu tiên thứ hai là chính những chiếc dù. Vào thời điểm đó, SAS chưa từng nhảy dù xuống Iraq - họ đã đến các sa mạc Iraq bằng xe cơ giới - nhưng trong những tuần trước khi chiến tranh thực sự nổ ra, các phi vụ tập luyện được tiến hành đều đặn. Tại căn cứ không quân có một bộ phận trang thiết bị được niêm phong và bảo vệ nghiêm mật, nơi SAS để dù của mình. Martin yêu cầu và được phép lấy tám dù chính và tám cái dự trữ, mặc dù anh và người của mình có thể chỉ cần mỗi người bốn chiếc. Trung sĩ Stephenson cũng được giao nhiệm vụ kiểm tra và đóng gói những cái dù đó trong ngày.

Những chiếc dù không dài hơn loại tròn dính với các đơn vị bay, nhưng với mẫu thiết kế mới hơn được gọi là "vuông". Chúng không thật sự vuông vắn mà thật ra có hình thuôn với hai khay. Trong khi bay, không khí được trượt đi giữa hai khay đó, tạo ra một "cái cánh" tương tự với một phần giao với không khí, cho phép người nhảy dù tự do "bay" chuyến đó xuống như một người nhện, với sự cơ động và khả năng tác hoạt tốt hơn. Chúng là dạng vẫn thường được nhìn thấy trong những màn biểu diễn nhảy dù tự do.

Hai viên đội có nhiệm vụ xem xét và quản lý mọi thứ đồ đạc cần thiết còn lại. Chúng gồm bốn bộ quần áo, bốn túi ngủ lớn của Anh, các chai nước, mũ bảo hiểm, dây đeo, vũ khí, HVC viên đạm - có thể ăn ở mọi nơi - thuốc nổ, đồ dùng sơ cứu... danh sách rất dài. Mỗi người có thể mang theo được 80 pound trong những chiếc túi Bergen đó và có thể cần đến mỗi ounce trong số đó.

Những người sửa chữa và thợ máy làm việc với chiếc Hercules trong một hangar, chuẩn bị thật kỹ máy móc và quan tâm đến từng bộ phận một.

Chỉ huy đội bay đã chỉ định đội nhân viên giỏi nhất của mình mà trong số đó hoa tiêu sẽ đi theo đại tá Craig về Hố Đen để lựa chọn một vùng nhảy dù thích hợp, tức là DZ cực kỳ quan trọng.

Martin được sáu kỹ thuật viên giúp đỡ, bốn người Mỹ và hai người Anh, để sử dụng máy tìm ra mục tiêu, định vị nó trong vài yard vuông, và chuyển thông tin trở về Riyadh. Khi đã kết thúc, các dụng cụ nhiều thứ của anh đã được gói ghém cẩn thận để chống đổ vỡ bất ngờ và được mang đến hangar, nơi hàng núi đồ cho bốn người đang dồn đến. Để tuyệt đối an toàn, mỗi thứ dụng cụ khoa học đều có hai thứ, lại thêm vào trọng lượng một người có thể mang.

Martin đi gặp những người lên kế hoạch ở Hố Đen. Họ cúi lom khom trên một cái bàn rộng trải đầy những bức ảnh mới do một chiếc TR- 1 khác vừa chụp sáng hôm đó. Thời tiết trong sáng, và các bức ảnh cho thấy từng xó xỉnh và hẻm núi một của Jebal và Hamreen.

- Chúng tôi cho là, đại tá Craig nói, cái thứ súng quỷ quái này có thể nằm ở đông nam. Điểm quan sát tốt nhất chính là ở chỗ đó.

Ông chỉ ra một loạt những hẻm núi trong phần núi về phía nam của vùng được cho là Pháo Đài, ngọn đồi ở trung tâm nhóm trong km vuông đã được đại tá Osman Badri xấu số chỉ rõ. Còn với DZ, có một thung lũng nhỏ ở đây, chừng 40 km về phía nam... Anh có thể nhìn thấy nước óng ánh trong một dòng suối chảy xuôi xuống thung lũng.

Martin nhìn. Đó là một sự thấp xuống một chút ở những ngọn đồi, dài 500 yard và rộng khoảng 100, với những sườn dày cộp đầy những tảng đá, và cái rill làm chảy róc rách dòng nước mùa đông của mình dọc theo đáy của dip.

- Đây là chỗ tốt nhất à? Martin hỏi.

Đại tá Craig nhún vai. "Thẳng thắn mà nói, đó là cách của các anh thôi. Cái thứ hai cách mục tiêu tới 70 km cơ. Thì chọn điểm nào gần hơn, để các anh có thể nhìn thấy ngay vùng đất đó."

Trên bản đồ, trong ánh sáng ban ngày, có thể chắc chắn: trong bóng tối dày đặc, sâu xuyên qua không khí lạnh ở tốc độ 120 dặm/giờ, có thể dễ dàng để mất. Có thể không có ánh sáng để hướng lối chúng, không có đèn pha trên mặt đất. Từ bóng tối đến bóng tối.

- Tôi chọn nơi này, anh nói. Người hoa tiêu của RAF đứng thẳng dậy.

- Tốt, tôi sẽ thực hiện.

Người hoa tiêu có một buổi chiều thật bận rộn. Việc của anh ta là tìm ra đường mà không cần tới đèn đóm và đi qua một bầu trời không trăng sao, không hề biết đến chỗ nhảy dù mà phải nhìn từ một điểm trên không trung từ đó, trong tâm trí căng thẳng, bốn thân hình sẽ ra máy bay của anh để đi tìm cái thung lũng bé xíu đó. Ngay cả những thân hình rơi xuống đó cũng chịu sức gió; công việc của anh qua đó sẽ được đánh giá.

Không phải đến mãi buổi đêm tất cả những người này mới gặp nhau lần nữa tại hangar, giờ đây đã bị cấm đối với tất cả những người khác trong căn cứ. Chiếc Hercules đã sẵn sàng, được tiếp nhiên liệu đầy đủ. Dưới một cánh của nó là những thứ đồ đạc mà bốn người có thể cần đến. Tờ mờ sáng, người hướng dẫn của RAF đã gói cẩn thận mỗi cái dù nặng 48 pound như thể chính anh ta sẽ dùng chúng. Stephenson cảm thấy hài lòng.

Trong một góc là một cái bàn rộng. Martin, người đã có được những bức ảnh được phóng to từ Hố Đen, dẫn Stephenson, Eastman, và North đi đến bàn để chỉ rõ con đường họ sẽ đi đến DZ cho những hẻm núi nơi họ dự định sẽ đi sâu vào và nghiên cứu Pháo Đài để biết nó dài bao nhiêu. Dường như đó là 2 đêm đi bộ nặng nề, vào ngày hôm sau. Không nghi ngờ gì nữa khi bước đi trong ánh sáng, và con đường sẽ không thẳng.

Cuối cùng mỗi người gói lại túi Bergen của mình từ dưới đáy, dụng cụ cuối cùng là cái dây lưng, một vòng dây nặng với số có thể được tháo ra sau khi đã chạm đất và đeo vòng quanh cố tay.

Những chiếc hambuger và soda Mỹ được mang đến từ căng tin khi mặt trời xuống, và bốn người nghỉ ngơi cho đến giờ cất cánh. Đã được lên kế hoạch là 9h45, hướng đến một cuộc nhảy dù vào 11h30.

Martin vẫn luôn nghĩ chờ đợi là điều tồi tệ nhất; sau hoạt động tích cực trong ngày hôm đó, dường như đó là một nỗi thất vọng lớn. Không có gì để tập trung vào mà chỉ là sự căng thẳng, cái suy nghĩ nóng nảy rằng dù cho đã kiểm tra như thế và kiểm tra lại như thế, cái gì đó thật thiết yếu vẫn bị bỏ quên. Đó là thời điểm khi một số người ăn, hoặc đọc, hoặc viết thư về nhà, hoặc ngủ lơ mơ, hoặc chỉ đơn giản đi đến phòng vệ sinh để tắm rửa.

Chín giờ một máy kéo đưa chiếc Herculee ra khỏi chỗ để, và đội nhân viên gồm phi công chính, phi công phụ, và kỹ sư bay bắt đầu các cuộc kiểm tra máy móc của mình. 20 phút sau đó, một chiếc xe bus cửa sổ đen ngòm đi vào trong hangar để đưa bốn người và đồ đạc của họ ra máy bay, đang đợi với cửa sau mở rộng và sẵn sàng.

Hai PJI đã sẵn sàng cho họ, với người giám sát và người chỉnh dù. Chỉ có bảy người bước đi và đi vào khoang lớn của Hercules. Các cánh cửa đóng lại. Người chỉnh dù đã quay trở lại xe bus; anh ta có thể không bay cùng với họ.

Cùng những người PJI và người giám sát, bốn người lính đi vào chỗ ngồi của mình ở những chỗ dọc theo tường và đợi. Vào lúc 9h44 tối, chiếc Hercules lăn bánh đi khỏi Riyadh và quay cái mũi màu xám của mình về hướng bắc. Trong khi chiếc máy bay RAF đang lao lên bầu trời đêm ngày 21 tháng Hai đó: một chiếc trực thăng Mỹ đã được yêu cầu nằm ở một chỗ trước khi đến gần với bộ phận Mỹ của căn cứ quân sự.

Nó được gửi tới Al Kharz để đón hai người. Steve Turner, người chỉ huy đội 336 chiến thuật bay, đã được triệu tập lên Riyadh theo lệnh của tướng Buster Blosson. Với ông ta, như đã được ra lệnh, anh ta sẽ mang người mà anh đánh giá là phi công giỏi nhất của mình cho những chuyến bay đánh mặt đất tầm thấp.

Không phải người CO của Rocketeer cũng không phải đại uý Don Walker hiểu được tại sao mình lại được chỉ định. Tại một căn phòng nhỏ dưới đại bản doanh của CENTAF một giờ sau đó, họ được cho biết tại sao, và điều đó là cần thiết. Họ cũng được cho biết không ai khác, với người sĩ quan sử dụng hệ thống vũ khí của Walker, người đã bay cùng anh trên băng ghế sau, dược phép biết đầy đủ các chi tiết.

Rồi họ được máy bay trực thăng chở về lại căn cứ.

Sau khi cất cánh bốn người lính có thể tháo dây an toàn và di chuyển quanh chỗ của đội bay nhờ vào những ánh đèn màu đỏ mờ tối phía trước. Martin đi lên trước, đến cái thang để đến bàn bay, và ngồi một lúc với đội bay. Họ bay ở độ cao 10.000 fít về phía biên giới với Iraq, rồi bắt đầu lên tiếp. Tại độ cao 25.000 fít chiếc Hercules giữ thăng bằng đi thẳng vào lraq, dường như hoàn toàn cô độc trong bầutrời không một vì sao.

Trên thực tế nó không phải ở một mình. Trên Vịnh một chiếc AWACS đã có lệnh giữ yên chỉ nhìn quanh bầu trời gần đó và dưới họ. Nếu một màn hình rađa bất kỳ của Iraq, vì một lý do nào đó không bị không lực Liên quân thổi bay, đột nhiên "phát sáng", nó sẽ bị tấn công ngay lập tức. Để thực hiện điều đó, hai chuyến bay của chiếc Wild Weasels với các tên lửa chống ra đa HARM đang ở dưới.

Trong trường hợp một phi công máy bay chiến đấu nào đó của Iraq đột nhiên bay lên trời trong đêm đó, một chiếc máy bay của RAF Jaguars đã ở phía trên và sẽ lao vào nó ở bên trái, một chiếc F-15C Eagle ở bên phải. Chiếc Hercules đang bay trong một tầm bảo vệ của công nghệ cực kỳ hiện đại Không phi công nào trên bầu trời đêm đó có thể biết tại sao. Họ chỉ biết tuân lệnh.

Trên thực tế, nếu có ai đó ở Iraq nhìn thấy một nhấp nháy nào đó trên rađa đêm đó, thì cũng sẽ nghĩ đó chỉ là một chiếc máy bay chở hàng đang bay về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ. Người chở hàng làm tất cả để những người khách của mình được thoải mái với trà, cà phê, đồ uống nhẹ, và bánh. 40 phút trước khi đến điểm nhảy dù, viên hoa tiêu bật một ngọn đèn báo trước chỉ ra 40 p trừ, và các chuẩn bị cuối cùng được thực hiện.

Bốn người lính đeo dù chính và phụ vào, cái thứ nhất qua vai, cái thứ hai thấp hơn ở sau lưng. Rồi đến những chiếc Bergen, treo ngược ở sau lưng giữa hai cái dù. Vũ khí - một khẩu Heckler giảm thanh và Koch MP5 SD súng bán tự động - được đeo ở hông trái, và bình dưỡng khí cá nhân treo ở thắt lưng.

Cuối cùng họ đeo mũ bảo hiểm và mặt nạ phòng độc trước khi nối dù phụ vào trung tâm, một cấu trúc khung với kích cỡ một cái bàn ăn đầy những chai ô xi. Khi mọi người đã có thể thở được thoải mái, viên phi công được báo và bắt đầu thổi không khí ra ngoài và áp suất bên trong khoang lái trong màn đêm gần như cân bằng giữa hai bên.

Mất khoảng 20 phút. Rồi họ lại ngồi xuống, chờ đợi. 15 phút trước khi đến điểm nhảy dù, một thông điệp nữa lại đến từ bàn bay đến tai người lái. Anh ta nói với các PJI ra hiệu cho những người lính chuyển từ máy ô xi chính sang những cái chai nhỏ riêng của mình. Mỗi người có dự trữ 30 phút, và họ sẽ có thể cần 3 đến 4 phút để có thể nhảy ra.

Vào thời điểm đó chỉ có hoa tiêu trên bàn bay biết được chính xác đang ở đâu; dội SAS đã tin cậy hoàn toàn vào anh ta ở vị trí chính xác.

Khi đó người lái đang liên lạc với những người lính bằng một dòng không ngừng những kí hiệu bằng tay, kết thúc khi anh ta chỉ cả hai tay vào những ngọn đèn trên màn hình. Đến tai anh ta là cả một dòng thác những chỉ dẫn từ người hoa tiêu.

Bốn người đứng lên và bắt dầu di chuyển, chậm chạp, giống như các phi hành gia nặng nề bởi đồ đạc lỉnh kỉnh, ra đến cửa. Các PJI, cũng đang đeo chaỉ ô xi di động, đi cùng với họ. Những người của SAS đứng thành hàng dọc trước cánh cửa hông vẫn còn đóng, mỗi người kiểm tra lại trang thiết bị của mình đang ở trước mặt.

Vào P-minus -4 cửa hông mở ra, và họ nhìn chằm chằm ra ngoài với không khí ở độ cao 25.000 fít. Một ký hiệu ra bằng tay khác - hai ngón tay do PJI đưa lên - nói với họ rằng họ đang ở P- minus-2. Mọi người lùi ra đến bệ cửa và nhìn vào các ngọn đèn (chưa được bật) ở hai bên. Rồi đèn bật đỏ, lừ lên. Đèn đã chuyển sang xanh...

Cả 4 người quay gót, đứng đối diện vào trong, và nhảy ngược ra, tay chìa ra, mặt cúi gằm. Bậc nhảy lướt qua mặt nạ của họ, và chiếc Hercules bay đi.

Trung sĩ Stephenson dẫn đường. Lấy lại thăng bằng ở vị trí của mình, họ nhảy vào trong bầu trời đêm từ năm dặm không một tiếng động. Tại độ cao 3.500 fít những áp suất tự động đã mở túi dù, và nó bay ra ngoài. Ở vị trí thứ hai, Mike Martin nhìn thấy cái bóng 15 fít dưới anh đã ngừng không chuyển động. Cùng giây phút đó anh cảm thấy sự rung lên của cú mở dù của mình, rồi chiếc dù "vuông" sững lên và anh chuyển từ tốc độ 120 dặm/giờ sang còn 14, với những loại máy hãm để không bị sốc mạnh.

Còn 1.000 fít mỗi người đóng lại khoá đang giữ Bergen ở lưng họ và trượt xuống chân, nó nơi dính vào chân họ. Những chiếc Bergen sẽ ở đó trên suốt đường bay xuống, để có thể mở rộng đúng lúc.

Dù của viên trung sĩ đi vượt qua Martin ở bên tay phải, nên anh phải đi theo. Bầu trời trong sáng, những vì sao nhìn rõ, những mảng núi đen thẫm hiện lên ở mọi hướng. Rồi Martin nhìn thấy cái viên trung sĩ đã nhìn thấy: sự lấp lánh của dòng nước trong dòng suối đang chảy xuôi thung lũng.

Peter Stephenson bay xuống bên phải ớ trung tâm vùng đất, vài yard cách bờ suối, trên cỏ mềm và ấm. Martin vứt chiếc Bergen của mình theo hướng đó, dừng lại trong không trung, cảm thấy chiếc Bergen chạm đất ngay bên dưới mình, và đã đứng được thẳng trên hai chân.

Hạ sĩ Eastman ở phía sau và bên trên anh, quay ra, trượt xuống, và trượt đến cách 50 yard. Martin đã cởi dây dù của mình và không nhìn thấy Kevin North cũng đã đáp xuống đất. Trên thực tế, anh chàng người miền núi là người thứ tư và cũng là cuối cùng chạm mặt đất, xa hơn khoảng 100 yard nhưng rơi xuống lưng chừng đồi chứ không phải lên cỏ. Anh cố gắng lại gần đồng đội của mình, giữ thăng bằng, khi chiếc Bergen ở dưới anh đã chạm đất. Khi nó rơi xuống đến đất, chiếc Bergen rơi ra xa kéo tuột người đang bay ở trên mà cổ tay đang buộc vào nó. Nó lăn dọc theo sườn đồi năm yard, rồi mắc vào giữa hai tảng đá. Việc đột ngột đó kéo North lao thẳng xuống và rơi nghiêng nên anh không chạm đất bằng chân mà bằng vai. Trên sườn đồi không có nhiều đá lắm nhưng một trong số chúng đã làm xước hông bên phải của anh tám chỗ.

Viên hạ sĩ cảm thấy rõ ràng xương của mình kêu lạo xạo, anh đau mất đến vài giây. Rồi rơi vào dòng nước. Anh lăn ra và nắm chặt lấy dây, thầm thì luôn miệng: không, không, cầu Chúa, không.

Dù không nhận ra bởi vì diễn ra bên trong chân, anh bắt đầu thấy mình bị chảy máu. Một trong số xương trong hệ thống chằng chịt đã gãy lòi ra ngoài động mạch, chảy máu đầm đìa. Ba người khác tìm thấy anh sau đó một phút. Tất cả đã cởi được dù và Bergen. Khi họ nhận ra anh không có ở đó, họ đi tìm. Stephenson lấy chiếc đèn pin nhỏ xíu của mình ra và chĩa vào cái chân.

- Ôi mẹ kiếp. anh thì thầm. họ có các dụng cụ sơ cứu, kể cả băng bó, nhưng không thể làm việc với chỗ bị thương này. Viên hạ sĩ cần có liệu pháp chống đau, huyết thanh, được phẫu thuật - và thật nhanh. Stephenson chạy lại chỗ chiếc Bergen của North, lôi ra dụng cụ sơ cứu, và bắt đầu chuẩn bị một liều moocphin. Không cần thiết nữa. Với máu chảy ra, chỗ đau đã tồi tệ đi nhiều.

North mở mắt, nhìn vào khuôn mặt Mike Martin đang ở phía trên anh, thì thầm: "Tôi xin lỗi, thưa chỉ huy" và lại nhắm mắt. Hai phút sau anh tắt thở.

Vào lúc khác và ở chỗ khác, :Martin có thể đã biểu lộ một số cảm xúc anh cảm thấy khi mất đi một người như North, đang dưới quyền chỉ huy của anh. Nhưng lúc này không có thời gian, và cũng không phải chỗ. Hai người NCO còn lại nhận ra điều đó và làm điều họ phải làm trong sự im lặng sầu thảm. Sự thương tiếc dành cho sau này.

Martin đã từng hy vọng thu dọn dù và đi qua được thung lũng trước khi tìm thấy một cái động đá để chôn đồ đạc còn thừa lại Giờ thì không thể được nữa. Còn phải giải quyết vấn đề cái xác của North.

- Pete, bắt đầu tập hợp tất cả những gì chúng ta phải chôn đi Tìm một cái hố ở đâu đó, hoặc là đào đi. Còn Ben, hãy nhặt đá đi

Martin cúi xuống cái xác, lấy đi các nhãn hiệu và khẩu súng, rồi đến giúp Eastman. Cùng nhau, với dao găm và tay, ba người đào một cái hố dài và để cái xác vào đó. Ở trên còn phải chôn thêm bốn cái dù chính vẫn còn mở, bốn túi đồ ăn, bốn chai dưỡng khí, rồi các thứ đồ khác nữa. Rồi họ bắt đầu chèn đá lên trên, không phải khít vào nhau mà xếp theo kiểu tình cờ, như thể chúng mới rơi từ trên núi xuống. Nước được mang đến từ mách nước để tưới lên đá và cỏ. Lối đá rơi được vạch ra bằng chân, và các mảnh rêu từ bờ nước được gắn lại. Thung lũng được làm sao cho vẫn giống hệt như nó

đã từng như thế một giờ trước khi nửa đêm.

Họ hy vọng có thể đi bộ năm tiếng trước khi trời sáng, nhưng công việc chôn cất đã tốn mất ba tiếng. Một số đồ trong túi Bergen của North vẫn được để lại ở trong và được chôn cùng anh ta: quần áo, đồ ăn, nước uống. Các thứ đồ khác họ phải chia ra để mang, làm cho đồ của mỗi người lại nặng thêm.

Một giờ trước khi trời sáng, họ rời thung lũng và đi vào SOP - quá trình chiến dịch tĩnh. Trung sĩ Stephenson lĩnh trách nhiệm dẫn đường, đi trước hai người còn lại, đến được vùng đất trước và làm các biện pháp để không bị tấn công bất chợt từ bên sườn.

Con đường mỗi lúc một dốc hơn, và anh phải dằn bước chân. Mặc dù là một người nhỏ bé và có phần hơi mảnh, lại hơn Martin đến năm tuổi, nhưng anh vẫn có thể đi bộ rất nhanh và còn gánh theo 80 pound trong khi đi.

Mây bay tới từ các đỉnh núi đúng vào lúc Martin cần chúng, để làm chậm bình minh và cho anh thêm một tiếng đồng hồ nữa. Trong 90 phút đi bộ nặng nhọc họ đi được tám dặm, đi qua nhiều đèo và hai ngọn đồi giữa chúng và cái thung lũng. Cuối cùng một ánh sáng nhợt nhạt cũng hiện ra buộc họ phải tìm một chỗ để trú chân.

Martin chọn một hẻm khuất trong các tảng đá dưới một đoạn nối, có cỏ rậm che phủ và ngay ở trên một wadi khô ráo. Trong bóng tối còn lại họ ăn một vài viên đạm, uống nước, đắp chăn lên người và nằm dài ra ngủ. Có ba phiên thức canh và phiên thứ nhất thuộc về Martin.

Anh đánh thức Stephenson vào lúc 11 giờ sáng và ngủ trong khi viên trung sĩ thức gác. Bốn giờ chiều đến lượt Ben Eastman khều Martin dậy. Khi thiếu tá mở mắt, anh nhìn thấy Eastman đang đưa tay lên môi. Martin lắng nghe. Từ wadi 10 fít phía dưới vọng lên những tiếng nói âm họng bằng tiếng Arập.

Trung sĩ Stephenson cũng tỉnh dậy và nhướng lông mày.Phải làm gì bây giờ? Martin lắng nghe thêm một lúc. Có bốn người ở đó, đang đi gác, đang chán ngán công việc cứ suốt ngày phải đi lên núi, và đã mệt mỏi. Sau 10 phút anh hiểu bọn họ sẽ cắm trại ngủ ở đây cả đêm.

Vậy là anh đã mất thời gian. Anh cần đi vào lúc sáu giờ, khi bóng tối phủ xuống các ngọn đồi, và anh cần từng giờ để có thể vượt qua những dặm dường để đến được các hẻm đá đó trên đồi qua thung lũng từ Pháo Đài. Anh có thể cần nhiều thời gian hơn để tìm ra các hẻm núi đó.

Cuộc trò chuyện từ wadi phía dưới cho thấy toán lính Iraq đang đi tìm củi để đốt lửa trại. Rất có thể chúng sẽ chú ý đến những bụi cây sau đó người của SAS đang nằm. Ngay cả khi chúng không làm vậy, thì cũng phải mất hàng giờ chúng mới ngủ say để đội của Martin có thể rón rén đi qua. Không còn lựa chọn nào khác.

Theo một tín hiệu từ Martin, hai người còn lại nằm dán người xuống, mở dao ra, và ba người trườn thẳng xuống wadi bên dưới.

Khi đã xong việc, Martin nhìn vào những quyển sổ của toán lính Iraq xấu số. Tất cả trong số đó, anh nhận ra, có Al- Ubaidi. Tất cả đều thuộc bộ lạc Ubaidi, những người miền núi. Tất cả đều có dấu của Đội Vệ binh Cộng hoà. Rõ ràng Đội Vệ binh được tuyển từ những người lính miền núi để tạo thành các đội tuần tra công việc là bảo vệ Pháo Đài an toàn khỏi những kẻ đột nhập. Cũng phải mất một giờ đồng hồ để nhét bốn cái xác vào khe núi, cắt lều nguỵ trang của họ, và phủ lên đó các cây bụi, cỏ dại. Nhưng khi họ đã làm xong, họ thấy vẫn rất dễ để nhận ra. Thật may mắn, đội tuần tra Iraq không được trang bị máy bộ đàm, nên không thể kiểm tra từ căn cứ cho đến khi họ quay trở về - bất kỳ lúc nào. Bây giờ, họ không bao giờ có thể trở về được nữa, nhưng với may mắn có thể là hai ngày trước khi họ bị quên đi.

Khi bóng tối đã buông xuống, những người SAS lại đi, định vị bằng cách dựa vào bóng các đỉnh núi trong ảnh, đi theo địa bàn về phía ngọn núi họ đang tìm kiếm. Tấm bản đồ Martin mang theo có độ phân giải rất cao, do một máy tính vẽ dựa trên các tấm ảnh chụp từ trên không do TR-l cung cấp và chỉ ra con đường giữa DZ và vị trí cần đến. Thỉnh thoảng dừng lại để xem máy định vị SATNAV đeo trên tay và nghiên cứu bản đồ bằng đèn pin, Martin có thể kiểm tra hướng đi và tiến triển của mình. Quãng nửa đêm, cả hai đều vẫn tốt. Anh cho rằng còn phải đi thêm mười dặm nữa.

Tại Brecons ở W!ales, Martin và người của mình đã có thể đi bốn dặm một giờ trên kiểu địa hình này, một cuộc đi bộ nặng nhọc trên một mặt đất phẳng mang theo chó chứ không phải 80 pound hành lý thế này. Đi bộ theo tốc độ này là bình thường. Nhưng trên những ngọn đồi thù địch này, với khả năng có các đội tuần tra bao quanh họ, không thể đi nhanh như thế được.

Họ đã va phải quân Iraq một lần, và hai lần sẽ là quá nhiều. Một lợi thế của họ so với quân Iraq là những chiếc máy NVG, những chiếc máy dò đường khi đi đêm khiến họ nhìn rõ hơn ở phía trước. Với mẫu mới mở góc rộng họ có thể nhìn thấy toàn bộ cảnh vật phía trước trong một thứ ánh sáng màu xanh nhạt; nó chạy dựa trên nguyên tắc thu thập mọi tia ánh sáng tự nhiên trong không khí và tập trung nó lại.

Hai giờ trước khi trời sáng, họ nhìn thấy hình dáng của Pháo Đài ở trước mặt và bắt đấu trườn sang bên trái. Ngọn núi họ đã chọn nằm trên rìa của km vuông do Jericho cung cấp, và từ các khe núi gần đỉnh họ có thể nhìn qua xuống mặt phía nam của Pháo Đài - nếu quả thật đó là Pháo Đài - gần như rõ ràng hoàn toàn.

Họ trườn một cách khó nhọc trong một tiếng đồng hồ, hơi thở của họ đã trở nên gấp gáp. Trung sĩ Stephenson đi đầu tắt đường bằng một lối đi của dê dẫn lên phía trên và vòng quanh đỉnh núi. Ngay khi sắp tới đỉnh núi, họ nhìn thấy cái khe mà TR- 1 đã nhìn thấy từ chiếc camera chĩa xuống và vòng quanh của nó. Tốt hơn là Martin có thể hy vọng - một mỏm đá tự nhiên dài tám fít, sâu bốn fít, và cao hai fit. Bên ngoài mỏm là một gờ đá cách hai fit, trên đó Martin có thể nằm lên với nửa người dưới và bên trong các tảng đá.

Mọi người lấy ra chăn của mình bắt đầu làm cho mình một cái tổ không thể nhìn thấy được từ bên ngoài. Đồ ăn và đồ uống được chứa trong các túi nhỏ gài vào dây lưng, trang thiết bị kỹ thuật của Martin đã sẵn sàng, vũ khí được kiểm tra và để ngay gần. Ngay trước khi mặt trời lên, Martin sử dụng một trong số các thiết bị của mình. Đó là một cái máy phát, nhỏ hơn rất nhiều so với cái máy anh đã dùng ở Baghdad, chỉ bằng kích thước hai bao thuốc lá. Nó có gắn một cục pin Cadmium-niken với đủ năng lượng cho phép anh nhiều thời gian để nói hơn anh cần nhiều.

Tần số đã được cố định, và ở đầu bên kia có một đồng hồ nghe chạy 24 giờ một ngày. Để thu hút sự chú ý anh ấn vào nút chuyển tin theo một chuỗi những tiếng bip và dừng, rồi đợi người bên kia trả lời chuỗi tín hiệu hỏi đó.

Bộ phận thứ ba của bộ máy đó là một cái đĩa không gian, một cái có thể gập vào được giống như cái ở Baghdad nhưng nhỏ hơn. Dù bây giờ anh đã ở xa hơn về phía bắc hơn hồi ở thủ đô Iraq, nhưng đồng thời anh cũng ở cao hơn.

Martin dựng cái đĩa lên, hướng về phía nam, nối pin vào máy và máy vào cái đĩa, rồi ấn nút chuyển tin. l-2-3-4-5; dừng 1 2-3; dừng; 1; dừng, 1.

Năm giây sau, chiếc đài trong tay anh rung lên nhè nhẹ, bốn tiếng bip, bốn tiếng bip, rồi hai. Anh bấm nút chuyển, giữ ngón tay, và nói vào ống nói:

- Nineveh đến đây, Tyre đến đây. Tôi nói lại. Nineveh đến đây, Tyre đến đây.

Anh thả nút bấm và đợi. Chiếc máy vang ra những tiếng l-2-3; dừng; l; dừng; 4. Đã nhận và đã nhận ra.

Martin đậy cái máy vào vỏ chống nước của nó, đeo đôi kính của mình, và co người lại. Sau anh trung sĩ Stephenson và , hạ sĩ Eastman đang bọc kín người vào khe núi dưới tảng đá, nhưng khá là thoải mái. Hai người chìa chăn ra trước mặt anh, tạo thành chỗ để anh đưa ống nhòm vào, bằng cách đó anh có thể nhìn rất rõ.

Khi mặt trời đang lên trên những đỉnh núi Hamreen ; vào buổi sáng ngày 22 tháng Hai, thiếu tá Martin bắt đầu 1 nghiên cứu kiệt tác của người bạn cùng trường Osman Badri , công trình Qu'ala mà không một loại máy nào có thể phát hiện. :

Tại Riyadh, Steve Laing và Simon Paxman đang nhìn chằm chằm vào tờ giấy mà người kỹ sư đưa cho họ đã chạy ra từ trong máy radio.

- Mẹ kiếp, Laing nói run lên vì xúc động - anh ta đang ở trong vùng núi đó rồi.

20 phút sau, tin đã đến được Al Kharz từ văn phòng của tướng Glosson.

Đại uý Don Walker đã trở về căn cứ của mình vào lúc sáng sớm ngày 22, ngủ lại giấc đã mất hồi đêm, và làm việc ngay sau khi mặt trời lên, khi các phi công đã bay các phi vụ trong đêm vẫn còn đang đều đều thở trong giấc ngủ chập chờn. Khoảng trưa, anh đã có một bản kế hoạch để trình lên các sĩ quan thượng cấp của mình. Nó được gửi ngay lập tức tới Riyadh và đựợc thông qua. Trong buổi chiều các loại máy bay, phi hành gia, và các dịch vụ phụ trợ đã được ấn định.

Bản kế hoạch gồm cuộc tấn công gồm bốn máy bay vào một căn cứ quân sự Iraq về phía bắc Baghdad tên là Đông Tikrit, không xa nơi sinh của Saddam Hussein là bao. Có thể là một cuộc tấn công ban đêm với những quả bom 2000 pound có laser hướng lối. Don Walker có thể chỉ huy chiến dịch, với người bay cùng quen thuộc và một đội gồm hai máy bay Eagle khác.

Thật kỳ diệu phi vụ đã có mặt ở Lệnh chiến dịch bay từ Riyadh, mặc dù nó mới chỉ mới được báo 12 giờ và chưa đến ba ngày trước đó.

Ba người nữa cần cho đội bay đã được mang đến ngay lập tức cho mỗi lần làm nhiệm vụ và được chỉ định cho chiến dịch Đông Tikrit, được sẵn sàng vào đêm ngày 22 (có thể) hoặc bất kỳ đêm nào khác họ được lệnh. Cho đến lúc đó, họ vẫn thường trực đợi lệnh.

Bốn chiếc Eagle được chuẩn bị vào lúc hoàng hôn ngày 22 buông xuống, và vào 10 giờ đêm phi vụ được huỷ. Không có phi vụ nào thay thế. Tám người bay được lệnh về nghỉ, trong khi người còn lại của đội bay đi đến đánh xe tăng của Đội vệ binh Cộng hoà ở miền bắc Kuwait. Khi họ quay về vào lúc bình minh ngày 23, bốn người bay chưa phải làm gì đến lượt mình.

Với nhân viên lên kế hoạch phi vụ, một lộ trình đã được lập cho Đông Tikrit có thể cần đến bốn chiếc Eagle bay đến hành lang giữa biên giới Baghdad và Iran về phía đông, với một đường vòng qua 45 độ qua hồ As Sa'diyah và rồi bay thẳng về tây bắc đến Tikrit.

Khi đã uống xong cà phê buổi sáng ở sảnh, Don Walker được triệu tập ra ngoài bởi người chỉ huy đội của mình. Mục tiêu của anh đã có rồi đấy, anh ta nói. Nghĩ một lát đi Đêm nay sẽ mệt đấy.

Khi mặt trời đang lên, Mike Martin bắt đầu nghiên cứu vùng núi qua cái thung lũng dốc. Anh nhìn rất rõ qua ống nhòm những bụi cây cá nhân; lùi lại, anh có thể nhìn thấy một vùng với kích thước bao nhiêu cũng được tuỳ anh muốn. Trong giờ đầu tiên trông nó chẳng khác gì một quả núi thực thụ. Cỏ mọc khắp nơi. Đầy những bụi cây bụi cỏ, ở phần còn lại. Đây đó một đường mòn trên đá trần, đôi khi một chỗ ngoặt, khá dốc. Cũng giống như mọi ngọn đồi trong tầm nhìn của anh, nó có hình dáng không đều đặn. Có vẻ như chẳng có gì đặc biệt hết cả.Đôi khi anh nhìn thật sát mắt vào để cho mắt nghỉ, dựa đầu vào tay một lúc, và lại bắt đầu tiếp tục.

Khoảng giữa buổi sáng, một phần bắt đầu nổi lên. Tại một số phần của ngọn núi có vẻ mọc lên với một tốc độ khác hẳn với những phần khác. Có những nơi cây cỏ dường như quá ư đều đặn, như được trồng thành hàng lối. Nhưng không hề có cửa, trừ phi ở bên kia, không đường sá, không lối đi với vết lốp xe ôtô, không có ống dẫn không khí cho bên trong, không hề có dấu hiệu gì động đậy hết. Chỉ có mặt trời đang lên mới cung cấp được một đầu mối đầu tiên.

Ngay sau 11 giờ, anh nghĩ mình đã bắt gặp được cái gì đó ánh lên trong đám cỏ. Anh lùi cặp kính lại sau đến con đường đó và chỉnh thật rõ. Mặt trời đang ở sau một đám mây. Khi hiện ra: cái đó lại lấp lánh.

Rồi anh nhìn ra: một mảnh dây thép nằm trên cỏ. Anh nháy mắt và thử lại lần nữa. Vẫn thế, nó có kích thước một cái dây dài chừng một foot nằm trong cỏ. Đó là một phần của một cái dây dài, một cái dây có bọc nhựa màu xanh ở bên ngoài, hoặc là một phần nhỏ đã lộ ra có kim loại ở bên trong.

Cái dây là một trong nhiều cái anh liếc thấy, tất cả đều được chôn trong cỏ, đôi khi nổi lên khi gió thổi các thân cỏ từ bên này sang bên kia. Chéo góc từ góc nhìn đối diện, một đoạn dây kim loại dài đang nằm dưới cỏ.

Lúc giữa trưa, anh có thể nhìn thấy rõ hơn. Một phần sườn núi khi sợi dây màu xanh đã lộ ra trên mặt đất; cỏ và các bụi cây được mọc lên những khoảng cách như viên kim cương giữa nhau, mọc qua các lỗ, phủ lên cái dây nằm bên dưới. Rồi anh nhìn thấy ở dưới. Một phần của sườn núi toàn đá, khá rõ, mỗi cái cách cái ở dưới chừng ba inch. Giữa các mảnh nằm ngang được tạo ra là những dòng suối nhỏ phủ đầy cây bụi. Nơi chúng nổi lên, chúng trở thành những đường nằm ngang. Thoạt tiên nó trông không giống như thế, bởi vì chúng có độ nặng khác, nhưng khi anh nghiên cứu độc nhất các thân cây, rõ ràng là chúng quả thực nằm trong các sợi dây. Thiên nhiên không bao giờ cho cái gì mọc thẳng.

Anh lại thử các phần khác của ngọn núi, nhưng không còn thấy thế nữa, rồi bắt đầu lại xa hơn về bên trái. Mãi đến đầu giờ chiều anh mới thấy được.

Các nhà phân tích của Riyadh đã đúng - với một điểm. Bất kỳ ai có ý định đánh giá toàn bộ trung tâm ngọn đồi, họ sẽ thất bại. Bất kỳ ai thực hiện nó sẽ phải xem xét đến ba ngọn đồi, cắt ra các mặt bên trong, và dựng lên những khoảng cách giữa các đỉnh để tạo ra một miệng núi lửa khổng lồ.

Khi nối lại các khoảng cách, người xây dựng đã theo vùng phụ cận của các ngọn đồi thật sự, đi qua các tảng đá thật nằm lùi lại và lên trên, tạo ra những vùng nhỏ, gồm hàng chục nghìn tấn đất đá từ bên trên đổ xuống.

Lớp sơn phủ hẳn là phải nằm sau: các mảnh kim loại màu xanh đã được chôn dưới mặt đất. Cỏ được gieo khắp nơi trên mặt đất, có rễ và lan xa, với các bụi cây và bụi cỏ nằm sâu hơn bị bỏ quên trong các vùng thật sự. Cỏ từ mùa hè trước đã mọc lên, tạo ra mạng lưới rễ cây riêng của mình, và các bụi cỏ đã lan ra mọc lên trên các sợi dây và cỏ đã mọc xuống trên những ngọn đồi nguyên thuỷ.

Trên cái miệng núi lửa, nóc của pháo đài rõ ràng là có hình vòm, thế nên phải gồm đến hàng nghìn túi cỏ. Thậm chí còn có các cái nhân tạo, được vẽ theo màu sắc của những tảng đá thật sự, với những đỉnh nơi mưa có thể rơi xuống. Martin bắt đầu tập trung vào vùng gần điểm nơi đáy của miệng núi lửa có thể là một khoảng không gian kín có mái vòm.Khoảng 50 fit dưới đỉnh vòm anh tìm thấy cái phải tìm.

Anh đã cho ống nhòm của mình trượt đi trượt lại đến 50 lần và không hề nhìn thấy. Đó là một chóp đá, màu ghi nhạt, nhưng có hai đường màu đen chạy qua từ bên này sang bên kia. Càng xem xét các đường kỹ hơn, anh càng phải tự hỏi tại sao ai đó lại có thể lên cao đến thế để vẽ hai cái đường thẳng đi qua một tảng đá mòn.

Một làn gió từ phía đông bắc thổi đến, thổi đến gần mặt anh. Cũng ngọn gió đó làm một trong những đường thẳng chuyển động. Khi gió đã dừng, các đường thẳng cũng thôi không chuyển động nữa. Rồi Martin nhận ra chúng không được vẽ thành những đường thẳng mà thực chất là những đường dây bằng thép, chạy qua tảng đá và đi vào trong cỏ. Các tảng đá nhỏ hơn nằm quanh chu vi của cái lớn, giống như các trạm gác vòng quanh. Tại sao nó lại tròn thế, tại sao lại có dây thép? Cứ cho là có ai đó, ở phía dưới đã ném lên những sợi dây đó - vậy thì tại sao tảng đá lại có thể chuyễn động?

Đến ba giờ rưỡi thì anh nhận ra đó không phải là một tảng đá. Đó là một tấm vải nhựa màu ghi, được những tảng đá chặn xuống: được gắn kết vào một bên sườn khi các sợi dây kim loại bị ném xuống phía dưới vào trong cái hang ngầm bên dưới.

Dưới tấm vải anh dần nhận ra một hình dáng, đều đặn, chu vi 5 fít. Anh nhìn chằm chằm vào một tấm vải, bên dưới đó, mà anh không thể thấy, ba fít cuối của khẩu súng Babylon, từ đó nòng súng dài 200 yard nằm bên trong miệng núi lửa đang chìa lên trời cao. Nó chỉ xuống đông nam về phía Dhahran, cách 750 km.

- Têlêmét, anh thì thầm với các đồng đội đang ở phía dưới.

Anh đưa cái ống nhòm lại và cầm lấy một cái ống khác. Nó giống như một kính thiên văn. Khi đặt nó vào trong mắt, như người ta đã dạy tại Riyadh, anh nhìn thấy ngọn núi và tấm bạt đang giấu khẩu súng, nhưng không hề rõ ràng.

Trên thấu kính là các dấu hiệu hình chữ V, các điểm đều được hướng vào bên trong. Chầm chậm anh quay cái núm trên đỉnh cho đến khi 4 điểm chụm lại thành một. Cái hình chữ thập nằm lại trên tấm bạt.

Bỏ cái hình cầu ra khỏi mắt, anh nhìn vào các số trên dải băng quay. 1080 yard.

- Compa, anh nói. Anh đưa cái têlêmét ra sau và cầm lấy cái la bàn điện tử. Đó không phải là một thiết bị phụ thuộc vào một cái đĩa xoay trong một cái bát cồn, cũng không phải là một cái chỉ cân đối trên một khớp cadăng. Anh để nó lên mắt, nhìn vào tấm bạt qua thung lũng, và ấn nút. Cái la bàn làm việc còn lại, cho anh một toạ độ từ điểm anh đứng đến tấm bạt là 348 độ, 10 phút, và 18 giây.

Máy định vị SARNAV cho anh nhìn thấy điều cuối cùng anh cần - địa điểm chính xác của anh lúc này trên bề mặt trái đất, với diện tích gần nhất 15 yard vuông.

Thật là một công việc tỉ mỉ để cố dựng lên cái đĩa vệ tinh trong một không gian hẹp - mất đến 10 phút. Khi anh gọi Riyadh, câu trả lời đến ngay lập tức. Chầm chậm Martin đọc cho những người nghe ở thủ đô nước Arập Xêut ba loại số liệu: vị trí chính xác của anh, hướng của la bàn từ chỗ anh đến mục tiêu, và tầm bắn. Riyadh có thể tính toán phần còn lại và cung cấp cho phi công các dữ liệu.

Martin quay trở lại mỏm đá, đã được Stephenson thay thế, người có thể canh chừng các toán kiểm tra của quân Iraq, và cố ngủ.

Vào lúc tám giờ rưỡi, trong bóng đêm hoàn toàn, Martin kiểm tra bằng máy phát tia hồng ngoại. Vẻ ngoài nó giống một ngọn đèn lớn với một nút bấm hoạt động theo nguyên tắc pitxtông, nhưng có lỗ nhỏ ở đằng sau để nhìn. Anh lắp pin, hướng về phía Pháo Đài, và nhìn. Toàn bộ ngọn núi đã rõ ràng như thể được tắm trong ánh trăng xanh ngắt. Anh nâng lên đến tấm bạt được nguỵ trang cái nòng của khẩu Babylon và siết chặt nút bấm.

Một làn ánh sáng đơn độc, không thể nhìn thấy đang lướt qua thung lũng, và anh nhìn thấy một đốm đỏ rất nhỏ xuất hiện ở sườn núi. Chuyển sang nhìn ban đêm, anh chĩa đốm đỏ lên tấm bạt và giữ ở đó chừng nửa phút. Hài lòng, anh tắt nó đi và chui lại vào trong chăn.

Bốn chiếc Eagle cất cánh từ Al Kharz vào lúc 10 giờ 45 phút tối và nhanh chóng đạt độ cao 20000 fít. Với ba trong số bốn đội bay, họ chỉ biết đó vẫn chỉ là một phi vụ đánh một căn cứ không quân Iraq thông thường. Mỗi chiếc Eagle đều mang theo những quả bom 2000 pound có laser hướng lối, thêm vào những quả hoả tiễn không đối không để tự vệ.

Tiếp nhiên liệu từ chiếc KC-10 ngay ở nam biên giới lraq là bình thường chẳng có gì to tát. Khi họ đã lên cao, họ bay theo đội hình mở rộng, và chuyến bay, với mật danh Bluejay, đi chủ yếu về hướng nam, đi qua thành phố As-Samawah của Iraq vào lúc 11h14.

Họ bay mà không hề trò chuyện với nhau và cũng không bật đèn, mỗi wizzo đều có thể nhìn thấy rất rõ ràng ba cái còn lại trên ra đa của mình. Đêm trong, và chiếc AWACS trên vùng Vịnh đã cung cấp cho họ như chỉ dẫn "ảnh rõ", có nghĩa là không có máy bay chiến đấu nào của Iraq đang bay trên trời. 11h39, người wizzo của Don Walker thì thầm:

- Điểm rẽ trong năm phút nữa.

Tất cả đều nghe thấy và hiểu họ có thể sẽ quay trở lại trên hồ As Sa'diyah trong năm phút nữa.

Ngay khi họ vừa thực hiện đường lượn 45 độ ra cảng để hướng về đông Tikrit, ba đội còn lại nghe thấy Don Walker nói rất rõ:

- Bluejay Dẫn đầu đội bay... trục trặc động cơ. Tôi sẽ đến RTB. Bluejay, nghe chưa.

Blueiay là Bull Baker đêm đó, dẫn đầu trong số hai máy bay thành phần. Từ đó trở đi, mọi việc bắt đầu diễn ra theo chiều hướng xấu, theo một cung cách thật lệch lạc.

Người bay cùng Walker, Randy "R-2" Roberts ở ngay cạnh máy bay dẫn đầu nhưng có thể thấy không có vấn đề rắc rối nào bề ngoài từ động cơ của Walker, như thể chỉ huy Bluejay hết nhiên liệu và độ cao. Nếu anh ta đi RTB - quay về căn cứ - thì cũng là bình thường khi người bay cùng về theo anh ta, trừ khi vấn đề chỉ nhỏ nhặt thôi. Trục trặc động cơ trên lãnh thổ kẻ thù thì không thể là nhỏ nhặt được.

- Roger này, Baker nhận ra. Rồi họ nghe thấy Walker nói:- Bluejay 2, quay lại đi cùng với Bluejay 3. Tôi nhắc lại, quay lại đi, lệnh đấy. Tiếp tục đến đông Tikrit đi.

Người cùng bay, giật mình, làm theo lệnh và lao lên để gặp lại đội Bluejay. Chỉ huy của họ vẫn tiếp tục hạ thấp độ cao xuống hồ; họ có thể thấy anh trong rađa của mình.

Cùng lúc đó họ nhận ra anh đã làm điều không thể nghĩ được Vì một lý do nào đó - có thể là rối trí vì bị hỏng động cơ – anh không hề nói bằng điện đàm Have-quick có mã hoá, mà "nói thẳng". Đáng ngạc hiên hơn, anh còn nói rõ hẳn đích đến của họ.

Bên ngoài Vịnh, một trung sĩ USAF trẻ tuổi đang bắt được tín hiệu trên màn hình trên chiếc AWACS triệu tập người chỉ huy phi vụ.

- Chúng ta có vấn đề rồi, thưa ngài. Chỉ huy Bluejay gặp rắc rối về động cơ. Anh ta muốn RTB.

- Rồi, đã ghi, người chỉ huy phi vụ nói. Trong hầu hết các máy bay phi công là chỉ huy và chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Trong một chiếc AWACS phi công có trách nhiệm đảm bảo an toàn cho máy bay, nhưng người chỉ huy phi vụ vẫn nghe thấy giọng nói.

- Nhưng thưa ngài, viên trung sĩ phản đối, chỉ huy Bluejay nói thẳng không dùng mật mã. Nói cả mục tiêu rồi. Tôi cho họ RTB hết nhé.

- Không, phi vụ vẫn tiếp tục, người kiểm soát nói. Làm đi.

Viên trung sĩ quay trở lại với màn hình của mình, chẳng hiểu mô tê gì nữa cả. Thật là điên rồ: nếu người Iraq mà nghe thấy đoạn nói chuyện đó, thì các đơn vị phòng không ở đông Tikrit sẽ được báo động khẩn cấp ngay lập tức.

Rồi anh ta lại nghe thấy tiếng Walker.

- Chỉ huy Bluejay, Mayday, Mayday. Cả hai động cơ đều hỏng rồi. Xuống đây.

Anh vẫn nói thẳng không dùng mật mã. Người Iraq, nếu họ nghe thấy, có thể hiểu ngay vấn đề.

Trên thực tế, viên trung sĩ đã đúng - các thông điệp đã được nghe thấy. Tại Đông Tikrit các tay súng đã giương các tấm bạt lên khỏi trận địa chữ A, và các hoả tiễn dò mục tiêu đã đợi sẵn tiếng động cơ đang đến gần. Các đơn vị khác cũng đã được báo động để đến khu vực hồ ngay lập tức để bắt hai giặc lái sắp rơi xuống.

- Thưa ngài, chỉ huy Blueiay rơi rồi. Chúng ta phải RTB tất cả họ thôi.

- Ghi rồi, phản đối, chỉ huy phi vụ nói. Anh ta liếc nhìn vào đồng hồ. Anh ta đã có lệnh. Anh không biết tại sao, nhưng phải tuân theo.

Đội Bluejay còn cách mục tiêu khoảng chín phút, đang tiến đến một trận địa đã được chuẩn bị sẵn. Ba phi công đang lái những chiếc Eagle của mình trong một sự im lặng nghẹt thở.

Trong chiếc AWACS viên trung sĩ vẫn có thể nhìn thấy nhấp nháy của chỉ huy Bluejay, đang lao xuống mặt hồ. Rõ ràng chiếc Eagle đã bị bỏ rơi và có thể nổ tung bất cứ lúc nào.

Bốn phút sau, chỉ huy phi vụ có vẻ như đã đổi ý.

- Đội Bluejay, AWACS gọi Bluejay, RTB. Tôi nhắc lại,

Ba chiếc Eagle, chán nản vì các sự kiện đêm đó, dừng lại không đi nữa và quay đầu trở về căn cứ. Các tay súng Iraq ở Đông Tikrit chờ đợi trong vô vọng suất một giờ đồng hồ.

Tại vùng rìa phía nam của Jebal al Hamreen một trạm nghe khác của Iraq cũng nghe thấy đoạn trao đổi đó. Viên đại tá chỉ huy tại đó đã không chậm trễ báo về cho Đông Tikrit hoặc bất kỳ căn cứ không quân nào khác để tiếp cận máy bay địch. Công việc duy nhất của ông ta là đảm bảo không gì vào được Jebal. vì đội Bluejay quay qua hồ, ông ta bèn báo động; đoạn đường từ hồ đến căn cứ không quân có thể khiến chiếc Eagle dọc theo rìa phía nam của dãy núi. Khi một trong chúng nổ, ông ta vui mừng; khi ba chiếc còn lại bay về phía nam, ông ta thở phào và tắt báo động đi.

Don Walker đã lao xoáy xuống mặt hồ cho đến khi chỉ còn cách 100 fít và gọi Mayday. Khi anh lao xuống nước của As Sa'diyah, anh nhìn vào các dữ liệu mới và quay sang phía bắc về Jebal. Cùng lúc anh đến LANTIRN, với sự giúp đỡ của cái này anh có thể nhìn xuyên qua và nhìn thấy cảnh vật trước mặt mình rõ ràng bởi làn hơi đang bay lên phía dưới cánh máy bay.

Các cột thông tin của màn hình trước mặt anh giờ đây cho anh biết về hành trình và tốc độ, độ cao, và thời gian đến lúc Phóng.

Anh nhẽ ra có thể chuyển sang chế độ lái tự động, cho phép máy tính điều khiển chiếc Eagle, đi qua các vách đá và sườn đồi, trong khi phi công chẳng phải làm gì. Nhưng anh thích tự mình điều khiển hơn. Với sự giúp đỡ của những bức ảnh mới do Hố Đen cung cấp anh đã thực hiện cú bay vòng vượt dãy núi mà chưa từng bao giờ anh thực hiện trên bầu trời. Anh vẫn ở thấp, lướt trên đáy thung lũng, vượt từ hố này sang hố khác, một chặng đường hình zig zag cho phép anh đi được về phía dãy núi có Pháo Đài.

Khi Walker gọi Mayday, điện đàm của Mike Martin loé lên thành những tiếp bíp. Martin chồm người ra trước nhìn xuống phía thung lũng: chỉ hướng về mục tiêu ở tấm bạt cách đó 1000 dặm, ấn nút đỏ chỉ thẳng vào trung tâm mục tiêu, và giữ nguyên nó ở đó.

Những tiếng bíp trong điện đàm có nghĩa là "Bảy phút để ném bom", và kể từ đó Martin không hề di chuyển đốm đỏ lấy một inch.

- Đến giờ rồi đấy, Eastman thì thầm. Tôi cóng hết cả lên rồi đây.

- Không lâu đâu. Stephenson nói, nhét nốt những thứ còn lại vào túi Bergen của mình. Rồi anh sẽ được làm gì anh muốn, Benny ạ.

Chỉ còn điện đàm chưa được gói vào, đã sẵn sàng cho lần chuyển tin tới.

Ngồi ở băng sau của chiếc Eagle, Tim, wizzo có thể xem được cùng những thông tin như phi công của anh. Còn bốn phút nữa để bắn, ba phút rưỡi, ba... những số trên HUD đang đếm ngược khi chiết Eagle lao qua các ngọn núi để đến mục tiêu của mình. Nó lao nhanh đến chỗ Martin và người của anh đã định vị, và mất vài giây để đến được nơi xuyên qua đó họ đang làm việc với các gói.

- 90 giây nữa...

Người của SAS nghe thấy âm thanh động cơ đang đến từ phía nam khi chiếc Eagle ló dạng.

Chiếc máy bay chiến đấu - thả bom đã đến chỗ cuối cùng cách đó ba dặm về phía nam của mục tiêu, ngay khi sự đếm ngược đạt đến số không. Trong bóng tối hai quả bom hình torpedo rời khỏi bệ phóng phía dưới cánh và lao xuống trong vòng vài giây, lao theo quán tính với tốc độ khủng khiếp.

Trong ba ngôi làng nguỵ tạo các Vệ binh Cộng hoà choàng tỉnh khi nghe tiếng động cơ máy bay lao đến không biết từ đâu ngay trên đầu mình, vội vã nhảy vào công sự, và chạy đi lấy vũ khí. Chỉ trong vòng vài giây mái nhà các chuồng gia súc đã được thổi bay để lộ hàng đống hoả tiễn ở bên dưới. Hai quả bom rời khỏi máy bay theo trọng lực bắt đầu rơi xuống. Trước mũi họ, những người chứng kiến run rẩy với đường hướng lối theo những tia không nhìn thấy đến từ đốm đỏ trên mục tiêu của chúng, sự rơi xuống mà, một khi đã vào được, họ không thể đi được nữa.

Mike Martin chùng xuống, chờ đợi, ù tai vì tiếng động cơ nổ thì nghe tiếng cả quả núi rung lên, và theo đúng chấm đỏ rơi thẳng vào khẩu Babylon.

Anh không hề nhìn thấy những quả bom. Một giây anh cố nhìn vào ngọn núi màu xanh nhạt của máy khuếch đại hình ảnh; tiếp đó, anh phải rời mắt đi và che nó bởi vì đêm đã biến thành ngày rực màu đỏ máu.

Hai quả bom lần lượt rơi xuống, ba giây trước khi viên đại tá của đội Vệ binh ở mãi dưới ngọn núi rỗng đến được chỗ bấm nút Phóng. Ông ta không bao giờ có thể làm được việc đó. Nhìn xuyên qua thung lũng mà không mang kính, Martin nhìn thấy toàn bộ Pháo Đài gục xuống trong lửa. Bằng dụng cụ của mình, anh thu lấy hình ảnh một nòng súng dài khủng khiếp, rung lên như một con quái vật, quay tròn và tung lên, vỡ ra, và rơi lả tả xuống thành những mảnh vỡ của cái vòm cho đến miệng núi lửa bên dưới.

- Bắn chuẩn ghê người, trung sĩ Stephenson thì thầm ở dưới tay anh. Đó không phải là một lời tán dương sai. Ngọn lửa màu da cam bắt đầu tàn xuống trong miệng núi lửa vào lúc cú nổ đầu tiên đã xong và một ánh sáng mờ mờ quay trở lại với ngọn núi. Martin bắt đầu gõ những tín hiệu khẩn cấp cho Riyadh.

Don Walker cho chiếc Eagle của mình vụt lên sau khi thả xong bom, lao theo góc 135 độ chếch, nhằm xuống dưới và theo một đường rút thẳng về phía nam. Nhưng vì anh không ở trên vùng đất bằng phẳng và dãy núi dựng lên xung quanh anh, anh phải lấy độ cao nhiều hơn bình thường và có nguy cơ chạm phải các đỉnh.

Chính ngôi làng ở xa Pháo Đài nhất bắn được phát đạn chính xác nhất. Chỉ trong một khoảnh khắc anh đã ở trên họ, trên một cái đầu cánh, quay sang phía nam, khi hai quả hoả tiễn được bắn ra. Những quả tên lửa này không phải là SAM của Nga mà là những quả tốt' nhất mà Iraq có được - quả Roland của Đức-Pháp sản xuất.

Quả đầu tiên chậm chạp, chạy theo chiếc Eagle khi nó lao ra khỏi tầm nhìn của dãy núi. Quả Roland thất bại trong việc rạch ra. Quả thứ hai luồn theo những tảng đá của đỉnh núi và đuổi kịp chiếc máy bay chiến đấu ở thung lũng kế tiếp. Walker cảm thấy một cú sốc thật mạnh khi quả hoả tiễn chạm vào thân máy bay của anh, phá hủy gần như toàn bộ động cơ bên sườn.

Chiếc Eagle lao vụt qua bầu trời, các hệ thống tinh vi của nó trong đó, nhiên liệu cháy thành một cái đuôi sao chổi ở phía sau. Walker thử lại các điều khiển, một món pút đinh sũng nước. Thế là xong, máy bay của anh đang chết ở dưới anh, mọi thứ đèn báo động lửa đều bật hết lên, và 30 tấn kim loại cháy rừng rực sắp rơi xuống đất từ trên trời.

- Nhảy, nhảy...

Chiếc dù tự động buông ra trong một khoảnh khắc trước khi những chỗ ngồi nhảy dù đến, bắn tung vào màn đêm, lấy lại cân bằng. Các cảm ứng của họ ngay lập tức cho biết họ đã quá chậm và bị thổi tung khỏi những sợi dây da có chứa phi công vào trong chỗ ngồi của mình, rõ ràng là thất bại trong việc nhảy dù.

Walker trước đây chưa từng thế này bao giờ. Cảm giác sốc bao trùm lấy anh trong một lúc, làm anh mất khả năng quyết định. Thật may mắn những người sản xuất máy bay đã nghĩ đến điều này. Khi cái ghế kim loại nặng nề rơi xuống, dù liền tự bung ra và tung ra. Mê man, Walker thấy mình đã ở trong màn đêm, đang chao đảo trên một thung lũng mà anh không thể nhìn thấy.

Anh rơi không lâu - anh đã bay ở quá thấp. Trong vài giây mặt đất đã hiện ra và anh chạm xuống, và anh nảy lên, lăn tròn, lăn, tay cào vào dù. Rồi cái dù bay mất, vào trong thung lũng. và anh nằm thẳng cẳng trên mặt đất. Anh bò dậy.

- Tim, anh gọi, Tim, cậu có sao không?

Anh bắt đầu chạy trên thung lũng, tìm một cái dù khác, chắc chắn cả hai đều rơi vào cùng một địa điểm.

Điều này thì anh đúng. Cả hai người đã rơi vào hai thung lung nằm ở phía nam mục tiêu của họ. Trên bầu trời về phía bắc anh có thể nhìn thấy một màu đỏ nhờ nhờ hiện ra. Sau ba phút anh rơi vào cái gì đó và khuỵu gối xuống. Anh nghĩ đó là một tảng đá, nhưng trong ánh sáng mờ tỏ anh nhìn thấy đó là một trong những cái ghế phóng ra. Có thể là anh ta đó chăng, phải Tim không? Anh chạy đến để nhìn.

Walker tìm thấy người wizzo của mình. Chàng trai trẻ đã được phóng ra một cách hoàn hảo, nhưng quả hoả tiễn đã nổ làm gẫy chỗ nối làm anh bắn tung đi. Anh đã hạ xuống đất trên sườn núi dính chặt vào ghế, dù anh ta trùm lên mặt đất ở bên cạnh.

Chấn động của vụ rơi cuối cùng đã làm anh thoát được cái ghế, nhưng không ai có thể sống sót sau một cú sốc mạnh đến thế.

Tim Nathanson năm ngửa trên thung lũng, một phần cơ thể bị gẫy nát, khuôn mặt vẫn nằm trong cái mũ bảo hiểm của mình. Walker gỡ mặt nạ ra, quay cái mác, và chạy về phía núi, bắt đầu chạy, nước mắt chảy tràn trên mặt. Anh chạy cho đến lúc không thể chạy được nữa, tìm thấy một hẻm núi và lăn vào đó để nghỉ.

Hai phút sau các vụ nổ ở Pháo Đài, Martin đã có liên lạc được với Riyadh. Anh gửi loạt bíp của mình và rồi bức thông điệp nó có nghĩa:

- Barrabas đây, tôi nói lại, Barrabas đây.

Ba người SAS đứng gần sát máy điện đàm, gói nó lại, đeo những túi Bergen lên vai, và bắt đầu ra khỏi dãy núi - thật nhanh. Có thế có các đội tuần tra ở chỗ trước đây không hề có, và cũng không phải tìm họ - chưa phải lúc người Iraq có thể nghĩ tại sao cuộc ném bom vừa rồi lại chính xác được đến vậy - mà là tìm phi công Mỹ rơi xuống đất.

Trung sĩ Stephenson nhìn theo một mảnh máy bay bốc cháy khi nó bay qua đầu họ, và hướng rơi của nó. Cho rằng có thể có một lúc sau khi rơi, các phi công, liệu họ còn sống sót. thì vẫn phải ở đâu đó trước mặt họ. Những người lính SAS di chuyền nhanh, ngay trước những người thuộc bộ lạc Ubaidi của đội Vệ binh, những người đang toả ra từ những ngôi làng để lao lên dãy núi.

20 phút sau, Mike Martin và hai người lính SAS còn lại đã tìm thấy xác chết của người sĩ quan quản lý hệ thống vũ khí. Họ không thể làm gì được nữa, nên bỏ đi.

10 phút sau nữa, họ nghe thấy phía sau những loạt đạn súng cá nhân. Nó tiếp tục thêm một lúc. Al-Ubaidi cũng đã tìm thấy cái xác và trong cơn điên giận họ đã xả súng vào nó. Hành động cũng được dành cho hướng đi của họ. Những người SAS lại càng vội vã hơn.

Don Walker gần như không cảm thấy lưỡi dao của trung sĩ Stephenson gí vào cổ họng mình. Nó rất nhẹ như một dải lụa. Nhưng anh nhìn lên và thấy khuôn mặt một người đàn ông đang đứng phía trên mình. Trời tối và lạnh; có một khẩu súng ở bên tay phải anh đang chĩa thẳng vào ngực Walker; và người đàn ông mặt quân phục một đại uý trong đội Vệ binh Cộng hoà, phiên hiệu Núi. Rồi người đàn ông nói:

- Chọn không đúng lúc để xuống uống trà rồi. Liệu chúng ta còn có thể thoát khỏi đây không?

Đêm đó tướng Norman Schwarzkopf đang ngồi một mình trong dãy nhà của mình ở tầng bốn toà nhà Bộ Quốc phòng Arập Xêut.

Đó không phải là nơi ông thường xuyên trôi qua thời gian của mình trong bảy tháng qua; phần lớn thời gian đó ông đi thăm các đơn vị chiến đấu khi có thể, hoặc xuống căn cứ ngầm với nhân viên và những người lập kế hoạch của mình. Nhưng cái văn phòng rộng rãi và tiện nghi là nơi ông đến khi muốn được ở một mình.

Đêm đó ông ngồi ở bàn của mình, bên cạnh là cái điện thoại màu đỏ nối ông trực tiếp đến Washington một cách tuyệt đối an toàn, và chờ đợi. 10 phút trước khi trời sáng ngày 24 tháng Hai, chiếc điện thoại khác réo chuông.

- Tướng Schwarzkopf phải không? âm sắc Anh.

- Phải, tôi đây. - Tôi có tin cho ngài đây.

- Nói đi.

- Đó là: Barrabas đây, thưa ngài. Barrabas đây.

- Cám ơn, vị tổng tư lệnh nói, và đặt máy xuống. Vào lúc bốn giờ sáng hôm đó, cuộc tấn công trên bộ đã mở màn.
 
Chương 23


Ba người SAS nặng nhọc bước đi suốt phần còn lại của đêm. Họ tiến lên phía trước và đi ngược lên khiến Don Walker, người không phải đeo hành lý và nghĩ mình đang ở tình trạng sức khoẻ tốt, trở nên kiệt sức và thở hổn hển. Đôi lúc anh tưởng như sắp khuỵu xuống, biết rằng mình không thể đi xa hơn, rằng thậm chí chết còn dễ chịu hơn là cứ đau từng bắp thịt một cách dữ dội thế này. Khi điều đó xảy ra, anh có thể cảm thấy hai bàn tay thép, một đặt dưới cánh tay, và nghe thấy giọng vùng Cockney của trung sĩ Stephenson bên tai:

- Đi tiếp đi nào, anh bạn. Chỉ còn một chút nữa thôi. Có thấy cái chóp núi kia không? Chúng ta có thể nghỉ ngơi ở sườn bên kia đấy.

Nhưng họ không bao giờ làm được điều đó. Thay vì đi về hướng nam đến vùng đồi thấp Jebal và Hamreen, nơi dường như họ có thể gặp phải lính của đội Vệ binh Cộng hoà với xe cơ giới, Mike Martin đi thẳng về phía đông đến dãy đồi cao chạy ra biên giới Iraq. Đó là một chiến thuật buộc các đội tuần tra của những người miền núi Al-Ubaidi phải đi theo họ.

Ngay trước khi trời sáng, nhìn lại đằng sau và xuống phía dưới. Martin nhìn thấy một nhóm sáu tên, đang ở gần hơn bọn còn lại. vẫn đang leo lên và đang tiến lại gần. Khi đội Vệ binh Cộng hoà đến được mỏm đá tiếp đó, họ thấy một xác người đang gục trên mặt đất, đầu quay về hướng khác.

Nhảy vào sau các tảng đá, những người của bộ lạc tản ra, tấn công vào người nước ngoài từ đằng sau. Cái xác nảy lên. Sáu người trong đội tuần tra Vệ binh hất cái che ra và chạy lên phía trước.

Đã quá muộn, họ thấy cái xác là một cái túi Bergen, có nguỵ trang, ở trên là cái mũ bảo hiểm của Walker. Ba khẩu Heckler và Koch MP5 giảm thanh quất sụm họ khi họ đang đi vòng quanh "cái xác".

Phía trên thành phố Khanaqin, cuối cùng Martin cũng cho nghỉ một lúc và chuyển tin về Riyadh. Stephenson và Eastman xem đồng hồ, nhìn về phía tây, từ đó mọi nhóm quân địch đều phải đi đến.

Martin nói cho Riaydh đơn giản là họ có ba người của SAS đang rời đi và họ có một phi công Mỹ đi một mình cùng với họ. Trong trường hợp thông tin này bị nghe được, nó có thể làm lộ vị trí của họ. Nên họ phải rảo bước nhanh hơn nữa. Ờ cao trên dãy núi, gần biên giới, họ tìm thấy một chỗ trú trong một túp lều đá, được các mục đồng trong vùng sử dụng vào mùa hè khi lùa lũ cừu lên vùng cỏ cao hơn.

Tại đó, cảnh giới chế độ luân phiên, họ chờ đợi trong suốt bốn ngày của cuộc tấn công trên bộ, khi ở xa vùng phía nam các xe tăng của Liên quân và lực lượng trên không tấn công thẳng vào Quân đội Iraq trong cuộc chiến chớp nhoáng dài có 90 tiếng đồng hồ và lan sang đến Kuwait.

Cũng vào ngày hôm đó, ngày đầu tiên của cuộc tấn công trên bộ, một người lính đơn độc vào Iraq từ phía tây. Anh ta là một người Israel của đội du kích Sayeret Matkal, được lựa chọn do nói tiếng Arập hoàn hảo.

Một chiếc máy bay Israel, được bảo vệ bởi các xe tăng tầm xa và là máy bay chuyên chở của quân đội Jordan, bay ra từ Negev và đi dọc suốt vùng sa mạc Jordan để người đó lại trong Iraq, về phía nam của điểm vượt Ruweishid. Để lại anh ta ở đó, nó quay trở lại và bay về qua Jordan và về Israel, không hề bị hay biết.

Cũng giống Martin, người lính này mang theo đồ đạc nhẹ, lái mô tô với lốp xe chuyên dụng đi trên sa mạc. Mặc dù đã được cải trang để trông già đi, nhàu nhĩ, bẩn thỉu, thô kệch, và quê mùa, động cơ của nó rõ ràng là cực tốt, và nó có rất nhiều xăng dự trữ trong hai bình treo ở bánh sau. Người lính đi theo con đường chính về phía đông và khi hoàng hôn thì đến được Baghdad. Quan tâm của thượng cấp anh ta cho an toàn của anh ta là quá thừa. Với máy telegraphe xịn, những người Baghdad đã biết quân đội của mình bị quét sạch trong các sa mạc về phía nam Iraq và Kuwait. Khoảng đến tối ngày thứ nhất, AMAM đã dựng chiến luỹ và cố thủ ở đó.

Giờ đây khi các cuộc oanh tạc đã chấm dứt - không máy bay chiến đấu nào của Liên quân được sử dụng nữa - người dân Baghdad đã có thể đi lại tự do, công khai nói về việc người Mỹ và người Anh sắp tới để thổi bay Saddam Hussein. Đó là niềm phấn khích kéo dài có đến một tuần, cho đến khi chùng xuống khi Liên quân không thấy tới, và sự lộng hành của AMAM vân tiếp tục.

Trạm xe bus trung tâm đã đầy lính, phần lớn đều mặc đồ đơn giản, bỏ đi quân phục mặc khi ở sa mạc. Đó là những người từ sa mạc đã thoát khỏi các đội hành quyết đợi đằng sau đường chiến tuyến. Họ rao bán những khẩu Kalashnikov với giá một Vé xe bus về làng. Hồi đầu tuần, giá những khẩu súng trường đó 35 dinar một chiếc; bốn ngày sau. giá chỉ còn 17 dinar.

Người Israel đặt các thông điệp giống hệt nhau ở cả ba chỗ, đánh dấu phấn ở ba nơi, đi xe mô tô về hướng tây, nhập vào đoàn người tị nạn cũng đang đi cùng hướng đó.

Anh ta mất thêm một ngày nữa mới ra được đến biên giới. Tại đó anh ta cắt thẳng về phía nam của con đường chính để đi vào sa mạc trống trải, đi sang Jordan, đào chiếc đèn hiệu được giấu kín của mình và sử dụng nó. Những tiếng bíp bíp vang lên ngay lập tức bởi một chiếc máy bay Israel đang bay vòng vòng trên Negev, và chiếc trực thăng quay trở lại điểm hẹn để mang người đột nhập đi.

Anh ta đã không ngủ trong suốt 50 tiếng đồng hồ đó và ăn rất ít, nhưng đã hoàn thành được nhiệm vụ và trở về nhà một cách an toàn.

Vào ngày thứ ba của cuộc tấn công trên bộ, Edith Hardenberg quay trở về bàn làm việc của mình ở ngân hàng Winkler vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Buổi sáng hôm trước, ngay trước khi cô sắp rời chỗ làm, cô đã nhận được một cú điện thoại.

Người ở đầu dây bên kia, nói giọng Đức hoàn hảo với âm sắc Salzburg, tự giới thiệu mình là hàng xóm của mẹ cô. Ông ta nói với cô rằng bà Hardenberg đã bị ngã cầu thang rất nặng sau khi bị trượt chân và đang ở tình trạng xấu. Ngay lập tức cô cố gọi điện cho mẹ mình nhưng lúc nào máy cũng bận. Cuối cùng sốt ruột không chịu nổi, cô đã gọi cho trạm điện thoại Salzburg, nơi này cho cô biết điện thoại chắc là đã bị hỏng.

Gọi điện cho ngân hàng bảo là cô không thể đến được, cô lái xe thẳng về Salzburg trong trời tuyết giá lạnh, đến được nơi khi sắp buổi trưa. Mẹ cô, hoàn toàn mạnh khoẻ, ngạc nhiên khi nhìn thấy cô.

Không hề có chuyện bị ngã, cũng không bị thương. Tệ hơn nữa, thằng khốn nào đó đã cắt dây điện thoại của bà ở bên ngoài ngôi nhà.

Khi Edith quay trở về Vienna, đã quá muộn để đến chỗ làm.

Khi cô xuất hiện ở bàn làm việc của mình sáng hôm sau, cô thấy Wolfgang Gemuetlich đang ở tâm trạng còn ảo não hơn cả cô ông ta trách cứ cô rất nặng nề vì đã vắng mặt ngày hôm trước và tức giận khi nghe lời giải thích của cô.

Lý do khiến ông ta ở tình trạng đó vừa mới xảy đến. Giữa buổi sáng ngày hôm trước, một thanh niên đã xuất hiện ở ngân hàng và nằng nặc đòi gặp ông. Vị khách cho biết tên mình là Aziz và là con trai người chủ của một tài khoản lớn có đánh số. Cha anh ta, người Arập giải thích, không thể đến được nhưng muốn con trai mình thay mặt mình giải quyết công việc.

Khi đó, Aziz chìa giấy tờ chứng nhận một cách đầy đủ và hoàn hảo rằng anh ta là sứ giả của cha mình, với toàn quyền xử lý tài khoản được đánh số đó. Ngài Gemuetlich đã kiểm tra các chứng từ giao quyền sử dụng đến từng kẽ nhỏ nhất, nhưng không hề có khe hở nào. Ông chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận làm theo.

Chàng trai nhấn mạnh rằng ý muốn của cha anh ta là đóng toàn bộ tài khoản để chuyển đến chỗ khác. Cô có hiểu được không hả Hardenberg, chỉ hai ngày sau khi có một tài sản hơn ba triệu đôla, đã phải chi ra tổng cộng hơn mười triệu đôla.

Edith Hardenberg lắng nghe câu chuyện của Gemuetlich một cách bình thản, rồi hỏi về người khách. Phải, cô đã được cho biết, tên anh ta là Karim. Giờ đây khi nghe đến cái tên, một đốm hồng gợn lên trên ngón tay nhỏ bé ở một bàn tay, và, thực tế một vết sẹo dài trên ngực. Liệu ông ta đã gặm nhấm xong mất mát của mình chưa, viên chủ nhà băng đã có thể tự hỏi câu hỏi chính xác như thế bởi người thư ký về một người cô chưa từng bao giờ gặp.

Dĩ nhiên ông cũng biết, Gemutlich thú nhận, rằng người nắm tài khoản hẳn là người Arập, nhưng ông ta không có ý tưởng gì người đàn ông là từ Iraq đến và có một đứa con.

Sau khi làm việc, Edith Hardenberg về nhà và bắt đầu lau rửa căn hộ của mình. Cô chăm chú làm công việc đó trong suốt nhiều giờ liền. Cô lấy hai cái hộp to bằng các tông để làm thùng rác mang đi hàng trăm yard và chôn xuống đất. Một cái chứa các thứ đồ mỹ phẩm, nước hoa, sữa tắm, và; cái hộp kia là đủ loại đồ lót của phụ nữ. Rồi cô lại quay về phòng tiếp tục dọn dẹp.

Những người hàng xóm sau đó nói lại là cô đã bật nhạc đến tối và cho đến mãi đêm - không phải những bản Mozart và Strauss quen thuộc mà là nhạc Verdi, đặc biệt là một số khúc từ bản Nabucco. Một người hàng xóm tò mò hơn cả nhận ra đoạn đó là "Đồng ca Slave" mà cô bật đi bật lại.

Sáng sớm nhạc ngừng lại, và cô đi ra xe ôtô với hai thứ đồ lấy từ trong bếp nhà mình.

Một nhân viên kế toán đã nghỉ hưu, đang dắt chó đi dạo trong công viên Prater vào lúc bảy giờ sáng đã tìm thấy cô. Ông để chiếc Hauptallee lại để cho con chó của mình đi làm việc của nó trong công viên đoạn xa đường hơn cả.

Cô mặc bộ đồ màu ghi bó sát người, tóc xoá ra sau đầu, đôi tất dày ở chân, và đôi giày cứng đơ. Sợi dây ròng qua một cành sồi đã không phản bội cô, và hai bậc thang nhà bếp cũng vậy.

Cô khá bình thản khi đã chết, hai tay để dọc người và những ngón chân duỗi xuống dưới. Vẫn luôn luôn là cô Edith Hardenberg rất mực chỉn chu.

28 tháng Hai là ngày cuối cùng của cuộc tấn công trên bộ. Trong các sa mạc Iraq phía tây Kuwait, quân đội Iraq đã thất bại hoàn toàn và rệu rã. Về phía nam thành phố, các sư đoàn của đội Vệ binh Cộng hoà trước đóng ở Kuwait ngày 2 tháng Tám không còn tồn tại nữa. Vào ngày đó các lực lượng vũ trang đã chiếm được thành phố, bắn vào mọi thứ có thể cháy và tìm cách phá huỷ mọi thứ, để lại cho phía bắc một hàng dài xe tải, xe tăng, van, ôtô.

Đoàn xe bị nhìn thấy hoàn toàn khi đường cao tốc phía bắc cắt qua Multa Ridge. Những chiếc Eagle và Jaguar, Tomcat và Hornet, Tornado và Thunderbolt, Phantom và Apache bổ nhào xuống đoàn xe.

Khi đoạn đầu của đoàn xe bị phá huỷ và làm con đường tắc nghẽn, phần còn lại không thể chạy về trước cũng như lùi lại, và vì chỗ giao ở Ridge không thể rời con đường. Nhiều người trong đoàn xe đã chết và những người còn lại đầu hàng. Khi chiều xuống, các lực lượng đầu tiên của Arập đã tiến vào Kuwait để giải phóng đất nước này.

Tối đó, Mike Martin lại liên lạc với Riyadh và nghe tin tức Anh cho biết về vị trí hiện tại của mình và về một bình địa bằng phẳng gần đó.

Những người lính SAS và Walker đã hết lương thực, phải đun tuyết để lấy cái uống, và chịu lạnh khủng khiếp, không dám đốt lửa vì sợ làm lộ vị trí của mình. Chiến tranh đã kết thúc, nhưng các đội tuần tra miền núi không biết gì về việc đó, hoặc là không quan tâm.

Ngay sau khi mặt trời lên, hai chiếc máy bay trực thăng tầm xa Blackhawk của Sư đoàn không quân số 101 của Mỹ đã tới đón họ. Họ đến từ căn cứ của 101, sâu 50 dặm trong lãnh thổ Iraq, chuyến tấn công lớn nhất bằng máy bay trực thăng trong lịch sử. Khoảng cách từ biên giới A rập Xêut đến là rất xa thậm chí từ căn cứ trên sông Euphrates, đó là một khoảng cách xa để đến được dãy núi gần Khanaqin.

Đó là lý do tại sao có hai cái trong số chúng, cái thứ hai còn có nhiều nhiên liệu hơn dành cho chuyến bay về. Để đảm bảo an toàn, tám chiếc Eagle bay ngay phía trên để bảo vệ trong khi lấy người ở quãng trống. Don Walker nhảy vọt lên.

- Hey, người của tôi đấy?, anh hét lên, Khi hai chiếc Blackhawk bay về, những chiếc Eagle còn yểm hộ cho đến khi qua được biên giới.

Họ tạm biệt nhau trên một bãi cát rộng, xung quanh là tàn tích của một đội quân bại trận gần biên giới Xêut-Iraq. Những cánh quạt sắc lẻm của một chiếc Blackhawk làm tung bụi mù mịt trước khi chở Don Walker về Dhahran và một chuyến bay trở về Al Kharz. Một chiếc Puma của Anh đã đứng ở đằng xa, để chở người SAS về căn cứ quân sự bí mật của họ.

Tối đó, trong một ngôi nhà miền quê tiện nghi ở vùng hạ Sussex, tiến sĩ Terry Martin được cho biết anh trai mình đã ở đâu kể từ tháng Mười và rằng giờ đây anh đã thoát được khỏi Iraq và đã an toàn ở Arập Xêut.

Martin gần như phát ốm vì lo lắng, và người của SIS đưa anh quay trở về London, nơi anh lại tiếp tục cuộc sống của mình với tư cách một giảng viên của trường Khoa học phương Đông và châu Phi.

Hai ngày sau, ngày 3 tháng Ba, các chỉ huy các quân đội trong Liên quân gặp nhau trong một ngôi lều tại một căn cứ không quân Iraq trống không nhỏ gọi là Safwan với hai vị tướng từ Baghdad để thương nghị về sự đầu hàng. Những người phát ngôn duy nhất, bên phía Liên quân là tướng Norman Schwarzkopf và Hoàng thân Khaled bin Sultan. Bên cạnh vị tướng Mỹ là chỉ huy quân Anh, tướng Peter de la Billière.

Cả hai vị sĩ quan phương Tây ngày hôm đó đều tin rằng chỉ hai vị tướng Iraq sẽ đến Safwan. Quả thực, họ đã ở Mạng lưới an ninh của Mỹ đã được thắt lại cực kỳ chặt chẽ, để loại bỏ khả năng bất kỳ vụ ám sát nào có thể xảy ra trong túp lều nơi các vị tướng các bên đối nghịch đang gặp gỡ.

Toàn bộ một sư đoàn quân Mỹ đã bao vây kín khu sân bay, hướng mặt ra ngoài.

Không giống như các vị chỉ huy Liên quân đến từ phía nam bằng máy bay trực thăng, bên Iraq đã được lệnh đi xe đến chỗ nối ở đường phía bắc sân bay. Tại đó họ để xe ôtô của mình lại để chuyển sang một số những xe cá nhân chống đạn được gọi là humvee và do lái xe Mỹ lái đi nốt hai dặm cuối cùng đến sân bay vào một đám những túp lều nơi mọi người đã chờ.

10 phút sau khi chào hỏi các vị tướng đi vào túp lều thương nghị với phiên dịch của mình, một chiếc limousin Mercedes đi từ đường Basra xuống đến chỗ nối. Trạm kiểm soát tại đó do một đại uý của Sư Bảy Mỹ chỉ huy, mọi sĩ quan cao cấp hơn đều đã vào trong sân bay. Chiếc limousin không được dự tính trước đã được chặn lại ngay lập tức.

Trên ghế sau của xe là vị tướng Iraq thứ ba, chỉ là một trung tướng, mang một chiếc cặp tài liệu màu đen. Cả ông ta lẫn tài xế của ông ta đều không nói được tiếng Anh, và viên đại uý thì không nói tiếng Arập. Anh ta bèn gọi điện đàm vào trong sân bay để chờ lệnh khi một chiếc xe jeep do một đại tá Mỹ lái và mang cái khác để cho người đưa tin. Người lái xe mặc quân phục của Các lực lượng đặc biệt Mũ nồi xanh; người khách có dấu hiệu của G2, tức tình báo quân sự.

Cả hai người trình ID của mình cho đại uý, người kiểm tra thẻ, nhận ra họ, và đứng nghiêm chào.

- Tốt rồi, đại uý. Chúng tôi đã dự tính trước có thằng cha này, vị đại tá Mũ nồi xanh nói. Có vẻ như bị chậm vì nổ lốp xe thì phải.

- Chính thế đấy, viên sĩ quan G2 nói, chỉ vào chiếc cặp tài liệu của vị trung tướng Iraq đã ngồi không hề hiểu gì ở một bên xe. Nó chứa tên của tất cả các POW của chúng ta, kể cả các phi công mất tích của chúng ta. Norman Bão tố muốn cái đó, và được rồi đây.

Không còn thừa chiếc humvee nào. Viên đại tá Mũ nồi xanh mời người Iraq lên xe jeep. Viên đại uý bối rối. Anh chẳng biết gì hết về vị tướng Iraq thứ ba này. Điều cuối cùng anh cần là gọi thêm về tướng Schwarzkopf về danh sách những phi công Mỹ mất tích. Viên đại uý nhún vai và chỉ cho người lái xe Iraq đỗ xe vào chung với họ.

Trên đường vào sân bay chiếc xe jeep đi qua giữa hai hàng xe quân sự của Mỹ xếp hàng dài suốt một dặm. Rồi đến một đoạn đường trống, trước khi đội máy bay trực thăng Apache vòng quanh khu vực đang diễn ra cuộc họp.

Thoát khỏi những chiếc xe tăng, viên đại tá G2 quay lại người Iraq và nói với tiếng Arập rất tốt:

- Dưới chỗ ngồi của ông ấy, ông ta nói. Đừng ra khỏi chiếc xe jeep, mà cho họ lên - nhanh lên.

Người Iraq mặc bộ quân phục màu xanh của nước ông ta. Bộ quần áo được nhét dưới chỗ ngồi của ông ta là đồng phục của một đại tá của Lực lượng đặc biệt Arập Xêut. ông nhanh chóng thay giày, áo và mũ.

Ngay trước khi những chiếc Apache lăn bánh trên đường băng, chiếc xe jeep lao đi vào sa mạc, tách khỏi sân bay, và đi về phía nam. Tại một nơi rất xa Safwan, chiếc xe lên lại con đường chính dẫn tới Kuwait, cách đó 20 dặm.

Những chiếc xe tăng Mỹ ở khắp nơi, hướng ra bên ngoài. Công việc của chúng là ngăn chặn mọi sự đột nhập. Những người chỉ huy của họ, đứng ở trên, nhìn xuống một trong số những chiếc xe jeep của mình đang chở hai đại tá và một sĩ quan Xêut đang đi ra khỏi vùng chu vi và về vùng đất được bảo vệ điều này chẳng hề khiến họ bận tâm.

Chiếc xe jeep mất gần một giờ đồng hồ mới tới được sân bay Kuwait, rồi một bãi bị tàn phá, do người Iraq và vẫn còn một làn khói từ lửa dầu mỏ lan ra khắp vương quốc Chuyến đi xa đến vậy là vì để tránh cuộc tàn sát trên đường Multa Ridge, nó đã bị chia ra qua sa mạc phía tây của thành phố.

Năm dặm cách sân bay, viên đại tá G2 lấy một chiếc điện thoại di động từ ngăn kéo và ấn vào đó một loạt những tiếp bíp. Từ sân bay một chiếc máy bay tiến lại gần họ. Tháp điều khiển của sân bay đang được người Mỹ giám sát Chiếc máy bay đang tới gần là một chiếc HS-125 của Anh. Không chỉ có thế, đó là chuyên cơ dành cho chỉ huy quân Anh, tướng de la Billière. Điều đó hẳn là: nó có đủ quyền để đi. Người kiểm soát không lưu cho nó đi.

Chiếc HS- 125 đứng ở một điểm hơi tách ra, nơi nó gặp chiếc xe jeep của Mỹ. Cửa mở ra, thang được thả xuống, và ba người đàn ông bước vào máy bay.

- Granby 1, chuẩn bị cất cánh, người giám sát không lưu nghe thấy vậy. Anh ta đang điều khiển một chiếc Hercules của Canada đang tới với thuốc men cho bệnh viện trên máy bay.

Anh ta muốn nói: Mẹ kiếp sao mà nhanh thế - các anh định làm cái quỷ quái gì thế?

- Xin lỗi, tháp Kuwait, giọng nói vang lên rất chính xác, của Không lực Hoàng gia. Người kiểm soát từng nghe RAF trước đây, và nó cũng vang lên y hệt như thế.

- Tháp Kuwait, chúng tôi cho lên máy bay một đại tá của Lực lượng đặc biệt Xêut, người của Hoàng thân Khaled. Tướng Schwarzkopf ra lệnh đưa ông ta đi ngay lập tức, nên ngài Peter đã cho mượn máy bay riêng của ông ấy. Chuẩn bị cho cất cánh nhanh đi, anh bạn.

Trong hai hơi thở viên phi công người Anh đã nêu tên một vị tướng, một vị hoàng thân và một vị hiệp sĩ được tước phong. Còn người kiểm soát không lưu chỉ là một trung sĩ chỉ biết làm tốt công việc của mình. Anh ta có công việc tốt trong Không lực Hoa Kỳ. Từ chối không cho một viên đại tá Xêut của Hoàng thân bị ốm đi chữa bệnh theo lời yêu cầu của một vị tướng ở trong máy bay của chỉ huy quân

Anh có thể làm sự nghiệp tiêu tùng.

- Granby 1, cất cánh đi, anh ta nói.

Chiếc HS-125 cất cánh bay đi khỏi Kuwait, nhưng thay vì hướng tới Riyadh, nơi có những bệnh viện tốt nhất ở Trung Đông, nó lại đi về hướng tây dọc theo biên giới phía bắc của vương quốc.

Chiếc AWACS lúc nào cũng cảnh giác nhìn thấy nó và lên tiếng gọi, đòi biết đích đến của nó. Vào lúc đó giọng Anh pukka vang lên trả lời giải thích họ đang bay tới căn cứ của Anh ở Akritiri tại đảo Cyprus để mang đến đó mộtngười bạn thân và một sĩ quan thân thiết của tướng de la Billière bị thương nặng bởi mìn. Người chỉ huy phi vụ của AWACS chẳng biết gì về chuyện đó, nhưng chẳng thể nào cứ căn vặn mãi được. Chẳng nhẽ phải bắn hạ chiếc máy bay này sao?

15 phút sau, chiếc HS-125 rời khỏi không phận Xêut và đi qua biên giới sang đến Jordan.

Người Iraq ngồi ở hàng ghế sau của máy bay không hề hay biết gì về điều đó mà chỉ bị ấn tượng bởi tính hiệu quả của người Anh và người Mỹ. Ông ta đã nghi ngờ khi nhận được thông điệp gần nhất từ những người phương Tây trả lương cho mình, nhưng sau khi suy nghĩ ông ta cho rằng khôn ngoan hơn cả là rời đi còn hơn là chờ đợi thêm nữa và phải tự làm việc đó mà không có sự giúp đỡ nào. Kế hoạch được lên cho ông ta trong thông điệp đó đã được thực hiện như trong một giấc mơ.

Một trong hai phi công trong bộ quân phục nhiệt đới của RAF trở lại bàn thứ hai của máy bay và thì thầm bằng tiếng Anh với viên đại tá G2 của Mỹ, người đang nhăn mặt.

- Chào mừng ông đến với tự do, thưa tướng quân, anh ta nói bằng tiếng Arập với người khách của mình. Chúng ta đã ở ngoài không phận của Arập Xêut. Ông sẽ được lên một chiếc máy bay để đến Mỹ sớm sủa thôi. Nhân đây tôi có cái này cho ông.

Anh ta rút một mẩu giấy từ túi áo ngực ra và chìa nó cho người lraq, người đọc nó một cách thoải mái. Đó là một con số cộng đơn giản: tổng cộng số tiền ông ta đang có trong tài khoản tại Vienna, giờ đây đã lên hơn 10 triệu đôla.

Nhân viên Mũ nồi xanh nhìn vào một ống nhòm và tạo ra hàng loạt ly và một loạt chai rượu Scotch nhỏ. Anh ta rót một cái chai vào ly và chuyển xung quanh.

- Nào, bạn của tôi, uống vì sự an lành và thịnh vượng đi

Anh ta uống; người Mỹ kia cũng uống. Người Iraq mỉm cười và uống.

- Nghỉ ngơi một chút đi, viên đại tá G2 nói bằng tiếng Arập. Chúng ta sẽ đến đó trong chưa đầy một giờ nữa.

Tiếp sau đó, họ để ông ta lại một mình. ông ta ngửa người ra sau lên tấm nệm của chỗ ngồi của mình và để đầu óc thả trôi về 20 tuần vừa qua đã làm nên cả một gia sản cho ông ta đã phải rất liều lĩnh, nhưng họ đã thanh toán sòng phẳng. Ông ta nhớ lại cái ngày ông ngồi trong phòng họp của Cung điện Tổng thống đó và nghe Rais tuyên bố rằng cuối cùng Iraq đã có được, trong thời gian không lâu nữa, quả bom hạt nhân của riêng mình. Cái đó đã như thể là một cú sốc mạnh, và đã làm mất mọi liên lạc sau đó của ông ta với người Mỹ.

Rồi họ đột nhiên trở lại, trông nghiêm trọng hơn bao giờ, hỏi nơi có thứ vũ khí đó. Ông ta đã có ý tưởng không tồi, nhưng với năm triệu đôla, rõ ràng đã đến lúc làm mọi việc có thể. Rồi mọi việc cũng dễ dàng hơn là ông ta từng nghe nhiều.

Kỹ sư chế tạo hạt nhân, tiến sĩ Salah Siddiqi, đã từng được đưa đến các phố Baghdad và bị tố cáo, giữa biển của chính những người của ông ta, là phản bội để lộ chỗ giấu quả bom. Khăng khăng cãi về sự trong sạch của mình, ông đã cho biết địa điểm Al Qubai và sự nguỵ trang với nghĩa trang xe hơi. Làm cách nào nhà khoa học đó lại có thể biết mình sẽ bị thẩm vấn ba ngày trước khi ném bom, chứ không phải hai ngày sau đó?

Cú sốc tiếp theo của Jericho là biết được có hai viên phi công người Anh đã bị rơi. Điều này chưa được dự kiến trước. ông ta đã cần hết mức để biết được liệu, trong khi bị hỏi, có hở ra chút đầu mối nào về chuyện thông tin đã tới tay Liên quân như thế nào không.

Nỗi mừng rỡ của ông ta, khi rõ ràng họ chẳng biết gì về, chuyện đó và họ chỉ biết chỗ đó là một kho thuốc nổ cho pháo binh, đã không sống được lâu, khi Rais quả quyết phải có một tên phản bội. Từ đó tiến sĩ Siddiqi, bị treo lên bên dưới Nhà tập, đã phải phun ra, điều mà ông với một cú tiêm quá liều vào tim, đã làm biến đi.

Những kỷ lục thời gian về cuộc hỏi cung đó, từ ba ngày trước khi ném bom đến hai ngày sau đó, đã hoàn toàn thay đổi

Nhưng cú sốc lớn hơn cả là biết rằng Liên quân đã trượt, rằng quả bom đã được chuyển đến một địa điểm được giấu kín nào đó tên là Qu'ala. Pháo đài nào? Ở đâu?

Một vận may đã đến khi kỹ sư nguyên tử trước khi chết đã hé lộ rằng người thực hiện công trình nguỵ trang là một đại tá nào đó tên là Osman Badri của Công binh, nhưng khi kiểm tra hồ sơ ông thấy viên sĩ quan trẻ là một người ủng hộ Tổng thống cuồng nhiệt. Làm thế nào để làm thay đổi cách nhìn đó bây giờ?

Câu trả lời nằm ở vụ bắt giữ và những trách nhiệm gây nên cái chết khủng khiếp của người cha thân yêu của anh ta.

Sau đó, Badri thất vọng đã rơi vào tay Jericho, trong cuộc gặp ở băng ghế sau ôtô sau đám tang.

Người đàn ông tên là Jericho, có biệt danh là Mu'azib Đồ tể, cảm thấy an tâm với cuộc sống. Một sự thoả mãn lan truyền trong người ông ta, hiệu ứng có lẽ của mấy ngày vừa qua cộng dồn lại. Ông ta thử động cựa nhưng thấy mình không thể nhúc nhích. Hai sĩ quan người Mỹ đang nhìn xuống ông, nói bằng thứ ngôn ngữ ông ta không thể hiểu nhưng biết là không phải tiếng Anh. ông cố trả lời nhưng miệng ông không thể thốt ra lời nào.

Chiếc HS-125 quay về hướng tây nam, băng qua bờ biển Jordan và hạ xuống độ cao 10.000 fít. Trên Vịnh một dòng thác không khí tràn ngập ca bin, thậm chí dù chiếc máy bay đã giảm tốc độ gần như là đứng im.

Hai viên sĩ quan dựng ông ta dậy, không thể chống cự, thẳng đuỗn và không làm nổi gì, cố nói điều gì đó mà không có khả năng. Trên mặt nước xanh ngắt phía nam Aqaba, tướng Omar Khatib rơi từ trên máy bay và lao thẳng xuống dòng nước, nơi không thấy có động tĩnh gì nữa cả. Lũ cá mập làm nốt phần còn lại.

Chiếc HS-125 quay về hướng bắc, bay qua Eilat sau khi đã quay trở lại không phận Israel, cuối cùng đậu xuống Sde Dov, sân bay quân sự nằm ở bắc Tel Aviv. Tại đó hai phi công cởi bỏ bộ quân phục lính Anh và viên đại tá là bộ quân phục Mỹ.

Cả bốn quay về với cấp bậc Israel thực sự của mình. Chiếc máy bay sử dụng được chuyển về Không lực Hoàng gia của mình, được sơn lại như trước, và trở lại tàu sân bay sayan ở đảo Cyprus nơi đã lấy nó đi.

Tiền từ Vienna đầu tiên đã được chuyển đến ngân hàng Kanoo ở Bahrain, rồi đến một ngân hàng khác ở Mỹ. Một phần được chuyển lại ngân hàng Hapoalim ở Tel Aviv và quay về cho chính phủ Israel; chính đó là số tiền Israel đã trả cho Jericho cho đến khi chuyển hắn sang cho CIA. Cán cân thanh toán, trên 8 triệu đôla, được chuyển sang cho Mossad dưới cái tên "Quỹ Vui vẻ".

Năm ngày sau khi chiến tranh kết thúc, hai chiếc máy bay trực thăng tầm xa khác của Mỹ trở lại các thung lũng vùng núi Hamreen. Họ chẳng hề xin phép gì. Xác của viên sĩ quan điều khiển hệ thống vũ khí của chiếc Eagle, thiếu uý Tim Nathanson, không bao giờ được tìm thấy. Đội Vệ binh đã bắn tung nó lên với những khẩu súng tự động của mình, và lũ chó rừng, cáo, quạ, và diều hâu đã làm nốt phần còn lại.

Cho đến bây giờ xương cốt hẳn vẫn nằm đâu đó trong những thung lũng lạnh lẽo đó, không tới 100 dặm đến nơi cha ông anh ta trước đây từng tới và bị dòng Babylon cuốn đi. Cha anh ta nhận được tin ở Washington, đọc kinh kaddish cho anh, và than thở một mình trong ngôi nhà ở Georgetown.

Còn xác của hạ sĩ Kevin North đã được đào lên. Khi những chiếc Blackhawk dừng lại, những bàn tay Anh chìa ra nâng hài cốt người hạ sĩ lên, được cho vào một túi đựng xác và trước tiên được mang về Riyadh rồi sau đó về nhà ở Anh trên chiếc Hercules chở hàng.

Khoảng giữa tháng Tư một buổi lễ ngắn gọn được tổ chức tại đại bản doanh của SAS ngoại ô Hereford.

Không có nghĩa trang nào dành riêng cho người của SAS; không nghĩa trang nào nhận xác của họ. Nhiều người trong số họ đã nằm lại tại các chiến địa ngoại quốc mà tên tuổi phần lớn không ai biết.

Một số nằm lại dưới cát sa mạc Libya, nơi họ cảm thấy trận chiến Rommel năm 1941 và 1942. Những người khác ở các đảo Hy Lạp, dãy núi Abruzzi, Jura, và Vosges. Họ nằm rải rác ở Malaysia và Borneo, ở Yemen, Muscat và Oman, trong những khu rừng nhiệt đới và dòng nước lạnh giá và dưới nước lạnh của Bắc Băng Dương ngoài Falkland.

Khi xác họ được đào lên, họ được mang trở về nước Anh, nhưng thường xuyên họ được chuyển về cho gia đình để mai táng. Ngay cả khi đó, sẽ không có tấm bia mộ nào nêu tên SAS, mà là phiên đội của một đơn vị độc đáo từ đó người lính đến SAS - Bộ binh, Lính dù, Vệ binh, hay bất cứ gì khác.

Chỉ có một công trình. Giữa Stirling Lines ở Hereford có một tháp không cao bằng đá, được xây bằng gỗ và sơn màu sôcôla nâu. Trên đỉnh một chiếc đồng hồ chỉ thời gian, nên nó được gọi một cách đơn giản là Tháp Đồng hồ.

Quanh căn cứ của họ là những tảng đồng cứng, trên đó có ghi tên và địa điểm nơi họ chết. Tháng Tư đó, có năm cái tên mới được viết lên. Một bị lính Iraq bắn khi bị bắt, hai bị giết khi đấu súng khi cố vượt qua biên giới Xêut. Người thứ tư chết vì bệnh thương hàn sau hai ngày trong quần áo mỏng và thời tiết lạnh giá. Người thứ năm là hạ sĩ Kevin North.

Nhiều chỉ huy trước đây của các phiên đội đã đến vào cái ngày mưa gió đó. John Simpson đến, và Viscount Johnny Slim và ngài Peter. Giám đốc Lực lượng đặc biệt, J.P. Lovat cũng ở đó và đại tá Bruce Craig, khi đó là CO. Và thiếu tá Mike Martin cùng một số ít người khác.

Bởi vì giờ đây họ đã ở nhà, những người còn phục vụ có thể hiếm khi được nhìn thấy đội mũ bêrê với biểu tượng chiếc dao găm và khẩu hiệu "Chiến thắng dành cho người dũng cảm".

Đó không phải một buổi lễ kéo dài. Các sĩ quan và những người khác nhìn công trình bên ngoài, những cái tên mới được khắc lên bằng chữ đậm và màu trắng lên đồng. Họ chào và đì, quay về với những toà nhà lộn xộn.

Ngay sau đó, Mike Martin đi đến chiếc ôtô nhỏ đang đỗ ở trong công viên của mình, lái qua cánh cổng có lính gác, và quay trở về ngôi nhà ven biển anh có trong một ngôi làng trên dãy đồi Herefordshire.

Trong khi lái xe anh nghĩ về mọi chuyện đã xảy ra trên đường phố và sa mạc Kuwait; và trên bầu trời phía trên; và trong những thung lũng và chợ Baghdad; và dãy đồi Hamreen. Vì là một người kín đáo, chí ít anh cũng hài lòng về một điểm: Đó là không ai có thể biết được hết cả.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom