Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện Của Tui À!

Diễn Đàn Truyện Của Tui À là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Có Giọt Mưa Xuân Sà Vào Lòng Sông

Quyển 1 - Chương 20


Thứ mùi tanh mốc meo lởn vởn trong căn phòng tối tăm chật hẹp, hàng song sắt đen của ô cửa sổ bị gặm nhấm suốt bao năm bởi mưa dầm và gió sương, đã két thành những đốm gỉ loang lổ trên lan can, gió rít, những mảnh vụn bị thổi bay, rơi xuống, chất chồng trên bệ cửa sổ nhỏ xíu bẩn thỉu, phủ một màu xám tro. Đây là một căn phòng tối hướng Nam, hơi lạnh ẩm ướt dễ thấm vào xương cốt, Hà Sĩ Văn kéo chặt cổ áo, dựa lưng vào chiếc ghế lạnh lẽo cứng đơ, ông ta miễn cưỡng ngẩng đầu lên, nhìn trần nhà giăng đầy mạng nhện, gò má vốn gầy nhom giờ lại hơi sưng, đôi mắt như một con thú lẩn mình trong hang động tối om, lộ vẻ phấn khích chẳng mấy phù hợp với khí sắc mệt mỏi.

Ông ta biết rõ thứ gì đang chờ đợi mình, ông ta đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng rồi. Từ rất lâu trước đây Hà Sĩ Văn đã biết trước sẽ có ngày này, đây chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.

Ông ta cởi đồng hồ, dây đeo bạc phát ra tiếng vang khe khẽ, ngón tay lạnh băng khẽ nhấn xuống, nắp đồng hồ bật mở. Ông ta lại dùng ngón tay khẽ gẩy phần khe bên viền mép đồng hồ. Đồng hồ có hai lớp, phần lõm vào bên trong là một tấm ảnh.

Ông ta ngơ ngác nhìn thiếu nữ lộng lẫy trong ảnh, nhìn dáng vẻ dịu dàng của cô, nhìn tóc mai đen óng, con ngươi trong veo không vương bụi trần, và cả nụ cười bên khóe môi cô.

Dòng suy nghĩ của ông ta bay bổng, như mây như khói, ông ta nhớ lại lần đầu gặp người con gái ấy, cô nhận lầm người, lúc biết được thân phận thật của mình, cô ngượng ngùng trốn sau cột trụ sơn đỏ ngoài hành lang, khi người làm đang nói chuyện với ông ta, cô lại tò mò ló đầu ra, đôi mắt đen trắng rõ ràng mang theo ý cười. Làm sao ông ta quên được gương mặt xinh đẹp tuyệt trần ấy, hệt như một bông thủy tiên bên bờ sông. Trong màn sương, trong ánh sáng, những đường nét dịu dàng của cô là sóng nước ngày xuân…  Nhưng chớp mắt thôi, tất cả đã hóa gió dữ mưa rền, giông tố tới quá nhanh, đóa hoa đẹp đẽ ấy vừa được hái xuống, cành lá còn vương sắc cầu vồng tươi mới sống động, ấy vậy mà chớp mắt đã bị mây đen xâu xé cắn nuốt.

“Cô Vinh!” Ông ta nghe được tiếng mình run rẩy, trong nỗi thương hại thoáng còn có cả lòng tham không che giấu nổi, ông ta đặt bàn tay nóng rẫy của mình lên vòng eo mảnh mai như thân trúc của cô.

“Chỉ có anh…” Cô nhìn ông ta chăm chú, nở nụ cười buồn, “chỉ có anh mới nhớ tôi họ Vinh. Quản gia Hà, Vinh gia bại từ lâu rồi, tôi không còn là người họ Vinh nữa, tôi không xứng với họ Vinh. Mẹ tôi không rõ tung tích, anh cả đột tử nơi biên cương, đứa cháu ngoại duy nhất thì mắc bệnh lao, không có tiền chạy chữa, quản gia Hà, anh còn nhớ không, tiền thuốc men của nó là anh cho tôi vay. Cảm ơn anh, cảm ơn anh.”

Cô khom người thật thấp trước ông ta, lại như mượn đà để nhào vào lòng ông. Ông ta như bị điện giật, ngờ rằng cơ thể mềm mại ấm áp trong lồng ngực không phải là thật.

“Vắt chanh bỏ vỏ, qua cầu rút ván, tôi đã sớm không còn tác dụng gì với cái nhà này rồi.” Cô áp bàn tay ông ta lên gò má loang lổ nước mắt của mình, “Trừ con ra, tôi chẳng còn gì cả, người nhà họ Phan không ai coi tôi ra gì.”

“Không, không phải đâu. Trong lòng tôi cô là tốt nhất. Tôi… tôi…” Cổ họng ông ta như nghẹn lại, vội vã muốn bộc bạch tiếng lòng.

Cô lại ngắt lời ông ta: “Tôi chỉ là một quân cờ thôi.” Cô nở nụ cười lạnh lẽo, “Khi mới tới Quảng Châu, tôi còn là một cô bé, các anh trai thường đưa tôi tới quận Lệ Loan chơi, ở đó có một chị bán cháo hải sản rất xinh, tóc đen dài, cháo chị ấy nấu vừa thơm vừa ngon mắt, tôi thích ăn cháo chị ấy nấu, nhúng thêm bánh quẩy vào cháo trắng, cắn một cái, tiếng giòn rụm khe khẽ vang lên, thật là êm tai! Rồi có một mùa hè, không biết vì sao mà tôi không còn nhìn thấy chị bán cháo nữa, về sau nghe các anh tôi bảo chị ấy đang làm trên thuyền hoa, tôi nói muốn tìm chị ấy, các anh bèn nghiêm giọng trách mắng tôi, quở tôi không nên có ý nghĩ như vậy. Tôi không biết thuyền hoa là nơi như thế nào, cứ thế cho đến một ngày, cuối cùng tôi cũng bước lên thuyền hoa. Nào châm vàng châm ngọc, tóc gài minh châu, lầu lầu gác gác, cột giường ngà voi; đài cơ, thuyền hoa, chuyển tử phòng, từ Bắc chí Nam cũng chỉ là đổi cách xưng hô, chứ có khác gì nhà thổ? Chẳng phải đó cũng chỉ là nơi đám đàn ông các anh làm ăn, đùa bỡn đàn bà đấy thôi? Tôi chỉ là một ả gái điếm, chồng tôi bán tôi đi vì tiền! Tôi hận hắn!” Cô vịn vai ông ta, khóc nức nở.

“Em đừng đau lòng, có tôi ở đây, tôi sẽ đối xử tốt với em.” Ông ta lấy dũng khí, khẽ chạm môi vào gương mặt trơn mềm như tơ lụa của cô.

“Con tôi vô tội,” cô ngước mắt nhìn ông ta, “quản gia Hà, anh muốn tôi làm gì cũng được, nhưng hãy hứa với tôi, bảo vệ Cảnh Sâm thay tôi. Xin anh hãy hứa với tôi.”

“Tôi hứa.” Ông ta không nén được tình cảm cuộn trào trong lồng ngực, bèn ghì chặt lấy cô, ông ta là người duy nhất nghe được âm thanh của dục vọng sụp đổ, những điều cấm đoán đã bị phá tan, hàng rào được dựng lên bao năm chẳng chịu nổi một cú chạm, ông ta đắm chìm trong thứ ảo mộng mình khao khát từ lâu, đến mức sau đó khi bắt gặp đứa trẻ ngoài nhà, ông ta xem nhẹ cả nỗi thù hận trong mắt cậu, thậm chí ông ta còn tưởng tượng cô là vợ ông ta, còn đứa bé ấy, chính là đứa con trai mình yêu thương.

Cô đi quá sớm.

Ông ta dời tất cả những quyến luyến với cô lên đứa bé ấy. Ông ta che giấu thân thế bí mật của đứa bé ấy, ông ta cũng lợi dụng thân phận tế nhị tại nhà họ Phan của đứa trẻ để tích cóp từng khoản tiền kếch xù. Tất cả đều lấy danh nghĩa của đứa bé này, tất cả đều nhân danh nghĩa của tình yêu, nhưng tất cả cũng chỉ vì lòng tư lợi nhớp nhúa xấu xa.

Nhưng Phan Thịnh Đường là ai chứ?

Họ đã bên nhau mấy chục năm rồi, chẳng lẽ Hà Sĩ Văn không biết ông ta là loại người gì?

Một kẻ nỡ chắp tay tặng người vợ mình thương yêu cho kẻ thù, không nề hà dấn thân vào cuộc vui xấu xí chốn thương trường, khi hèn mọn, ông ta luồn cúi nịnh bợ, lúc đắc ý, ông ta nham hiểm độc địa. Bà Phan vô tội, cô tiểu thư con quan duyên dáng lộng lẫy, sống trong nhung lụa ấy đã tận mắt chứng kiến một đám du côn đập vỡ đầu Trịnh Đình Quan – người tình của mình dưới sự sắp đặt của ông ta.

Mà thậm chí đến cuối cùng, Phan Thịnh Đường cũng không tha cho cô.

Hà Sĩ Văn nhìn tấm ảnh, ông ta nghiến răng ken két, khớp xương trên tay gồ lên, nỗi oán độc được hình thành sau nhiều năm nhẫn nhịn chờ thời cơ đã như vết bỏng nóng rẫy trong lòng ông ta, đến tận lúc này, ông ta vẫn ngoan cố ôm suy nghĩ rằng bảo vệ đứa bé ấy chính là bảo vệ chính mình, bảo vệ phần đời an ổn giàu sang còn lại của bản thân.

Cánh cửa sắt kêu lên cái “két”, một người tiến vào, bước thẳng tới dưới ánh đèn, ngồi xuống cách ông ta chừng mấy bước.

Hà Sĩ Văn đóng đồng hồ lại, nhìn thẳng về phía trước.

Phan Thịnh Đường mặc bộ vest đen, áo quần gọn gàng lịch thiệp, ánh đèn nhợt nhạt soi rọi ánh mắt sắc bén của ông ta, nhưng cũng không bỏ qua thoáng mệt mỏi ẩn chứa bên trong. Kẻ này từng là một con người xuất chúng, chỉ tiếc sự bạc bẽo và lạnh lùng đã khiến trái tim ông ta vặn vẹo méo mó, chúng cũng in hằn lên cả diện mạo ông ta, giờ ông ta đã có dáng vẻ của một người già, năm tháng vô tình giáng lên người ông ta những vết tích không sao xóa nhòa.

“Thừa Châu,” vẫn là danh xưng như khi xưa, nghe sao thân thiết ôn hòa, nhưng Phan Thịnh Đường không ngồi xuống, gương mặt cũng lạnh tanh như tiền, “tôi biết ông tìm người đốt căn nhà ở Quảng Châu, diễn một màn hí đổi trắng thay đen. Tôi cũng biết ông có qua lại với Hồng Toàn Căn, ông rõ kế hoạch của họ từ sớm. Tôi còn biết kẻ tham gia vụ bắt cóc không chỉ có ông mà còn có cả Tú Thành, hai người ôm ý đồ riêng, nhưng chẳng ai đạt được mục đích.”

“Không,” Hà Sĩ Văn nhướng mày khinh thường, “cậu cả không mảy may thương tổn, cậu hai lại mất một cái tai. Còn ông… lẹm đi 500.000 hiện kim.”

Thịnh Đường day mi tâm theo thói quen, như thể không nghe được lời của Hà Sĩ Văn, ông ta nói tiếp: “Tôi biết rõ những chuyện ông làm suốt mấy năm nay, ông rất giống tôi, yêu tiền như tính mạng. Kho hàng, hiệu lụa ông mở ở Hán Khẩu, Vũ Xương, An Dương, Tùy Châu, Vạn Châu, địa sản ông có, cả chuyện ông biết cứ thứ Bảy hàng tuần Phổ Huệ sẽ lại kiểm tra sổ sách một lần, bèn đút lót cả quản lý kho bạc để ông ta giúp ông biển thủ tiền trong két, mang tiền đi kinh doanh, cho vay, mở ngân hàng tư nhân, những chuyện này tôi đều biết cả.”

Phan Thịnh Đường liếc Hà Sĩ Văn bằng ánh mắt cười cợt châm chọc, rồi lại chợt cúi đầu chỉnh trang áo quần: “Tôi còn biết rõ ông để anh em mình làm đại diện cho Ngân hàng Đạo Thăng, ông rót cho ông ta rất nhiều tiền, nhưng hai anh em ông lại bị một gã lãnh sự người Mỹ tên Conley lừa, kho hàng Hiệu buôn Tây Thụy Phong của ông ta chỉ là một cái kho rỗng, ông ta ký khống vô số những phiếu kho dỡ hàng, chuyên lừa các ngân hàng chi vượt định mức, còn ông thì bị lừa tròn chằn chặn 300.000 hiện kim, đúng chứ?”

“Ông muốn kiếm tiền, trước nay tôi chưa từng cản ông. Ông dùng tiền công trong kho, tôi cũng nhắm một mắt mở một mắt. Nhưng ông…” Phan Thịnh Đường chỉ thẳng gương mặt suy sụp của Hà Sĩ Văn, “Ông đã vượt qua giới hạn mà một con chó nên vâng theo.”

“Ông đang nói đến Mẫn Huyên sao?” Hà Sĩ Văn nở nụ cười thách thức, “Ý ông chỉ khoảng thời gian khi ông vứt bỏ cô ấy, con chó này đã thay ông làm tròn trách nhiệm người chồng sao?”

Vừa dứt lời, cả hai đều rõ họ đã hoàn toàn trở mặt với nhau rồi, bọn họ mặt đối mặt, mắt đối mắt, mỗi động tác đều nhằm trúng vào điểm yếu hại của đối phương.

Hai mắt Phan Thịnh Đường đỏ như máu, ông ta khom người, chống tay lên bàn, Hà Sĩ Văn tưởng ông ta định đánh mình, nhưng ông ta không làm vậy, đến nụ cười cũng chẳng mảy may suy suyển, giọng điệu lại càng ôn hòa: “Thừa Châu à, ông xem kìa, từng này tuổi rồi mà đầu óc ông vẫn đơn giản quá thể. Ông còn dám nhắc đến cô ấy sao? Ông có biết mình đã tự tay giết chết đứa con của cô ấy với ông không?”

Gương mặt của Hà Sĩ Văn dần được bao phủ bởi tầng sương rét lạnh.

Phan Thịnh Đường sung sướng cất lời: “Ông tưởng cô ấy uống thuốc để phá đứa con của Trịnh Đình Quan sao? Ông nhầm rồi. Khoảng thấy gian đó cô ấy không gặp Trịnh Đình Quan, tôi cố tình dặn bác sĩ nói sai ngày, tôi rõ mồn một đứa con trong bụng cô ấy là của ai. Cô ấy diễn kịch với tôi, ông cũng diễn kịch với tôi, đương nhiên tôi phải phối hợp với hai người, làm nên một màn kịch hay rồi. Tiếc rằng màn kịch này chỉ có mình tôi xem là thỏa nguyện. Ha ha, ha ha. Tôi còn có thể tưởng tượng được vẻ mặt của ông khi đút thuốc cho cô ấy nữa đấy.”

“Mày…” Hà Sĩ Văn chợt túm chặt lấy cổ áo Thịnh Đường, ông ta thét, “Thằng súc sinh! Mày giết cô ấy, mày đã giết cô ấy!”

“Người phản bội tôi đáng có kết cục như vậy!”

“Cô ấy không phải bội mày, cô ấy chưa từng phản bội mày. Tự tay mày bán cô ấy cho Trịnh Đình Quan!”

“Tao bán thân thể chứ không phải trái tim cô ấy!”

“Đồ súc sinh! Lão điên khùng!”

“Súc sinh?” Phan Thịnh Đường nắm lấy bàn tay đang siết lấy cổ mình của Hà Sĩ Văn, ông ta cười: “Chúng ta cũng như nhau cả thôi. Hà Sĩ Văn, vốn tôi đã định tha cho ông, nhưng ông lại chẳng biết phân tấc là gì. Tôi sẽ không giết ông, tôi muốn để ông mất tất cả, tôi muốn ông cô quạnh không ai ở bên, trở nên còn nghèo túng hơn, ti tiện hơn lúc ban đầu khi ông ở bên tôi.”

“Tao phải giết mày!” Hà Sĩ Văn thét lên, bóp chặt lấy cổ Phan Thịnh Đường, nhưng chẳng mấy chốc đã có người lao vào phòng tách bọn họ ra, những cú đấm giáng thẳng xuống người ông ta như mưa, ông ta bị đạp ngã xuống đất, đầu đập vào góc bàn cứng rắn, máu tươi tuôn ra, trước lúc mất đi ý thức ông ta vẫn còn mừng thầm, nghĩ: Chỉ cần có Cảnh Sâm, chỉ cần có Cảnh Sâm, mình sẽ không thể thua. A Sâm sẽ tìm mình, tình cảm bao nhiêu năm giữa mình và A Sâm sâu đậm là thế, mình đối xử với thằng bé như con ruột, thằng bé sẽ tìm mình, sẽ cứu mình…

Từ đây, ông ta ôm niềm hy vọng ấy để sống trong chuỗi ngày chờ đợi vô vọng.

Ông ta sẽ không bao giờ được nhìn thấy A Sâm “của mình” nữa.
 
Quyển 1 - Chương 21


“Làm gì mà lâu thế?” Mạnh Tử Chiêu cau mày tỏ ý bất mãn, “Tôi không thích chờ người khác đâu đấy.”

Cảnh Ninh không nói gì, cô phủ chiếc khăn tay lên thềm đá của bãi tập rồi ngồi xuống, vùi mặt vào đầu gối.

“Sao cậu lại khóc nữa thế?” Mạnh Tử Chiêu bất lực, “Tôi có trêu cậu đâu. Tôi đứng phơi nắng đợi cậu bao lâu, trách có một tí thôi mà, tôi…”

“Im đi, tôi không khóc.” Giọng cô ồm ồm.

Cậu lập tức im lặng, chỉ bĩu môi hừ một tiếng, nhưng không dằn lòng được lại phải lo lắng đưa mắt nhìn cô.

Rõ ràng bọn họ đã hẹn sẽ gặp nhau ở lớp Kinh tế cuối cấp, đây là hoạt động duy nhất mà các học sinh nam và học sinh nữ có thể tham gia cùng nhau. Với môn học này, giáo viên sẽ dành phân nửa thời gian để truyền thụ những kiến thức thương mại đơn giản nhất cho học sinh, nửa thời gian còn lại dành cho học sinh thực hành, địa điểm là ở ngoài sân tập, bọn họ sẽ trao đổi hàng hóa với nhau, trình bày thiết kế và phát minh của mình, rồi tiến hành đàm phán giá cả. Trong bữa tiệc sinh nhật của Cảnh Ninh tại nhà họ Phan, Mạnh Tử Chiêu có lén bảo cô rằng: “Sáng thứ Sáu tiết cuối của bọn mình là tiết Kinh tế, tan lớp xong cậu qua đó sớm một chút, tôi có thứ này tặng cậu hay lắm, nhất định phải tới đấy.”

Cảnh Ninh biết mình tới muộn, phiên chợ nhỏ đã tàn, trên sân chỉ còn chừng chục học sinh, có người đang dọn những chậu cây nhỏ đi, có người thì cất những tờ báo phủ trên thềm đá, vốn cô đã mang mấy món đồ chơi nho nhỏ theo để trao đổi, nhưng lại tới muộn mất rồi.

Vì cô và Phương Kỳ Kỳ nói chuyện trong giờ tiếng Pháp, bị cô giáo phạt đứng, cô giáo bảo giọng Cảnh Ninh lớn hơn Phương Kỳ Kỳ nên chỉ phạt mình cô bé. Cảnh Ninh tủi thân, đứng trong góc lớp bật khóc trước mặt tất cả các bạn học, các bạn cười cô, nhưng cô không thèm quan tâm, cô chỉ muốn trút hết nỗi buồn trong lòng mình ra, cô nhớ tới anh hai thân mang thương tật và anh cả bị mình oán trách vô cớ mà càng thấy buồn bã hơn, cứ thế nước mắt lã chã. Cô giáo rất lúng túng, bèn bảo cô về chỗ, nhưng cô không chịu, cứ bướng bỉnh đứng đó, khóc tới khi tan lớp mới thôi.

Cô giáo là một phụ nữ người Pháp, các học sinh đều gọi cô là “cô Ô”, thật ra cô Ô là người rất hiền lành, chỉ là khi lên lớp lại vô cùng nghiêm khắc. Cô Ô rất thích Cảnh Ninh, vì cô bé đàn dương cầm giỏi, thành tích môn tiếng Pháp cũng rất tốt, nhưng càng như vậy, yêu cầu của cô với Cảnh Ninh lại càng khắt khe. Cô không ngờ nỗi khổ tâm của mình lại khiến cô bé này có phản ứng quá khích tới vậy.

Phương Kỳ Kỳ lén nói cho cô Ô hay: “Bạn ấy đang buồn cô ạ, nhà bạn ấy vừa xảy ra chuyện không may.” Nhưng Phương Kỳ Kỳ không nói rõ sự tình, chỉ bảo anh trai Cảnh Ninh bị thương, rồi khi cô Ô kinh ngạc gặng hỏi, cô bé lại phóng đại thêm, “Anh trai bạn ấy sắp chết rồi, ôi, đúng là bất hạnh! Cảnh Ninh thật đáng thương!”

Cô Ô cảm thấy vô cùng thương xót, bèn bước tới trước mặt cô bé đang khóc thút thít, lau nước mắt cho Cảnh Ninh, ôm cô vào lòng dịu dàng an ủi, còn nắm tay dắt cô bé vào phòng làm việc, rót cho cô bé một ly nước.

“Cô sẽ cầu nguyện cho anh trai em.” Cô Ô dịu dàng nhìn Cảnh Ninh, “Chúa sẽ giúp gia đình em vượt qua bất hạnh.”

“Cảm ơn cô!” Cảnh Ninh ngẩng đầu, nhìn cô Ô bằng đôi mắt lấp lánh, niềm hy vọng dần dấy lên trong lòng cô bé, “Em có thể cầu nguyện cùng cô không ạ?”

“Được chứ.”

Cô Ô nắm tay Cảnh Ninh, bước tới trước bức tranh Chúa Jesus, khẽ cất tiếng: “Em hãy nói cho Chúa nghe những điều tốt đẹp em mong sẽ trở thành hiện thực đi.”

Cảnh Ninh nhắm mắt, cô bé muốn cầu nguyện thật thành khẩn, nhưng lòng dạ lại rối như tơ vò.

“Cậu có tin vào Chúa không?” Cảnh Ninh ngẩng đầu, hỏi cậu bé đứng cạnh mình.

Mạnh Tử Chiêu do dự: “Cũng… tin.”

“Cậu cũng không phải con chiên à?”

Mạnh Tử Chiêu lắc đầu.

Bọn họ đều học trường Công giáo, nhưng lại không phải tín đồ Cơ Đốc. Cảnh Ninh nghĩ chắc lời cầu nguyện ban nãy của mình sẽ không linh, lại đâm ra sầu não.

“Này,” cậu khẽ dùng mũi chân chạm vào giày cô, “sao cậu không hỏi tôi định tặng cậu cái gì?”

“Cái gì?” Cô hỏi qua loa.

Mặt Tử Chiêu thoáng ửng hồng. Thật ra cậu đã làm một cái thuyền gỗ nhỏ, đuôi thuyền chạm rỗng, rồi dùng dây chun buộc mái chèo vào phần trống, chỉ cần nới lỏng dây chun một chút là mái chèo sẽ chuyển động, thuyền có thể đi lại trên mặt nước, hoàn toàn không cần lực tác động. Nhưng dù gì đây cũng chỉ là món đồ trẻ con được chế tác đơn giản, lúc biểu diễn trên lớp học, mái chèo chưa được cố định thì dây chun đã đứt mất rồi.

Làm sao cậu có thể tặng món đồ đó cho cái cô bé kén chọn này được? Vậy nên cậu đã đổi con thuyền gỗ lấy một thứ mà cậu cho rằng còn hay hơn tại phiên chợ.

Trước đó Cảnh Ninh đã nghe được tiếng “chíp chíp” be bé, Mạnh Tử Chiêu đẩy một chiếc giỏ trúc lại gần cô, cô cúi đầu mở giỏ ra, hai mắt sáng long lanh, khóe môi nở nụ cười mỉm.

“Á!”

Bên trong là bốn chú vịt con lông xù, chúng đang mổ giỏ trúc bằng cái mỏ nhỏ xíu, đôi mắt đen như những hạt đậu tí hin, nhưng lớp lông tơ lại bị nhuộm xanh đỏ, vừa hài hước vừa đáng yêu, hệt như một đàn vẹt.

“Đây là vịt trời à?”

Mạnh Tử Chiêu bật cười: “Xì. Đây là chim nhạn, nó biết bay đấy!”

Cảnh Ninh lườm cậu ta, quỳ xuống khẽ nâng một con vịt lên, đặt trong lòng bàn tay, hồi lâu cô mới ngẩng đầu, ánh mắt tràn ngập vẻ chế giễu: “Bảo cậu ngố mà cậu còn cãi. Lông nhuộm đấy! Đây là vịt thường thôi. Mà cậu đã nhìn thấy nhạn chưa đấy? Lông nhạn loang lổ thế này hả?”

“Nhuộm á?” Mạnh Tử Chiêu đón lấy chú vịt con, ngắm nhìn chăm chú một hồi rồi bắt đầu thầm mắng chửi trong lòng, tuy vậy ngoài mặt cậu vẫn vô cùng bình tĩnh, “Khụ khụ, thôi được rồi, coi như lần này cậu thông minh, không bị tôi lừa. Thật ra đây là một loài vịt khá đặc biệt, sau này lớn lên nó sẽ…”

“Có đặc biệt nữa thì cũng vẫn là vịt.” Cô ngắt lời cậu, tiếng chuông báo giờ ăn trưa đã vang lên, cô đứng dậy, “Cậu đúng là chán òm.”

“Không lấy hả?” Cậu ôm chú vịt lên, đôi mắt to sáng lấp lánh nhìn cô.

“Không lấy! Anh hai tôi nuôi hai chú gà chọi, vui hơn mấy con vịt nhiều.” Nhắc đến Cảnh Huyên cô lại ủ dột.

Tử Chiêu toét miệng cười, để lộ hàm răng trắng tinh cùng lúm đồng tiền thấp thoáng bên má, cậu vươn ngón tay khẽ vuốt đầu chú vịt, đắc ý bảo: “Cậu thử ném vịt và gà xuống sông Trường Giang xem con nào cừ hơn? Gà chọi thì có gì mà hay chứ? Có giỏi bằng kiện tướng bơi lội không?”

Cảnh Ninh ngơ ngác, rồi lại bật cười ha hả: “Mạnh Tử Chiêu, cậu đúng là vớ vẩn!”

“Chúng ta chia ra mỗi người giữ hai con, sau này thử thi xem vịt của ai bơi nhanh hơn, hay là tôi và cậu nuôi cùng nhau?”

“Xì, không nuôi. Ai thèm nuôi vịt!”

“Thế nuôi con khác nhé?” Cậu sửa lời rất nhanh.

Cảnh Ninh quay người bỏ đi.

“Này, tôi cho cậu chọn đấy, vẫn không được à?” Cậu cười, hô to, “Nhà tôi bảo muốn hứa hôn cho tôi với cậu đấy! Hôm nào tôi sẽ sang nhà cậu cầu hôn!”

“Biến đi!”

“Thế tôi tới thật nhé! Ha ha, ha ha!”

Cảnh Ninh cắn răng, quay đầu lại, lườm cậu sắc lẹm. Cậu bé bèn nâng giỏ trúc, cười tới mức đầu ngả ra sau: “Dù sao tôi cũng thấy mông cậu rồi.”

Cảnh Ninh giậm chân: “Đồ du côn thối! Tôi sẽ bảo anh cả tôi đánh gãy chân cậu!”

“Anh ấy không còn thời gian lo cho cậu đâu! Anh cậu thay mặt cha đi tham gia Hội nghị Mại bản của Hiệu buôn Phổ Huệ rồi, ai cũng bảo anh ấy sẽ trở thành người nối nghiệp tổng mại bản, lấy đâu ra thời gian mà quan tâm tới cậu?”

“Sao cậu biết?”

“Trên báo viết ấy! Người ta còn bảo tháng sau anh cậu sẽ sang Anh, anh ấy đi rồi tôi mới tới nhà cậu. Ha ha ha!”

“Cậu dám?!”

Mạnh Tử Chiêu tiến lên mấy bước, thì thầm bảo: “Cậu có biết không, nghe bảo thuyền của Hiệu buôn Tây Di Hòa ngừng chuyên chở rồi đấy, hàng hóa nhà cậu toàn do Di Hòa vận chuyển cả, giờ thì chỉ có thể xin gia đình chúng tôi giúp đỡ thôi. Mẹ tôi bảo rồi, hai nhà kết thành một thì có thể phối hợp làm ăn cùng nhau. Sau này chúng ta đính hôn, cậu nghỉ học, tuổi còn hơi nhỏ cũng không sao, về nhà tôi làm con dâu nuôi một khoảng thời gian đã, rồi sau này làm vợ đẻ em bé cho tôi.”

Cậu rung đùi đắc ý, ba hoa chích chòe, chỉ biết ăn nói linh tinh, không biết vì sao mà cứ thấy Cảnh Ninh giận cậu lại vui không tả nổi. Nhưng thật ra sâu trong lòng cậu lại mong cô cũng vui giống mình. Đến chính cậu cũng không hiểu tại sao nữa, có những lúc thậm chí chính cậu còn cảm thấy đầu óc mình có vấn đề.

Đúng là Cảnh Ninh đã nổi trận lôi đình, cô đẩy mạnh Tử Chiêu ra sau, kêu lên: “Mạnh Tử Chiêu, cậu chết đi!”

Bọn họ vốn đang bước trên thềm đá chật hẹp, cơ thể Tử Chiêu nghiêng ngả, nếu vứt giỏ trúc đi, cậu có thể dễ dàng giữ thăng bằng, nhưng trong giỏ là những chú vịt nhỏ hẵng còn rất yếu ớt, cậu bèn ôm chúng vào lòng theo bản năng, cơ thể chới với, lăn lông lốc xuống thềm đá cao chừng nửa mét, lăn thẳng xuống bãi cỏ của sân tập.

Cảnh Ninh sợ tới độ mặt mũi trắng bệch, cô lao xuống, quỳ bên cậu: “Cậu, cậu…”

Cậu bé nằm bất động dưới đất.

“Ối trời ơi! Đau chết mất!” Cậu khẽ nhúc nhích.

Cảnh Ninh run giọng: “Tôi xin lỗi, tôi không muốn làm cậu ngã đâu.”

“Cô bé thối, lật tôi lại đi.”

Cảnh Ninh nâng vai Tử Chiêu, cẩn thận lật cậu lại, vừa trông Tử Chiêu cô bé đã sợ hết hồn. Máu mũi cậu chảy ròng ròng, trán bị va sứt cả da, gương mặt trắng nõn giờ tím bầm dập.

Cậu vẫn còn lo lẩm bẩm: “Hừ hừ hừ… Mưu sát chồng!”

“Vẫn còn ăn nói linh tinh hả!” Hai mắt Cảnh Ninh ầng ậc nước, nhưng cô lại không dám bỏ đi, bèn rút khăn tay lau máu mũi cho cậu. Mấy cô cậu học sinh gần đó nghe tiếng động bèn ngó về hướng này, Cảnh Ninh vội vẫy tay nhờ bọn họ giúp đỡ, cô kêu lên: “Có bạn bị thương rồi!” Đám học sinh lập tức chạy lại.

“Này!” Tử Chiêu kéo vạt áo Cảnh Ninh, cậu đảo mắt, “Nếu cậu đồng ý với tôi một chuyện thì tôi sẽ không kể với thầy cô cậu đẩy tôi ngã.”

“Tôi không làm vợ chồng gì với cậu đâu!” Cảnh Ninh nức nở.

“Chuyện đó để sau hẵng tính.” Tử Chiêu dợm cười, nhưng khóe môi vừa cong lên đã đau tới nỗi phải nhíu mày, cậu bèn hất cằm, ý bảo cô nhìn chiếc giỏ trúc trong lòng mình, “Giúp tôi chăm sóc cho bốn con vịt con này, nếu cậu đồng ý tôi không so đo chuyện hôm nay với cậu nữa.”

“Tôi thích gà con, không thích vịt con!” Cô chỉ đành vươn tay nâng chiếc giỏ lên, nhưng vẫn không kìm được phải tỏ ý chẳng mấy bằng lòng.

Tử Chiêu thổi mấy ngọn cỏ dính bên miệng mình, đảo mắt: “Xì, được lợi mà còn cằn nhằn. Ở cái đất này thì chạy nhanh không bằng bơi giỏi đâu! Cậu đang ở Hán Khẩu đấy!”

Chào mừng tới với Hán Khẩu.

Bạn có thể đứng ở nơi cao nhất, đưa mắt nhìn xuống Hán Khẩu, thưởng thức sự phì nhiêu và bộn bề của mảnh đất này.

Gió lộng thổi chín lá quốc kỳ bay phấp phới. Thành phố đứng sừng sững trong lặng lẽ, đổ chiếc bóng khổng lồ xuống đất, im lặng cắt nuốt những dục vọng phàm trần, mỗi lần hàm răng nó nhai ngấu nghiến, những âm thanh nặng trĩu lại vang lên. Tàu chở đầy thuốc lá, tơ lụa, muối ăn, đường, đồ sứ, nước sông cuồn cuộn chảy về Đông, những chuyến tàu như mạng nhện giăng kín mặt nước, lại như ván cờ cuốn sạch tiền tài của cải.

Hán Khẩu vào mùa hè năm 1925 là một cái lò luyện khổng lồ, nỗi sốt sắng căng thẳng càng lúc càng tăng cao. Cái chết của một người công nhân ở Thượng Hải tên Cố Chính Hồng đã dẫn đến hiệu ứng cánh bướm, hậu quả lan xa tới tận đất Hán Khẩu. Những chuyến tuần hành thị uy diễn ra không ngớt, người ta bắt đầu chặn hàng hóa của Anh, vận động từ chối sử dụng ngoại tệ, những ngân hàng như HSBC, Chartered hay ngân hàng Hoa Kỳ đều phải đối mặt với làn sóng lăng mạ, mà các hiệu buôn Tây có quan hệ mật thiết với nhóm ngân hàng này cũng lâm vào tình cảnh thiếu hụt tiền vốn.

Vào khoảng thời gian này, hiệu buôn vốn Anh Phổ Huệ nằm ở khu vực phồn hoa nhất của Tô giới đã gặp phải một số vấn đề. Tất cả mọi người đều cho rằng những chuyện này là mối phiền phức lớn cho tổng mại bản Phan Thịnh Đường.

Cuối cùng, hai tuần sau khi sự việc kết thúc, tin tức cậu hai nhà họ Phan bị bắt cóc cũng đã bị ký giả của một tờ báo nhỏ phanh phui, trở thành chủ đề nóng được bàn luận khắp đầu đường cuối ngõ. Nghe đồn Phan Thịnh Đường thuê mấy tay vệ sĩ cao to vạm vỡ để đảm bảo an toàn cho mình và người nhà, người nhà họ Phan đi đâu vệ sĩ theo tới đó, xung quanh dinh thự lắp cả súng máy, người ngoài không thể mon men lại gần. Tin sốt dẻo nhất là vụ bắt cóc này đã khiến nhà họ Phan mất một khoản gia tài kếch xù, ảnh hưởng trực tiếp tới địa vị của Phan Thịnh Đường tại hiệu buôn vốn Anh Phổ Huệ. Ngài Chủ tịch Edmund cất công đi từ trụ sở chính tại Thượng Hải đến Hán Khẩu, bốn mại bản cấp cao còn lại cũng lũ lượt đổ về Hán Khẩu, có người biết nội tình đoán rằng, vị trí tổng mại bản chi nhánh Hán Khẩu của Phan Thịnh Đường sắp về tay người khác rồi.

“Từng đồng tôi tiêu đều là tiền của tôi, nhà họ Phan chưa bao giờ đụng vào một phân tiền của hiệu buôn Tây. Dù tôi biết nếu mình mở lời, chắc chắn hiệu buôn sẽ dốc hết lòng giúp đỡ, nhưng tôi không hề làm vậy. Tôi biết chừng mực, biết thế nào là bổn phận.” Phan Thịnh Đường nhìn chằm chằm người đàn ông Anh luống tuổi cao lớn đứng trước cửa sổ.

“Tôi không mấy tán thưởng cách xử lý công việc của ông.” Chủ tịch Edmund nhìn ra ngoài cửa sổ, ông ta nói tiếng Trung Quốc rất giỏi, giọng hơi nhiễm khẩu âm Thượng Hải, “Tôi lấy một ví dụ. Tôi từng ở Hồ Nam một thời gian, đầu bếp là người Hồ Nam, tài nấu bếp rất khá, tôi khá thích món thịt muối ông ấy làm.

Có lần, tôi vào bếp để gửi lời cảm ơn ông ấy, bắt gặp người này lấy một bát dầu còn đang bốc hơi từ trong lồng hấp thịt muối ra, mùi thơm vô cùng hấp dẫn, nhưng trông lại,” Edmund lắc đầu, gương mặt tỏ ý vô cùng ghét bỏ, “rất bẩn, vô cùng bẩn. Tôi hỏi ông ấy dùng bát dầu này làm gì? Ông ấy nói đây là dầu hấp thịt muối, đổ đi thì phí nên định dùng để xào thức ăn. Đương nhiên ông ấy làm vậy vì muốn tiết kiệm rồi.”

Edmund quay người, ngồi xuống chiếc xô pha đối diện Thịnh Đường: “Ông cho tôi ăn món thịt muối ngon nhất, mà chính ông cũng là một người được ăn thịt muối. Tuy vậy, ông lại đem dầu bẩn hấp thịt ra để xào thức ăn cho những người anh em khác. Như vậy ông thấy có ổn không? Lúc nào người Trung Quốc cũng nói hòa khí sinh tài phú, hiệu buôn Tây là một đại gia đình, đến một người nước ngoài như tôi cũng hiểu câu ‘Dưỡng gia bất trị khí’ (*), vậy mà ông lại không hiểu sao?”

(*) Dưỡng gia bất trị khí: Ý chỉ cuộc sống yên bình mới là đáng quý, nếu nuôi dưỡng gia đình thì không được giận dỗi trách móc.

Mắt Thịnh Đường sáng ngời: “Đối xử với người nước ngoài và đối xử với người Trung Quốc là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.”

“Vậy có nghĩa là ông sẽ không phản bội hiệu buôn Tây, nhưng ông sẽ phản bội đồng bào Trung Quốc của mình ư.”

Thịnh Đường lắc đầu: “Không, không thể gọi là phản bội được. Tôi trung thành với hiệu buôn Tây, tôi tin tưởng vào hợp đồng và quy tắc, mà hiệu buôn Tây cũng hết mực tin cậy, theo đuổi hai điều này. Còn giữa người Trung Quốc chúng tôi với nhau, hợp đồng hay quy tắc là những thứ vô cùng tùy tiện, bảo không có là coi như không có luôn, tôi sẽ không đặt một trăm phần trăm niềm tin của mình vào đó. Những người khác cũng giống như tôi thôi.”

Edmund cau mày như đang suy ngẫm.

Thịnh Đường đưa tập giấy in hoa văn vàng trong tay cho Edmund: “Đây là món quà mừng thọ 70 của ngài Edmund mà tôi đã chuẩn bị.”

“Mười tấm da cáo đen, một chiếc ống đựng bút ngà voi, một bình hoa Minh Tuyên Đức…” Edmund bình tĩnh liếc nhìn tập giấy, ông ta nghĩ mấy năm nay mình đã nhận được không ít quà quý từ Phan Thịnh Đường, cũng đã quen từ lâu rồi. Sau tên mỗi món quà đều có đính kèm giới thiệu và ảnh chụp, đến lúc đọc thấy dòng “Bình phong 12 mặt hình chim hoa bằng gỗ tử đàn điểm phỉ thủy bách bảo”, hai mắt Edmund sáng lên, trông rất đỗi bối rối: “Đây là… đây là…”

“Đúng vậy, đây chính là tấm bình phong hiệu buôn Tây Thịnh Xương đã thắng đấu giá vào hơn mười năm trước. Từ đầu năm nay tôi đã ngẫm nghĩ mãi không biết nên chúc mừng đại thọ bảy mươi của ngài thế nào, phải chuẩn bị lễ vật gì, lại chợt nhớ tới vẻ tiếc nuối của ngài khi bỏ lỡ tấm bình phong năm ấy. Vừa khéo tình hình kinh tế của tôi đang dư dả, bèn bán một mảnh đất xây dựng, nhờ cậy hết lời cuối cùng mới mua được tấm bình phong từ hiệu buôn Tây Thịnh Xương. Thứ nhất là muốn chúc thọ ngài Edmund, thứ hai là dùng khoản tiền này để đổi lấy tình cảm của Thịnh Xương. Có thể nói đây chuyện tốt, một mũi tên trúng hai đích.”

Edmund nhìn sâu vào mắt ông ta: “Đổi lấy tình cảm của Thịnh Xương?”

“Theo như giao kèo, tôi được quyền làm đại lý mại bản cho các hiệu buôn Tây khác, Hiệu buôn Thịnh Xương cũng từng ngỏ ý mời tôi tham gia. Nhưng vì dạo gần đây gia đình tôi gặp chuyện rắc rối, tôi đã không còn tài lực để giao tiền bảo đảm cho Thịnh Xương, đành lực bất tòng tâm, mà trộm nghĩ tôi cũng không đủ năng lực làm tổng mại bản cho họ. Nhưng tốt xấu gì họ cũng là hiệu buôn Tây lâu đời hơn trăm năm tuổi, làm kinh doanh mà không dựa vào tình cảm thì còn dựa vào đâu.” Thịnh Đường cười, “Tấm bình phong này được đặt cọc trước một nửa, tháng trước đã tiền trao cháo múc. Bình phong sẽ được đưa ra cho mọi người chiêm ngưỡng đúng vào buổi tiệc sinh nhật của ngài.”

Cuộc vận động Ngũ Tạp đã gây ảnh hưởng lớn tới hiệu buôn Tây có vốn Anh, đây chính là thời điểm đau đầu nhất với họ, Thịnh Xương là hiệu buôn Mỹ, nếu Phan Thịnh Đường đồng ý kiêm nhiệm làm mại bản cho họ thì chỉ có tốt chứ chẳng có xấu. Theo thông lệ, người muốn làm mại bản cho một hiệu buôn Tây phải giao một khoản tiền bảo đảm kếch xù, với mạng lưới quan hệ và tài lực của Phan Thịnh Đường, chẳng lẽ ông ta không tìm nổi một người đứng ra bảo lãnh, không kiếm nổi một khoản tiền bảo đảm sao? Ông ta khéo léo từ chối lời mời của Thịnh Xương cũng là để chứng minh thái độ trung thành với Phổ Huệ, sao Edmund có thể không biết tình cảm này là diễn cho ai xem.

Phan Thịnh Đường nhìn ra ngoài cửa sổ, nói: “Một năm có bao nhiêu khoản tiền ra vào Hán Khẩu này? Một trăm ba mươi hai triệu lượng bạc. Người Pháp, người Mỹ, người Nhật, còn có cả người Anh các ngài, cùng với đám miền Nam Trung Quốc bọn tôi, đều đổ về đây cùng khoản tiền một trăm ba mươi hai triệu lượng bạc này. Mà liệu trên con đường này có bao nhiêu hiệu buôn Tây?

Không thể ít hơn ba trăm hiệu được. Lông lợn, lông cừu, tơ lụa, đậu nành… được chuyển qua tay chúng ta để đi đến mọi miền thế giới. Ai cũng biết việc Phổ Huệ chiếm được một vị trí ở đây có ý nghĩa như thế nào, ai cũng rõ vị trí tổng mại bản của hiệu buôn Phổ Huệ phải gánh chịu bao nhiêu nguy hiểm và áp lực. Chắc ngài Edmund hiểu năng lực và lòng trung thành của tôi hơn ai hết. Chỉ cần tôi còn ngồi trên cái ghế này, chắc chắn tổn thất mà cuộc đình công gây ra cho hiệu buôn Tây sẽ được giảm thiểu tới mức tối đa.”

Vẻ mặt lạnh lẽo của Edmund cuối cùng cũng đã dao động.

Cùng lúc ấy, bầu không khí lúng túng căng thẳng đang ngập tràn trong một tòa hội quán bên bờ sông của hiệu buôn Phổ Huệ.

Bốn nhà mại bản lớn ngồi trong phòng khách, mỗi người ôm một tâm tư, Cảnh Sâm ân cần phục vụ trà bách cho họ, anh khẽ cúi đầu, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn chung quanh, chẳng khó để phát hiện ra những vằn máu in trên mắt anh.

“Giới mại bản cho hiệu buôn Tây toàn là cha truyền con nối, xem ra cha cậu muốn để cậu nối nghiệp nhỉ? Chắc áp lực cũng lớn lắm.” Một thương nhân trung tuổi gầy gò mỉm cười nhìn anh.

Cảnh Sâm ngại ngùng mỉm cười.

“Từ Ân, cậu ấy còn trẻ, làm sao chịu nổi bị anh trêu cười thế,” nhà mại bản Thiểm Tây Mẫn Bách Xuyên chen lời, quan sát Cảnh Sâm kỹ càng, “cậu đang ốm à? Đừng câu nệ quá, ở đây toàn các chú các bác của cậu cả, không phải khách khí.”

Dường như Cảnh Sâm định nói mấy lời khách sáo, nhưng họng lại thấy ngứa ngáy, bật lên tiếng ho khan, anh vội vã đặt khay trà bánh xuống, gắng sức thốt một chữ: “Xin lỗi!” Rồi vội vã cất bước rời khỏi phòng khách, mọi người nghe tiếng ho khan nặng nề của anh vọng lại.

Thiệu Từ Ân cong môi, xem chừng có ý khinh thường, doanh nhân Tứ Xuyên Hứa Tĩnh Chi ngồi tựa bên cửa sổ nói với người ngồi cạnh: “Anh Tề Phàm, có vẻ cậu chàng này rất lanh lợi đấy.”

Tạ Tề Phàm vuốt ve hoa văn xanh trên tà áo gấm, cười nói: “Sao anh biết?”

Hứa Tĩnh Chi lại chuyển đề tài: “Chẳng lẽ mọi người không có chút ý kiến nào với sự sắp xếp Thịnh Đường dành cho bốn chúng ta sao?”

Thiệu Từ Ân nhấp một ngụm trà, chầm chậm cất lời: “Anh cứ xem anh ta đối xử với Hà Sĩ Văn thế nào đi đã rồi hẵng nói đến chuyện chúng ta.”

“Thừa Châu hám lợi mất khôn, tự làm bậy thì sao sống nổi.” Hứa Tĩnh Chi lạnh nhạt đáp trả.

Thiệu Từ Ân nói: “Người kiếm cơm ở hiệu buôn Tây làm gì có ai không tính toán chi ly. Nước trong thì không có cá, tôi không tin một kẻ không có bất cứ khuyết điểm nào.”

Mẫn Bách Xuyên bảo: “Tĩnh Chi, anh thấy môi hở răng lạnh hả.”

Hứa Tĩnh Chi nói: “Tôi lấy đâu ra sức mà quan tâm tới nỗi đau của kẻ khác. Giờ hiệu buôn của bốn người chúng ta đang chịu tổn thất lớn vì tổng mại bản họ Phan! Mà người ta thì đang ở đâu? Đang bận nịnh hót lão người Anh chứ đâu, còn chẳng buồn nhắn gửi giải thích một câu, lại đem thằng nhóc ốm yếu bệnh tật ra diễn với chúng ta…”

“Bác Hứa, thân là giám đốc của hiệu buôn Anh, theo lý mà nói phải dốc lòng phục vụ ông chủ người Anh chứ.” Cảnh Sâm bước vào, hắng giọng rồi ôn hòa cất lời. Thấy vẻ mặt Hứa Tĩnh Chi thay đổi, anh vội cười: “Đây là trà của bác ạ, cháu mới đun lại đấy.”

Hứa Tĩnh Chi cười: “Vất vả cho cậu quá.”

“Thật ra cha cháu đã có kế hoạch cho công việc tại hiệu buôn của các chú các bác rồi, hôm nay cháu xin thay mặt cha trình bày rõ.” Cảnh Sâm bước tới bên bàn đọc sách, cầm một xấp tài liệu lên, trang bìa phản chiếu gương mặt như làn nước trong của anh.

“Cha nhờ cháu nói lại với bốn bác, đói thì đứng ngược chiều gió, no thì ưỡn bụng mà đi, có Phan Thịnh Đường ở đây, dù vấn đề nan giải hơn thì cũng có cách giải quyết, mong mọi người hãy kiên nhẫn chờ đợi thêm vài ngày.”

“Vậy khi nào chúng tôi mới có thể gặp mặt lệnh tôn đây?”

“Năm ngày sau, vào tiệc sinh nhật của ngài Edmund ạ.”

Nghe tới đây, đến cả Tạ Tề Phàm trước sau không nói lời nào cũng phải ngẩng đầu, ngạc nhiên hỏi: “Chẳng lẽ giờ họ không ở Hán Khẩu sao?”

“Vâng, cả hai đã tới Thượng Hải rồi.”

Hai mắt Tạ Tề Phàm lóe sáng.

Nhân lúc mọi người lần lượt nhận lấy tài liệu, Cảnh Sâm bước khỏi phòng, dừng lại ngoài sân nhà, ánh mặt trời chiếu rọi, xuyên qua tán ngô đồng, đậu xuống nơi thảm cỏ.

Anh khẽ nhắm mắt, vô số những hình ảnh rõ rệt tới từng đường nét hiện lên trong đầu anh.

Anh nhớ lại cái lần mình bước vào cổng hiệu buôn Tây Phổ Huệ, người gác cổng lịch sự lễ độ mở cánh cửa thủy tinh sáng loáng ra, anh và Phan Thịnh Đường sóng vai bước vào sảnh hiệu buôn rộng lớn, như đang tuyên bố rằng một thời đại mới đang chuẩn bị bắt đầu; anh nhìn tấm thảm tơ hai màu vàng đỏ nối thẳng tới chiếc cầu thang ba mươi bậc bằng gỗ, hành lang hai bên là hai mươi gian phòng làm việc nối tiếp nhau, mỗi phòng thuộc một bộ phận tương ứng; anh nhìn thấy mình vuốt ve hoa văn chạm gỗ đẹp lộng lẫy nơi tay vịn, thưởng thức bức tranh treo trên tường, trên đó có những bức tranh sơn dầu vẽ tổ tiên nhà họ Phan theo từng thời đại, cũng có cả văn kiện thư từ qua lại giữa nhà họ Phan cùng thương đoàn các nước; trên chiếu nghỉ cầu thang có hai chiếc ghế bành sơn đen khảm xà cừ cùng bàn trà gỗ tử đàn, trên bày bản đồ hàng hải da dê được thiết kế rất đỗi tinh xảo, đây chính là quà tặng của Hiệu buôn Tây Di Hòa; lên đến tầng hai, thấy phòng kế toán đã chiếm mất bốn gian làm việc, tiếng bàn tính nghe hệt như một trận mưa rền gió dữ…

Anh thấy bọn họ đang tiến về phía căn phòng làm việc nằm trên tầng ba, vừa bước vào, Thịnh Đường đã xử lý ngay những công việc thường ngày, không còn thời gian trò chuyện với anh, anh ngồi trên xô pha một lúc, điện thoại cứ vang không dứt, Thịnh Đường nói tiếng Bồ Đào Nha, một lát sau lại chuyển sang tiếng Anh. Anh thấy anh nhìn người đàn ông ấy chăm chú mà cõi lòng rối như tơ vò, đó là người đàn ông được xưng là cha anh: nhà họ Phan hành thương suốt trăm năm, ba đời làm mại bản, đây không phải cái danh hão. Đương nhiên ta không thể đánh giá một người là nhà kinh doanh giỏi hay dở dựa trên việc người này nói bao nhiêu thứ tiếng, nhưng chỉ trong vòng bốn ngày, dưới tình cảnh con trai bị bắt cóc, nội bộ hiệu buôn chia tách chống đối, người đàn ông này vẫn có thể bình tĩnh bàn chuyện làm ăn như thường. Người đàn ông ấy khiến kẻ khác phải thực tâm kính nể, nhưng đồng thời cũng sinh lòng sợ hãi ông ta.

“Cháu đang nghĩ gì vậy?” Một giọng nói ôn hòa ngắt đứt dòng hồi tưởng của anh.

Cảnh Sâm nhướng mày: “Chú Tạ, trước kia chú hay nhắc cháu phải cẩn thận.”

Tạ Tề Phàm ngồi xuống trên chiếc ghế dài cạnh đó: “Cháu yên tâm đi, lát nữa ba người kia sẽ lần lượt tới tìm cháu trò chuyện, chú chỉ giành trước một bước thôi. Giờ cháu là cậu thiếu gia quyền to thế mạnh của nhà họ Phan rồi.”

Ánh mắt Cảnh Sâm thoáng đông cứng, anh nở nụ cười nhạt.

Tạ Tề Phàm dịu giọng: “Cháu còn trẻ, nhất định phải thật kiên định vững vàng, chuyện gì nên nói thì cứ nói, không nên thì dù kẻ khác làm cháu giận tới mức muốn giết người, cháu cũng phải ngậm chặt miệng.”

“Chú yên tâm, suốt bao năm nay thứ cháu học thuần thục nhất chính là giả câm giả điếc.”

Tạ Tề Phàm nhìn anh chăm chú, niềm yêu thương hiện lên trong mắt ông: “Phan Thịnh Đường là kẻ tính toán chi ly, với ông ta mà nói mất đi năm trăm nghìn chẳng khác nào bị rút mất nửa phần máu thịt, giờ ông ta đã chịu một cú đòn lớn, cháu cũng nên xả nỗi uất ức ra đi. Có một số chuyện không cần tự ép mình quá đáng, hôm đó chú không trả lời điện báo của cháu cũng là vì ý này.”

“Người nước ngoài vẫn sẽ để ông ta đảm nhiệm chức tổng mại bản, vì mục đích ấy ông ta mới tới Thượng Hải cùng Edmund. Chú Tạ, nếu chúng ta không nhân lúc này để kéo ông ta xuống thì cháu e về sau mọi chuyện sẽ càng khó khăn hơn. Vì đến chính cháu cũng biết ông ta hoàn toàn trung thành với hiệu buôn Tây, chẳng phải người nước ngoài coi trọng nhất điểm này của ông ta sao?”

“Ông ta không bao giờ tin người Trung Quốc, hiệu buôn Tây chính là mục đích tồn tại của ông ta, chẳng qua ông ta chỉ tự trung thành với bản thân mình thôi. Tiểu Xuyên, mục đích của chúng ta là khiến ông ta càng thêm phụ thuộc vào hiệu buôn Tây, phụ thuộc tới độ không thể sống thiếu nó.”

Cặp mắt Cảnh Sâm lóe sáng: “Chú Tạ, đã lâu lắm rồi cháu không nghe người khác gọi cháu bằng cái tên này.”

Cảnh Sâm về nhà rất muộn, đến cả người gác đêm cũng đã ngủ. Anh vẫn chưa có cơm tối bỏ bụng, bèn vào bếp tìm đồ ăn, trong bếp vẫn còn một bà người ở đang đun thuốc cho Cảnh Huyên.

“Giờ cậu cả mới về ạ, cậu có muốn ăn khuya không để tôi làm.”

“Không cần đâu, cháu nghe có tiếng động nên mới qua xem thôi. Thuốc này phải trông cả đêm ạ?”

“Lát nữa thôi là xong, sáng mai cậu hai phải uống rồi.”

“Hôm nay Cảnh Huyên thế nào rồi? Cháu chưa kịp lên thăm thằng bé.”

“Thần sắc cậu ấy khá hơn nhiều rồi, buổi tối còn ăn tận hai bát cơm.”

Niềm vui hiện lên trên gương mặt Cảnh Sâm, bà hầu già cười: “Cậu cả cũng phải giữ sức khỏe đấy.”

“Bữa tối thằng bé ăn gì ạ?”

“Tôi luộc cho cậu ấy quả trứng, làm một bát thịt viên, cậu hai chẳng để thừa lại bao nhiêu.” Trong lúc bà hầu già còn đang nói, Cảnh Sâm đã bước tới bên chiếc bàn dài để đồ ăn thừa, anh bưng bát thịt viên còn dư lại một nửa ra bếp. Bà hầu già sốt sắng, cười bảo: “Ối, cậu muốn ăn gì thì để tôi làm, đừng chạm vào kẻo bẩn tay!”

Cảnh Sâm đã vén tay áo, anh bật bếp, thêm ít nước vào nồi rồi trút cơm nguội xuống. Bà hầu già cười đứng nhìn, thấy trong lúc đợi cơm chín, Cảnh Sâm dùng đũa xắt vụn thịt ra rồi gạt vào nồi, thêm gia vị hành thơm, có vẻ định làm một bát cháo thịt băm.

“Đây là cách nấu ăn ở miền Nam quê cũ của cậu cả nhỉ?”

“Vâng, trước đây mẹ cháu hay làm món này cho cháu ăn, cơm thừa mà nấu khéo thì cũng ngon lắm.” Anh ngẩng đầu cười với bà hầu, “Hồi ở nhà cũ cháu cũng toàn ăn cơm thừa, quen mất rồi.”

Bà hầu già không biết nên nói gì cho phải, nhìn ấm thuốc, bà bảo: “Ôi, sắc xong rồi, cuối cùng cũng được nghỉ. Cậu cả cứ ăn từ từ đi, tôi, tôi…”

Cảnh Sâm cúi đầu khuấy cháo, thờ ơ “vâng” một tiếng, bà hầu già dọn dẹp sơ qua gian bếp rồi vội vã rời đi. Phòng bếp chìm vào tĩnh lặng, chỉ có hương thuốc và mùi cháo thịt vấn vít, Cảnh Sâm đang định múc cháo đã nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng vang lên, anh nghĩ bà hầu già quay lại, đang thấy phiền hà, cau mày quay đầu thì phát hiện hóa ra là Cảnh Ninh, cô mặc váy ngủ, khoác thêm áo choàng ngắn bên ngoài, đang đứng ngoài cửa bếp nhìn anh, dưới ánh đèn, phần tóc mái đen bóng đều tăm tắp, gương mặt bé nhỏ trong suốt như tuyết như trăng.

“Anh cả…” Cô tỏ vẻ trông mong xen lẫn với cầu xin.

Đã mấy ngày rồi họ không nói chuyện với nhau.

Cảnh Sâm thở dài: “Em đói hay thèm ăn?”

Cảnh Ninh nhanh nhẹn tiến lại trước bàn, ngẩng đầu nhòm vào nồi cháo, cười thật đáng yêu xinh xắn: “Vừa đói vừa thèm!”

Không biết vì sao mà ảnh cảm thấy có một nỗi mệt mỏi buồn đau dâng trào trong mình, anh cúi đầu lấy thêm một chiếc bát từ giá, múc cho cô một bát cháo.

“Sao mấy hôm nay anh về muộn thế?” Ánh mắt sáng ngời của cô đuổi theo anh.

“Anh phải đỡ đần cha chuyện của hiệu buôn Tây, có mấy bác từ nơi khác đến thăm Hán Khẩu.”

“Có phải anh chưa ăn cơm tối không?”

“Ừ, anh đói rồi.”

“Em cũng đói, tối nay bác sĩ hội chẩn cho anh hai, mẹ không còn thời gian lo cho em.”

“Em không biết bảo người khác nấu cơm cho à? Tự mình ngốc thì còn trách ai được.”

“Em muốn chờ anh ăn cùng, nhưng lúc nào anh cũng về muộn.” Cô khoác lác.

“Không phải em ghét anh à? Đợi anh làm gì?”

Nỗi thẹn thùng hiện lên trên gương mặt Cảnh Ninh, cô trề môi, cúi đầu không nói gì, nhưng đôi mắt to láu cá lại len lén liếc anh, cuối cùng anh cũng không nén nổi tiếng cười, cô đảo mắt: “Anh cả, em biết anh sẽ không trách em mà.”

“Vậy em thì sao, em còn trách anh không?” Anh vén sợi tóc dính bên môi giúp cô.

Cảnh Ninh lắc đầu: “Hôm đó em buồn quá, em chỉ ước thời gian có thể quay trở lại, nếu em không tổ chức sinh nhật, các anh không tặng quà cho em thì có lẽ anh hai đã chẳng bị bắt cóc.” Giọng cô dần nghẹn ngào, cô vội cúi đầu húp một thìa cháo.

Anh khẽ vỗ vai cô, bảo cô ăn chậm thôi. Ở cái nhà này chỉ có cô và Cảnh Huyên là chịu chia sẻ buồn vui cùng anh, dù có cùng nhau ăn một bát cơm thừa thôi họ cũng sẽ vui vẻ hào hứng, chỉ là việc đời quá phức tạp, tình cảm này còn có thể kéo dài được bao lâu đây…

“Anh cũng ăn đi!” Cô vươn bàn tay bé nhỏ vẫy vẫy trước mặt anh, “Ăn xong em sẽ dắt anh đi xem cái này hay lắm!”

Anh bật cười: “Em lại có món đồ chơi mới gì rồi hả.”

Đêm hơi lạnh, cô bé nắm lấy tay chàng trai, băng qua tầng cây hoa tỏa hương thơm nồng, hệt như tinh linh giữa màn đêm. Anh ngoan ngoãn để mặc cô dẫn đường, nhìn mái tóc buông rủ bồng bềnh của cô, sương mù mềm mại giăng dưới ánh đèn ngọc lan, tiếng đài phun nước róc rách như có như không, anh nghĩ, anh chưa bao giờ lưu luyến đêm đen tới vậy, cũng chưa từng vui vẻ, chưa từng đau đớn tới thế.

Họ bước đến dưới hành lang dài leo đầy hoa hồng, phía Nam có một ngôi đình hóng gió nho nhỏ, dùng cành trúc bện thành hàng rào, anh nghe được tiếng chim chíp mềm mại, trong ánh đèn mờ, anh trông có bốn chú vịt con lông vàng đang khép cánh co lại với nhau thành đám.

“Em đổi được nó ở lớp Kinh tế đấy,” Cảnh Ninh cười hì hì, ngồi xuống lan can, đôi chân bé nhỏ đung đưa, “nghe bảo vịt biết xếp hàng đi theo người, em muốn huấn luyện chúng nó cứ nhìn thấy em là chạy theo.”

Cảnh Sâm bật cười: “Anh thấy nấu canh vịt thì hay hơn đấy.”

“Suỵt!” Cảnh Ninh đưa tay làm dấu, nghiêm túc nói, “Em biết anh đùa, nhưng không được đùa thế trước mặt chúng nó đâu! Chúng nó mà nghe được thì sẽ nghĩ thế nào.”

“Anh nói thật đấy. Canh vịt bổ lắm, thêm cà rốt muối là ăn vào bớt lạnh, đợi đến khi anh đi du học về em giết vịt nấu canh cho anh ăn là vừa.”

“Anh còn nói nữa, anh còn nói nữa hả!” Cô sốt sắng chạy tới trước mặt anh, kiễng chân che miệng anh lại, anh chỉ cảm thấy hai mắt cô sáng ngời, chợt ngẩn ngơ trong chốc lát, định gỡ tay cô ra, nhưng lại cũng không muốn gỡ, cuối cùng chỉ đành khó khăn lùi một bước về phía sau: “Hiếm lắm anh mới có dịp xin ăn em mà em lại tiếc.” Anh nghiêng người, mượn cơ hội thoát khỏi tay cô rồi vừa tiến về phía trước vừa nói, “Đau lòng quá đi mất.”

Cảnh Ninh đuổi theo anh, kéo tay Cảnh Sâm: “Chỉ cần anh không giết chúng nó, sau này về anh muốn ăn gì em cũng làm cho anh ăn, anh cả, em nói thật đấy.”

Cảnh Sâm cúi đầu ngó cô: “Cái kim nắm còn không chắc mà đòi nấu cơm?”

“Em học! Em sẽ học vì anh!”

“Không tin.”

“Em hứa với trời đấy!”

Bước chân anh thoáng khựng lại, anh nhìn gương mặt sốt sắng tới đỏ bừng của cô, khẽ nói: “Nếu về sau em nấu cho anh một bữa cơm, anh…” Rồi giọng nói chợt ngưng bặt, lời tuyên bố vừa trịnh trọng vừa ngây thơ của cô, tình cảm cốt nhục phản chiếu nơi đôi mắt trong veo của cô trong đêm, hệt như một cây kim sắc nhọn đâm thẳng vào cõi lòng. Nghìn lời vạn chữ, đến miệng rồi chỉ sót lại chừng này:

“Anh tin em, Bé Hạt Dẻ.”

Tiếng cây xào xạc nghe tĩnh mịch, hai cái bóng sát bên nhau trong đêm càng lúc càng xa, trăng lưỡi liềm buông xuống thật nhanh. 
 
Quyển 1 - Chương 22


Buổi dạ tiệc mừng sinh nhật chủ tịch Edmund diễn ra tại Nhà kỷ niệm Victoria ở Tô giới Anh, đây là câu lạc bộ của giới Anh kiều, thi thoảng được trưng dụng làm phòng nghị sự và sân khấu biểu diễn, họ cũng từng cho người Hoa mượn nơi này để diễn kịch, phía chánh Tây là giáo đường Thiên Chúa, cửa chính hướng về đường Di Hòa.

Thường thì dân nghèo gốc Hoa sẽ khó lòng đặt chân đến chốn tụ hội của người nước ngoài, nếu lỡ tiến vào thì thứ đợi họ chỉ có lưỡi lê của lính tuần. Vậy mà sẩm tối hôm tổ chức dạ tiệc, trên sân cỏ ngoài nhà kỷ niệm lại có mấy công nhân người Hoa áo quần tả tơi, mặt mày vàng võ ngồi túm tụm, lính tuần phụ trách duy trì trật tự chỉ ôm súng đứng nhìn, chẳng buồn xua đuổi. Tinh thần chống Nhật chống Anh ngày càng dâng cao tại Hán Khẩu, lãnh sự quán các nước đều dặn người nước mình không được sinh sự với dân Trung Quốc, Phòng Tuần bộ Tô giới cũng nhận được nghiêm lệnh, nếu chưa đến nỗi vạn bất đắc dĩ thì tuyệt đối không được tùy tiện ra tay bắt bớ hay xua đuổi dân Hoa. Đám người ngoài nhà kỷ niệm chắc muốn nhân cơ hội này để kéo tới khu vực Tô giới sầm uất mà bình thường có nghĩ cũng chẳng dám nghĩ tới. Họ không hô khẩu hiệu, cũng chẳng căng biểu ngữ, chỉ ngồi ngây ngẩn trên sân cỏ, đôi mắt đục ngầu nhìn chằm chằm cổng nhà kỷ niệm, nơi đó có tiếng xe cộ huyên náo, từng chiếc xe con sang trọng đang đưa những tốp khách nước ngoài áo quần lộng lẫy tới nơi, đám công nhân Hoa chỉ coi như không thấy, đêm buông, đèn đuốc sáng bừng, cuối cùng cũng có mấy khách quý người Hoa lục tục kéo đến, khi ấy những công nhân này mới lảo đảo đứng dậy, hô: “Các quan cứu mạng, các quan hãy cho chúng tôi công bằng!”

Có người nước ngoài ngửi thấy mùi hôi trên cơ thể họ, bèn bịt mũi cau mày, một thương nhân Trung Quốc dáng người phương phi mất kiên nhẫn, gọi lính tuần tới đuổi họ đi, hai tay lính tuần đều là người Ấn, đã ở Tô giới Anh Hán Khẩu được nhiều năm, nhưng cứ đứng đực ra đó không nhúc nhích, cặp mắt gian trá đảo liên hồi. Thương nhân người Trung Quốc thấy mất mặt, bèn ưỡn ngực định quát mắng, lại bị người bên cạnh kéo tay: “Chó người khác nuôi làm sao anh sai được? Mau vào uống rượu đi.”

Vừa dứt lời, đã thấy một một chàng trai Trung Quốc tuấn tú bước ra từ nhà kỷ niệm, anh mặc sơ mi xanh khói, gile màu cà phê, phủ áo khoác Tây phẳng phiu mang sắc gạo bên ngoài, nhưng không cài khăn tay trang trí trước túi ngực như những người khác, mà chỉ gài độc một bông lan, càng tôn thêm làn da trắng như ngọc, đôi mắt sáng như hai viên pha lê đen.

“Charles!” Có người nước ngoài chào hỏi, gọi tên tiếng Anh của anh. Anh bèn mỉm cười đáp lời, phong thái hệt như một vị chủ nhân đang thiết đãi khách khứa, hết sức thành thạo điêu luyện, nhanh nhẹn phóng khoáng, thấy có hai thương nhân Trung Quốc đang bước vào trong, anh bèn tiến lại, nhiệt tình chào hỏi: “Ngài Ngô, ngài Tống, chúc buổi tối tốt lành!”

Thương nhân mập mạp vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “Cậu là… cậu cả nhà họ Phan? Cậu… cậu chưa từng gặp tôi mà sao lại biết…”

“Hai hôm trước buổi tiệc cha có cho cháu xem qua ảnh và tư liệu về các vị khách quý, hai ngài là thương nhân kiệt xuất ngành dệt may ở Giang Nam, chúng cháu rất vinh dự vì hôm nay có cơ hội được đón tiếp các ngài. Vân Thăng, mau dẫn hai vị khách quý vào đi.” Anh đánh mắt ra hiệu cho Vân Thăng, phần mình thì tiến về phía mấy công nhân ngồi ngoài cổng.

Anh vừa tới, tiếng kêu của bọn họ đã lại lớn hơn, Cảnh Sâm móc một bao thuốc lá bạc ra khỏi túi, tỏ ý mời họ hút, đám công nhân đến nhìn cũng chẳng buồn nhìn, Cảnh Sâm bèn rút ví ra làm bộ lấy tiền, một người trong số họ nói: “Chúng tôi biết cậu là cậu cả nhà họ Phan, cậu còn là trẻ con, đâu làm được gì, cậu bảo người lớn trong nhà ra nói chuyện đi.”

Cảnh Sâm cất ví tiền đi, nói: “Các anh đến không đúng lúc rồi, hôm nay chưa chắc cậu tôi đã tới.”

“Sao cậu biết chúng tôi tới để tìm ông chủ Vân?”

“Nhà máy lông lợn của chú tôi tỏa mùi hôi thối tới độ ngửi một lần là cả đời không quên nổi, điều kiện làm việc cũng rất tệ hại, bụi bặm lông lợn bay vào mắt và phổi công nhân, khiến họ sinh đau mắt viêm phổi. Vì muốn thông gió nên nhà máy mở cửa sổ quanh năm, mà lại không có hệ thống sưởi, đa phần công nhân đến bốn mươi đã mất sức lao động rồi. Tôi vừa trông đã biết các anh đây tới từ đâu.”

Cảnh Sâm lại nói: “Nghe bảo cậu tôi đuổi việc mấy công nhân mà không có lý do, nếu tôi đoán không nhầm thì đó chính là các anh. Chắc các anh muốn nhân hôm nay tới tìm cậu tôi, đòi chút tiền trợ cấp dưỡng già?”

Nét mặt mấy người nọ thoáng xao động, Cảnh Sâm mỉm cười: “Chúng ta đều là người Trung Quốc mưu sinh ở địa bàn dân nước ngoài, đương nhiên phải giúp đỡ lẫn nhau. Suy cho cùng thì nhà máy cũng cung cấp hàng hóa cho hiệu buôn Phổ Huệ, các anh là người một nhà với chúng tôi, người trong nhà gặp khó khăn, sao chúng tôi mặc kệ được. Hay giờ tôi dặn người ta sắp xếp một gian phòng cho các anh, các anh ngồi đó chờ một lát, sau khi dạ tiệc kết thúc sẽ có người mang tiền đến gửi các anh.”

“Chúng tôi có lý do gì để tin cậu?”

Cảnh Sâm hạ giọng: “Giờ dân nước ngoài đều sợ người Hoa gây sự, các anh nghĩ hai tay lính tuần không bắt các anh là vì họ tốt bụng sao? Các anh cứ yên tâm, chỉ cần hiệu buôn Phổ Huệ còn ở đây, cậu tôi không chối nổi khoản tiền này đâu, chẳng lẽ ông ấy định làm người nước ngoài mất mặt sao? Hôm nay các anh không đòi được tiền thì ngày mai, ngày kia, về sau ngày nào cũng tới làm loạn, sao cậu tôi chịu thấu? Đến tôi cũng phải toát mồ hôi hộ ông ấy nữa là.”

Đúng là mấy người nọ định chờ Vân Tú Thành đứng ra phân bua phải trái với mình, nhưng Cảnh Sâm đã nói tới nước này, lòng họ cũng thoáng yên tâm hơn, đang định hỏi xem phải đợi ở đâu, Cảnh Sâm đã lanh lẹ bảo: “Dù tôi cũng rất thông cảm cho các anh, nhưng đúng thật tôi chỉ là bậc con cháu không có tiếng nói. Chừng mười phút nữa cha tôi sẽ vào nhà kỷ niệm qua cửa Tây, đi cùng ông là chủ nhân buổi tiệc sinh nhật hôm nay – ngài chủ tịch người Anh. Nếu các anh có yêu cầu gì muốn đề đạt, chắc chắn ông ấy sẽ phải lưu tâm. Cha tôi dễ tính hơn cậu nhiều. Các anh cứ tự cân nhắc giải quyết đi.”

Người công nhân dẫn đầu nhóm ngẫm nghĩ kỹ càng một hồi rồi chợt sực tỉnh, thân mình lẩy bẩy bước đi. Lính tuần bước tới trước mặt Cảnh Sâm, ân cần cất chất giọng tiếng Trung trúc trắc còn nặng khẩu âm: “Cậu Phan, nãy giờ chúng tôi luôn để ý động tĩnh bên này, nếu bọn họ dám làm làm hại tới cậu, chắc chắn chúng tôi sẽ can thiệp ngay.”

Cảnh Sâm thấy người công nhân dẫn đầu nhóm quay lại nhìn mình từ xa, trông anh bằng ánh mắt tràn đầy cảm kích, anh bèn khẽ gật đầu đáp lại rồi quay sang nói với lính tuần: “Không sao đâu.”

Tiếng nhạc du dương vang lên, anh quay người bước vào nhà kỷ niệm, bông hoa lan trắng muốt cài trước ngực được ánh đèn nhuộm thành màu vàng, rồi lại chợt chuyển muôn sắc lung linh, anh lấy một ly sâm panh từ khay anh chàng phục vụ mặc vest đen, khẽ nhấp một ngụm, không biết vì cớ gì lại thấy hưng phấn vui mừng.

“Cháu cười gì vậy?” Tạ Tề Phàm tiến lại.

Cảnh Sâm cong môi: “Vết thương bên tai em trai cháu còn chưa khỏi, trưa nay thằng bé băng kín tai đến hiệu buôn Tây tìm cháu, nói mẹ kế bảo nó tới giúp cháu.”

“Sau đó thì sao?”

“Sau đó? Thằng bé chỉ hỏi cháu tối nay có các tiểu thư nào dự tiệc, liệu nàng đào nhảy mà thằng bé ngưỡng mộ đã lâu có xuất hiện không.”

Tạ Tề Phàm khẽ hừ một tiếng.

“Còn cả ông cậu nhà họ Vân của cháu nữa, Phan Thịnh Đường ép ông ta rút cổ phần, tịch thu mất nhà máy lông lợn của ông ta, giờ mấy công nhân trong xưởng đang định lát sẽ tới tìm ông chủ Phan đòi công bằng đấy.”

Tạ Tề Phàm lắc đầu.

Cảnh Sâm nhìn ông với vẻ khó hiểu: “Cháu cứ tưởng chú sẽ thấy vui.”

“Chú mong được thấy cháu có thành tựu lớn, chứ không phải chỉ vỏn vẹn mấy trò khôn vặt cay nghiệt thế này.”

Cảnh Sâm như không nghe thấy gì, mắt anh nhìn thẳng: “Hôm nay cháu muốn buông thả một lần. Nghe nói ông Edmund thích nghe ca kịch Trung Quốc, Vân Tú Thành muốn lấy lòng ông ta nên hôm nay đã mời hẳn gánh hát giỏi nhất đến mua vui, chú Tạ, chú đoán thử xem họ sẽ diễn màn kịch hay nào?”

Tạ Tề Phàm khẽ cau mày, lặng im không nói gì.

Cảnh Sâm khẽ thốt: “’Bạch la sam’, nhưng đây không phải ý của cháu đâu.”

Tạ Tề Phàm chợt rùng mình, ông run run cất lời: “Cháu…”

Cảnh Sâm nở nụ cười xán lạn, khom người chào ông rồi tiến vào đám đông quần là áo lượt, bóng lưng anh cao gầy rắn rỏi. Tạ Tề Phàm nhìn mà chỉ thấy sự kiêu ngạo và mỏng manh cùng song song tồn tại nơi bóng lưng ấy.

Tạ Tề Phàm không khỏi nhớ tới cảnh tượng lần đầu mình gặp đứa trẻ này.

Không ai biết Tạ Tề Phàm ông là tâm phúc được một tay Trịnh Đình Quan dìu dắt tại thương trường Quảng Châu, ông qua lại rất thân thiết cùng nhiều hiệu buôn, với nhà họ Phan lại càng thêm gắn bó khăng khít. Vì muốn đưa cho hiệu buôn Anh số tiền thế chấp ba trăm nghìn hiện kim, Phan Thịnh Đường đã tặng vợ mình là bà Vinh làm tình nhân cho Trịnh Đình Quan, nào ngờ họ Trịnh lại nảy sinh tình cảm thật lòng với bà Vinh, thường tìm cơ hội lén lút gặp mặt. Phan sinh lòng đố kỵ, nảy ý đồ giết chết Trịnh, Tạ Tề Phàm biết rõ chuyện này, mà đương nhiên Trịnh Đình Quan cũng biết nên đã đề phòng vô cùng nghiêm ngặt. Song dù hết sức kín kẽ cẩn thận, nhưng hàng rào có kiên cố tới mức nào cũng phải tồn tại lỗ hổng, mà lỗ hổng này lại chính là người phụ nữ Trịnh Đình Quan yêu mến nhất.

Trịnh Đình Quan – cự phú số một Châu Giang vẻ vang hiển hách một đời đụng phải toán cướp bóc, đến lúc các vệ sĩ chạy tới, họ Trịnh đã bị người ta hạ sát bằng rìu, thảm thương không ai dám nhìn, đây từng là tin tức nóng hổi náo động Quảng Châu suốt mấy năm ròng.

Không ai biết khi vụ thảm án xảy ra, bà Vinh cũng có mặt tại hiện trường, não Trịnh Đình Quan bắn đầy mặt bà.

Người phụ nữ nọ bị trói chặt, gương mặt xinh đẹp tột cùng trắng bệch như giấy, tựa đã thành ra si dại, bà bị trói trên cửa chiếc xe hơi sang trọng của Trịnh Đình Quan, đây chính là chiếc xe năm ấy Phan Thịnh Đường đã chuyển nhượng lại cho Trịnh Đình Quan với cái giá rẻ mạt để nịnh nọt bợ đỡ, là chiếc ô tô đầu tiên tại Quảng Châu, cũng là chiếc xe được Phan Thịnh Đường mua vì quan tâm săn sóc người vợ bó chân đi lại không tiện. Có lẽ ông ta rất yêu người phụ nữ này, yêu tới tận xương tủy, cũng hận tới tận xương tủy, để trừng phạt sự phản bội của bà, Phan Thịnh Đường đã dựng nên một màn kịch mưu sát tàn nhẫn nhất cõi đời. Lúc vụ án diễn ra Phan Thịnh Đường đang ở Hán Khẩu, nhưng từng đường đi nước bước đều được ông ta trù tính hết sức tinh vi, điều duy nhất ông ta không ngờ tới là khi gặp mặt Trịnh Đình Quan, bà Vinh còn đưa theo con trai mình, ông ta cũng không không ngờ nửa tiếng trước khi sự việc xảy ra, Hà Sĩ Văn uống say túy lúy với Tạ Tề Phàm đã lỡ để lộ tin tức.

Khi Tạ Tề Phàm đưa người đuổi tới nơi, Trịnh Đình Quan đã bị giết hại, bà Vinh bất tỉnh nhân sự, lũ côn đồ cũng biến mất dạng.

Tạ Tề Phàm quỳ xuống trước thi thể Trịnh Đình Quan, trong màn nước mắt mông lung, ông chỉ thấy một đứa bé đang chạy xuống từ gò đất gần đó, bàn tay nhỏ giơ bó hoa vàng lên cao thật cao.

Cậu bé trai gọi: “Mẹ ơi, mẹ ơi! Con hái được hoa rồi!”

Tạ Tề Phàm đau đớn tột cùng, ông giằng lấy khẩu súng từ tay gã vệ sĩ đứng cạnh, nghiến răng nói: “Được, được lắm! Con trai của Phan Thịnh Đường đang ở đây, giờ tôi sẽ giết nó báo thù cho anh Trịnh!”

Ông chầm chậm tiến về phía đứa bé trai, lúc chỉ còn cách nó mấy bước, ông thấy đứa bé này có đôi mắt vô cùng đẹp đẽ, hệt như được vun được đắp nên từ tuyết, cặp mắt sáng rực tựa sao sa.

Cặp mắt to đáng yêu hồn nhiên của cậu bé trai nhìn ông, cũng nhìn cả họng súng lạnh băng đang chĩa vào trán mình.

“Cháu phải tới chỗ mẹ.” Cậu bé cất chất giọng non nớt, nhưng lại chẳng mảy may sợ hãi.

Tạ Tề Phàm gằn giọng: “Mẹ cháu họ Vinh.”

Cậu bé gật đầu.

“Vậy thì, cha cháu họ Phan.”

Cậu bé lại gật đầu, cậu lẳng lặng nhìn người đàn ông xa lạ trước mắt, người đàn ông đã chặn mất tầm nhìn của cậu, ông cao lớn tới vậy, đau đớn tới vậy, đáng sợ tới vậy.

Cậu bé lùi về phía sau một bước.

Tạ Tề Phàm gằn từng chữ: “Phan Thịnh Đường cha cháu đã giết ân nhân mà tôi kính yêu nhất, dù cháu còn nhỏ, cháu vô tội, nhưng hôm nay tôi vẫn phải giết cháu. Sau này cháu chết có biến thành quỷ cũng được, đầu thai báo thù cũng được, hãy nhớ kỹ lấy tên tôi, tôi là Tạ Tề Phàm.”

Ngón tay ông chầm chậm đặt lên cò súng, đứa trẻ ngơ ngác nhìn ông, rồi lại chợt cất tiếng trong trẻo âm vang:

“Cháu tên là Trịnh Ngân Xuyên!”
 
Quyển 1 - Chương 23


Anh tên là Trịnh Ngân Xuyên. Cái tên này đã náu mình ẩn giấu trong lòng chàng thiếu niên suốt bao năm ròng.

Giờ phút này đây, anh đứng trong góc tối, thưởng thức vẻ mặt của Phan Thịnh Đường.

“Bạch la sam”. Đầu óc Vân Tú Thành đúng là có vấn đề, ông ta dám diễn “Bạch la sam”, nịnh bợ Edmund, nhưng lại cứa thẳng vào tim Phan Thịnh Đường một nhát.

Màn kịch này kể chuyện tên cướp Từ Năng định giết chàng thư sinh Tô Vân, hòng chiếm đoạt vợ chàng. Trong khi chạy trốn, họ Tô và vợ lạc mất nhau, trên đường đào thoát Tô thê đã hạ sinh con trai bên bờ sông, oái ăm thay, họ Từ lại tình cờ bắt gặp đứa bé này, mang về nuôi nấng, đặt tên là Từ Kế Tổ, nhiều năm về sau, Từ Kế Tổ đăng khoa đỗ tiến sĩ, nhận chức quan Án sát Ngự sử, ngẫu nhiên phát hiện ra chân tướng. Sau khi đối mặt với con trai mình, Từ Năng tuyệt vọng trốn vào hậu đường tự sát.

Đang ca đến đoạn “Vặn hỏi cha”, vai lão sinh mặt trắng (*) đau đớn than: “Từ ngày nhặt được mụn con ngoài đường, coi như trân như bảo, ba tuổi đút mớm, thức khuya dậy sớm, lên năm lên sáu cõng nơi đầu vai nô đùa, lên bảy mời thầy dạy chữ, bướng bỉnh cũng nào nỡ đánh mắng… Đến năm mười tám vẫn gắn bó nương tựa tới giờ này!… Nào ngờ một khi nhẹ bước thanh vân, thượng phương bảo kiếm lại rời vỏ…

Lục súc nuôi lâu, còn chẳng nỡ lòng động đao, con ơi!”

 (*) Lão sinh là vai nam trung niên, mặt trắng là vai có tính cách gian trá độc ác, ở đây là vai Từ Năng trong “Bạch la sam”.

Từng chữ như nhỏ huyết lệ.

Gân xanh nổi lên nơi bờ trán Phan Thịnh Đường, dưới ánh đèn màu, gương mặt ông ta trắng bệch như giấy.

Chàng trai nở nụ cười lạnh: Không, không, kẻ đó nào bì được với gã cướp đang đau đớn khóc ròng trên kia, dù tên cướp hung tàn tham lam, nhưng tình yêu thương dành cho đứa con nuôi lại rất đỗi chân thành, không mảy may có chút lòng riêng dạ kín, cuối cùng, gã thà tự sát chứ không muốn để đứa con nuôi chết cùng.

Còn kẻ đó, cái kẻ anh đã gọi là cha suốt mười bảy năm trời đã làm gì?

Ngân Xuyên siết chặt nắm đấm.

Anh không thể quên được.

Anh không thể quên đêm ấy, anh núp ngoài cửa, khi đó anh mới bốn tuổi, thấy áo quần mẹ rách bươm, gương mặt in dấu bàn tay đỏ rực, bờ vai trần trụi loang lổ những vệt tím xanh, người đàn ông đó đang chất vấn bà, giọng điệu ông ta dữ dằn tột cùng: “Cô còn tằng tịu với gã khác sau lưng tôi ư? Tôi nuôi cô, cho cô ăn ngon mặc đẹp, vậy mà cô lại ti tiện lăng loàn tới mức này, vô liêm sỉ! Nói, cô gặp Trịnh Đình Quan lúc nào?”

Mẹ vốn là con nhà quan, dù giờ hèn mọn như bùn, nhưng vẫn giữ lấy tự tôn, bà lẳng lặng ngẩng đầu, mắt ráo hoảnh không ánh lệ: “Năm ấy tự tay anh bán tôi cho anh ta, sau đó anh chê tôi dơ bẩn, bỏ tôi đi như giày rách, Thịnh Đường, không công bằng.”

“Cô có tư cách gì mà gọi tên tôi? Cô có tư cách gì mà đòi công bằng với tôi? Đồ đĩ, trong lòng tôi cô chẳng đáng giá lấy một xu.”

Mẹ anh nở nụ cười đau buồn, không phản bác nữa.

“Nói gì đi chứ! Sao lại không nói nữa?”

“Nếu tôi đã chẳng đáng một xu thì chi bằng anh hãy đuổi luôn chúng tôi đi. Hay anh sợ Trịnh Đình Quan, phải giữ tôi lại làm món bảo bối trông nhà cho anh?”

“Im mồm!” Phan Thịnh Đường giận dữ giáng thẳng một cú tát lên mặt bà, rồi ông ta lao đến bóp chặt lấy cần cổ trắng mịn của vợ mình. Mẹ anh đến rên cũng chẳng buồn rên, khóe môi bà chỉ còn nụ cười nguội lạnh nản chí.

Đứa bé con nhìn mà vừa sợ vừa hận, dù người đàn ông đó thờ ơ lạnh lùng với mẹ con họ, nhưng chưa từng để lộ vẽ dữ dằn hung tợn như giờ phút này, cậu bé muốn lao tới cứu mẹ, nhưng Hà Sĩ Văn lại kéo cậu vào lòng, bế cậu đi, cậu vùng vẫy trong im lặng, gương mặt đỏ gay, thở hổn hển, nước mắt đầy mặt.

“Cậu cả, nếu muốn giữ mạng, nếu muốn cứu mẹ cậu thì phải nhẫn nhịn.” Hà Sĩ Văn an ủi cậu, vỗ về cậu, nhưng lòng cậu chỉ có nỗi hận, hận mình quá nhỏ bé, quá yếu ớt, hận người đàn ông đang đánh đập mẹ, hận cả kẻ đang ôm cậu, cái kẻ mang mặt nạ giả nhân giả nghĩa, nhưng lại luôn luôn ức hiếp lăng nhục mẹ cậu.

Dao cùn xẻ thịt, kiến mối nhấm tim. Dù mới bốn tuổi, nhưng cậu đã nếm được hương vị tim gan bị gai độc xuyên khoét.

Con yêu, con không phải con trai của Phan Thịnh Đường, con họ Trịnh, con tên là Trịnh Ngân Xuyên.

Mẹ đã nói với cậu như vậy.

Cái hôm cha ruột cậu bị Phan Thịnh Đường lập mưu sát hại, mẹ nắm lấy tay cậu, chỉnh lại cổ áo bộ đồ Tây nhỏ xíu của cậu: “Con hãy cố gắng chịu đựng thêm vài ngày, chúng ta sẽ rời khỏi nhà họ Phan, sống những ngày tháng bình yên.”

“Nhưng nếu cha biết thì phải làm thế nào? Ông ấy có đánh mẹ không?”

“Ông ta không phải cha con, con hãy nhớ cho kỹ, hôm nay mẹ nói cho con biết, người đàn ông họ Phan kia không phải cha con, con tên là Trịnh Ngân Xuyên, cha con là mại bản số một Nam Quảng – Trịnh Đình Quan, vì ba trăm nghìn lượng bạc mà Phan Thịnh Đường đã bán mẹ cho người ấy, sau đó mẹ mới sinh ra con. Nhà họ Trịnh là gia tộc đầu tiên mở hiệu buôn ra đến tận Tây Bắc Ngân Xuyên, Ngân Xuyên tượng trưng cho niềm kiêu ngạo của Trịnh gia, cái tên này là do cha ruột đặt cho con. Lát nữa con sẽ được gặp ông ấy.”

Cậu chỉ gặp mặt cha mình hai lần, vào cùng một ngày. Lần đầu tiên, cha cậu vẫn còn sống, ông ngồi trên chiếc xe hơi xa xỉ, đón lấy cậu từ lòng mẹ, đặt cậu lên đùi mình: “Tiểu Xuyên, cha đã để con phải chịu thiệt thòi rồi.” Ánh mắt uy nghiêm của ông pha nét dịu dàng, nhưng khi quay sang mẹ, lại thoáng hiện vẻ trách cứ, “Mẫn Huyên, em giấu tôi, em giấu kỹ lắm. Nếu không phải không thể ở lại nhà họ Phan được nữa, chắc em định giấu tôi cả đời?”

Mẹ anh trầm lặng, không bảo đúng cũng chẳng nói sai: “Tôi đã cưới Thịnh Đường, dù có bị đày đọa dưới địa ngục tôi cũng phải theo anh ta cả đời. Tôi đến tìm anh chỉ vì con thôi. Cái mạng này của tôi chẳng có gì đáng tiếc, tôi có thể chịu khổ, nhưng con thì không được.”

“Em nỡ bỏ con ư?” Trịnh Đình Quan nhìn bà chằm chằm.

“Tôi muốn anh đưa nó ra nước ngoài, giữ cho nó an toàn, để nó được hưởng sự giáo dục tốt nhất, sống cuộc sống an lành nhất. Phan Thịnh Đường sĩ diện, dù con có tới nhà anh thì anh ta cũng sẽ tự tìm ra cớ giải thích. Tôi bằng lòng ở lại nhà họ Phan chịu khổ thay thằng bé. Không ai trong nhà họ Phan biết chuyện hôm nay tôi mang con tới tìm anh.”

Trịnh Đình Quan cau mày: “Em quá coi thường năng lực của tôi.”

Mẹ anh dửng dưng: “Trong bụng tôi vẫn còn một đứa trẻ nữa, dù có muốn rời khỏi nhà họ Phan tôi cũng phải sinh nó ra rồi hẵng nói tiếp. Chẳng lẽ Trịnh Đình Quan anh cũng muốn nuôi con hoang giống Phan Thịnh Đường ư?”

“Em im ngay!” Thịnh Đình Quan giận dữ quát, “Em coi thường tôi tới vậy ư?”

“Mẹ ơi…” Cậu sợ hãi run rẩy.

Nét mặt Trịnh Đình Quan tức khắc dịu lại, ông khẽ vỗ vai an ủi anh: “Con trai ngoan, con ra ngoài chơi đi, ở ngoài kia có nhiều hoa đuôi diều màu vàng đẹp lắm, con hái hoa về cho mẹ nhé.”

Anh do dự nhìn mẹ, đôi mắt ngấn lệ của mẹ mang theo nét cười mơ hồ: “Con đi đi, đi hái một đóa hoa cho mẹ.”

Trịnh Đình Quan rút một sợi dây khóa bạc sáng lấp lánh ra từ ngực: “Đây là khóa bạc trường mệnh gia truyền, đơn truyền ba đời nhà họ Trịnh, hôm nay cha trao nó cho con. Xuyên Nhi, con trai ngoan, cha sẽ để con và mẹ được sống những ngày tháng hạnh phúc.”

Khi ấy cậu cứ ngỡ người cha xa lạ này sẽ đeo sợi khóa bạc lên cổ mình, nhưng ông không làm vậy, ông trao nó cho mẹ, hàng lông mi dài rậm của mẹ cụp xuống, bà nhìn sợi khóa bạc sáng bóng, mềm mại như ánh trăng trong lòng bàn tay: Hoa khai phú quý, thiên trường địa cửu.

Cuối cùng gương mặt bà cũng đã dao động.

Đã rất lâu, rất lâu rồi cậu không nhìn thấy mẹ nở một nụ cười an lòng đẹp đẽ tới nhường này, trong niềm hy vọng thoáng thắp, trong vui sướng thấp thỏm và vô số những ngờ vực băn khoăn, cậu chạy lên thung lũng nhỏ phía xa xa, đúng là ở đó có vô số những đóa hoa đuôi diều màu vàng kim, nối nhau trải khắp, phủ vàng một mảng, những cánh hoa mơn mởn dập dờn trong gió. Ánh mặt trời hắt lên đỉnh đầu cậu, đây là ký ức vui vẻ nhất của cậu thời còn thơ ấu, dù nó ngắn ngủi là vậy, dù nó ngắn ngủi tới tàn nhẫn là vậy.

Lần thứ hai gặp lại cha, cha đã chỉ còn là một cái xác nát nhừ.

Cuối cùng Tạ Tề Phàm vẫn chậm một bước, sau khi biết cậu là con trai của Trịnh Đình Quan, Tạ Tề Phàm vội vã đưa cậu đi. Cậu vừa đạp vừa cắn, cuối cùng, dùng hết toàn bộ sức lực trong cơ thể để thét lên: “Cha, mẹ! Cha! Mẹ!”

Mỉa mai làm sao, lời của Tạ Tề Phàm lại hệt như Hà Sĩ Văn: “Con trai, nếu muốn sống sót thì phải nhẫn nhịn.”

Trịnh Đình Quan chết rồi, dù cậu tới nhà họ Trịnh cũng chẳng ai che chở nổi, không biết Phan Thịnh Đường có hay cậu là con trai Trịnh Đình Quan không. Nếu biết, ông ta có thể ám sát được Trình Đình Quan, thì giết thêm một thằng bé miệng còn hơi sữa này dễ như trở bàn tay.

Sinh tồn nơi miệng cọp, có khi vẫn còn cơ hội sống sót trong hiểm cảnh.

Cậu được lẳng lặng đưa về nhà họ Phan.

Không ai an ủi cậu. Không ai biết cậu đã trải qua tình cảnh và sự chia ly thê thảm tới nhường nào.

Đêm đó, mẹ được người của đồn cảnh sát đưa về nhà họ Phan, cũng chính đêm đó, Hà Sĩ Văn đã trút cho mẹ bát thuốc phá thai.

Khi ấy dù còn nhỏ, nhưng cậu vẫn thấy gương mặt nhợt nhạt của mẹ, cậu lờ mờ ý thức được, có lẽ khoảnh khắc này đây, niềm khao khát sống cuối cùng của bà đã lụi tắt rồi.

Cậu từng cho rằng mình là hy vọng của mẹ, là ngọn lửa của mẹ, trong giờ phút lạnh lẽo đơn côi nhất, cậu sẽ mang lại ấm áp cho bà, dù hơi ấm ấy có bé nhỏ tới đáng thương.

Nhưng cậu không thể sưởi ấm nổi cho bà nữa rồi. Vì đến cả mẹ cũng không biết phải bảo vệ cậu ra sao, phải sống sót trong địa ngục với cậu thế nào.

Bọn họ tứ cố vô thân.

Ba ngày trước khi qua đời, mẹ từng định mang cậu theo.

Mẹ tìm một bộ đồ mới chưa từng khoác trong rương của hồi môn, trang điểm ăn mặc chỉnh tề ngay ngắn, bừng bừng sức sống, mẹ dắt cậu đi qua từng con hẻm nhỏ ở Châu Giang, đi qua Lệ Loan, đi qua Tô giới, đi qua hiệu buôn Tây, thật ra cậu biết mẹ đang từ biệt tất thảy dĩ vãng của cuộc đời mình, cũng đang từ biệt cậu.

“A Xuyên,” mẹ gọi tên thật của cậu, “chúng ta cùng chơi một trò chơi nhé?”

“Vâng ạ!” Cậu ngoan ngoãn đáp lời, giả bộ rất mừng rỡ.

Mẹ nói: “Chúng ta cùng chơi bịt mắt bắt dê, con trốn, mẹ đi tìm con, thế có được không?”

Cậu sững sờ, chợt thét to: “Không!”

“Sao vậy con?”

Cậu chợt khóc váng lên: “Mẹ ơi, mẹ đừng bỏ con. Con biết mẹ muốn bỏ con.”

Cậu khóc đau xé lòng, hai vai co lại run run, gió thổi qua mặt nước Châu Giang, ấm áp thơm nồng, nhưng lòng cậu chỉ tràn ngập sự bất lực và tuyệt vọng. Cậu biết mẹ phải đi rồi, sớm muộn gì bà cũng phải đi. Cậu muốn giữ bà lại, được chừng nào hay chừng ấy. Nhưng trừ khóc ra cậu còn có thể làm gì? Cậu chỉ là một đứa trẻ thật vô dụng, vô dụng!

Mẹ ngẩn ra, không nói lời nào, vẻ mặt bà lạnh lẽo, cặp mắt trống rỗng, cậu không biết phải làm sao, khóc tới độ không thở nổi. Chẳng biết đã bao lâu trôi qua, mẹ mới vươn tay nắm lấy bàn tay bé nhỏ của cậu: “Con đừng khóc nữa, không phải mẹ vẫn còn ở đây sao?”

Cậu nghẹn ngào đi theo bà, trông bà dõi ánh nhìn ngơ ngác về phía mặt sông mênh mông, đương giữa hạ, đâu đâu cũng ngợp trong sắc xanh. Mẹ khẽ tựa bên lan can bờ sông, chợt nhỏ giọng cất tiếng hát:

“Nước thanh thanh, hương vải thoảng, tre biếc mảnh, tương tư dài. Chuông tối bầu bạn cùng đêm buông, tình tan chiều tàn ngày lại nối.”

Cậu không hiểu ý nghĩa trong ca từ, chỉ cảm thấy réo rắt bi ai, thê lương không gì sánh nổi, khiến cậu càng thêm sợ hãi, cậu rút chiếc khăn tay nhỏ, nhón chân muốn gạt lệ trên gò má mẹ, nhưng cậu không đủ cao, có với thế nào cũng không tới.

Cuối cùng mẹ cũng cười, cậu như bắt được vàng, lệ còn ầng ậc nơi hốc mắt, nhưng vẫn ra sức toét miệng cười, bàn tay nhỏ cố hết sức vươn ra, cậu cứ tưởng làm thế này mẹ sẽ thích, sẽ vui.

“Nào, để mẹ bế con.”

Mẹ bế cậu lên, cậu níu chặt lấy cổ bà, vùi gương mặt bé nhỏ vào hõm gáy bà.

“A Xuyên, hình như con lớn hơn đấy, mẹ sắp không bế được con nữa rồi.” Mẹ xoa đầu cậu, bệnh bà con chưa khỏi, gương mặt trắng bệch như giấy, lúc nói chuyện bờ môi cứ run rẩy. Cậu dè dặt dùng khăn tay lau nước mắt cho bà, nói: “Mẹ, con sẽ để dành hết đồ ăn cho mẹ, con không muốn lớn, con muốn ngày ngày được mẹ bế.”

“Cậu bé ngốc, con là đàn ông con trai, sao để mẹ bế ngày ngày được chứ. Con sẽ lớn lên, rồi sẽ có lúc mẹ không bế nổi con nữa.”

“Con không muốn lớn!”

Mẹ mỉm cười, hàng mi bà hơi rũ xuống, như có ý nghĩ gì đó đang rục rịch, chốc lát sau, bà nâng tay lên, đặt cậu ngồi xuống lan can, đối mặt với bờ sông. Gió sông cuốn theo hơi nước ùa lên lưng cậu, mẹ kề trán lên trán cậu, khẽ nói: “Nếu con không lớn lên, thì cũng tốt.”

Bàn tay lành lạnh của bà khẽ dời lên vai cậu, cậu chợt hiểu ra điều gì, đột nhiên cậu không còn sợ hãi nữa, mà chỉ cảm thấy được giải thoát. Nếu cậu được giải thoát, có khi mẹ cũng sẽ được giải thoát.

Cậu chỉ mặc một chiếc áo choàng không tay ngắn mỏng, bả vai và cánh tay trần trụi cảm giác được nhiệt độ lạnh lẽo nơi tay mẹ, tay bà run bần bật, cậu lại chẳng hề thốt một tiếng, chỉ im lặng, ngoan ngoãn nhìn bà, giờ phút này đây, cậu chỉ muốn làm đứa trẻ ngoan nhất trên đời, chỉ cần mẹ không đau khổ nữa, bảo cậu làm gì cũng được.

“A Xuyên”, bà hôn lên mặt cậu, nhìn cậu chăm chú, niềm yêu thương ngập tràn, “Châu Giang nối liền với đại dương, dưới đại dương có long cung, nếu chúng ta nhảy xuống đây, bơi đi, bồng bềnh trôi dưới nước, là sẽ trôi ra đại dương, đến đó rồi không ai còn có thể tìm thấy chúng ta nữa, cũng không ai bắt nạt chúng ta nữa. Hai mẹ con mình cùng đi nhé, có được không?”

Cậu gật đầu thật mạnh: “Vâng ạ!”

Bà ôm cậu vào lòng, để cậu đối mặt với nước sông cuồn cuộn, có mấy lần thân thể cậu nghiêng về phía trước, hóa ra mẹ đang đẩy cậu, nhưng cứ đến lúc cậu sắp rơi xuống, bà lại kéo cậu về, cậu không nhìn thấy nét mặt mẹ, chỉ nghe được tiếng thở hổn hển và âm thanh bà khóc thút thít, cậu nói: “Mẹ ơi, mẹ không có sức đẩy con hả mẹ?”

Bà vùi đầu vào lưng cậu, nước mắt cuộn trào thấm ướt áo cậu: “Ừ, mẹ không có sức.”

“Con có thể tự nhảy xuống!” Cậu reo lên, “Con xuống trước, rồi mẹ theo sau nhé.”

Cơ thể mẹ run lên, thoáng buông lỏng cậu, cậu bèn ra sức nhảy xuống lòng sông, cậu không muốn trở thành gánh nặng, thành nỗi phiền lụy của mẹ, vậy nên cậu đã dùng hết sức lực của mình. Cậu ngửi thấy thứ mùi ẩm ướt tanh tanh của nước sông, cậu nhìn thấy những bông thủy nữ mơn mởn đung đưa trong sóng nước, cậu còn nghe thấy cả tiếng cười vọng lại từ khu chợ ngoài xa, đây là âm thanh ít khi xuất hiện trong cuộc sống của cậu và mẹ, là tiếng cười rất đỗi tươi vui vô lo. Đến khi tới một thế giới khác, có lẽ mọi chuyện sẽ không còn như xưa? Có lẽ cậu sẽ được nghe thấy tiếng cười ấy mỗi ngày?

“Xuyên Nhi!” Mẹ thét lên, eo cậu bị túm chặt lại, mẹ kéo siết cậu về, ôm cậu vào lòng, “Không, mẹ không muốn con chết. Con còn nhỏ thế này, con vẫn còn nhỏ thế này.” Bà quỳ xuống đất, hôn cậu, vuốt ve gương mặt và bờ lưng cậu, “Mẹ sai rồi, Xuyên Nhi, con đánh mẹ đi.”

Bà cầm lấy bàn tay bé nhỏ của cậu, đánh vào mặt mình, “Con đánh mẹ đi, mẹ không có lương tâm! Suýt nữa mẹ đã hại chết con rồi!”

Cậu sợ điếng người, thấy sự cứng rắn kỳ lạ hiện lên trong đôi mắt gần như cuồng dại của bà: “Dù có chết mẹ cũng phải để con sống tiếp.”

Ba ngày sau, mẹ tự sát. Vứt đứa con trai mới chỉ bốn tuổi lại thế gian khắc nghiệt, cô độc đối mặt với sự xa hoa lạnh lẽo vô tình, trong những màn tiệc tùng ca múa như lồng giam. Cậu không kịp nghe sự sắp xếp mẹ dành cho tương lai cậu, nhưng trước khi ra đi, bà muốn từ giờ cậu phải giữ kín lấy bí mật về thân thế của mình cho tới khi trưởng thành.

Không ai trong nhà họ Phan biết cậu là con trai của Trịnh Đình Quan, bao gồm cả Phan Thịnh Đường. Bà muốn cậu làm con trai trưởng của nhà họ Phan, giữ lấy cái thân phận này, cũng giữ lấy tính mạng mà sống cho yên. Bà không muốn cậu báo thù, thậm chí bà chưa từng thể hiện nỗi oán giận dành cho Phan Thịnh Đường, người đàn ông đó phụ bạc, tàn nhẫn với bà là thế, như một ly rượu độc mà số kiếp tặng cho bà, bà nâng ly rượu một hơi uống cạn.

Bà dùng cái cách nhục nhã nhất để van xin Hà Sĩ Văn, xin ông ta che chở cho con trai mình, bà cũng dùng cái chết để đưa ra lời thỉnh cầu duy nhất trong suốt cả cuộc đời. Nếu bà sống, lòng hoài nghi và sự ghét bỏ của Phan Thịnh Đường sẽ chỉ ngày càng sâu đậm. Bà chết rồi, có lẽ sẽ đem theo được một phần oán hận mà ông ta dành cho bà.

Chắc hẳn uống thuốc độc không phải chuyện ngày một ngày hai, bà Vinh đã từ từ dập tắt ngọn đèn sinh mệnh của mình.

Bà mặc bộ đồ màu ngọc trai mà ngày mới cưới từng khoác, đây là bộ váy bà thích nhất, rồi để bức huyết thư dưới gối:

“Mệnh thiếp như lục bình, không nơi chốn nương tựa, chỉ xin quân thương xót, giữ lòng dạ thuở đầu.”

Lòng dạ thuở đầu, lòng dạ thuở đầu…

Có lẽ giữa bà và người đó cũng từng có khoảng thời gian tuyệt đẹp không gì thay thế nổi, từng có tình cảm chân thật trong vắt như thủy tinh, nhưng lòng dạ thuở đầu đã bị cứa nát trăm nghìn vết rạch, hồi ức cô đọng lại thành một ly độc trấm, ăn mòn tất thảy, chỉ còn lại một màn cược tuyệt vọng, một lời nói dối bà bày ra bằng sinh mệnh của mình.

Nuốt thang thuốc cuối cùng, đợi đứa con trai đang chơi ngoài sân chạy vào phòng, thân thể bà đã co quắp trong cơn đau đớn tột cùng, nhưng bà vẫn nén nỗi đau, đặt sợi khóa bạc nhà họ Trịnh vào tay đứa con trai đã sợ hãi rơi nước mắt.

“Con cất nó đi, nếu người khác hỏi thì bảo là mẹ đưa, là đồ của mẹ.”

“Mẹ ơi, sao mẹ lại chảy máu?” Cậu vội vươn tay lau máu chảy ra từ miệng và mũi mẹ, nhưng thật sự bà đã không còn sức để an ủi đứa con trai này rồi, bà nằm trên chiếc giường hồi môn được mang theo ngày gả về nhà họ Phan, chiếc giường lớn chạm hoa ba lớp cửa, như một tòa lầu các, cũng là phần mộ của bà.

Ánh sáng ảm đạm, bụi bặm bay nhảy nơi khe gỗ, Ngân Xuyên phát hiện ánh mắt rệu rã của bà đang lướt qua đỉnh đầu cậu, nhìn ra phía sau, như đang kiếm tìm ai đó.

Bà đang nhìn ai vậy?

Là cha cậu, Trịnh Đình Quan, hay Phan Thịnh Đường đã đày đọa giày vò bà đến chết?

Là kẻ bạc tình nhẫn tâm, hay là người chồng mà cô dâu xinh đẹp từng ngày đêm mong chờ?

“Nước thanh thanh, hương vải thoảng…” Bà khẽ lẩm bẩm, “Chuông tối bầu bạn cùng đêm buông, tình tan chiều tàn ngày lại nối…” Khóe môi dần hiện nét cười, bà cười tươi tắn đẹp xinh như thiếu nữ.

Khi ấy Ngân Xuyên chợt cảm thấy, bà vẫn đang chờ đợi Phan Thịnh Đường, trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời, bà vẫn cứ đợi tên đàn ông nhẫn tâm ấy, tên đàn ông sớm đã phụ bạc bà.

Lông mi bà chầm chậm cụp xuống, ánh mắt tĩnh lặng như một pho tượng.

Bà chết rồi, còn Ngân Xuyên con trai bà thì sống tới tận giờ này, dựa vào sự chở che của “lòng dạ thuở đầu” nơi bà.

Thân không tranh với ai, thiên hạ cũng chẳng kẻ nào tranh với mình. Tạ Tề Phàm từng khuyên anh như vậy. Ông muốn anh phải ẩn nhẫn bằng mọi giá, phải học cách bảo vệ bản thân, học cách giả vờ ngây ngốc, học cách làm bộ vô năng.

Giờ anh đã mười bảy tuổi, may nhờ có gương mặt giống mẹ, may nhờ sự che chở hết lòng hết dạ của Hà Sĩ Văn và dạy dỗ vun xới tỉ mỉ từng li của Tạ Tề Phàm, anh vượt qua được từng mối hoài nghi trù tính, từng lần thử thách hiểm hóc của Phan Thịnh Đường. Từ chỗ chỉ mong tự bảo vệ bản thân, cho đến khi ngấm ngầm âm mưu báo thù, từng ngày, từng năm trôi qua, anh đã tôi rèn sự ẩn nhẫn và cả tàn nhẫn cho mình.

Lúc này đây, trong ánh đèn vờn bay làm hoa mắt người, anh hả hê thưởng thức nỗi đau đớn trên gương mặt Phan Thịnh Đường. Hôm nay không chỉ là ngày sinh nhật của Edmund, mà cũng là ngày giỗ của mẹ anh, Vinh Mẫn Huyên. Rốt cuộc người đàn ông kia đang đau khổ vì lẽ gì? Đau khổ vì đã dùng mấy trăm nghìn hiện kim để đổi lại một đứa con trai tàn phế, liều cái mạng già kính biếu đám người nước ngoài mới giữ được vị trí tổng mại bản lung lay chực ngã? Hay đau lòng vì người phụ nữ đã sớm bị vứt xuống vong xuyên, dù có lẽ ông ta đã quên gương mặt người phụ nữ đó từ lâu rồi, nhưng “lòng dạ thuở đầu”, thứ duy nhất mà bà lưu lại vẫn cứ bầu bạn bên ông ta như rắn rết?
 
Quyển 1 - Chương 24


“Đã có tin tức gì của ngài Đồng chưa?”

“Nghe nói ngài ấy đã trở về Hán Khẩu an toàn rồi.” Vân Thăng ghé lại thì thầm, “Hồng Toàn Căn đã chết.”

Ánh đèn chớp động trong mắt Ngân Xuyên: “Dù đây là chuyện người một nhà thanh lý lẫn nhau, còn kiếm được một khoản tiền nho nhỏ, nhưng dù sao tôi cũng đã nợ ân tình của ngài Đồng.”

“Cậu cả, nghe nói trước khi đi cậu sẽ đính hôn với cô Vân?”

Ngân Xuyên nhướng mày: “Ai nói vậy? Cậu tôi sao?”

Vân Thăng liếc sang phía khác: “Cô Vân dò hỏi tôi, hỏi xem bệnh của cậu có khá hơn không, quần áo mới đã may xong chưa.”

Ngân Xuyên nhìn Phan Thịnh Đường chằm chằm, trùng hợp thay, ông ta cũng đưa mắt nhìn về phía anh. Hai cặp mắt giao nhau trong thoáng chốc, lòng Ngân Xuyên rét lạnh.

Phụ nữ, lại là phụ nữ. Một Địch Huệ Lan, rồi lại thêm một Vân Lang. Người phụ nữ nào cũng vậy, dù cao quý, dù ti tiện, thì cũng đều là tờ séc được Phan Thịnh Đường ông dùng để mưu cầu lợi ích, khống chế kẻ khác.

Anh quay người nói với Vân Thăng: “Anh bảo em Vân lên phòng nghỉ lầu hai đi, tôi có chuyện muốn nói với em ấy.”

Vân Lang khẽ nâng váy, khựng lại trước chiếc gương treo nơi góc ngoặt tầng hai, thiếu nữ trong gương có làn da trắng muốt trong suốt, cánh mũi xinh xắn, đôi mắt nhỏ dài đẹp tuyệt vời, sao mà dịu dàng ôn hòa… Cô nghiêm mặt, mong sao cho giống một người phụ nữ trưởng thành, hồi lâu sau lại khẽ cong môi, nở nụ cười xinh đẹp yêu kiều, ý cười dần đậm, nhuộm đỏ cả gò má.

Ánh đèn như nước chảy, cô hít sâu một hơi, khẽ khàng đẩy cửa phòng nghỉ.

Ngân Xuyên đang ngồi trước cửa, cúi đầu nghịch hộp thuốc lá màu bạc trong tay, những gốc cây ngoài cửa lay động đổ bóng vào phòng, ánh sáng phản chiếu nét dịu dàng trên gương mặt anh, nghe tiếng bước chân của cô, anh khẽ ngẩng đầu lên, lẳng lặng nhìn cô gái nọ.

“Anh Cảnh Sâm.” Cô khẽ thốt, gò má ửng hồng, “Anh đã khỏe hơn chưa? Có còn ho không?”

Anh nói: “Không có tác dụng gì đâu.”

Vân Lang kinh ngạc nhìn anh.

“Sự quan tâm và yêu mến của em không có tác dụng gì với tôi đâu. Em bỏ cuộc đi.”

Vành mắt Vân Lang đỏ hoe: “Anh… anh đang nói gì vậy? Em không hiểu.”

“Chắc em cũng nghe tin chúng ta chuẩn bị đính hôn rồi đúng không?” Anh nói, ánh mắt thản nhiên như không.

Cô không khỏi lùi về sau một bước.

Anh luôn đối xử dịu dàng với cô, đôi khi còn lộ vẻ thân thiết. Ngày thường, đám bạn cười đùa với nhau cũng hay bảo hai người họ môn đăng hộ đối, tài mạo xứng đôi, có thể kết thành cặp vợ chồng thân càng thêm thân, mà cô mến mộ anh từ nhỏ, nhưng lại chưa bao giờ cảm nhận được khoảng cách và sự đề phòng lạnh băng trong vẻ mặt và lời nói của anh như giờ phút này.

Cô khẽ chạm mu bàn tay vào sợi dây chuyền ngọc trai trên cổ, cóng rét như mưa lạnh, cô căng thẳng siết lấy sợi dây, trái tim chùng xuống, cô sợ anh sẽ nói ra những lời khiến cô thất vọng.

Ngân Xuyên trịnh trọng đứng dậy: “Dù trên danh nghĩa chúng ta là họ hàng với nhau, nhưng em không hề hiểu tôi.

Hôm nay tôi sẽ nói cho em nghe về chuyện của tôi. Chắc em cũng biết, ngày mẹ chưa qua đời, cha tôi quanh năm không về nhà, cưới vợ lẽ ở Hán Khẩu, sau khi mẹ mất bà ấy mới được đưa lên làm cả, bà vợ lẽ này là bác của em, cũng chính là người mẹ hiện tại của tôi.”

Vân Lang gật đầu.

“Cha mẹ tôi bên nhau thì ít xa nhau thì nhiều, bà đã phải sống những ngày tháng vô cùng cô độc. Em Vân, nếu chúng ta kết hôn, có thể em sẽ còn đáng thương hơn cả mẹ tôi. Ít nhiều gì cha tôi cũng có tình cảm với mẹ, mà tôi thì thậm chí còn không có tình anh em với em.”

Vân Lang cố nén lệ, bả vai bắt đầu run rẩy.

“Mọi người đều muốn gán ghép chúng ta với nhau, cha tôi bảo muốn tôi đính hôn với em trước khi đi du học,” anh bất lực nhắm mắt, “nếu tôi đồng ý có lẽ mọi người đều sẽ vui mừng. Nhưng em Vân, tôi không muốn hại em. Thật sự rất xin lỗi vì đã phụ lòng em.”

“Tại sao kết hôn với em lại là làm hại em?” Cô vô cùng đau khổ, “Sao anh dám chắc chắn tới vậy?”

“Tôi không có quyền làm chủ ở cái nhà này, nếu không phải vì em trai tôi bị thương, chuyện ở hiệu buôn Tây mấy ngày này đã chẳng đến lượt tôi nhúng tay vào. Tôi vốn là kẻ không có tiền đồ, người ta sắp xếp sao thì tôi làm vậy. Em luôn được cha mẹ chú bác yêu mến, cậu rất yêu thương chiều chuộng em, nếu em có mở miệng từ chối mối hôn sự này thì chắc chắn cậu cũng sẽ không để em chịu thiệt thòi. Tôi mong em có thể chủ động cự tuyệt cuộc hôn nhân này, như vậy hai chúng ta không ai phải khó xử cả.”

Anh nói nhiều tới vậy, ban đầu Vân Lang còn ôm đôi chút ảo tưởng, thương xót người anh họ từ nhỏ đã không có mẹ, không có thân thích để nương tựa. Có khi anh không chịu kết hôn cùng mình là do tự ti, nhưng nghe đến đoạn cuối, cô mới chắc chắn anh đang có ý cự tuyệt hoàn toàn, cô cảm thấy lòng mình đau khổ, rối như tơ vò.

Ngân Xuyên dịu dàng nói: “Em là một cô gái tốt, về sau chắc chắn em sẽ gặp được người thật lòng yêu em, thật lòng thương em.”

Tay Vân Lang run lên, sợi dây chuyền bị cô giật đứt, ngọc trai rơi lách cách đầy đất, cô ngơ ngác nhìn sàn nhà, ngẩn ra một hồi mới ngồi xuống nhặt, vừa nhặt vừa lặng lẽ khóc.

Ngân Xuyên nhìn cô: “Tôi nói sớm vì muốn tốt cho em. Về sau em sẽ hiểu.” Nói rồi, anh mở cửa bỏ đi.

Vốn Vân Lang đang nhặt ngọc trai, thấy anh đi, cô chợt quay phắt lại, quăng mạnh những viên ngọc trai ra ngoài, cô bật khóc: “Em không hiểu, em sẽ không bao giờ hiểu! Em không tin! Phan Cảnh Sâm, em nói cho anh biết, em không tin anh sẽ không thích em!”

Ngân Xuyên chầm chậm bước xuống nhà, tuồng kịch dưới lầu đã kết thúc, anh đứng bên cầu thang, nghe Edmund trình bày về lịch sử Hiệu buôn Phổ Huệ trên sân khấu cho khách khứa nghe. Thời tiền Thanh, nhà họ Phan từng là nhân tài kiệt xuất trong số các thương buôn tại Chợ Mười Ba, rồi Chợ Mười Ba bị dẹp bỏ, chẳng bao lâu sau nhà Thanh cũng sụp đổ, các lúc càng có nhiều các hiệu buôn Tây qua lại với Trung Quốc, nhưng những hiệu buôn Tây cũ vẫn rất coi trọng thương hiệu của Chợ Mười Ba thời tiền Thanh, “Phổ Huệ” chính là tên của hiệu buôn nhà họ Phan, sau này tiếp tục được sử dụng làm tên tiếng Trung của hiệu buôn vốn Anh này.

“Mối duyên sâu xa của chúng tôi và nhà họ Phan không chỉ giới hạn ở cái tên này,” Edmund nói, “một trăm năm trước đây, bậc tiền bối của chúng tôi từng hợp tác với tổ tiên ngài Phan, điều tôi muốn nói là, khi ấy hiệu buôn Tây của chúng tôi mới chỉ là một hiệu buôn nhỏ, mà nhà họ Phan đã mở rộng quy mô làm ăn tới tận Thụy Điển và Tây Ban Nha.”

Nghe tới đây, Phan Thịnh Đường khẽ mỉm cười.

“Thậm chí lá trà nhà họ Phan còn được mang đi tiêu thụ tại Thụy Điển, là món sản phẩm chất lượng mà người châu Âu tranh cướp nhau mua,” Edmund nâng ly rượu, tựa như đang đắm chìm vào lịch sử xa xưa, “có một lần, giám đốc của chúng tôi đặt mua một thuyền lá trà của hiệu buôn Phổ Huệ nhà họ Phan, thuyền chạy đến Melaka thì va phải đá ngầm, một nửa hàng hóa mất trắng, theo lý mà nói, phần tổn thất này phải do chúng tôi gánh chịu, nhưng chúng tôi tài nông lực mỏng, không thể không nhân lúc thuyền ngưng chạy mà mặt dày viết một lá thư cho tổ tiên của ngài Phan đây là ông Phan Chấn Quan, nói rõ nỗi khổ của bên mình, rồi lại cả gan hỏi xin, không biết Phổ Huệ có thể đổi hàng cho không. Ngài Phan Chấn Quan không nói một lời, viết ngay một bức thư, nói ông không để ý tới lợi nhuận trước mắt, điều ông quan tâm là tình hữu nghị lâu dài với mỗi đối tác của mình, chẳng bao lâu sau, ngài Phan Chấn Quan đã đưa một lô lá trà mới đến, từ đó trở đi, chúng tôi đã luôn duy trì hợp tác với nhà họ Phan, tất cả những lô lá trà và tơ lụa mang tới châu Âu tiêu thụ của chúng tôi đều được thu mua từ nhà họ Phan, sau khi đặt được nền móng vững chắc, hiệu buôn Tây đã lấy cái tên Trung Quốc là ‘Phổ Huệ’. Nào, hãy cạn ly vì mối duyên phận này, vì tình nghĩa lâu dài không thay đổi, vì tình hữu nghị hai nước Anh – Trung.”

Mọi người cùng nâng ly, vài vị khách mới nghe chuyện lần đầu đều tỏ ý kính nể Phan Thịnh Đường. Thịnh Đường sợ sệt mà nghiêm cẩn đứng dậy, hai tay bưng ly vang đỏ theo kiểu lễ tiết Trung Quốc, khẽ khom người, ngẩng đầu uống sạch rượu trong ly, điệu bộ quê mùa cục mịch, nhưng lại khiến ông ta trông rất mực đôn hậu, rất đáng kết bạn.

Ngân Xuyên đưa mắt nhìn đám người Thiệu Từ Ân, Tạ Tề Phàm, ai nấy đều đang nở nụ cười, nhưng ánh mắt vô cùng rối bời. Bọn họ biết con người thật sự của Phan Thịnh Đường. Mà trong mắt Ngân Xuyên, Phan Thịnh Đường đã giao thiệp với người nước ngoài mấy chục năm, tài giỏi khôn khéo, thông thạo tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Pháp, nào đâu có dáng vẻ hèn mọn tựa nô bộc như lúc này? Từ khi Ngân Xuyên có ký ức cho tới tận giờ, anh chưa từng thấy Phan Thịnh Đường mặc đồ Tây, lúc nào ông ta cũng khoác trường bào, trách cứ người làm và các quản lý cấp thấp, ăn nói ra đâu ra đấy, lời lẽ sắc bén, nhưng chỉ cần đứng trước mặt người nước ngoài, ông ta lại tức khắc tỏ vẻ gọi dạ bảo vâng.

Hình ảnh quá đỗi đối nghịch này khiến người ta ngẫm nghĩ mà chỉ thấy kinh hãi, nhưng cũng là sự bất đắc dĩ mà vô số thương nhân người Trung Quốc ở đây hiểu rõ trong lòng.

“Dù món hời của mại bản hậu hĩnh, nhưng sống lại hèn mọn… Gần như có thể coi họ là thủ lĩnh nô lệ của hiệu buôn Tây.” Đây là lời Dung Hoằng phái Duy Tân viết trong một tác phẩm của mình, Ngân Xuyên từng đọc cuốn sách này, anh cũng biết cha ruột Trịnh Đình Quan và vị cha giả này đây, bao gồm thêm cả anh nữa, đều đang dấn thân hoặc chuẩn bị dấn thân vào cái nghề gần như “hèn mọn” này. Dù có tiền, có quyền lực trong xã hội, nhưng vẫn không thể vứt nổi cái mũ “nô lệ của dân Tây”.

“Mày thật sự muốn trở nên giống họ ư?” Anh hỏi chính mình.

Edmund đã phát biểu xong, tiệc khiêu vũ bắt đầu, người da đen thổi một bản vũ khúc saxophone vui tươi, Ngân Xuyên không có lòng dạ bước vào sân nhảy, anh tựa lên tay vịn cầu thang, ngẫm nghĩ tâm sự lòng mình, không để ý Vân Lang đã bước xuống tầng, khi đi ngang qua anh, cô dừng bước, quay người nhìn anh chằm chằm. Tầm nhìn của Ngân Xuyên bị chắn mất, anh khẽ cau mày, ánh mắt đã thoáng vẻ mất kiên nhẫn.

Vân Lang bướng bỉnh cắn môi, nói: “Anh Cảnh Sâm, anh không thích em, có đúng vậy không?”

Ngân Xuyên gật đầu.

“Anh mong em chủ động từ chối cuộc hôn nhân này, phải chứ?”

Ngân Xuyên đáp ừ.

“Được, vậy em nói cho anh biết,” Vân Lang nghiêm mặt, “em thích anh, em muốn dùng cả đời này để đổi lấy tình cảm của anh. Em sẽ xin cha và bác cho chúng ta mau chóng kết hôn.”

“Em đang thị uy với tôi sao?”

“Anh có thể coi là em đang thị uy,” cô nghẹn ngào, nhưng rồi lại chợt kiên quyết thốt, “em đã trao hết lòng dạ cho anh. Cha em có nói với em, sau khi chúng ta kết hôn ông ấy sẽ hỗ trợ chuyện làm ăn của anh, cô em cũng sẽ đối xử với anh tốt hơn cả bây giờ. Tại sao anh lại không chịu cưới em? Em chỉ muốn tốt cho anh thôi mà!”

Ngân Xuyên nở nụ cười giá buốt, quay người bỏ đi, Vân Lang thấy vẻ lạnh lùng vô tình của anh mà tim gan lạnh ngắt, đang muốn đuổi theo kéo anh lại, Ngân Xuyên đã cao giọng: “Mợ, em Vân đang ở đây ạ!”

Vợ Vân Tú Thành nghe tiếng Ngân Xuyên gọi bèn tức khắc đưa mắt nhìn, Ngân Xuyên giữ cổ tay Vân Lang, kéo cô tới trước mặt mẹ, cười bảo: “Mợ, mợ trông em Vân nhé, đám cậu ấm nước ngoài hay động chạm các cô gái Trung Quốc lắm. Mọi người cứ chơi đi, cháu phải ra giúp cha tiếp khách.”

Vợ Vân Tú Thành gật đầu, kéo tay lườm Vân Lang, mặt Vân Lang đỏ gay, nhưng cô chỉ có thể trơ mắt nhìn Ngân Xuyên nhẹ nhàng gật đầu, rồi thong thả cất bước tới bên Phan Thịnh Đường.
 
Quyển 1 - Chương 25


Cổ phiếu trong tay Vân Tú Thành đã được thanh lý sạch sẽ, nhà máy lông lợn có lợi nhuận cao nhất cũng bị Phan Thịnh Đường tịch thu, đây là sự trừng phạt cho tội thiếu trung thành của ông ta. Thiệu Từ Ân có quan hệ thân thiết với Vân Tú Thành cũng bị vạ lây, hiệu buôn Tây ngưng một phần đơn hàng đường mía với ông ta, ký hợp đồng cùng một công ty đường tại Cửu Giang, tính Thiệu Từ Ân vốn khéo léo, dù hiện giờ tổn thất của ông ta không hề nhỏ, nhưng cũng may mối quan hệ lâu dài với hiệu buôn Tây chưa bị ảnh hưởng, vậy nên Thiệu Từ Ân chẳng mảy may tỏ ý bất mãn. Phan Thịnh Đường cố tình lấy một phần tiền vốn của nhà họ Phan ra bù cho ông ta, Thiệu Từ Ân biết nhà họ Phan đang nhân cơ hội lung lạc lôi kéo, phần mình lại vốn là kẻ hám lợi, nếu bớt được khoản tiền hao thì đương nhiên ông ta sẽ vui mừng chấp nhận.

Vân Tú Thành bại trận, niềm vui của Ngân Xuyên lại chẳng kéo dài được lâu, anh biết lần này mình hạ được Vân Tú Thành phần nhiều là nhờ may mắn.

Phan Thịnh Đường là kẻ lắm mưu nhiều kế, chẳng tin tưởng bất cứ ai, không hành động nào của Vân Tú Thành thoát khỏi mắt ông ta, nhưng vì chưa chạm đến giới hạn của mình nên ông ta đã luôn nhân nhượng không buồn động tới. Địch Huệ Lan vốn là tình nhân được Vân Tú Thành lén bao nuôi, Vân Tú Thành trù mưu, tặng cô gái này cho cậu con trai cả nhà họ Phan, Phan Thịnh Đường cố tình đứng ngoài xem kịch, giả như không biết. Trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi, huống chi tại một gia đình giàu sang quyền quý, những mối quan hệ hung hiểm dày như mạng nhện, Vân Tú Thành nghĩ mình thông minh, biến khéo thành vụng, làm sao Phan Thịnh Đường lại không để tâm tới một cô gia sư bình thường bỗng dưng lại xuất hiện trong nhà mình chứ? Nếu Vân Tú Thành đã coi cô ta là mồi câu con trai của Phan Thịnh Đường, thì Phan Thịnh Đường cũng sẽ tương kế tựu kế, xem xem phản ứng của cậu con trai ra sao.

Nếu Trịnh Ngân Xuyên chỉ là một cậu ấm chưa nếm sự đời, có khi anh sẽ thật sự sa vào sự xinh đẹp dịu dàng của Địch Huệ Lan. Nhưng một cô gái xa lạ, lai lịch trong sạch đột nhiên xuất hiện trong thế giới của mình, sóng mắt đưa tình, đầu ấp tay ôm, há chẳng phải là một cái bẫy sao? Anh bèn diễn một vở kịch si tình trước mặt bọn họ, diễn hay đến nỗi tất cả mọi người đều hết sức vừa lòng, nhưng mỗi ngày lên sàn diễn kịch anh lại càng thấy buồn nôn, lại càng thêm cảnh giác.

Đến cả Phan Thịnh Đường đa mưu túc trí cũng chẳng ngờ được, Địch Huệ Lan không chỉ là con mồi của Vân Tú Thành, mà còn mang thân phận quân cờ trong tay kẻ khác. Ban đầu Ngân Xuyên không rõ thân phận của cô ta, nghĩ đủ mọi cách thăm dò, gắng hết sức bày tỏ nỗi bất lực thất thế của mình tại nhà họ Phan, những gì mà một cậu ấm con nhà giàu nên làm với tình nhân của mình thì anh cũng đã làm hết. Trong khoảng thời gian nghe ngóng lai lịch thật sự của Địch Huệ Lan, anh nhờ cậy Hà Sĩ Văn, cũng âm thầm đưa tin cho Tạ Tề Phàm. Tài lực của Hà Sĩ Văn có hạn, còn bản lĩnh Tạ Tề Phàm lại vượt trội hẳn, chẳng mấy chốc ông đã báo lại cho Ngân Xuyên có thể Địch Huệ Lan có dính dáng tới phản đồ của Hội Đồng bào. Thế lực của Hồng Toàn Căn nằm tập trung ở Quảng Châu, kẻ này nổi tiếng vì sự khát tiền và hung tàn.

Mấy tháng trước, Ngân Xuyên như vô tình như cố ý nhắc tới buồng kho tại căn nhà cũ ở Quảng Châu của Phan Thịnh Đường với Địch Huệ Lan, nói buồng kho này từng chứa không biết bao nhiêu tiền tài châu báu và đồ cổ tích lũy được từ thời tiền Thành. Địch Huệ Lan đã từng được chứng kiến sự giàu sang của nhà họ Phan, năm ngoái khi tổ chức sinh nhật, bà Vân có mời nhiếp ảnh gia người Đức tới dinh thự nhà họ Phan chụp ảnh, bà ta ăn mặc theo phong cách Trung Quốc, chính giữa chiếc băng mẫu đơn cài trán màu xanh lam điểm phỉ thúy là viên kim cương to bằng quả trứng bồ câu, khiến đám người nước ngoài nhìn không dám chớp mắt. Rồi mấy tháng sau căn nhà dưới Quảng Châu của nhà họ Phan bị cháy, thậm chí chuyện này đã khiến Phan Thịnh Đường phải đích thân đưa bà Vân và Hà Sĩ Văn trở lại Quảng Châu.

Kể từ đó trở đi, Ngân Xuyên đã không còn nghi ngờ về thân phận của Địch Huệ Lan nữa.

Ngân Xuyên không dám chắc liệu có phải Vân Tú Thành đã biết về kế hoạch của Hồng Toàn Căn từ trước không, nhưng hôm đó, Vân Tú Thành đưa anh, Cảnh Huyên và Cảnh Ninh tới nhà hàng Nga dùng bữa, lúc ở ngoài đại sảnh gặp được ông chủ Mạnh, ông ta đã cố tình lớn tiếng giới thiệu anh, khiến Ngân Xuyên không thể không nghi ngờ Vân Tú Thành đã liên lạc với Hồng Toàn Căn, mà trừ Địch Huệ Lan ra thì còn ai giật dây bắc cầu vào đây được nữa?

Ngân Xuyên không hề đoán sai.

Hồng Toàn Căn đốt căn nhà dưới Quảng Châu, nhưng tài vật không hề chịu thiệt hại, mục đích của Hồng Toàn Căn là theo dõi phản ứng của Phan Thịnh Đường, nếu Phan Thịnh Đường đi thì ắt căn nhà kho này rất quan trọng, vậy những điều Ngân Xuyên thủ thỉ với Địch Huệ Lan lại càng đáng tin, chứng tỏ lời của tên “cậu ấm” không được gia đình coi trọng này vô cùng đáng nghe. Hồng Toàn Căn đạt được mục đích thăm dò, bèn quyết định làm một mẻ lưới lớn hơn.

Kế hoạch của Hồng Toàn Căn được thực hiện một cách vô cùng thuận lợi, chắc hẳn Vân Tú Thành cũng đã góp phần công lớn, chỉ là ông ta không ngờ mục tiêu của họ Hồng chẳng phải “Phan Cảnh Sâm” như họ đã thương lượng từ trước, mà lại là “Phan Cảnh Huyên”, cậu con thứ của Phan Thịnh Đường.

Sau khi chuyện này phát sinh được một thời gian dài Ngân Xuyên mới hiểu ngọn ngành. Còn trước đó, mỗi hành động của anh đều là một chiêu hiểm, thậm chí có thể khiến anh mất mạng.

Đúng vậy, đúng thực anh đã cố tình tiết lộ với Địch Huệ Lan chuyện Cảnh Huyên tới hàng châu báu lấy dây chuyền, anh cũng cố ý đòi Hồng Toàn Căn giao “bằng chứng”, anh không hận Phan Cảnh Huyên, nhưng anh sẽ không bao giờ cho phép bất cứ ai cản trở kế hoạch báo thù của mình.

Ngân Xuyên biết sau khi vụ bắt cóc xảy ra, Phan Thịnh Đường đã rõ kẻ đứng sau giật dây Địch Huệ Lan là ai, có lẽ Phan Thịnh Đường bảo anh đi đón Cảnh Huyên từ tay Hồng Toàn Căn cũng vì có ý dò xét. Ngân Xuyên căng thẳng tới mức mất ngủ liền mấy đêm.

Nhưng anh đã vượt qua.

Anh tin Hà Sĩ Văn sẽ cáng đáng tất thảy cho mình, gã đàn ông này bảo vệ che chở cho anh tới độ gần như biến thái, Ngân Xuyên đã lợi dụng Hà Sĩ Văn.

Sự sỉ nhục của Hà Sĩ Văn với mẹ anh cũng là nỗi nhục nhã mà cả đời anh không quên nổi.

Khi đó dù còn nhỏ, nhưng anh đã không thể quên vẻ vô liêm sỉ của Hà Sĩ Văn. Ban đầu Hà Sĩ Văn không dám làm bậy tùy tiện, nhưng Phan Thịnh Đường bỏ mặc vợ mình suốt bao năm, khiến hai mẹ con đáng thương không nơi nương tựa tại nhà họ Phan, Hà Sĩ Văn cũng chẳng buôn kiêng nể nữa.

Mỗi lần Hà Sĩ Văn đối xử tử tế với Ngân Xuyên là một lần anh cảm thấy như mình đã tận mắt nhìn thấy mẹ bị hà hiếp làm nhục. Nếu hỏi anh anh hận Hà Sĩ Văn tới mức nào, thì câu trả lời là hận tới độ chỉ muốn băm thây ông ta ra làm vạn mảnh. Vậy nên anh mới như buột miệng kể lướt qua mối “gian tình” giữa họ Hà và mẹ cho Phan Thịnh Đường nghe. Khiến Hà Sĩ Văn sống không bằng chết là chuyện rất đỗi dễ dàng, Phan Thịnh Đường sẽ xử lý ông ta.

Trong mấy tháng này, khó khăn lắm Ngân Xuyên mới hoàn thành màn lột xác đời người, thật ra Tạ Tề Phàm nói rất đúng, muốn có thành tựu lớn thì không thể chỉ dựa vào những trò khôn vặt cay nghiệt, vận may cũng chỉ là nhất thời, anh biết mỗi bước đi của mình trên con đường về sau đều phải thật chắc chắn, vững vàng.

Chuyến thăm của chủ tịch Edmund là một cơ hội khổng lồ. Lão người Anh quá quen với quy tắc trên thương trường Trung Quốc đã hiểu hết những lục đục đấu đá của đám thương nhân gốc Hoa từ lâu rồi, ông ta luôn bày ra nụ cười kín kẽ, vui vẻ lợi dụng những mối quan hệ này, kìm kẹp cân bằng lợi ích, bày những ván cờ lắt léo để tìm kiếm lợi nhuận cho hiệu buôn Tây, nhưng vào những thời khắc quan trọng, ông ta cũng sẽ đóng vai chủ tịch hiệu buôn Tây công tư phân minh, bạc tình không nhận người thân. Ông ta tăng lương gấp đôi cho toàn bộ nhân viên người Hoa tại Hán Khẩu, chấn hưng sĩ khí giúp Phan Thịnh Đường, chứng minh cho tiếng tăm của họ Phan tại hiệu buôn Tây, dù cái tiếng tăm này cũng là thứ được Edmund ban cho. Đồng thời, ông ta đã làm suy yếu lực lượng của Phan Thịnh Đường trên nhiều phương diện. Chuyện của Vân Tú Thành là lục đục nội bộ giữa hai nhà Phan – Vân, không nằm trong phạm vi suy xét của Edmund, ông ta đem toàn bộ quyền đại lý của mặt hàng tự sản xuất là dầu trẩu cho mại bản Tứ Xuyên Hứa Tĩnh Chi, rồi lại để Tạ Tề Phàm luôn chỉ hoạt động trong phạm vi Quảng Đông tham gia thu mua gai dầu, chụp tóc ở vùng Giang Chiết, mỹ danh là để Tạ Tề Phàm giảm bớt áp lực cho Phan Thịnh Đường, nhưng nào đâu chỉ có áp lực, mà Tạ Tề Phàm còn giữ hộ ông ta một khoản tiền lớn!

Một tay cho, một tay cướp, Edmund cân đo rất rõ ràng. Phan Thịnh Đường cũng vậy, nếu muốn củng cố vị trí tổng mại bản của mình, giữ vững tòa núi vàng là hiệu buôn Tây, ông ta bắt buộc phải đạt được thành tựu vào giờ khắc quan trọng.

Cả Trung Quốc bắt đầu bài xích hàng hóa nước ngoài, chuyện làm ăn của hiệu buôn Tây cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Vô số hàng hóa do Phổ Huệ phân phối đang nằm mốc meo trong kho không bán ra nổi, tàu thuyền ngừng vận chuyển, hết tai trước lại liền họa sau. Ở vào tình cảnh này, Phan Thịnh Đường chém đứt đoạn thế lực của Vân Tú Thành, cũng chém mất một cánh tay của mình, ông ta phải xoay chuyển xu thế suy tàn này trước mặt ngài chủ tịch đích thân đi từ Thượng Hải tới Hán Khẩu để giám sát thế nào đây?

Nghĩ rõ ra thì cũng chỉ có ba chuyện cần làm:

Ủy quyền, giảm sức ép, tìm trợ thủ.

Edmund đã hỗ trợ Phan Thịnh Đường làm chút phần việc ủy quyền và “giảm sức ép”, vậy thì họ Phan phải tìm ai giữ vai trợ thủ?

Đối với thương nhân mà nói, không gây thù chuốc oán cũng chính là đang tìm người giúp đỡ. Bốn mại bản lớn của Phố Huệ tụ tập tại Hán Khẩu là vì muốn xem thái độ của Phan Thịnh Đường. Vào thời khắc sóng lớn vỗ thuyền, bọn họ muốn xem xem tổng mại bản của mình liệu có bằng lòng dùng hai bàn tay to lớn mà giữ chặt, kéo chắc lấy dây buồm không. Dù có là thứ hàng hóa gì, dù có dính đến hiệu buôn của mại bản nào, thì Phan Thịnh Đường cũng phải đồng lòng đồng sức, đồng cam cộng khổ với họ để vượt qua ải khó này. Đây là trách nhiệm của ông ta.

Vậy là cơ hội của Trịnh Ngân Xuyên cũng tới theo. Vì lúc này đây, bên cạnh Phan Thịnh Đường chỉ có một trợ thủ là anh.
 
Quyển 1 - Chương 26


Ngân Xuyên mở cửa phòng làm việc.

“Ngồi đi.”

Phan Thịnh Đường đang xem biểu giá dầu mới nhất, ông ta ra hiệu cho anh ngồi xuống phía đối diện bàn làm việc.

“Cục điện báo của huyện Vạn có chút vấn đề, chắc hôm nay sẽ không gửi được giá dầu trẩu bên Mỹ, cha đang nghĩ cách liên lạc với một chiếc tàu quân đội gần biển, nhờ người ta đánh điện hộ.”

 “Cha suy nghĩ rất chu đáo, như vậy chú Hứa có thể mua vào bán ra nhanh hơn.”

Phan Thịnh Đường gật đầu, rồi lại chợt đổi chủ đề: “Mấy hôm nay con theo cha xử lý công việc, điều con cảm nhận được rõ nhất là gì?”

 “Cha làm việc nhọc nhằn cực khổ, dốc hết tâm huyết cho hiệu buôn Tây…”

 Phan Thịnh Đường ngắt lời anh: “Cha không muốn nghe những lời này. Con nói xem mình đã học được gì.”

 “Lòng dạ và mắt nhìn.”

 Thịnh Đường nhướng mày, ngẩng đầu thích thú.

“Dù con tài mọn nhưng trông cách cha lo liệu chuyện làm ăn của các chú các bác, con có thể thấy cha đã giành mối nguy hiểm của mọi người về phần mình, đây chính là lòng dạ và khí phách của một tổng mại bản. Cha bằng lòng bỏ của cải nhà họ Phan ra hỗ trợ bốn bác Hứa, Tạ, Thiệu, Mẫn, đồng nghĩa với việc điều cha coi trọng không phải được mất nhất thời, mà là viễn cảnh lâu dài. Chuyện làm ăn của bốn bác phần nhiều liên quan đến thổ sản, chỉ cần Trung Quốc vẫn còn nông dân cày cấy trồng trọt, chỉ cần người dân đủ sống quanh năm, việc kinh doanh của bốn bác sẽ không chịu ảnh hưởng lớn, mất mùa thì thu về ít, được mùa thì tiền kiếm nhiều, rủi ro biến động cũng chỉ ít ỏi chừng đó mà thôi. Tầm nhìn và sự tỉnh táo của cha chính là thứ bản lĩnh mà con muốn học nhất.”

Thịnh Đường cười: “Mại bản là sự nghiệp của cả dòng họ, cha truyền con nối cũng là luật bất thành văn, khoảng thời gian này con hãy làm quen với tình hình của hiệu buôn Tây, cha đã thấy được tư chất của con, cha rất vừa lòng.”

 Ngân Xuyên chờ ông ta nói tiếp.

“Ít hôm nữa con sẽ lên đường sang Anh, chủ tịch Edmund đã gặp riêng cha, nói nếu con bằng lòng, hiệu buôn Tây sẽ chi một khoản tiền nhỏ làm tiền học bổng và sinh hoạt phí cho con tại nước ngoài.”

Ngân Xuyên run lên, toan mở lời, nhưng Phan Thịnh Đường đã giơ tay ý bảo anh hãy tiếp tục nghe mình nói.

“Đúng, hôm nay cha gọi con đến cũng là vì khoản tiền này. Mỗi năm hiệu buôn Tây sẽ gửi 300 bảng Anh vào tài khoản của con, ngoài ra mỗi tháng còn có khoảng hai mươi bảng tiền sinh hoạt phí, nếu quy đổi theo tỉ giá trong nước cũng xấp xỉ lương tháng của một viên chức trung cấp. Nhà chúng ta không cần phải chi thêm tiền cho con nữa.”

Ngân Xuyên khẽ cào lên đường vân trên bàn làm việc, anh cúi đầu: “Chắc Phổ Huệ chi tiền không đơn giản vì muốn hỗ trợ cho chuyện học hành của con.”

“Con cái nhà giàu sang không bao giờ cần lo ăn lo mặc, nhưng cũng phải có khả năng tự lực cánh sinh. Cha mong con có thể nhận khoản tiền tài trợ của hiệu buôn Tây, đồng thời cha cũng muốn nói cho con biết trong mấy năm con ở nước ngoài, gia đình mình sẽ không chi trả thêm bất cứ khoản nào cho con.”

Ngân Xuyên khẽ thốt: “Ban đầu cha không muốn cho con sang Anh, là tự con khăng khăng đòi đi, giờ có khoản tiền tài trợ của hiệu buôn Tây con đã mừng lắm rồi. Con hiểu cha cũng sẽ chẳng để con cầm không tiền tài trợ của hiệu buôn, cha cứ nói đi ạ, giờ cha muốn con làm gì?”

Thịnh Đường thản nhiên nói: “Hàng hóa trong các kho bãi đang chất ứ không tiêu thụ được, dạo gần đây cậu con lại giở bệnh đau đầu, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cha cũng phải tự giám sát, khó tránh khỏi có vài chỗ không lo liệu nổi. Phía Tây Đại Trí Môn có một mảnh đất xây dựng, gồm hai toà nhà với vài gia đình thuê trọ, hiệu buôn Tây muốn tu sửa nơi này thành xưởng đóng gói, cũng đã thương lượng xong với mấy hộ gia đình tại đó, xin người ta kết thúc hợp đồng thuê nhà trước thời hạn, nhưng không biết có tên du côn nào nhảy ra phá bĩnh, khiến ba gia đình không chịu nhận tiền, nói phải đợi hợp đồng thuê nhà sang năm kết thúc mới chuyển đi, làm ầm ĩ lên tận Tòa án. Tú Thành qua xử lý, cho ba gia đình này chút tiền, ra hạn đến mùng sáu tháng này là phải chuyển nhà, bọn họ cũng đồng ý rồi. Giờ đã là mùng hai, cha sợ lại nảy sinh chuyện vặt vãnh phiền hà nên muốn con đi lo liệu thêm cho chắc chắn.”

“Con không hiểu ý cha lắm. Phải lo liệu thế nào ạ?”

“Đám người đó sớm ngày chuyển đi là hay nhất, nhưng nếu cứ tiếp tục gây chuyện ầm ĩ thì có chuyển hay không nhà cũng vẫn sẽ bị phá. Giờ hiệu buôn Tây không muốn làm lớn chuyện vào thời điểm này. Con hãy ra mặt thay cha, và cũng là thay cả hiệu buôn Tây, gửi cho mấy gia đình này ít tiền, lựa lời khuyên giải an ủi họ thêm. Nếu làm tốt hiệu buôn Tây sẽ thưởng cho con, phần thưởng không chỉ có khoản tiền học bổng kia đâu.”

 Xế chiều hôm ấy, Ngân Xuyên lên đường cùng vị phó giám đốc phụ trách sự vụ lần này là Ngô Phong Lâm, bọn họ vào kho lấy mấy rương hành lý, vài món quà như khăn quàng lông cừu, mũ dạ, thêm cả 300 đồng đại dương, định gửi mỗi nhà thêm 100. Mảnh đất nọ nằm kế bên ga tàu hỏa, đó là hai tòa nhà ngói cũ kỹ trơ trọi, vì phần đông khách trọ đã dọn đi cả rồi nên trông hoang vắng tiêu điều tới lạ. Có một đứa bé con đang nghịch viên bi thủy tinh ngoài nhà, thấy Ngân Xuyên và mọi người tiến lại, nó như gặp phải ma, cứ thế co cẳng chạy tót vào phòng, bước chân Ngân Xuyên khựng lại, Ngô Phong Lâm đã nói cho anh hay hai tháng trước Vân Tú Thành dẫn lính tuần tới đây đuổi các gia đình đi, cũng từng đánh đập khiến họ bị thương, giờ Vân Tú Thành đủng đỉnh phủi tay, mình lại phải gánh thay mớ phiền phức này, anh không khỏi thầm than khổ.

Thật ra chỉ còn hai gia đình mà thôi, nhà còn lại đã chuyển đi rồi, Ngân Xuyên tự quyết, chia 300 đồng đại dương ra làm hai nửa cho hai nhà. Một gia đình có ông cụ họ Tào từng làm thầy giáo, mắc tật bướng bỉnh của người có học, cứ nhốt mình trong phòng ngủ không chịu ra, nhưng bà cụ và hai người con trẻ tuổi lại sợ phiền nhiễu, họ bưng trà rót nước, nhận tiền nhận quà, miệng nhất nhất khẳng định sẽ khuyên ông cụ, kiểu gì đến ngày mùng sáu cũng sẽ chuyển đi.

Ngân Xuyên hỏi kỹ mới hay ông Tào là khách trọ của nơi này được gần hai mươi năm nên không chịu chuyển đi. Hai đứa con ông sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà này, ông chỉ muốn lưu lại đây càng lâu càng tốt.

Khoảng thời gian trước, các khách trọ chung tay phản đối chuyện hiệu buôn Tây đề nghị hủy hợp đồng thuê nhà sớm hơn thời hạn cũng vì mong kiếm thêm chút đỉnh tiền bồi thường, nhưng ông Tào phản đối lại là do tiếc nuối.

Gia đình còn lại là đôi mẹ góa con côi, đứa trẻ mới chừng bảy tám tuổi, gầy gò trơ xương, bà mẹ trông có vẻ rất nhu nhược nhát gan, nói chưa được mấy câu đã nước mắt ròng ròng, chẳng giống kiểu người ngang ngạnh gây chuyện, Ngân Xuyên ôn hòa hỏi nỗi khổ tâm của người mẹ, rồi lại gọi đứa bé ốm yếu bệnh tật tới bên mình, hỏi thằng bé có biết chữ không, đã đi học chưa, thích chơi gì. Đứa bé thấy anh trai này tuấn tú nhã nhặn, dịu dàng lịch sự, cũng chẳng đề phòng nữa, ngoan ngoãn đáp từng câu một. Ngân Xuyên thấy thằng bé nhìn chằm chằm chiếc bút máy cài trước túi ngực mình, xem chừng rất ngưỡng mộ, anh bèn rút chiếc bút ra, cười nói: “Nếu em thích thì anh tặng em đấy.”

Đứa bé mừng rơn, gương mặt ngượng ngùng đỏ bừng lên, nó không dám nhận, bà mẹ bèn đưa mắt ra hiệu với đứa bé, ý bảo nó nhận đi. Thấy vậy đứa bé mới cảm ơn, nhận lấy chiếc bút máy, lại càng thấy gần gũi thêm với Ngân Xuyên, nó đi kiếm một chiếc ghế nhỏ ra mời Ngân Xuyên ngồi.

Ngân Xuyên ngẫm nghĩ trong chốc lát, hiểu ra rằng đứa bé mang bệnh từ nhỏ, mẹ thằng bé lại yếu đuối, nghe người khác xúi giục, mượn cơ hội này để kiếm thêm chút tiền cho gia đình, chung quy cũng chỉ là tâm tư bé nhỏ của người nghèo, thật sự rất đáng thương. Lòng dạ Ngân Xuyên rối bời, anh xoa đầu đứa bé, hỏi nó: “Em tên gì?”

 “Em tên A Xuyên.”

 Ngân Xuyên thoáng sửng sốt, anh mỉm cười nói: “A Xuyên…”

 Mẹ thằng bé bảo: “Chúng tôi là người Hán Xuyên, thằng bé lấy tên theo quê cũ.”

 Ngân Xuyên quay đầu bảo Ngô Phong Lâm: “Phó giám đốc Ngô, lát nữa chú hãy đặt cho hai mẹ con chị đây một quán trọ tử tế, để họ ở tạm vài ngày, lo luôn cơm nước cho họ nữa. Tiền chú cứ lấy của tôi.”

Ngô Phong Lâm cười: “Tiền này không nằm trong khoản chi của hiệu buôn Tây, để lát về tôi sẽ viết đơn xin bù một nửa cho cậu cả. Cậu còn phải đi học nữa, tiết kiệm được khoản nào hay khoản ấy.”

 Ngân Xuyên mỉm cười gật đầu.

 Người mẹ nghe vậy bèn không ngớt lời cảm ơn, chỉ hận không thể quỳ xuống dập đầu, Ngân Xuyên xác nhận lại với người phụ nữ thời gian chuyển nhà, lại rút một đồng tiền cho cậu bé rồi mới từ biệt, rời đi cùng Ngô Phong Lâm. Giờ vẫn còn sớm, anh bèn đến hiệu buôn Tây, lúc đi ngang qua phòng kế toán, anh bắt gặp Tạ Tề Phàm đang bước ra. Nhân lúc rảnh rỗi, anh kể cho ông chuyện này. Nghe vế đầu, Tạ Tề Phàm gật đầu cười bảo: “Ông ta chủ động giao vài chuyện quan trọng cho cháu làm là có ý muốn bồi dưỡng cháu.” Nhưng kể tiếp đến chuyện người quả phụ, ông lại cau mày.

Ngân Xuyên ngạc nhiên: “Cháu làm không đúng ạ?”

Tạ Tề Phàm thở dài: “Cháu sắp mười tám, chuẩn bị trở thành người lớn thực thụ rồi, chú không thể chuyện gì cũng nói cho cháu được. Nhưng có câu này cháu phải nhớ kỹ lấy từng phút từng giây: Mềm lòng là đại kỵ.”

 Ngân Xuyên nghiền ngẫm câu nói ấy cả buổi tối, trằn trọc trăn trở, suốt đêm ngủ không yên, nhưng anh không thừa nhận mình là người mềm lòng, nhất định anh sẽ không bao giờ trở thành một kẻ mềm lòng.

 Hôm mùng năm, anh và Ngô Phong Lâm lại tới mảnh đất kế ga tàu hỏa, người quả phụ đã thu dọn đồ đạc xong xuôi, còn bên ông lão lại chẳng thấy động tĩnh. Ngô Phong Lâm cười lạnh bảo Ngân Xuyên: “Lão già này cứng đầu lắm, con trai con gái cũng học được thói xảo trá, lần trước đám nhỏ nhận tiền, mồm vâng vâng vâng dạ dạ, tay già lại không chịu rời ổ, xem ra lần này vẫn diễn lại màn cũ.”

 Ngân Xuyên cau mày không nói gì.

Bước tới cổng căn nhà, anh thấy hai người con thoáng vẻ chột dạ, ngượng ngùng chào hỏi anh, Ngân Xuyên không còn kiên nhẫn để nghe họ nói, trước khi đi anh quay đầu lại nhìn, thấy cửa phòng ngủ có hé một khe hẹp, cặp mắt đục ngầu của ông cụ đang nhìn về phía anh, ánh mắt ấy đầy vẻ cầu xin.

 Ngân Xuyên sững sờ, anh không biết phải phản ứng ra sao, lòng thoáng hoang mang.

 Tối đến, về tới nhà, anh vẫn đích thân dặn dò người làm chuẩn bị cơm tối cho Cảnh Huyên không chịu rời phòng như thường lệ. Hôm nay Thịnh Đường về sớm, ông ta ngồi đọc báo trong phòng khách, thấy anh bận bịu không ngớt, ông ta gọi anh lại, cười như không cười, bảo: “Nếu con thích lo chuyện nhà thế thì tội gì phải ra nước ngoài. Cha ghét nhất là thấy đám con trai trong nhà cứ như đàn bà, chuyện gì cũng phải lo liệu thu xếp bằng được.”

Ngân Xuyên không dám nói gì, cúi đầu nghe ông ta dạy dỗ.

Bà Vân không kìm nổi nụ cười lạnh lẽo: “Cậu cả nói hay, làm hay, diễn cũng hay.”

 Thịnh Đường làm như không nghe thấy, chỉ liếc nhìn bà ta bằng ánh mắt khinh thường, nói: “Thế cậu hai của bà đâu? Nếu nó không chịu xuống nhà ăn cơm thì về sau đừng ăn cơm ở cái nhà họ Phan này nữa. Phan Thịnh Đường tôi coi như không có thằng con trai vô tích sự như nó, nuôi phí công mười sáu năm.”

Bà Vân ầng ậc nước mắt, nghẹn ngào: “Ông thiên vị lắm, A Huyên tủi thân oan ức là thế mà ông không buồn thương xót nó. Tôi vào nhà họ Phan bao nhiêu năm rồi, nếu ông mà còn nhớ mẹ A Sâm thì đáng ra đừng để chúng tôi…”

Thịnh Đường giận tím mặt, thét: “Nếu bà thấy thế này là khổ thì tự rời khỏi cái nhà này đi, đưa theo thằng con trai bà cũng được.”

Bà Vân siết khăn tay, lệ dâng nơi khóe mắt, bà tủi thân cất lời: “Con trai tôi chẳng lẽ không phải con trai ông sao?”

Ngân Xuyên đi không được, ở cũng chẳng xong, đứng một hồi, anh mới khẽ khàng cất tiếng: “Cha đừng giận, để con gọi em xuống ăn cơm.”

 “Vụ miếng đất kia sao rồi?”

Ngân Xuyên thuật lại tình hình, rồi lại dò hỏi: “Có hoãn lại thêm mấy ngày được không ạ? Để con tới nhà người ta khuyên nhủ thêm.”

Thịnh Đường cười lạnh: “Con có phải tín đồ Cơ Đốc đâu, sao lại thích làm việc của giáo sĩ thế?”

Ngân Xuyên biết chuyện đã không còn đường cứu vãn.

Cảnh Ninh xuống nhà, thấy bầu không khí trong phòng khách rất căng thẳng, cô vội vã quay đầu định leo lên tầng. Thịnh Đường thấy con gái bèn nhướng mày, lớn giọng: “Khó khăn lắm mới về nhà ăn được bữa cơm, thế mà cô con gái rượu cũng không thèm nói chuyện với tôi, thấy tôi là trốn, hay thật!”

Cảnh Ninh đành quay người lại, ngả người xuống lan can nở nụ cười ngọt ngào với Thịnh Đường: “Đâu có đâu, con nhớ Đa Đa lắm mà!”

Hồi còn nhỏ, Cảnh Ninh nói không sõi, gọi “Daddy” thành “Đa Đa”, giờ cô cố tình dí dỏm nhắc lại từ này, quả thật Thịnh Đường cũng phải phì cười, thấy vô cùng vui vẻ. Cảnh Ninh xuống nhà, ngồi cạnh cha mình, kéo tay ông, ấn loạn lên kẽ ngón tay Phan Thịnh Đường: “Để con ấn huyệt Bách hội cho Đa Đa.”

 “Lại lén ra ngoài học mấy trò linh tinh hả? Học của tên thầy lang vớ vẩn nào đấy? Huyệt Bách hội ở đây này!” Thịnh Đường cốc đầu con gái, Cảnh Ninh cười khúc khích, nhào vào lòng ông.

Tâm trạng bà Vân khá lên nhiều, bà vươn tay xoa lưng con gái, vuốt mái tóc sau gáy con, gương mặt tỏ rõ vẻ đắc ý của một người mẹ hiền.

Cảnh Ninh nháy mắt với Ngân Xuyên, Ngân Xuyên biết cô đang giải vây giúp anh, bèn mượn cớ tìm Cảnh Huyên để rời khỏi phòng khách.

Cảnh Huyên đang trốn trong phòng, cắn hạt dưa đọc sách, thấy anh vào, cậu bèn quay đầu lại: “Không xuống đâu không xuống đâu, em không muốn nhìn thấy họ.”

 “Không muốn cũng phải nhìn, cha bảo rồi, nếu em không ăn cơm với cả nhà thì về sau đừng ăn cơm ở nhà họ Phan nữa. Vậy em định đi đâu ăn?”

“Sau này anh phát tài em ăn ké cơm của anh được không?” Cảnh Huyên tức giận nói.

Ngân Xuyên vươn tay cầm lấy cuốn sách của cậu, anh dịu dàng nói: “Nếu có kiếm tiền nuôi em thì cũng phải đợi một thời gian dài nữa, anh vẫn đang ăn chực cơm nhà, giờ biết tìm đâu ra tiền? A Huyên, sự đã rồi, phải đối mặt với hiện thực thôi. Đời người còn dài lắm, em còn có chỗ dựa là gia thế và địa vị của nhà họ Phan, ngoài kia không ai dám coi thường em cả.”

 Mắt Cảnh Huyên đỏ hoe: “Lòng bọn họ vẫn thầm mắng em là thằng tàn phế đấy thôi.”

 “Nếu lòng em tàn thì mới thật sự là tàn phế. Khi đó đến anh cũng coi thường em.”

 “Anh cả, anh có trách em không?”

 “Trách em chuyện gì?”

“Từ nhỏ em và Bé Hạt Dẻ đã toàn cướp đồ của anh, cướp đồ chơi, cướp thìa, sách, quần áo, lúc nào chúng em cũng muốn hơn anh, mà anh thì luôn nhường bọn em. Cơ hội thực tập tại hiệu buôn Tây khi trước cũng là anh nhường em. Lúc nào cậu cũng nói xấu anh với em, cậu bảo anh đang lừa cả nhà, nên bắt em phải học nhiều hơn anh…”

 “Em đừng nói những chuyện này với anh.”

 Cảnh Huyên vẫn cố chấp nói tiếp: “Đến cả khi em bị bắt cóc cũng là anh đến đón em, nếu không nhờ ngài Đồng đi thay thì có khi giờ anh vẫn còn đang nằm trong tay đám người xấu, anh cả… em xin lỗi… chỉ là có những lúc em cứ luôn nghĩ tới mình trước…”

 Ngân Xuyên thở dài: “Nghĩ tới mình trước là đúng. Đây là bản tính con người. Hơn nữa anh biết em là một chàng trai tốt. A Huyên, em ưỡn thẳng lưng lên, hãy làm sao cho ra dáng một người đàn ông.”

Cảnh Huyên gật đầu thật mạnh: “Vâng, em nghe lời anh!”

 “Vậy giờ xuống ăn cơm nào.”

 “Nhưng em thật sự không có khẩu vị.”

Giả bộ thôi cũng được. Hay anh kể cho cha nghe chuyện của em với cô đào nhảy kia nhé.”

 Cảnh Huyên giậm chân: “Anh đưa danh thiếp của cô ấy cho em mà!”

 Ánh mắt Ngân Xuyên hiện vẻ ranh mãnh hiếm thấy, anh đặt ngón tay lên môi, ý bảo cậu nói bé thôi, Cảnh Huyên phì cười, như thể hai anh em họ đang chia sẻ một bí mật rất đỗi thú vị.

Hôm sau, trời còn chưa sáng Ngân Xuyên đã thức giấc, anh bắt gặp Vân Thăng ngoài vườn hoa. Trước giờ công việc của quản gia nhà họ Phan không đơn giản chỉ có xử lý việc nhà, mà còn phải nhúng tay vào một phần tài sản dính dáng đến hiệu buôn Tây, có nhiều chuyện Vân Thăng chưa quen, khó tránh khỏi vất vả chật vật, lúc này mặt mũi anh ta vô cùng mệt mỏi. Chủ tớ đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng cười khổ.

Vân Thăng nói: “Cậu cả, có lẽ có những chuyện để người khác xử lý sẽ dễ dàng hơn đích thân làm nhiều.”

 Ngân Xuyên hờ hững đáp: “Còn chưa ra chiến trường mà ngay cả rút đao nhìn máu cũng sợ thì về sau chuyện nhà họ Phan không đến lượt tôi quyết.”

“Chắc chắn cậu có thể vượt qua ải này.” Vân Thăng mỉm cười, rồi chợt do dự trong chốc lát, muốn nói lại thôi.

“Có chuyện gì vậy?”

Vân Thăng ngẫm nghĩ rồi nói: “Chuyện nhỏ thôi ạ, hôm nay cậu về tôi sẽ thưa.”
 
Quyển 1 - Chương 27


Tài xế đỗ xe trước Đại Trí Môn. Giờ đang là thời điểm nhạy cảm, Phòng Tuần bộ Tô giới Anh không phái người đi, nhưng cục cảnh sát Hán Khẩu đã nhận tiền của nhà họ Phan, bắt nối quan hệ xong xuôi, mười lăm viên cảnh sát mang súng bao vây trong phạm vi ba mươi mét quanh nhà, miệng nói đang duy trì trật tự, nhưng thực chất chỉ đứng xem trò hay. Một xưởng xây dựng Hán Khẩu cử ra chừng bốn mươi tay thợ ngõa, thợ mộc, ngoài ra còn thấy thêm hai mươi gã đàn ông cầm thuổng và gậy gỗ không rõ lai lịch. Nhà của hai mẹ con quả phụ đã bị phá, cửa sổ được dỡ xuống, mái nhà bị đập tan, vợ con ông Tào nhà kế bên đang đứng trên khoảng đất trống ngoài nhà, sợ run nhong nhóc, từ xa nhìn lại, Ngân Xuyên đã biết ông cụ nọ vẫn ngồi trong phòng không chịu ra.

 Ngô Phong Lâm đã tới từ lâu, thấy anh đến, ông ta thở dài: “Đúng là ông cụ Tào kia vẫn cứng đầu, bảo thà chết bên trong chứ không chịu chuyển đi. Tôi dặn người ta phá căn nhà kế bên trước, chưa đụng vào nhà ông Tào vội, đợi cậu đến xử lý.”

 Hồi lâu, Ngân Xuyên không nói gì, nhưng vẻ mặt anh vô cùng bình tĩnh. Ngô Phong Lâm nghĩ chắc chắn anh sẽ không nỡ nhẫn tâm, nhưng Phan Thịnh Đường rất coi trọng việc phá bỏ di dời mảnh đất Đại Trí Môn, vào khoảng thời gian căng thẳng gấp rút nhường này, nếu nhà họ Phan dốc sức hỗ trợ hiệu buôn Tây thì chẳng khác nào lập được công lớn. Nhưng ông ta không nỡ nói lời này với Ngân Xuyên, dù sao anh cũng là lớp con cháu, còn trẻ, lại lịch sự nhã nhặn, đối mặt với những bê bối khắc nghiệt nhường này, anh không sợ ngớ người đã là may lắm rồi, vậy nên dù lòng Ngô Phong Lâm sốt sắng nhưng ông ta vẫn chỉ thầm ôm mối lo âu, định nghĩ cách khiến chàng trai này rời đi, đang lựa lời đã chợt nghe giọng nói lành lạnh của Ngân Xuyên vang lên: “Tiền thì cho rồi, gia đình họ cũng đã nhận. Chúng ta không thẹn với lương tâm, nên làm gì hãy cứ làm đi. Cứ dỡ hết nhà, để lại mình chiếc giường, ông cụ kia muốn nằm đó thì tùy.”

 Ngô Phong Lâm nhìn Ngân Xuyên, như không dám tin lời này là do anh nói. Đường nét nơi gò má chàng trai cứng rắn, ánh mắt hung ác, trong đó là sự cương quyết không nhân nhượng. Ngô Phong Lâm bèn ra dấu tay, đám người ùa lên, bắt đầu dỡ tường phá cửa.

 Đúng lúc này, Ngân Xuyên nghe thấy tiếng khóc lạc giọng của ông già trong nhà, giọng ông khàn đục mơ hồ, không thể nghe nổi ông đang la hét gì, nhưng giọng điệu ấy bi thiết tuyệt vọng, như tiếng kêu rên trước khi chết đi, Ngân Xuyên chỉ cảm thấy có thứ gì đó đang khẽ khàng đâm vào tim anh, tê dại, nhưng dường như không phải là đau. Thứ đó là gì vậy? Đến anh cũng không biết.

 Anh chỉ nghĩ có lẽ về sau mình sẽ phải dần quen với cảm giác này.

 “Dù sao nhà ông ta cũng đã cầm tiền rồi, dù sao ông ta cũng đã già, dù sao ông ta cũng sắp chết…”

 Anh lẩm bẩm vô số những cái “dù sao”, dường như cũng dần cảm thấy mình đường hoàng hữu lý thật. Rồi anh lại chợt nghe có đứa trẻ đứng phía trước kêu lên: “Bác Tào! Bác Tào ơi!” Ngước mắt lên, đó đúng là đứa con trai A Xuyên của người quả phụ bữa trước, thằng bé đang lao ra từ đám đông chen chúc vây xem, lao về phía nhà ông Tào. Ngân Xuyên không biết tại sao đứa bé lại chạy đến đây, đưa mắt trông thì không thấy mẹ thằng bé đâu.

 Người nhà ông Tào đã sợ điếng mình, A Xuyên siết tay nện lên người đám đàn ông đang dỡ nhà, thằng bé khóc toáng lên: “Các người không được dỡ nhà bác Tào, hồi trước căn nhà này là của bác ấy! Các người không được bắt nạt bác Tào!” Người đàn ông xách thằng bé thả sang chỗ khác, đứa bé ngã nhào xuống đất, con gái ông Tào sực tỉnh, vội vã tiến lên dìu đứa trẻ, nhưng rồi lại bị cục gạch văng trúng đầu, ngã quỵ xuống.

 Vợ ông Tào khóc nức lên: “Chết người ta rồi! Chết người ta rồi! Người có tiền tạo nghiệt! Làm hại cả nhà chúng tôi!”

 Đứa con trai kéo bà Tào tới chỗ an toàn, rồi chạy lại bế em gái lên. Trán cô gái nọ chảy máu rề rề, hôn mê bất tỉnh. Tính tình cậu con trai hiền lành nhu nhược, không muốn gây sự, chỉ mong người nhà được bình yên, bèn ngẩng đầu bảo đứa bé con: “A Xuyên, em ngoan nhé, em khuyên bác ra đi, những người này hung dữ lắm, ông mà cứ ngồi bên trong thì kiểu gì cũng bị thương!”

 A Xuyên gật đầu, chạy ù vào nhà. Đám người đứng quanh đó nghe có tiếng rầm rầm vang dội, âm thanh ông già than khóc và trẻ con nức nở đan vào nhau, ai nấy đều thấy rất bất bình, ánh mắt chứa đầy sự phẫn nộ và khinh miệt, có người không nén nổi tiếng chửi bới giận dữ.

 Đến khi đã dỡ gần xong căn nhà, Ngân Xuyên mới cho đám thợ dừng tay. Chẳng mấy chốc đã thấy một già một trẻ run rẩy dìu nhau bước khỏi bãi vách nát tường xiêu, cảnh tượng thê lương khôn tả. Họ bước ra Ngân Xuyên mới biết ông cụ cũng bị thương, đầu đầm đìa máu. A Xuyên dìu ông, cứ khóc thút thít mãi.

 Cảnh sát thấy mọi người ra cả rồi bèn huơ gậy bắt đầu xua đám đông hóng chuyện. Ngân Xuyên chầm chậm tiến lại, đầu tiên anh xem vết thương của cô con gái nhà họ Tào, cô gái đã tỉnh lại, không khóc không gào, cặp mắt ngơ ngác, mẹ cô gái chỉ khóc nức lên, anh trai im lặng chẳng nói lời nào, che lấy trán cô. Ngân Xuyên lại nhìn ông cụ, cậu bé A Xuyên đứng bên ông đang trừng mắt nhìn anh, trong ánh mắt đứa bé là nỗi giận hờn và thù hận của một kẻ vừa bị ức hiếp, Ngân Xuyên như phải bỏng, thấy đầu ông cụ tứa máu, anh rút khăn tay đưa ông, khẽ thốt:

 “Ông lau đi.”

 Cặp mắt đục ngầu của ông cụ khóa chặt trên gương mặt Ngân Xuyên, đến mức anh thấy tê cóng, co người lại, ông cụ vươn bàn tay chằng chịt nếp nhăn, cầm lấy chiếc khăn tay sạch sẽ, rồi vứt nó xuống đất, dùng chân giẫm đạp.

 Ngân Xuyên quay người dợm đi, chợt lại có vật gì nặng nề bổ nhào lên người anh, khiến anh ngã rạp xuống đất.

 Ông cụ vừa lao ra, ông đẩy anh xuống đất, thét lên: “Đồ mất nhân tính! Tôi phải giết cậu!” Mặt mày ông dữ tợn, ánh mắt lóe lên tia sáng tuyệt vọng, vết thương trên trán đã rách toạc, máu chảy ồ ạt nhỏ xuống mặt Ngân Xuyên. Ông cụ vơ lấy hòn gạch trên đất, giơ lên định nện vào đầu Ngân Xuyên, nhưng rồi tay ông lại run rẩy, đầu óc Ngân Xuyên trống rỗng, quên cả phản kháng, chỉ cảm thấy một nỗi đau không thốt nổi thành lời.

 Anh chầm chậm vươn tay, mong che vết thương trên trán ông cụ lại, ông cụ nhìn gương mặt tuấn tú của chàng trai trẻ, cuối cùng vẫn mềm lòng, viên gạch rơi xuống đất, ngay tích tắc này người ta đã lao đến kéo ông cụ đi.

 A Xuyên đuổi theo sau ông cụ, kêu khóc: “Ông Tào, sao ông không đánh chết gã người xấu kia! Hu hu! Đáng ra ông phải đánh chết gã người xấu!”

 Người xấu. Hóa ra anh đã trở thành người xấu.

 Ngân Xuyên kinh ngạc, không biết vì sao, anh đã mất cả sức lực để đứng dậy.

 Anh chật vật trở về nhà, đầu anh ong lên, sải bước chạy lên tầng hai, chỉ muốn tránh né tất cả mọi người.

 Anh cảm thấy mình thật bẩn, bẩn không chịu nổi, bẩn đến mức chỉ muốn lột sạch da trên cơ thể, thay lớp mới lên.

 Nhưng thay rồi thì sao nào? Thay một lớp da, thì có thể đổi lấy một cuộc đời khác ư? Đầu anh nặng trịch, chân như giẫm lên bông, bước đi vội vàng, chẳng giữ nổi thăng bằng, hông đụng phải chậu hoa đặt trên giá, gương mặt vướng phải bông nhài Tây, khiến nó đứt cành rơi xuống đất, anh nhịn đau đỡ lấy chậu hoa, cau mày, cảm thấy có thứ gì đó đang chảy trên đầu mình.

 Máu.

 Nhưng máu đã khô tự bao giờ, đây chỉ là ảo giác của anh. Anh cảm giác như máu của ông Tào còn đang chảy, đang chảy xuống đầu anh, lau sao cũng không sạch.

 Anh cởi mũ, dùng sức lau mạnh trán mình, thở hổn hển.

 “Anh cả…”

 Chợt nghe tiếng Cảnh Ninh, Ngân Xuyên lại không dám quay người.

 Anh quên hôm nay là Chủ nhật, dù buổi sáng bà Vân sẽ đến bệnh viện cùng Cảnh Huyên, Thịnh Đường vẫn tới hiệu buôn Tây như lệ thường, nhưng Cảnh Ninh thì lại ở nhà.

 Anh đội mũ lên theo bản năng, nhưng muộn rồi, cô bé đã chạy tới.

 Cô thấy đầu anh toàn máu, gương mặt loang lổ bùn đất, vai áo sơ mi lốm đốm những máu, cô ngẩn ngơ hồi lâu, rồi lao đến ôm lấy eo anh, òa khóc nức nở.

 “Anh… sao anh… lại bị thương?”

 Ngân Xuyên khẽ vỗ vai cô, dịu dàng nói: “Là máu của người khác, đừng sợ, anh không bị thương.”

 Đôi mắt to của Cảnh Ninh ngấn nước, mỗi lần cô nhìn anh thế này, anh đều không sao chống cự nổi, anh vén tóc lên, để lộ bờ trán, lau mạnh mấy cái: “Em nhìn này, anh không bị thương thật mà!”

 Cảnh Ninh thấy trán anh không có vết thương thật, bèn thở phào nhẹ nhõm, nhưng giọng nói cất lên vẫn tràn đầy lo lắng: “Anh đánh nhau với ai vậy? Sao lại có máu?”

 “Lúc phá nhà có người bị thương, anh qua giúp đỡ nên không cẩn thận

 dính phải máu.”

 “Sao lại nhiều máu thế này!”

 Anh không muốn giải thích, bèn mượn cớ muốn tắm rửa để khẽ khàng đẩy cô ra, Cảnh Ninh lại không chịu buông, bị anh kéo đi, kéo đến tận phòng anh, Ngân Xuyên quay đầu nói: “Muốn nhìn anh tắm à, không biết ngượng!”

 Lúc này Cảnh Ninh mới buông tay: “Em ngồi ngoài chờ, lát anh ra em phải xem anh có bị thương thật không!”

 “Anh lừa em làm gì.”

 “Anh hai đã thành ra thế này rồi, em không muốn anh lại gặp chuyện không may!”

 Ngân Xuyên chỉ đành cười: “Vậy em chờ anh một lát.” Anh trỏ chiếc ghế trước bàn đọc sách, Cảnh Ninh ngoan ngoãn ngồi xuống, Ngân Xuyên mang quần áo vào phòng tắm rửa. Cảnh Ninh thấp thỏm không yên, đợi hồi lâu vẫn không thấy anh ra, bèn tiến lại trước cửa phòng tắm, hỏi anh: “Anh có đau không?”

 Ngân Xuyên trả lời vọng ra: “Anh không bị thương, sao em không chịu tin anh thế!” Rồi anh lại bảo, “Anh ra ngoài đây, cẩn thận kẻo bị va phải.”

 Cảnh Ninh vội lùi lại mấy bước, Ngân Xuyên mở cửa đi ra, cười nói: “Trông anh này, vẫn yên lành đấy thôi?”

 Hơi nước trong phòng tắm bay ra, Cảnh Ninh đưa tay phe phẩy theo bản năng, nhìn anh chăm chú. Quả thực gương mặt Ngân Xuyên lành lặn không mảy may thương tổn, anh lại vén tay áo cho cô xem, không có vết thương, lúc này Cảnh Ninh mới yên tâm, Ngân Xuyên bảo: “Có cần anh vén ống quần lên cho em nhìn không?”

 Cảnh Ninh ngượng, cười hì hì: “Không cần.” Rồi cô chợt ơ lên: “Anh cả, sao mắt anh đỏ thế, anh khóc nhè trong đấy à!”

 Ngân Xuyên phì cười: “Lúc tắm bị nước vào mắt, khóc nhè hả? Em coi thường anh quá đấy.” Rồi anh lại nói hết lời đuổi cô đi, gục đầu nằm xuống giường.

 Ngẩn ngơ hồi lâu, anh đứng dậy kéo điện thoại trên kệ đầu giường, gọi số phòng làm việc của Phan Thịnh Đường:

 “Cha… bên Đại Trí Môn đã xử lý xong xuôi rồi.”

 Phan Thịnh Đường “ừ” một tiếng, nói: “Giám đốc Ngô cũng nói với cha rồi. Con không phải thấy tội lỗi, ở những nơi như vậy thì xảy ra chuyện ngoài ý muốn cũng là bình thường.” Khựng lại một lát, ông ta nói tiếp, “Ông Tào mới qua đời rồi. Ông ta già, sức khỏe cũng không tốt, tự va đầu nên mới chết, không liên quan gì đến con hết. Cha định để hiệu buôn Tây mang tiền cho gia đình người ta, nhưng người chết mà mình cho tiền lại thành ra để kẻ khác có cơ hội bàn ra tán vào, về sau nghĩ cách bù đắp cho họ vậy.”

 Ngân Xuyên không lên tiếng, bàn tay cầm ống nghe của anh run lên, dường như lại có máu chảy xuống đầu anh.

 Phan Thịnh Đường nói: “Có chuyện này cha chưa nói cho con hay. Ông lão họ Tào vốn là chủ của mảnh đất này, theo lý mà nói căn nhà phải thuộc về ông ta, vì chuyện mua đất mà hơn mười năm trước hiệu buôn Tây và nhà họ suýt nữa phải thưa kiện nhau. Về sau cậu con cầm được giấy tờ nhà đất từ chỗ Tòa án, nghĩ cách động tay động chân mới giải quyết được vấn đề. Nhưng ông già này quá cố chấp, dù chúng ta có đền tiền, ông ta vẫn cứ khăng khăng cảm thấy mình có lý, cứ đối đầu với chúng ta bằng được, lấy danh nghĩa khách thuê trọ để lưu lại đến giờ. Lúc này người đã chết rồi, ân oán thị phi cũng đi theo ông ta.”

 Cửa tủ thủy tinh phản chiếu gương mặt trắng như tuyết, giờ đã héo tàn chết lặng của Ngân Xuyên, khóe miệng anh khẽ nhếch, thoáng nét cười lạnh băng khắc nghiệt.

 Sao anh lại cười?

 Anh tự tay giết chết một ông cụ, anh nên khóc mới phải, khóc cầu xin ông trời tha thứ, khóc cầu xin linh hồn người chết tha thứ.

 Thịnh Đường thở dài một tiếng như sáng tỏ điều gì, ông ta nói: “Về sau thể nào cũng phải gặp những chuyện thế này, con trai, con phải chuẩn bị tâm lý trước. Trên thương trường con không được lòng dạ đàn bà.”

 “Con biết rồi.”

 “Giờ cha còn một chuyện nữa muốn nói với con.”

 “Cha cứ nói đi ạ.”

 “Chú Hà của con, ôi, tính ông ấy gàn quá, trong tù ông ấy nghĩ quẩn, tối qua nhân lúc người ta không chú ý ông ấy nuốt đũa, không cứu được, sáng nay đã đi mất rồi. Dù ông ấy phạm phải sai lầm nhưng âu cũng đã dành trọn tâm sức cho nhà họ Phan, cho con suốt một đời người, ông ấy không có nhiều người thân, thôi thì chuyện hậu sự cha và con sẽ lo cho ông ấy, coi như đền đáp lòng dạ chú Hà. Con nghỉ ngơi đi, ăn cơm xong thì tới hiệu buôn Tây tìm cha.”

 Cúp điện thoại rồi, Ngân Xuyên đờ đẫn đứng dậy, anh mở tủ quần áo tìm vest đen, chọn hồi lâu, giở từng bộ ra, như đang vén tấm màn sân khấu, nhưng trên sân khấu không có ánh đèn, chỉ một mảng đen đặc. Anh chợt không còn cảm thấy sợ hãi nữa.

 Thật ra anh biết rất rõ, dù Phan Thịnh Đường có vươn tay đẩy anh vào vực thẳm tối tăm hay không thì anh cũng đã rơi xuống đó tự bao giờ rồi.
 
Quyển 1 - Chương 28


Để khống chế Vân Tú Thành đương nhiên sẽ phải ban phát cả ân lẫn uy, phạt thì đã phạt xong, giờ viên kẹo ngọt dành cho ông ta lại chính là kế hoạch “thân càng thêm thân” đã được trù tính từ trước.

 Vân Tú Thành vui lòng dùng con gái mình để khiến mối quan hệ ngày càng hời hợt với nhà họ Phan thêm khăng khít, còn Vân Lang cũng không từ chối kế hoạch của đám người lớn như lời Ngân Xuyên khuyên. Mà trái lại, cô còn tỏ rõ tâm nguyện muốn được cưới anh họ mình.

 Lễ đính hôn rất đơn giản, hai nhà cùng bày một bữa tiệc rượu, hai nhân vật chính chụp một bức ảnh cùng bạn bè người thân, báo chí Hán Khẩu lũ lượt cho in tấm ảnh này bên bài viết, đại ý tiêu đề đều là “Mối lương duyên trời ban của đôi trai tài gái sắc, cặp thông gia vàng ngọc Phan – Vân”. Trong tiệc rượu, Ngân Xuyên chẳng nói được mấy lời với Vân Lang, lúc hai người kính rượu khách khứa, Ngân Xuyên bảo: “Em Vân, em cẩn thận kẻo đổ rượu.” “Em Vân, khéo va đầu kìa.”

 Vân Lang chỉ nhớ vỏn vẹn hai câu này, vì sau đó anh không nói thêm với cô bất cứ lời nào nữa. Trước mặt người khác, anh cười với cô, cười dịu dàng vô cùng, sau lưng mọi người, anh thậm chí còn chẳng buồn nhìn mặt cô. Thói hư vinh của cô, sự nhiệt tình của cô, tất thảy những ao ước đẹp đẽ của cô, đều bị bóng lưng lạnh lẽo của anh đạp đổ xuống đất. Cô không dám nói cho cha mẹ, không dám để lộ cho người khác thấy, vì sĩ diện, cũng vì cô thật lòng yêu chàng trai nhẫn tâm này, cô không nỡ khiến anh bị bất cứ ai trách móc, thương tổn.

 Một ngày trước khi Ngân Xuyên lên đường, cô và mẹ có tới thăm nhà họ Phan, tặng anh một vali hành lý thật đẹp, vài bộ đồ Tây, đồng hồ mới tinh, lại thêm cả chút đồ dùng hàng ngày, món nào món nấy đều được cô chọn lựa hết sức tỉ mỉ cẩn thận.

 Ngân Xuyên vui vẻ cảm ơn Vân Tú Thành, anh mở nắp đồng hồ, dịu dàng vuốt ve tấm ảnh Vân Lang bên trong, rồi anh lại cười nhìn cô, ánh mắt ấy khiến Vân Lang run cầm cập. Cô biết anh ghét diễn kịch trước mọi người tới nhường nào, và cũng bất lực khi phải diễn trò cho họ xem tới đâu, chính cô đã ép anh, nhưng cô lại không kìm nổi lòng mình, cô mụ mị trước những ảo ảnh tuyệt đẹp mà nụ cười của anh dệt nên.

 Mọi người cố tình để họ lại một mình với nhau, đến cả Cảnh Ninh lẫn Cảnh Huyên cũng rất biết điều, không diễu qua diễu lại trước mặt họ. Vân Lang lấy dũng khí, bước tới trước mặt Ngân Xuyên, dùng giọng điệu nhún nhường nhất có thể để thốt:

 “Ngày mai… em đi tiễn anh nhé.”

 Ngân Xuyên nghịch một quả táo trên tay, chẳng ngẩng đầu, cũng không nói gì.

 Cô cắn môi, cố nén nước mắt: “Vậy… chúc anh thượng lộ bình an.”

 Anh cười, như thể đang cười lạnh, không, đúng là cười lạnh.

 Cô khẩn khoản: “Tại sao anh lại đối xử với em như vậy? Em xin anh đấy, xin anh hãy đối xử tốt với em một chút, chỉ một chút thôi, có được không?”

 Anh cay nghiệt tới đáng sợ, nhưng cô chỉ khao khát tình yêu của anh!

 Ngân Xuyên vẫn nhìn quả táo chăm chú, trái táo đỏ au tròn vành vạnh, màu sắc tươi tắn là thế, nhưng Vân Lang thù hận nó tới phát điên, cô giật lấy quả táo từ tay anh, ném nó xuống đất, ra lệnh cho anh: “Nhìn em đi!”

 Anh ngẩng đầu, ánh mắt anh vẫn lạnh lẽo như băng, hồi lâu anh mới cười, để lộ hàm răng trắng đều tăm tắp, như thể đang vui mừng không sao tả xiết: “Cuộc đời còn dài lắm, em có chịu nổi không, em Vân?”

 Giờ phút này đây, Vân Lang mới thật sự nếm được mùi vị của tuyệt vọng, anh lẳng lặng trông xuống cô, gương mặt lạnh tanh.

 Cuối cùng cũng tới ngày lên đường.

 Hành lý đã được xếp hết lên tàu, Cảnh Huyên và Cảnh Ninh theo anh ra bến tàu, đây là lần đầu tiên Cảnh Huyên tới nơi đông người sau khi bị thương, nhưng cậu vẫn cứ kiên quyết đòi theo tiễn bằng được.

 Ngân Xuyên chào từ biệt Thịnh Đường và bà Vân, trước khi lên xe, Thịnh Đường gọi anh lại, dịu dàng nói:

 “Con đi là đi mấy năm ròng, kiểu gì ra ngoài cũng phải chịu khổ, nhưng cha biết con sẽ làm rất tốt. Mẫn Huyên…” Ông ta hạ giọng, “sẽ tự hào vì con.”

 Ngân Xuyên nắm chặt lấy tay ông ta: “Con sẽ không để mẹ thất vọng, mẹ đang đứng trên trời cao dõi theo con, và dõi theo cả cha nữa.”

 Phan Thịnh Đường chầm chậm buông tay anh ra: “Cũng không còn sớm nữa rồi, con đi đi.”

 Đến bến tàu, Vân Thăng dẫn vài người làm lên tàu sắp xếp lại hành lý. Ngân Xuyên rút tấm vé ra từ túi áo, xách hành lý cầm tay chuẩn bị lên tàu, cái miệng nhỏ xinh của Cảnh Ninh méo xệch, cánh mũi run run, Cảnh Huyên nói: “Đã bảo là không được khóc rồi mà, em trông em kìa, lại chuẩn bị khóc nữa!”

 Cảnh Ninh thút thít: “Anh cả, nhất định em sẽ tới thăm anh…”

 Ngân Xuyên vuốt tóc cô, dịu dàng đáp: “Nếu có thời gian thì cứ tới thăm anh, nhưng học hành là quan trọng nhất, không được trễ nải bài vở.”

 Cảnh Huyên vươn tay siết vai Ngân Xuyên, kêu lên: “Anh cả!” Ba anh em ôm chặt lấy nhau, Cảnh Ninh nói: “Anh cả, nhất định anh phải nhớ bọn em đấy!”

 Ngân Xuyên gật đầu liên tục, anh không khóc, từ đầu chí cuối anh vẫn mỉm cười. Đến cửa vào rồi, Cảnh Ninh lại đuổi theo anh, hai mắt cô ầng ậc nước, cô kéo tay Ngân Xuyên, dúi một món đồ vào lòng bàn tay anh.

 Đó là sợi dây bạc, mẫu đơn hé nở, thiên trường địa cửu.

 “Anh để nó đi cùng anh đi.”

 Ngân Xuyên khẽ đáp: “Anh tặng nó cho em rồi mà, sao lại trả anh?”

 Cảnh Ninh lắc đầu: “Lúc nào anh cả cũng nhớ mẹ, để nó bên anh cũng như có nhà, có mẹ bên cạnh anh. Em biết, nhà trong lòng anh cả không phải căn nhà này của chúng ta.”

 Lòng Ngân Xuyên chấn động.

 Sau khi mẹ chết, “nhà” đã trở thành một hư từ trong lòng anh. Cảnh Ninh nói đúng, mẹ là nhà của anh, sợi dây này tượng trưng cho nhà của anh.

 Hóa ra cô lại hiểu anh tới thế.

 Anh đặt vali xuống, ôm chặt cô vào lòng, giọng anh run rẩy: “Bé Hạt Dẻ! Chờ anh trở về.”

 Cô vùi vào lòng anh, gật đầu thật mạnh: “Em sẽ chờ anh về nhà.”

 Khởi hành rồi.

 Ngân Xuyên vịn lan can, nhìn hai bóng người cứ vẫy tay với anh mãi trên bờ, càng lúc họ càng bé nhỏ, càng lúc càng nhỏ, nước mắt Ngân Xuyên mỗi lúc một nhiều.

 Thuyền dần rời xa bến cảng, tiếng gọi lưu luyến lại vẫn cứ văng vẳng bên tai anh: “Anh cả, anh cả…” Rồi cuối cùng nó cũng dần tan biến.

 Mình không thể khóc, nhất định không thể khóc, Ngân Xuyên tự nhủ, làm ơn đừng khóc. Nhưng lồng ngực anh đau nhói, chẳng thể kiềm chế nổi, phải thở hổn hển từng hơi.

 Một lần đi là đằng đẵng mấy năm ròng, chẳng biết khi gặp lại thế sự đã đổi thay ra sao, nhưng anh sẽ mãi nhớ ánh nắng và làn gió hôm ấy, nhớ nỗi bịn rịn và sự ấm áp khi đó, cùng cả hai bóng người trên bờ hồi lâu vẫn lưu luyến không muốn rời.

 Còn tàu chạy trên mặt sông mênh mang, đêm đã dần buông, những dải núi tiếp nối miên man hai bên bờ, bầu trời phía Tây trải đầy những rặng mây tía đẹp đẽ lạ thường. Bữa tiệc đêm trên boong tàu đã bắt đầu, nhạc sĩ kéo vĩ cầm, trình diễn một khúc nhạc thật êm ái.

 Anh đã từng nghe bản nhạc này.

 Vào một ngày nắng trời trong vắt, những nhành hồng leo đầy song cửa, họa mi trong cánh rừng đang hát ca, anh vừa dọn dẹp tập tranh, vừa nghe Cảnh Ninh đàn khúc “Love’s Sorrow” này.

 Nhịp điệu khi gấp gáp, khi chậm rãi, như khóc than, như thủ thỉ. Ngân Xuyên ngơ ngác nhìn mặt sông, nốt nhạc buồn đau nhảy nhót bên tai anh, chúng tượng trưng cho hồi ức đẹp đẽ, đang mỗi lúc một xa xôi.

 Tiếng quần áo sột soạt khẽ vang lên, chiếc ghế ma sát với mặt sàn tạo nên tiếng vọng thô ráp, một người nước ngoài mũi cao da trắng ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ, mở bao thuốc, rút một điếu xì gà, vừa cắt xong còn chưa kịp châm, người nước ngoài đã nghe thấy giọng nói lạnh lùng của chàng trai trẻ vang lên: “Làm ơn đừng ngồi đây, đây là chỗ của tôi.”

 Người nước ngoài nọ ngẩng đầu, thấy có một chàng trai Á Đông tuấn tú, ăn mặc sang trọng đang lạnh lùng nhìn mình.

 Người nọ khinh thường, châm thuốc, cứ thế ngồi im không nhúc nhích.

 Ngân Xuyên tiến lại, nhấc xoạch chiếc bàn nhỏ lên, quăng thẳng xuống sông, chiếc gạt tàn sứ rơi xuống boong tàu, vỡ thành từng mảnh.

 Người nước ngoài sửng sốt, hồi lâu mới bật cười: “Cậu điên rồi hả?”

 Ngân Xuyên không nói tiếng nào, ánh mắt dữ dội lạnh lẽo.

 Người nước ngoài nọ lúng túng vô cùng, lại sợ hãi mà không rõ nguyên nhân, thấy mọi người xung quanh ngó nhìn, anh ta tức tối đứng dậy, tiến về phía quầy bar.

 Mây mù nặng nề giăng kín trời, nước sông đã hóa thành một màu xanh sẫm, phản chiếu cả sắc trời đang dần ảm đạm. Người đàn ông nước ngoài đi được mấy bước, rồi lại bị tiếng khóc trầm trầm phía sau kéo chân quay đầu lại, anh ta thấy chàng trai rất đỗi ngạo mạn nọ từ từ quỳ xuống đất, hai tay ôm lấy mặt, cất tiếng khóc nức nở, tiếng khóc của anh đau đớn vô cùng, bờ vai anh run run, tóc mai đen bóng thấm ướt nước mắt, cứ chốc chốc anh lại vươn tay gạt lệ, bi ai bất lực, hệt như một đứa trẻ lạc đường.
 
Quyển 1 - Chương 29


 Anh sẽ mãi mãi là ân nhân của họ.

 Trời ngả tối, không khí lạnh lẽo ẩm ướt, nhưng lạ là ánh trăng lại xuyên qua tầng mây nặng trịch, đổ xuống trong vắt như thủy tinh. Bốn bề là những tòa kiến trúc kiểu cổ nguy nga bề thế, cảnh sắc như vẫn y nguyên từ hàng trăm năm trước, chìm trong vĩnh hằng lặng lẽ.

 Ngân Xuyên liếc nhìn hai người bạn học, nở nụ cười tinh nghịch: “Hai anh có muốn xem ảnh cô bé ấy không?” Anh rút đồng hồ, khẽ mở nắp ra, bên trong là tấm ảnh nho nhỏ của một đứa bé gái chừng ba, bốn tuổi, tay ôm con búp bê vải lớn. Cô bé bụ bẫm mũm mĩm, khóe môi khẽ cong lên.

 Tố Hoài hỏi: “Là ảnh lúc nhỏ của cô ấy sao?”

 Ngân Xuyên gật đầu: “Giờ cũng sắp mười lăm rồi, đã hai năm tôi không gặp cô bé.”

 Nam Gia nói: “Trông cô bé bướng lắm.”

 “Vừa bướng vừa nhõng nhẽo, ai cũng phải bó tay.” Ngân Xuyên thở dài, “Tôi là kẻ không có gia đình, nhớ đến em ấy cũng như đang nhớ đến nhà vậy.”

 Mỗi lần nhắc tới cô bé này, anh đều không nén nổi nụ cười và nỗi thương cảm mơ hồ.

 Anh bảo anh chăm lo cho cô bé như nuôi nấng con cái.

 “Tôi cũng chỉ là một cậu bé, còn em ấy thì là bé chíp bông nhỏ xíu, đi đâu cũng phải bế búp bê theo. Còn tôi đi đâu cũng dẫn em ấy đi cùng.”

 Cậu bé mang bình ốc sên tới hiệu thuốc, cõng theo một bé chíp bông còn nhỏ hơn cả mình, bé con trượt xuống lưng cậu, thế là cậu lại xốc chân em bé lên, ông chủ tiệm thuốc bắt gặp hai đứa trẻ bèn bật cười, sau đó nghe cậu bé cò kè mặc cả như người lớn, ông lại càng thấy lạ hơn.

 Hình như bé chíp bông rất thích ngủ, nhưng có lúc lại chợt tỉnh giấc, đôi mắt to tròn đảo láo liên quan sát chung quanh, cậu bé bèn đặt em xuống chiếc ghế dài, dặn dò bé chíp bông không được nghịch, cô bé gật đầu: “Ngoan, không nghịch.” Một lúc sau bé lại khóc nhè, la hét rất dữ, vì có một cậu nhân viên trêu em, vỗ tay dọa em. Cậu bé đếm tiền xong bèn bước tới trước mặt em, nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của bé chíp bông: “Anh cả mua hạt dẻ cho em ăn, em mà còn khóc nữa là anh sẽ đánh Meo Meo đấy.”

 Cô bé che chở cho con búp bê trong lòng, rồi lại nín ngay, nhỏ giọng bảo: “Hạt dẻ.”

 “Ừ.” Anh vuốt lớp tóc mái của bé chíp bông, “Bé Hạt Dẻ ăn hạt dẻ.”

 Cô bé cười tít mắt.

 Ông chủ đứng quầy thò đầu ra nhìn hai đứa, cười bảo: “Em bé nghe lời cháu quá nhỉ.”

 Cậu bé ngẩng đầu đầy kiêu ngạo: “Em ấy chỉ nghe lời cháu thôi.”

 Giờ cậu nhóc ấy đang nhớ đến cô bé của mình nơi xứ người.

 Ngân Xuyên uể oải dựa lưng vào lan can, ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm: “Lần trước các anh nghĩ tôi dùng tiền để mua chuộc các anh, nhưng thật ra không phải. Tôi chỉ cần một sự trợ giúp lâu dài. Các anh là bạn tôi, nhưng cũng không phải bạn tôi.”

 Mặt sông chuyển sắc ngà dưới ánh trăng, sương mù dập dờn phiêu đãng. Đôi mắt Ngân Xuyên cũng in ánh trăng đêm, sắc màu ảm đạm quẩn quanh.

 “Ở căn nhà ấy, tôi trơ trọi lẻ loi, bị người ta ghét bỏ, nghi ngờ, thù hận, hoặc ghen tỵ, tôi đã quen nhận lấy tất thảy những gì họ cho tôi. Chính mẹ tôi đã dùng mạng sống của mình để bảo vệ tôi. Tôi bắt buộc phải sống sót. Tôi đã cẩn thận bước từng bước tới tận ngày hôm nay, những tưởng mình có thể lặng lẽ tiến đi thật nhanh, thật vững vàng, nhưng thời gian vẫn cứ bỏ xa tôi. Tôi không biết mình phải cố gắng đến đâu mới có thể rời khỏi căn nhà ấy, cũng không biết phải đợi thêm bao lâu mới đến cái ngày không cần phải giấu giếm suy nghĩ thật sự của mình, không cần phải diễn kịch làm trò.”

 Anh quay đầu nhìn hai chàng trai đang hết sức nghiêm túc, rồi nở một nụ cười ảm đạm: “Tôi cần sự trợ giúp. Giờ tôi đã biết mình không thể thu mua các anh bằng tiền bạc, nên tôi nghĩ tôi chỉ có thể dùng bí mật của mình để mua chuộc hai người.”

 Anh đã phơi bày thân thế của mình.

 Anh gầy rộc đi trong một thời gian ngắn không đơn giản vì phải bôn ba tại hiệu buôn Tây trong kỳ nghỉ, vì áp lực học hành nặng nề, hay mệt nhọc xử lý vụ án của họ.

 Người đàn ông quốc tịch Anh bí ẩn tặng Ngân Xuyên bức bình phong chính là luật sư quản lý tài sản của cha ruột anh – Trịnh Đình Quan. Người đàn ông này tên Richard, ông ta chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ tài sản riêng tại nước ngoài của Trịnh Đình Quan, số tài sản này không bị ảnh hưởng bởi các sự cố ngoài ý muốn tại Trung Quốc, không ai có thể mang chúng đi, chỉ trừ có mình Trịnh Đình Quan và người thừa kế được ông chỉ định.

 Tạ Tề Phàm đã chứng minh thân phận của Ngân Xuyên với Richard, nhưng ông ta lại chỉ đưa cho anh một bức bình phong: “Xin lỗi cậu, dù tôi biết cậu là con trai của ông Trịnh, nhưng căn cứ theo ý nguyện của ông Trịnh và nguyên tắc ngành nghề chúng tôi, tôi không thể giao chìa khóa két ngân hàng cho cậu được. Trong lần gặp cuối cùng của tôi và ông Trịnh Đình Quan, ông ấy có nói mình sẽ đích thân trao lại tài sản cho con trai. Có lẽ ông ấy cũng đã thu xếp xong xuôi từ trước rồi.”

 Ngân Xuyên hồi tưởng lại, anh nói: “Thân thích nhà họ Trịnh đã xâu xé gần hết gia sản, bọn họ thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của tôi. Tôi cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi, không biết cha có thu xếp tương lai cho tôi thật không? Nhưng có vắt hết óc thì tôi cũng chẳng có được đáp án.” Đôi mắt anh loang loáng ánh lệ, ấy thế mà anh lại cười với họ, “Nhưng tạ ơn trời đất, cuối cùng tôi vẫn tìm được câu trả lời.”

 Ngày hôm sau, Vu Tố Hoài và Lý Nam Gia đã được chứng kiến bước ngoặt quan trọng nhất của cuộc đời Ngân Xuyên.

 Ngân hàng Chartered chi nhánh London. Richard đứng trên bậc cầu thang cao nhất, cơ thể cao ráo hơi hướng về phía trước.

 “Charles, xem ra cậu đã tìm được chìa khóa rồi.”

 Ngân Xuyên bước lên từng bậc thang, anh mặc bộ vest Bespoke (*) mua tại phố Savile Row (**), hàng mày khẽ nhướng cao, con ngươi màu nâu lấp lánh như sao, lại tựa bị che phủ bởi sắc sương mù. Anh chầm chậm vươn tay, sợi dây bạc cuốn nơi ngón tay anh, đong đưa theo từng nhịp chân, bông mẫu đơn như đang xòe cánh hé nở.

 (*) Bespoke: quần áo được may đo, thiết kế riêng theo yêu cầu khách hàng.

 (**) Savile Row: Khu phố thời trang lâu đời tại London, thánh địa của những bộ suit đặt may.

 Thiên trường địa cửu, số nét bút của các từ trên mặt khóa chính là mật mã.

 Thiên trường địa cửu, là con sông hận thù không có điểm kết thúc. 

 

 

------oOo------
 
Quyển 1 - Chương 30


Năm 1932, mùa Hè Hán Khẩu vẫn oi bức hệt như khi xưa.

Tháng Bảy, có trái dâu tây mọc nơi khe con đê, ánh mặt trời gắt gỏng nhuộm sắc đỏ cháy cho trái dâu nhỏ xíu, cỏ mần trầu tỏa thứ hương rất nồng, nước sông chảy cuồn cuộn, hơi nóng bốc lên ngun ngút.

Vài nhà báo nước ngoài có lòng, đích thân chạy tới Hán Khẩu thể nghiệm thời tiết khắc nghiệt nơi đây, viết những bài báo đặc sắc cho người đọc nước mình, bọn họ băng qua phố lớn ngõ nhỏ của Hán Khẩu, kiếm tìm những lời đồn ly kỳ về thời tiết nóng nực chốn này.

Nghe đồn có chú chim sẻ đậu lên nóc một căn nhà tại Hán Khẩu, sau ngã lăn ra chết vì hơi nóng trên mái ngói, rồi có một con mèo ra ăn xác chú chim, kết cục nóng bỏng cả lưỡi.

Lúc nhắc đến câu chuyện này, ký giả người Anh đã dụng tâm mang những số liệu chính xác nhất ra để miêu tả nhiệt độ tại Hán Khẩu, tìm kiếm nguyên nhân khiến mức nhiệt nơi đây cao chót vót, phân tích địa hình, sức gió, lượng mưa, thường thì những bản tin từa tựa vậy sẽ chìm ngập trong mớ tin báo có tiêu đề dạng “Thái tử X và nàng tình nhân đương nhiệm lại đứt gánh giữa đường”.

Ký giả người Mỹ lại dùng nét bút dí dỏm để vẽ bức tranh khôi hài với chú chim sẻ rơi từ mái nhà xuống, bên cạnh là con mèo mập ú đang ngồi ôm bụng rỏ dãi, trên bức tranh đề thêm hàng chữ: “Khà, người anh em, cháy xém chưa vậy?”

Người Nhật Bản lại nghiêm túc hơn nhiều, nghe bảo bọn họ nghiên cứu tình hình thời tiết rất tỉ mẩn, đi khắp nơi điều tra, cuối cùng, sáu năm sau, tức năm 1937, một ký giả người Nhật mới đưa ra kết luận: “Con chim này không chết vì nóng. Nó đứng trên mái hiên thấy oi bức quá, bèn dịch chân xích ra chỗ khác nhưng lại rơi xuống ống khói mà mất mạng.”

Nói chung, cả người Nhật lẫn người phương Tây đều gặt hái được đôi chút thành quả đặc biệt từ mùa hè Hán Khẩu. Bọn họ lần mò khắp các hang cùng ngõ hẻm, không quản ngại gian khổ. Đa phần dân Âu Mỹ đều hoạt động trong phạm vi tô giới bóng râm phủ khắp, câu lạc bộ và chốn tiêu khiển ngày hè mọc rậm rịt như nấm. Săn tin xong, bọn họ sẽ tìm một quán rượu nhỏ, chỉ vậy thôi là đủ đánh bay hết một buổi chiều mệt nhọc. Nhưng nhà báo người Nhật lại không như vậy, dường như những người dân da vàng gầy gò, diện mạo hết sức bình thường này rất giỏi chịu khổ, mà có vẻ họ cũng chẳng sợ mùa hè Hán Khẩu nóng như chảo lửa hừng hực. Bến tàu là nơi thuyền bè các quốc gia qua lại nhộn nhịp, là chốn tụ họp của những con người với đủ các dòng máu khác nhau, một khi đã đến đây thì tin tức gì cũng có, các ký giả người Nhật thường lặng lẽ ùa về bến tàu săn tin viết bài.

 Nửa tháng nay có một ký giả Nhật Bản đăng liền mấy bài báo về sự hợp tác giữa Hiệu buôn Tây Phổ Huệ với Hãng tàu Đại Quân.

Không ai trên đất Hán Khẩu chưa nghe tới tên Hãng tàu biển Đại Quân, gia tộc họ Mạnh – chủ nhân hãng tàu này từng kết thân với đại thần triều đình nhà Thanh Lý Hồng Chương. Nghe nói gia tộc họ Mạnh cũng có liên quan tới kế hoạch mở ngành hàng hải hiện đại Trung Quốc của công ty thuộc diện chính phủ giám sát – thương buôn quản lý Luân thuyền Chiêu thương cục.

Ký giả người Nhật Harada Toshihiro có trích dẫn một đoạn trong tác phẩm “Phục điểu phú” của Giả Nghị, ý muốn giải thích nguồn gốc của danh hiệu “Đại Quân” này.

“Thủy kích tắc hạn hề, thỉ kích tắc viễn; vạn vật hồi bạc hề, chấn đãng tương chuyển. Vân chưng vũ hàng hề, kiểu thác tương phân; đại quân bá vật hề, khối át vô ngần.”

Hiện giờ, ký giả người Nhật gầy gò thấp bé này đang ngồi trên thềm đá trước bến phà, phần bả vai dưới lớp áo sơ mi anh ta bị mặt trời hun cháy xém, khô nẻ đen thui, nhưng dường như người này vẫn cứ si mê đắm chìm trong tác phẩm của mình.

 “Cái tên ‘Đại Quân’ tràn ngập khí thế và sức mạnh, vừa khéo lại rất hợp với khí chất của gia tộc họ Mạnh vốn được xưng là vua hàng hải. Nhà họ Mạnh đã kinh qua sự sụp đổ của triều đình Trung Hoa, những biến động của chính quyền, bao lần chìm nổi lên xuống của nền kinh tế, nhưng vẫn giữ được địa vị của bậc tiền bối ngành chuyên chở đường thủy dọc bờ Trường Giang.”

Anh ta cau mày đăm chiêu, như thể vẫn chưa chắc chắn lắm, rồi lại vạch mấy ký hiệu lên cuốn sổ, tranh thủ thời gian trầm tư ngẫm nghĩ để ngẩng đầu nhìn chung quanh thư giãn trong chốc lát. Dưới ánh mặt trời, Trường Giang hệt như một con rồng khổng lồ hung tợn, chiếc thuyền sang trọng của hãng tàu Đại Quân đang nằm im trên mặt sông, như một kỵ sĩ rất đỗi thong dong. Đây là con tàu mà nhà họ Mạnh mới mua dạo gần đây, nó sở hữu linh kiện máy móc tiên tiến nhất thế giới cùng những phương tiện hỗ trợ hết sức xa hoa, đến cả van nước tầm thường nhất trên tàu cũng là hàng nhập khẩu từ Đức. Đồ đạc thiết bị đều được chọn mua tại nước ngoài, do một tay hiệu buôn Phổ Huệ đảm nhận. Hôm con tàu chính thức được đưa vào vận hành, người phụ trách của hiệu buôn Phổ Huệ đã đích thân đưa lô hàng cuối cùng lên tàu: đó là một trăm bộ dao dĩa vàng ròng được đặt làm riêng tại phố Regent tại London, lại thêm cả bảng tên khảm sapphire, ruby, chạm hoa văn rồng phượng dành riêng cho phòng tiệc cao cấp.

 Harada vuốt phẳng cuốn sổ đặt trên đầu gối, rồi lại tiếp tục tốc ký:

 Rất dễ thấy, những hành động này của Phổ Huệ đều có dụng ý riêng, nghe nói phó tổng mại bản của Phổ Huệ, anh Phan Cảnh…

 Rồi chợt mắt anh ta hoa lên, cuốn sổ trên đầu gối bị ai giật mất. Harada kinh ngạc, ngoảnh đầu lại thì thấy một chàng trai trẻ đeo kính râm kiểu Tây, mặc áo sơ mi trắng đang đứng sau lưng mình. Chàng trai này khẽ nhếch mép cười, lơ đãng lật giở cuốn sổ, xem chừng cậu ta mới chỉ chớm hai mươi, da dẻ trắng trẻo như chưa từng biết nắng nôi là gì, đường nét gương mặt cũng vô cùng khôi ngô, nhưng nụ cười bên khóe môi lại hết sức ngang ngược kiêu căng.

 Harada đứng dậy: “Cậu trả sổ lại đây cho tôi.”

 Chàng trai tháo kính xuống, đôi mắt đen láy sáng ngời lộ ra, Harada cảm thấy ánh mắt này còn ngạo mạn hơn cả nụ cười cậu ta. Chàng trai trẻ ngó nghiêng quan sát Harada, như đang nhìn một tên ăn xin, hay là con chó con mèo. Harada tức lắm, đang định cất tiếng thì chàng trai đã nhẹ nhàng vươn tay, xé tan cuốn sổ viết chi chít những chữ, rồi hất tung lên trời, những mẩu giấy bay xuống lả tả như hoa tuyết, chàng trai bật cười, để lộ hàm răng trắng đều tăm tắp.

“Cậu!” Harada giận điên mình, lao vào kéo cổ áo chàng trai. Chàng trai liếc anh ta, khinh miệt cất lời: “Tên trinh sát người Nhật, anh nói tiếng Trung giỏi đấy, ở đây bao lâu rồi? Có biết đây là địa bàn nhà ai không? Anh là cái thá gì mà đòi động tay động chân với tôi?”

“Tôi là nhà báo, không phải gián điệp!” Harada tức giận nói, “Cậu xé mất nhật ký công việc của tôi rồi, đây là vật dụng cá nhân của tôi, cậu không có quyền xâm phạm nó!”

“Xì!” Chàng trai trở tay tóm lấy cổ áo Harada, cậu cười lạnh, nói, “Đám người Nhật các anh chẳng có ai tốt đẹp cả, anh đừng tưởng anh bảo mình là nhà báo thì tôi sẽ bị lừa. Trong mắt tôi…”

 “Ôi cậu cả, cậu buông tay ra mau lên!”

Một ông già chạy vội từ bậc thềm cao xuống, ông ta có mái tóc hoa râm, gương mặt rất sắc sảo, tay chân nhanh nhẹn linh hoạt. Ông già thở hổn hển, mồ hôi nhễ nhại đầy trán, xem chừng vừa chạy một đoạn đường dài. Ông ta lao đến bên Harada và chàng trai, vừa chắp tay khom lưng xin lỗi Harada vừa đá chân chàng trai, ông bảo: “Cậu ơi là cậu, sao cứ sểnh ra một cái là lại gây chuyện thế, ngài đây là ký giả Nhật Bản được ông chủ đích thân mời đến đấy. Cậu bướng đến thế là cùng!”

Chàng trai đành phải buông tay, nhưng Harada vẫn giữ rịt lấy cổ áo cậu không buông, anh ta bảo ông già: “Cậu đây cướp mất sổ của tôi, xé mất bản thảo của tôi. Bác Trần, nếu cậu ta là người nhà họ Mạnh thì chi bằng hôm nay bác để tôi dạy dỗ cậu ta một trận thay bác, cho cậu ta tới đồn cảnh sát với tôi, tôi phải hỏi xem rốt cuộc đất nước được xưng là cái nôi lễ nghi này có biết nói lý hay không.”

Bác Trần giậm chân: “Chân thành xin lỗi ký giả, đây là cậu cả nhà chúng tôi, vừa mới về nước chưa lâu, cậu ấy sinh sống nơi đất khách nhiều năm, không hiểu chuyện ở Hán Khẩu, vả lại cậu nhà chúng tôi vẫn còn trẻ con xốc nổi…”

“Sao cháu lại trẻ con xốc nổi?” Mạnh Tử Chiêu lườm bác Trần, “Tên lùn này bắt nạt cháu mà bác còn lên mặt mắng cháu thay anh ta hả? Bác có phải người nhà họ Mạnh không thế?”

“Cậu bảo ai là tên lùn?” Harada giận tới độ bả vai run lên bần bật, anh ta siết chặt lấy áo Tử Chiêu. Nhưng đúng là Tử Chiêu cao hơn anh ta một cái đầu, làm anh ta kéo cậu thôi cũng thấy mệt, cổ thì rướn lên, chân thì nhon nhón, quả thực trông có phần tức cười thật.

 Tử Chiêu ngẩng đầu, đảo mắt bảo: “Ai lùn người đó khắc biết.”

Harada vung nắm đấm định đánh Tử Chiêu, còn Tử Chiêu thì chỉ đợi anh ta ra tay, cậu né người sang trái, tay phải quặp lại, kéo Harada về phía mình, rồi lại hạ cùi chỏ lên lưng Harada. Ra đòn xong cậu bật cười ha hả, Harada sao có thể chịu nhục, anh ta giận dữ thét lên, xông vào ẩu đả với cậu. Nhưng Harada lỡ trượt chân, ngã xuống bậc thang, Tử Chiêu bị anh ta kéo theo cũng lăn lông lốc, lăn đến tận bãi đất bằng, cậu lại nhỏm dậy lao vào đánh nhau tiếp. Bác Trần không biết làm sao cho phải, bèn tóm lấy một cậu hầu vừa chạy lại: “Báo cảnh sát, báo cảnh sát! Phải để cảnh sát xử lý ông tổ này mới được!”

Cậu hầu đáp vâng rồi đi ngay. Bác Trần chạy lại định kéo Tử Chiêu, nhưng Tử Chiêu đang hăng máu, bèn vung tay hất luôn ông ra. Bác Trần ngã phệt xuống đất, nhức cả mông, lệ trào khỏi hốc mắt: “Cậu cả ơi!”

Tử Chiêu ngó thấy mình vừa vô ý làm ông hầu già bị thương, tức khắc áy náy vô cùng. Nhưng Harada lại là kẻ cố chấp bướng bỉnh, cứ kéo riết lấy tay cậu mà nện, Tử Chiêu ăn mấy cú đấm, lại không còn tâm trí đâu đánh trả, cậu bèn nảy ra ý, thét với Harada rằng: “Này, tên trinh sát Nhật, hôm nay cậu đây không thèm so đo với anh nữa, anh thế yếu, tôi người đông, nếu muốn đánh thì để hôm khác chúng ta đánh sau!”

 “Xin lỗi tôi đi!” Harada quệt máu mũi, gương mặt đã tím bầm loang lổ.

 “Xin lỗi hả?” Tử Chiêu ngửa mặt lên trời mà cười, “Tôi nói cho anh biết, với cái loại như anh thì trong từ điển của tôi không bao giờ có hai chữ xin lỗi.”

 Cuộc ẩu đả quái lạ tại bến phà đã làm dấy lên hai tin đồn.

Thứ nhất là người thừa kế của Hãng tàu Đại Quân – Mạnh Tử Chiêu đánh nhau bị bắt vào đồn cảnh sát, sau hai tiếng tạm giam cậu thiếu gia này mới được luật sư lừng danh nhất Hán Khẩu là Tần Kim Thắng bảo lãnh ra ngoài. Cái đêm sau khi được bảo lãnh, Mạnh Tử Chiêu phải trú tạm ở một khách sạn tại Lục Độ Kiều, vì ông bố Mạnh Đạo Quần của cậu ta đã nổi trận lôi đình, đóng cửa nhốt thằng con quý tử ngông nghênh của mình ở ngoài.

Tin đồn thứ hai nổi lên ngay sau hôm sự kiện ẩu đả diễn ra, một tờ báo Nhật Bản tại tô giới đã cho đăng lời thanh minh xin lỗi của Mạnh Tử Chiêu với ký giả Nhật báo Tokyo là Harada, tuy nhiên câu từ vô cùng mực thước già dặn, xem chừng không giống lời lẽ của một chàng trai trẻ tuổi. Hơn nữa tờ báo này được phát hành trong phạm vi nhỏ, độc giả đa phần là Nhật kiều hay thương nhân Nhật Bản, dân Trung Quốc gần như chẳng có cơ hội đọc.

Chẳng ai biết lời đồn này có đúng hay không. Những câu chuyện được đem ra bàn bạc tán gẫu khi rỗi rảnh của đám thượng lưu Hán Khẩu nhiều không kể xiết, mỗi ngày lại một đề tài, thay đổi nhanh đến chóng mặt, có lẽ chỉ người trong cuộc mới rõ đâu là thật, còn đâu là giả.
 
Quyển 1 - Chương 31


Mạnh Tử Chiêu đạp cái phịch lên bàn trà, ném tờ báo xuống đất, rồi khom người gọi điện thoại:

“Bác Trần, có phải bác viết mấy lời thanh minh này không? Bác tưởng cháu không nhận ra cái giọng già quắt già queo này của bác hả? Ai bảo cháu xin lỗi tên Nhật Bản đó? Bác to gan thật đấy, còn dám mạo danh cậu chủ nữa!”

Bác Trần lạnh lùng đáp lời: “Cậu cả, cậu mới về được năm ngày đã gây một mớ chuyện phiền toái, ông chủ bảo rồi, ông sẽ trừ tiền mời luật sư vào học phí của cậu, mà cậu cũng không qua chỗ kế toán lĩnh tiền tiêu vặt được nữa đâu. Cậu thích nổi giận với tôi thì mặc cậu, dù sao cậu cũng phải trả tiền thuốc thang mấy hôm nay cho tôi. Tôi chăm bẵm cậu từ nhỏ, lo ăn lo mặc, thay tã chùi mông cho cậu, thế mà cậu…”

Tử Chiêu mất kiên nhẫn, ngắt lời ông: “Được rồi được rồi, cháu xin lỗi… cháu sai rồi… Được rồi, cháu biết bác muốn tốt cho cháu, nhưng sao bác không thuê người nào văn hay chữ tốt chút đỉnh để viết bài hộ cháu, bác làm cháu xấu hổ chết đi mất!”

“Xấu hổ?! Ha ha, cậu cả muốn biết thế nào là xấu hổ không?”

“Cháu không muốn biết. Giờ bài cũng đã đăng rồi, khi nào cháu mới được về nhà đây? Đến quần áo cũng không có mà thay, cháu còn chưa được đi gặp bạn bè đây này.”

“Giờ cậu mới nhớ đến mấy chuyện này hả? Thế thì sao hôm trước lại làm thế? Ôi, thôi cậu ngoan ngoãn đợi trong khách sạn mấy hôm đi, giờ ông chủ vẫn chưa nguôi giận đâu. Để tôi mang quần áo đến cho cậu!”

“Cháu hết tiền rồi!”

“Rồi rồi, thưa cậu, để tôi mang tiền cho cậu!”

“Cháu biết bác thương cháu nhất mà!” Tử Chiêu cười hì hì.

“Tôi sắp không còn mạng mà thương cậu nữa rồi!” Bác Trần thoáng cao giọng, rồi lại nhỏ tiếng bớt, “Thôi không nói chuyện với cậu nữa, ông chủ và bà chủ về rồi.”

Sau giờ cơm trưa, bác Trần mới rề rề mang một vali quần áo tới khách sạn cho Tử Chiêu, rồi lại đưa cậu một xấp tiền giấy. Tử Chiêu mừng rỡ nhận lấy, cẩn thận đếm từng tờ tiền một, đếm qua đếm lại, thấy có đúng hai mươi tờ, đều là tiền giấy mệnh giá năm đồng do Ngân hàng Deutsch-Asiatische phát hành.

Cậu trợn mắt: “Bác coi cháu là loại chíp hôi như dứt sữa như Chiêm Chiêm à? Tổng cộng còn chẳng đến một trăm đồng, bác đùa cháu hả?”

Bác Trần nghiêm giọng gắt lên: “Này!” Rồi lại húng hắng, ánh mắt trông vô cùng nghiêm khắc, “Giờ chẳng thiếu mấy kẻ ngồi dưng ăn hoang, cuối cùng không có nổi một chiếc quan tài chôn thân đâu. Con người ta quý ở chỗ tự lập, Mạnh Đạo Quần tôi thất đức sao mà lại sinh ra cái thằng phá gia chi tử thế này, hành xử chẳng ra hồn người, văn dốt võ dát, thể nào đôi ba năm nữa thôi là tương lai tiền đồ sẽ tuyệt sạch! Cái loại con thế này không có cũng được, cứ để cho nó đi ăn mày đi!”

Tử Chiêu mắt tròn mắt dẹt, bác Trần lại đổi sắc ngay, mặt mày hiền hòa, bác ta dịu dàng giải thích: “Cậu chủ ngoan, cụ ông cụ tổ ơi, đây là lời ông chủ nhờ tôi chuyển lại cho cậu đấy. Một trăm đồng này không phải ông chủ cho đâu, mà là lão hầu già vô dụng tôi lén biếu cậu, cậu tiêu dè tay thôi, quần áo không đủ mặc thì tôi mang thêm cho cậu. Mấy hôm nay hãng thuyền có mối làm ăn lớn, ông chủ bảo tốt nhất là đừng để cậu quẩn quanh bên cạnh cho đỡ mệt lòng. Nếu không ông chủ thấy cậu lại lấy dây mây đánh cho nát đít, để cậu bò lê bò lết đấy!”

Tử Chiêu vỗ ngực kêu than, đạp loạn xuống bàn: “Một trăm đồng thì sao cháu dùng nổi đây!”

“Ăn cơm dè sẻn một chút thì chẳng đến hai ba đồng đâu, cậu chủ, một đồng rưỡi đã đủ ăn một bữa trứng rán rồi đấy.”

“Vé xem kịch thôi đã tận năm đồng!”

“Lên giá lâu rồi, phải mười đồng mới mua nổi cơ, cậu không xem cũng được mà.”

“Cháu muốn đi trung tâm thương mại!” Tử Chiêu bật dậy, kéo tay bác Trần, “Từ bé cháu đã thích tới đó rồi, bác cũng biết mà, cháu ở nước ngoài mấy năm liền, chỉ mong có một ngày trở về được bước vào tòa nhà màu trắng đẹp đẽ chạm hoa dưới ánh mặt trời rực rỡ ban chiều…” Cậu miên man như đang đọc thơ, “Xem Sở kịch, nghe Kinh kịch, xem xiếc, uống trà, ăn điểm tâm, điểm tâm có quẩy chiên giòn, bánh viên chiên, bánh rán vòng, bánh hoa mơ, rượu nếp… Bác thương cháu đi thương cháu đi mà!”

Bác Trần bị cậu lắc qua lắc lại như túi bột mì, đau đầu hoa mắt, cuối cùng đành ngửa mặt lên trời thở dài: “Ôi trời, để lát tôi đặt chỗ cho cậu, chỉ có lần này thôi đấy.”

“Ghế đẹp nhất nhé bác.”

“Đẹp nhất!”

Mạnh Tử Chiêu đã được cha đưa đi Lục Độ Kiều từ thời còn ẵm ngửa, đây từng là điểm cuối của con sông Hoàng Hiếu trải đến Hán Khẩu, cũng từng là một bến tàu thủy. Phàm là nơi có bến tàu ven bờ Trường Giang thì đều liên quan tới nhà họ Mạnh bọn họ. Trong tâm khảm cha cậu, sông nước là động mạch của nhà họ Mạnh, mà mảnh đất nơi các bến tàu nối nhau hết mối này đến mối khác chính là xương cốt máu thịt của Mạnh gia. Tử Chiêu nhớ nơi đây từng có một mảnh đất được người Đức mua để phơi da bò. Hồi nhỏ cậu rất sợ bẩn, sợ hôi, mà nơi này lại luôn tỏa ra thứ mùi hôi thối quanh năm, nhưng càng sợ cha cậu lại càng quyết tâm dắt cậu đến bằng được, đến tận khi mảnh đất bị hai công ty mua mất, bến tàu ngưng hoạt động, nhà dân được xây lại, khoảng đất to còn dư được sửa sang thành một trong những khu ăn chơi lớn nhất cả nước: Chợ Mới Hán Khẩu.

Thiên Tân có Khuyến Nghiệp Trường, Nam Kinh có Phu Tử Miếu, Thượng Hải có Đại Thế Giới, thì Hán Khẩu có Chợ Mới.

Chợ Mới gồm một tòa kiến trúc chính nối liền với hơn hai mươi nhà dân, tạo nên một khung cảnh nguy nga đồ sộ, đây là quần thể công trình kiểu Tây mang đậm dấu ấn văn hóa Phục Hưng, ban đầu có tên Hán Khẩu Tân Thế Giới, trong vòng hơn mười năm nó đã thay đổi vô số những cái tên, giờ đây danh xưng của nơi này là Chợ Mới Tân Ký. Tòa nhà phụ và chính là khu vui chơi giải trí cùng chốn kinh doanh buôn bán, dõi mắt trông lại hệt như một con đại bàng đang giang cánh, ôm trọn những sầm uất phồn hoa của thành phố vào lòng. Tòa nhà có hai sân khấu nhạc, ba sân khấu kịch, có rạp chiếu bóng, phòng diễn xiếc, phòng bi-a, sân trượt băng, vô số các sân khấu lớn, ngoài ra còn có vườn hoa trong nhà với diện tích khổng lồ, lại thêm hàng chục nhà hàng cả Đông lẫn Tây, những bộ phim chiếu liên miên từ sáng tới tối, nhà hàng mở cửa đến đêm khuya, mặt giáp đường cái kín những cửa tiệm, kinh doanh các mặt hàng thời thượng tới từ đủ các quốc gia trên thế giới, xứng với câu “Hàng Tây Dương mới mẻ lạ mắt, hàng Quảng Đông đẹp đẽ tinh xảo, Hán Đông Kinh sầm uất lắm thay. Phú thương đại cổ nhiều như mây, đường cái đây nườm nượp xe chạy.”

Mạnh Đạo Quần dạy dỗ con cái nghiêm khắc, sau khi Chợ Mới được khánh thành, ông nghiêm lệnh không cho cậu con trai cả Mạnh Tử Chiêu được tùy ý tới đó rong chơi, nào ngờ đứa con trai trời sinh ham vui cứ nằng nặc làm trái lời cha, được mẹ yêu chiều, được bác Trần lấp liếm thay, cậu con này có cơ hội là lại lén tới Chợ Mới, nào bắn bi-a, nào chơi bóng bàn, nào uống trà nghe hát kịch ăn vặt la cà, nhưng dù sao cậu cũng xuất thân danh giá, lại có người cha vô cùng nghiêm khắc nên không dám quá ham mê sa đà. Tuy vậy, Tử Chiêu vẫn còn nhỏ mà đã học được đủ các mánh trò ở chốn ăn chơi mua vui này.

Buổi chiều là thời điểm nóng nhất trong ngày, Tử Chiêu bước trên con đường được nắng chiếu sáng rực, cậu khẽ híp mắt, cảm nhận nhiệt độ mặt trời chói chang như đang ủi là nóng sực trên thân thể mình. Cơn gió nhẹ lách qua khe hẻm ngõ hẹp ùa lại, mang theo cả hơi ẩm mốc cùng mùi dầu cù là mà các gia đình bình thường hay có, cậu hít thở từng hơi thật lớn, mới rời khỏi thành phố sông nước này chưa đầy bốn năm mà như đã cách xa cả một đời vậy. Phải đến lúc rời xa mới hiểu rõ được niềm quyến luyến bịn rịn với thành phố này, nhưng khi trở về, cậu lại càng thêm không nỡ chia lìa nơi đây.

Tử Chiêu cởi mũ mang ra quạt nhưng chẳng thấy mát đâu, vách tường căn nhà kiểu Tây sừng sững phả hơi nóng như thiêu như đốt, Tử Chiêu làm bộ siết nắm đấm nện vào tường, dữ dằn thốt lên: “Hừ hừ, đừng tưởng tôi chờ ở nước ngoài suốt ba năm mà lại sợ nóng nhé?”

Thoáng nghe thấy tiếng cười êm ái dịu dàng, cậu giật mình quay đầu nhìn lại.

Dòng người nhốn nháo, xe qua xe lại, nhưng lại không thấy người nọ.

Cậu thoáng ngơ ngác, thấy lòng mình trống rỗng, một thứ cảm xúc lại ùa tới, như sóng nước dần dâng.

Bác Trần đặt được ghế ngồi đẹp nhất của rạp hát. Tử Chiêu xem một vở “Đả long bào” thấy còn chưa đã nghiền, lại mò đến nhà hát nhỏ cách vách, bỏ hai đồng ra mua vé nghe một vở bình đàn (*). Trong túi áo cậu chỉ có vỏn vẹn hai mươi đồng, do sợ lại có gã móc túi nào cuỗm mất phần tiền ít ỏi của mình. Móc tay vào túi quần, cậu lôi ra bốn tờ tiền giấy mệnh giá năm đồng, thoáng cảm giác buồn chán như hổ lạc đồng bằng. Bức tường dày chắc kiên cố của Chợ Mới ngăn cách nhiệt độ hừng hực bên ngoài, nơi đây được thiết kế mở, vô cùng thông thoáng dễ chịu, lại có cả quạt điện và máy lạnh hạ nhiệt, giúp cho căn phòng người ngồi kín ghế nhưng lại chẳng hề oi bức ngột ngạt. Tử Chiêu đi lang thang không mục đích, ánh mặt trời bên ngoài đã dần dịu bớt, lúc này là gần sáu giờ chiều, các nhà hàng bắt đầu chuẩn bị bữa tối, hương thơm của những món ăn tỏa khắp.

(*) Bình đàn: một hình thức văn nghệ kết hợp giữa hát và nói lối.

Cửa ra gần nhất nằm bên vườn hoa dưới tầng một, ánh chiều tà cuối buổi xuyên qua lớp thủy tinh, phủ lên đài phun nước nằm giữa khu vườn, tiếng nhạc trầm bổng du dương, đài phun nước hất làn hơi mờ lên theo điệu nhạc, lóng lánh muôn sắc. Bên đài phun nước có hàng ghế ngồi cho khách khứa nghỉ ngơi, trên chiếc bàn ăn vuông trải khăn trắng muốt là giá cắm nến tinh xảo, các nhân viên phục vụ đang thắp từng cây nến một.

Có làn hơi nước mỏng phủ trên, bông hoa hồng tỏa thứ hương thơm dịu. Nhân viên phục vụ ôm một bó hồng màu trà bước lại, thì thầm gì đó với vị khách đang ngồi, vị khách này gật đầu, ý bảo anh ta đặt hoa xuống bàn.

Nhân viên phục vụ cúi chào rời đi, còn bước chân của Tử Chiêu thì khựng lại.

Phan Cảnh Ninh.

Tóc cô không uốn thành “lọn lạp xưởng” hiện đang rất mốt, mà chỉ buông xõa thật dịu dàng, cô dùng một chiếc cặp bạc để cố định phần tóc mái lại cho ngay ngắn, cô đã dùng chiếc kẹp này từ rất lâu rồi, cậu nhớ hoa văn khắc trên kẹp là hình chim khách đậu nhành mai. Chim khách không sà vào làn tóc đen nhánh, hoa mai lại vươn mình ra, lặng lẽ áp lấy những sợi tóc. Cô mặc một bộ xường xám xanh nhạt, trông rất thuần khiết mộc mạc, móc cài trên cổ áo là một đóa hoa được kết từ những hạt san hô to chừng viên trứng cá. Gương mặt cô trắng muốt, gò má phớt hồng, không giống sắc san hô, mà mang vẻ mềm mại yểu điệu hơn xa, đây là nét mặt xinh tươi nhất của một thiếu nữ đang tuổi xuân thì.

Lúc này cô đang cúi đầu nhìn tấm thẻ rượu ngà voi trong tay. Tử Chiêu nghĩ, gã đáng ghét nào cho cô món đồ chơi đó vậy? Ngón tay trắng muốt như tuyết của cô khẽ vuốt ve nét chữ đỏ “Cử nhân” bên trên, ánh hoàng hôn được thủy tinh lọc qua và sắc đèn chiếu rọi tấm ngà voi nhẵn bóng, phản chiếu thứ ánh sáng êm dịu, quyện với đôi hoa tai ngọc trai nho nhỏ đong đưa dưới vành tai cô, trông rất đỗi thú vị. Ánh nến lập lòe, đôi mắt đen láy của cô trong veo, sóng mắt dập dờn, thỉnh thoảng lại có ánh sáng chiếu lại, biến con ngươi cô thành hai viên thủy tinh trong suốt.

Cậu chợt cảm thấy muôn sông nghìn núi cũng trở nên quá đỗi quen thuộc tầm thường, chẳng buồn ghé mắt trông, cuối cùng chỉ có mình cô là khác biệt.

Cậu bất giác bước tới trước mặt cô, “cách” một tiếng, tay áo cậu gạt phải giá cắm nến, cây nến lăn thẳng xuống bàn, sáp nến nóng hôi hổi điểm một lỗ đen trên khăn trải bàn trắng tinh. Cậu vội vã nhấc cây nến lên, ngón tay lại bất cẩn bị bỏng, khiến cậu bực dọc phẩy tay.

Cô ngạc nhiên ngẩng đầu.

Thời gian như ngừng lại. Bọn họ nhìn nhau, cậu kìm lòng không đậu muốn lại gần cô thêm đôi chút, bờ môi mấp máy, lòng lại rối như tơ vò, không biết nên nói gì cho phải.

Cảnh Ninh chợt dời mắt đi, đây là vẻ mặt mà cậu ghét vô cùng. Tử Chiêu ngâm nga hát, kéo ghế ngồi xuống, cứ nhìn cô chằm chằm không dời. Nhân viên phục vụ tiến đến cắm lại nến, mang cả thực đơn lên, cậu bèn cúi đầu nhìn, cảm thấy có đôi mắt trong veo đang lướt qua mặt mình, cậu lại ngó trộm, thấy cô đang làm mặt xấu với mình thật, bàn tay bé nhỏ của cô kéo trễ mí mắt xuống, lưỡi lè ra, cậu giả bộ không thấy gì, gấp thực đơn, chọn bừa mấy món.

“Này!” Sau khi nhân viên phục vụ rời đi, cuối cùng cậu cũng lên tiếng. Ngay tích tắc cậu ngẩng đầu lên cô đã trở về với vẻ thục nữ, nghe cậu gọi, cô lại kiêu căng liếc nhìn cậu.

“Cậu có ý gì đấy?”

Cô không đáp lời, bàn tay phải vuốt ve cánh hoa hồng mềm mại.

“Tớ nói chuyện với cậu đấy.”

Cô dứt khoát cúi luôn đầu xuống, lẩm bẩm: “Du học cái gì chứ, đến phép lịch sự tối thiểu cũng chẳng biết.”

“Phan Cảnh Ninh!” Cậu gọi tên cô, cô giả bộ không nghe thấy, cứ quay đầu ngó quanh, nhưng khóe mắt lại đang trộm liếc cậu, cô không biết với cậu mà nói thì vẻ mặt lúc này của cô tràn ngập vẻ nũng nịu khiêu khích.

“Cô Phan!” Tử Chiêu cao giọng.

Lúc này cô mới chịu đáp: “Gọi tiểu thư đây có chuyện gì?”

Cậu học cô kéo trễ mí mắt xuống, lè lưỡi bảo: “Tớ lỡ đắc tội gì với cậu vậy? Mà lại làm mặt quỷ với tớ.”

Cô như cười như không: “Mơ vớ mơ vẩn gì đấy hả? Ban ngày ban mặt mà còn bị ảo giác, cậu tìm thuốc uống đi.”

“Gặp bạn cũ sau bao năm xa cách mà cậu chào hỏi thế này à? Mau ra đây ngồi với tớ đi.”

“Xì! Ai thèm làm bạn cũ của cậu.” Cô bĩu môi.

Tử Chiêu đứng dậy, kéo ghế ngồi xuống cạnh cô, Cảnh Ninh ghét bỏ dịch sang một bên, Tử Chiêu vắt chân híp mắt, gật gù đắc ý nói: “Tử Chiêu thân mến, cậu ở Berlin xa xôi có khỏe không? Nghe nói mùa đông ở đó rất lạnh… Bốn con vịt cậu tặng tôi…”

Cảnh Ninh đỏ bừng mặt: “Im đi!”

“Không nhớ hả? My dear Jenny?”

Đó là bức thư cô viết cho cậu sau khi cậu đi Đức du học, Jenny là tên tiếng Anh của cô, trong thư cô kể thật cặn kẽ quá trình mình huấn luyện bốn con vịt con bơi xong lại xếp hàng về nhà, cuối thư còn trịnh trọng ký cả tên tiếng Trung và tiếng Anh, trước tên tiếng Anh cô đề cả cụm từ “Người bạn thân mến của cậu”.

Nhưng cậu không viết thư trả lời cô.

Với một Cảnh Ninh kiêu ngạo mà nói, đây là một nỗi nhục khổng lồ, vậy nên đây là bức thư đầu mà cũng là bức thư cuối cô viết cho cậu. Giờ cậu nhắc lại chuyện này, đương nhiên cô sẽ cho rằng cậu đang đắc ý chế giễu cô, cô tức tới độ bờ môi run rẩy, cầm bó hoa lên đánh cậu.

Tử Chiêu giơ tay che mặt, đóa hoa lành lạnh quật vào tay cậu, cánh hoa bay lả tả, mùi hương xộc vào mũi. Cậu chỉ cười hỏi: “Sao sau đấy lại không viết thư cho tớ nữa?”

Cảnh Ninh ném hoa xuống bàn, thấy mọi người xung quanh đang nhìn họ, cô mới ý thức được hành động ban nãy của mình hết sức thô lỗ, bèn cộc cằn đáp: “Bức thư đó là mẹ cậu bảo tôi viết cho cậu!”

“Vịt tớ tặng cậu đâu rồi?”

“Giết ăn sạch rồi!”

“Tớ không tin!”

“Tin hay không thì tùy!”

“Phan Cảnh Ninh, có phải chiều nay cậu thấy tớ ngoài đường không? Có phải cậu theo tớ tới đây không?”

Cảnh Ninh lườm cậu, khinh bỉ bảo: “Mấy năm không gặp mà mặt vẫn dày quá nhỉ.”

“Dày hả? Tớ có thấy thế đâu, cậu sờ thử mà xem.”

Cảnh Ninh làm bộ buồn nôn, Tử Chiêu hỏi: “Ai tặng hoa cho cậu đấy?”

“Liên quan gì đến cậu?”

“Tớ phải bảo người ta về sau đừng tặng gì cho cậu nữa. Dù sao tặng mấy con thú cũng bị cậu ăn mất, tặng hoa cỏ thì, đây này, lại bị cậu đập nát bét.”

“Tôi thích! Tôi thích đấy! Mạnh Tử Chiêu, xin cậu hãy tránh xa tôi ra. Bạn tôi chuẩn bị tới rồi, ở đây không có chỗ cho cậu đâu.”

“Bạn của cậu là bạn của tớ. Mọi người cùng ngồi cho vui.”

“Đúng là không biết xấu hổ.”

“Cùng tùy vào việc tớ ngồi với ai nữa. Này, cô chủ nhà họ Phan, tớ viết cho cậu bao nhiêu thư mà sao cậu viết cho tớ có mỗi một lá thế? Cậu trả thư lại đây cho tớ!”

Cảnh Ninh ngạc nhiên: “Cậu viết bao giờ…”

“Đừng làm bộ như không nhận được nữa.” Tử Chiêu hừ lạnh, “Mai tớ sẽ qua nhà cậu lấy, một bức thư một trăm đồng, một là cậu trả thư cho tớ, hai là phải đưa tiền, chắc cũng được một vạn tám nghìn đồng.”

Giọng điệu cậu nửa đùa nửa thật, chẳng biết đang trêu cô hay là nói thật, nhưng ánh mắt của cậu lại thấp thoáng nét dịu dàng khó nhận thấy, tim Cảnh Ninh đập rộn lên, cô cau mày, chu miệng bảo: “Một vạn tám nghìn đồng cái gì chứ, rốt cuộc cậu viết bao nhiêu…”

Cảnh Ninh còn chưa dứt tiếng đã bị ngắt lời, hai cô bạn Cảnh Ninh hẹn gặp là Phương Kỳ Kỳ và Lưu Trình Viễn đã tới. Vì có quen Tử Chiêu nên họ cứ ríu rít chào hỏi, lại nhắc đến chuyện trên báo. Tử Chiêu chẳng thấy ngại ngùng mà còn vênh mặt khoe khoang, nói dù mình xa xứ nhiều năm nhưng dòng máu Trung Quốc và tinh thần trọng nghĩa vẫn không vơi đi chút nào, gặp tên trinh sát Nhật đương nhiên phải dạy cho một bài học, đám Phương Kỳ Kỳ biết cậu khoác lác nhưng không vạch trần, chỉ cười bảo: “Cậu Mạnh đúng là không mảy may thay đổi, thấy chuyện bất bình chẳng tha, cứ y như hiệp sĩ vậy.”

Cảnh Ninh ngẩng đầu hừ lạnh.

Tử Chiêu gọi nhân viên phục vụ tới, nhìn hai cô bạn bằng ánh mắt hào phóng phong lưu, bảo:

“Hai tiểu thư cứ chọn thoải mái.” Rồi lại bảo, “Ở đây chúng ta có quý cô giàu nhất đất Hán Khẩu, lát nữa cứ bảo cô Phan thanh toán.”

“Này, họ Mạnh, cậu xong chưa đấy, xấu hổ chết đi được!” Cảnh Ninh thét lên.

“Một lá thư một trăm đồng, cậu còn nợ tớ cả mớ tiền đấy. Cứ trả từ từ đi.”

Lưu Trình Viễn tò mò hỏi: “Ninh Ninh, sao cậu lại nợ tiền cậu ấy?”

Cảnh Ninh bảo: “Cậu ta muốn ăn chực đấy.” Nhưng sợ Tử Chiêu lại láu táu nói linh tinh, cô bèn gọi bừa ít trà bánh để chuyển đề tài. Tử Chiêu chỉ cười nhìn cô. Phương Kỳ Kỳ ghẹo: “Cậu Mạnh, vừa cười vừa nhìn Ninh Ninh nhà chúng tôi làm gì đấy.”

Tử Chiêu nghiêm mặt: “Ba năm rồi tôi không được gặp cô Phan, tôi cảm thấy cô ấy càng ngày càng, ừm, càng ngày càng…”

“Càng ngày càng gì?” Hai cô gái chống má cười hỏi, Cảnh Ninh biết chắc chắn cậu ta chẳng nói được câu gì tốt đẹp, bèn xụ mặt không cất một tiếng.

Tử Chiêu cười hì hì: “Càng ngày càng lanh.”

Khi miêu tả một người biết tính toán, dân Hồ Bắc hay bảo “Người này lanh lắm”, từ “lanh” trong lời Tử Chiêu cũng có nghĩa như vậy. Cậu đang cười Cảnh Ninh giành gọi món vì có suy tính riêng, sợ hai cô bạn mình gọi nhiều. Cảnh Ninh ngượng đỏ cả cổ, định bụng mở lời trả đũa, Phương Kỳ Kỳ lại cười: “Chúng ta đều biết cô chủ Phan tiết kiệm. Người ta còn phải tích tiền mua đồ cưới nữa.”

Cảnh Ninh xẵng giọng: “Cậu nói linh tinh gì đấy, sau này đừng hòng ngồi ké xe anh tớ.”

Phương Kỳ Kỳ nói: “Cậu không dọa được tớ đâu, tớ có không ngồi được xe của anh Phan cũng chẳng sao cả, đi du thuyền hạng sang của Đại Quân vẫn ổn mà. Đúng không Tử Chiêu?”

Tử Chiêu hỏi: “Cậu bảo cô ấy tích tiền mua đồ cưới, đồ cưới gì vậy?”

Phương Kỳ Kỳ tưởng cậu định tìm cơ hội nói đùa, bèn đá mắt về phía bên trái, dí dỏm bảo: “Có người đến nhà họ Phan cầu hôn rồi đấy.”

Tử Chiêu ngó qua, thấy một chàng trai trẻ đang im lặng ngồi đó, chàng trai mặc chiếc sơ mi trắng cài kín cúc đến tận cổ, tay áo phẳng phiu, tóc kiểu 2-8, chải bóng loáng, cặp mắt cậu ta nhỏ dài, gò má đầy đặn. Mạnh Tử Chiêu sửng sốt, buột miệng: “Từ Đức Anh?”

Cảnh Ninh thì thầm: “Này họ Mạnh, tôi cảnh cáo cậu đừng có kéo cậu ta chạy ra đây.”

Cô còn chưa dứt lời Từ Đức Anh đã tiến thẳng tới chỗ họ, cậu ta vươn tay với Tử Chiêu, nở nụ cười vô cùng thật thà: “Chào anh Mạnh, ôi, lâu lắm rồi không gặp anh, tôi còn tưởng anh không nhớ tôi nữa chứ.”

Tử Chiêu cười hì hì.
 
Quyển 1 - Chương 32


Từ Đức Anh là người Chiết Giang, chuyển tới Hán Khẩu cùng gia đình từ năm mười một tuổi, cậu ta là bạn học với Tử Chiêu và Cảnh Ninh, còn có một biệt danh nghe rất vang là Từ Cơm Sôi.

Khi ấy Từ Đức Anh là một cậu nhóc lùn mập mạp, cũng để kiểu tóc rẽ ngôi 2-8 nghiêm túc như bây giờ, mọi người chỉ biết cha cậu ta là quan chức chính phủ, phần Từ Đức Anh thì không ưa trò chuyện, nhưng lại là cậu học trò nghe lời nhất trong mắt các thầy cô. Cậu ta học rất giỏi, nhưng sức khỏe không được tốt, giờ thể dục cả lớp phải chạy quanh sân, nhưng thường cậu ta chỉ được mấy bước thôi người đã ướt đẫm mồ hôi, thở hổn hển chực ngất xỉu, lũ con trai ai cũng cười cậu ta, còn các bạn nữ lại rất thông cảm, cảm thấy cậu bạn mập mạp này là kẻ yếu bị đám con trai khỏe mạnh nghịch ngợm cô lập, cần được quan tâm yêu thương. Nhưng các nữ sinh càng quan tâm tới Từ Đức Anh, cậu ta lại càng bị đám học trò nam ghét bỏ, đặc biệt là Mạnh Tử Chiêu.

Dạ dày Từ Đức Anh yếu nên được người làm trong nhà mang bữa trưa tới tận trường hằng ngày. Hôm nào cũng một chiếc cặp lồng đựng thịt hầm nhừ tươm, rau muống băm nhỏ chừng hạt đậu Hà Lan, hấp xanh biếc, Từ Đức Anh luôn ngồi đơn độc ăn cơm trong góc phòng.

Tử Chiêu rất hay trêu cậu ta, chế giễu kiểu tóc cứng nhắc, trang phục ngây ngô, cơ thể mập mạp, và cả khẩu âm Chiết Giang nghe mà chẳng ai hiểu của cậu. Từ Đức Anh chưa từng nổi giận, cũng chẳng phản bác, ngược lại, cậu ta còn dùng ánh mắt dịu dàng thuần khiết như một đứa trẻ của Chúa để nhìn Tử Chiêu, ung dung bình tĩnh tới kỳ lạ. Tử Chiêu luôn thắc mắc không biết cái tên này có phải người không nữa? Sao lại không biết cáu giận bao giờ? Tại sao cứ nhìn thấy gương mặt chân thành này là mình lại tức giận như vừa bị ai xúc phạm?

Đức Anh không bao giờ ăn cơm khô, ít nhất Tử Chiêu chưa từng thấy cậu ta ăn. Có khi món chính của cậu ta là bánh bao, bánh mì hấp, bánh nhân súp, nhưng hầu như luôn là cơm sôi. Cơm sôi chính là cơm thừa được nấu chín mềm ngon miệng, bỏ thêm cả rau cả thịt, người Hán Khẩu hay ăn món này, nhưng trong trong tâm khảm dân bản địa thì “cơm sôi” cũng chính là từ chửi mắng một người “ngốc nghếch, đần độn, vô dụng”. Làm sao một kẻ đến từ nơi khác như Từ Đức Anh có thể hiểu được.

Tử Chiêu cố tình hỏi cậu ta: “Sao cậu thích ăn cơm sôi thế?”

Từ Đức Anh thành thực đáp lời: “Dạ dày tớ yếu, mẹ tớ bảo ăn cơm sôi tốt cho hệ tiêu hóa.”

“Cậu thích ăn cơm sôi không?”

“Tớ có.”

“Cậu biết cơm sôi nghĩa là gì không?”

“Mẹ tớ bảo…”

“Mẹ cậu có biết thế nào là ‘ngáo ngơ’ không, hả Từ Cơm Sôi?”

“Mẹ tớ…” Từ Đức Anh không ngốc, nói được nửa chừng cậu ta đã ngưng bặt, gương mặt mập mạp ửng đỏ.

Tử Chiêu phấn khởi chỉ thẳng cậu ta mà cười ha hả: “Ngố thật, ngố chết đi được. Từ Cơm Sôi, ha ha!”

Đức Anh sững sờ nhìn Tử Chiêu, cậu ta im lặng, mũi chun lại, vẻ mặt muốn khóc mà không dám khóc hệt như đứa bé sơ sinh to xác bị ai cướp mất đồ chơi, đám nam sinh cùng cười phá lên, chúng đập bàn, la hét om sòm: “Từ Cơm Sôi, Từ Cơm Sôi! Ha ha, Từ Cơm Sôi!” Tử Chiêu kêu to nhất, cậu ta bưng bát cơm tráng men của Đức Anh lên, đung đưa vung vẩy mãi. Chỉ có đám con gái là bịt tai, liếc nhìn lũ con trai đang bắt nạt kẻ yếu bằng ánh mắt giận dữ. Cảnh Ninh không nhẫn nhịn nổi, bèn lao ra giật chiếc bát đáng thương trong tay Tử Chiêu, ụp thẳng bát cơm sôi đã gần nguội lên đầu tên nhãi phá phách này: “Giờ từ đầu đến chân cậu toàn cơm sôi rồi, để xem còn dám cười người khác không nhé, đồ khoai lang ẩm ương chưa chín.”

Kết quả của màn náo loạn này là cả Tử Chiêu lẫn Cảnh Ninh đều bị phạt quét sân sau giờ học, Đức Anh lẳng lặng cầm chổi đi theo sau Cảnh Ninh, cô quét ở đâu cậu ta cũng quét ở đó. Có chiếc lá khô quắt ghim dưới đất không quét nổi, Cảnh Ninh định với tay giật ra, Đức Anh bèn vội vã dùng đôi giày da đen được đánh sáng bóng gẩy đất, cứ thế đến khi chiếc lá được gẩy ra, cậu ta lại lấy chổi quét nó đi.

Cảnh Ninh nói: “Đức Anh, cậu không phải giúp tớ đâu, tớ làm được mà.”

Từ Đức Anh được quan tâm lại đâm ra luống cuống, đỏ bừng cả mặt.

“Này người anh em Đức Anh, đừng lấy chổi quét!” Tử Chiêu đứng phía trước chỉ bảo rất nghiêm túc, “Lá cây khô thế này không nên dùng chổi quét.”

Mặt Đức Anh lại càng đỏ hơn, hệt như bầu trời âm u chợt nứt ra, cho đứa bé đáng thương như cậu ta một tia sáng tình bạn chói lọi. Đức Anh nhất định phải trân trọng cơ hội này, cậu ta bèn lấy lòng hỏi Tử Chiêu: “Anh Tử Chiêu, cho hỏi mình nên dùng gì để quét vậy?”

Tử Chiêu cười như gió xuân: “Đương nhiên là dùng bừa cào rồi. Cậu dùng bừa cào là tốt nhất.”

“Cảm… ơn.” Âm cuối của Từ Đức Anh rất bé nhỏ, đương nhiên cậu ta biết Tử Chiêu đang làm nhục mình, nhưng cậu ta lại tiếp tục im lặng nhẫn nhịn.

Cậu ta không nói gì nữa, chỉ dùng chân gẩy những chiếc lá ngoan cố trên mặt đất, gom chúng lại gọn gàng trước mặt Cảnh Ninh.

Cảnh Ninh chỉ mặt Tử Chiêu: “Mạnh Tử Chiêu, cậu chuyên đi bắt nạt người khác, tôi coi thường cậu.”

“Cậu coi thường tôi thì tôi cũng coi thường cậu!”

“Đồ quỷ đáng ghét, tôi ghét cậu!”

“Cậu ghét tôi thì tôi cũng ghét cậu! Trả mấy con vịt lại đây cho tôi!”

“Hôm nay về nhà tiểu thư đây sẽ giết chúng nó mang đi nấu canh!”

“Cậu dám hả!”

“Dám đấy thì sao!”

Tử Chiêu tức xì khói, cậu vung chổi, Cảnh Ninh tưởng cậu định đánh mình, bèn thét to né tránh, nhưng cây chổi lại giáng xuống Đức Anh. Tuy vậy, đang vung tay Tử Chiêu đã chợt khựng lại, cậu ý thức được cậu bé trông thì ngốc nghếch này thực chất cực kỳ gian xảo, đúng vậy, khi cặp mắt trong veo của Cảnh Ninh nhìn cậu ta đầy quý mến, Tử Chiêu lại càng chắc chắn hơn: Chắc chắn tên nhãi này đang giở trò rồi. Nhưng về sau cũng không còn sự kiện nào để củng cố cho phán đoán của Tử Chiêu, vì Từ Đức Anh mắc phải bệnh nặng, được bố mẹ đưa tới một thành phố ven biển để dưỡng bệnh, đến tận khi bọn họ đã tốt nghiệp trung học cậu ta cũng vẫn chưa trở lại.

Lúc này Từ Đức Anh đã chẳng còn vẻ ốm yếu bệnh tật như khi xưa, có lẽ hứng gió biển tốt cho phổi, ăn hải sản tốt cho dạ dày nên cậu ta cũng trở nên khỏe mạnh cao ráo, trông còn khá khí khái. Tử Chiêu thầm nghĩ: “Giờ có vẻ khỏe khoắn thật đấy, cầm bừa cào thì đúng hợp.”

Cậu ngoài cười trong không cười, bảo: “Được đấy, trông cậu có vẻ rắn chắc hơn trước nhiều rồi, giờ chạy bộ không phải thở hổn hển nữa hả?”

Đức Anh cười dịu dàng: “Hóa ra anh Mạnh vẫn nhớ tôi, mà không chỉ nhớ không thôi, còn nhớ rất kỹ nữa. Cảm ơn anh Mạnh, sức khỏe của tôi đã ổn rồi, không phải ăn cơm sôi nữa.”

Cảnh Ninh bật cười, cô nhìn Đức Anh, nói: “Cậu trông thì hiền lành mà hóa ra cũng thù dai đấy.”

Tử Chiêu cười lạnh: “Tớ cũng thù dai mà, năm ấy ai úp cơm lên đầu tớ nhỉ. Được rồi, hôm nay tính cả món nợ này vào đây luôn đi, thành một trăm nghìn chẵn.”

“Cậu có muốn tranh thủ kiếm thêm không?” Cảnh Ninh bưng ly cà phê lên đung đưa trước mặt Tử Chiêu.

Đức Anh vội vã chen vào: “Ninh Ninh, cậu có thích hoa tớ tặng không? Tớ đã tự tay cắt tỉa chúng cẩn thận đấy.”

Tử Chiêu đáp lời thay cô: “Cô ấy thích, thích không chịu nổi. Cậu xem cô ấy thức tới mức nào đi, thấy không?” Cậu gom cánh hoa rơi đầy bàn thành một mớ, đẩy tới chỗ Đức Anh.

Đức Anh coi như không thấy, cậu ta đứng dậy nói: “Mọi người cứ ngồi đi, tớ qua bên kia đây, lát nữa tớ sẽ thanh toán cho mọi người. Kỳ Kỳ, Trình Viễn, cả Ninh Ninh nữa, các cậu thích ăn gì thì cứ gọi nhé.”

“Cậu ngồi với bọn tớ đi.” Phương Kỳ Kỳ và Lưu Trình Viễn giữ cậu ta lại.

Đức Anh nhìn vẻ mặt Cảnh Ninh, thấy cô cúi đầu không nói gì, cậu ta bèn bảo: “Thôi thôi, tớ ngồi kia là được rồi, tại ban nãy thấy anh Mạnh gọi tên nên tớ mới qua chào hỏi. Mọi người cứ nói chuyện đi nhé.” Nói rồi cậu ta trở lại ngồi bên chiếc bàn khi nãy.

“Cậu ấy sao vậy nhỉ? Sao lại ngồi đó? Ngượng quá đi mất, rõ ràng cậu ấy mời chúng mình uống trà mà?” Phương Kỳ Kỳ nhìn bóng lưng Đức Anh với vẻ khó hiểu.

Cảnh Ninh chầm chậm khuấy cà phê: “Tớ thấy cậu ấy hơi phiền, bảo nếu cậu ấy chịu ngồi xa chúng ta thì tớ sẽ đến.”

“Người ta đường đường là cậu ấm con trai thị trưởng mà lại bị cô cả nhà họ Phan sai bảo, chạy theo như tên hầu bàn, tớ phục cậu thật đấy.”

“Tớ có muốn bắt nạt cậu ấy đâu, nhưng mà…” Cảnh Ninh thoáng ngẩng đầu, thấy mặt Tử Chiêu xụ xuống, cô lại đổi ý, bảo, “Ờ, cứ đi với cậu ấy mãi cũng chán, giữ khoảng cách để về sau sống chung với nhau thì cũng có thêm thiện cảm.”

Phương Kỳ Kỳ tròn mắt: “Trình Viễn bảo cậu ấy tới nhà cậu cầu hôn, chẳng lẽ chuyện này là thật hả, chắc cậu sẽ không đồng ý đâu nhỉ?”

Cảnh Ninh chỉ mỉm cười, cặp mắt to quan sát Tử Chiêu chăm chú, cậu vốn là kẻ hay ba hoa chích chòe mà giờ phút này lại im lặng như một miếng sắt, lòng cô vui mừng tới lạ.

Lưu Trình Viễn chen lời, bảo với Phương Kỳ Kỳ: “Đức Anh bị các cậu xúi đấy còn gì, cậu ấy ngốc lắm, ôm theo cả một bó hoa hồng to bự, còn đến Lão Phượng Tường đặt nhẫn nữa. Hôm ấy tớ cũng có mặt ở đó, mọi người trông thấy Đức Anh mà sợ hết hồn, đến Ninh Ninh cũng không ngờ cậu ấy to gan tới vậy, suýt thì lỗ mãng quỳ xuống trước mặt Ninh Ninh thật. Nào ngờ Đức Anh vừa khuỵu gối xuống thì đã bị người ta kéo dậy mời vào phòng đọc sách. Đến lúc đi ra rồi chẳng ho he gì đến chuyện cầu hôn nữa, chỉ ngẩn ngơ bảo Ninh Ninh: ‘Dù có thế nào tớ cũng sẽ không bỏ cuộc đâu.’ Thế rồi bỏ đi luôn.”

“A,” Phương Kỳ Kỳ ngó Cảnh Ninh, “cha cậu ra mặt đó hả?”

Cảnh Ninh lắc đầu, cô bất giác đùa nghịch chiếc thẻ rượu ngà voi trên bàn, khẽ cười đáp: “Là anh cả tớ đấy. Anh ấy cũng không nói gì cả.”

“Không nói gì ư?” Phương Kỳ Kỳ gật đầu, “Anh cả cậu giỏi lắm mà, có cần nói gì với Đức Anh đâu, chỉ hừ một tiếng thôi là đủ khiến cậu ấy xách dép chạy.”

Cảnh Ninh cười khúc khích: “Anh tớ có dữ thế đâu.”

Lúc này Tử Chiêu mới cất lời: “Anh cả cậu không dữ, mà là oai phong. Sao anh ấy lại coi trọng cái loại như Từ Đức Anh được? Tớ chẳng tin đâu.”

“Đúng đấy, anh cả tôi có mắt nhìn người lắm, ít có ai lại được anh ấy coi trọng.”

“Nhưng trên thế giới này cũng có một vài người dù được anh ấy coi trọng hay không cũng thấy chẳng hề hấn gì.” Cậu phát hiện ra vẻ xem thường trong giọng điệu của cô, bèn lập tức phản bác.

Cặp mắt đen láy của cậu vẫn ẩn chứa nét kiêu căng như khi trước, Cảnh Ninh chợt cảm thấy tẻ nhạt vô vị, bèn bảo hai cô bạn mình: “Tớ phải về nhà rồi.” Đoạn cô đứng dậy bỏ đi. Đức Anh lập tức bật dậy, đặt một xấp tiền lên bàn rồi đuổi theo ngay.

Phương Kỳ Kỳ giận dữ lườm Tử Chiêu: “Cậu mà có nửa phần thật thà dịu dàng như cậu chủ Từ thì hôm nay đã chẳng bị cô ấy đối xử như thế.”

“Đừng có so tôi với tên ngốc đó.” Tử Chiêu lạnh lùng nói.

Phương Kỳ Kỳ lắc đầu liên tục: “Người ta tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi, còn cậu ấy à, cậu Mạnh ơi, nhiều lúc cậu cứ nghĩ mình thông minh cơ. Động não đi.” Cô mỉm cười, cầm chiếc thẻ rượu Ninh Ninh bỏ quên trên bàn dúi vào tay cậu, “Không đuổi theo cẩn thận kẻo muộn đấy.”

Cuối cùng cậu cũng vẫn chậm một bước. Khi đuổi theo đến cổng, Tử Chiêu đã không thấy bóng Cảnh Ninh nữa rồi, chỉ bắt gặp Từ Đức Anh đứng dưới cột đá với gương mặt tiu nghỉu.

“Cô ấy đâu rồi?”

Đức Anh quay đầu cười với cậu, nói: “Lên xe riêng về rồi, cô ấy không muốn tôi theo cùng.”

Tử Chiêu cũng chẳng buồn để tâm tới cậu ta nữa, cứ thế bước thẳng về phía trước. Từ Đức Anh nói: “Anh Tử Chiêu, tôi có vinh dự được mời anh dùng bữa tối không?”

Tử Chiêu quay lại, vẻ mặt Từ Đức Anh vô cùng chân thành, tuổi tác đã lớn hơn nhưng nét thiện chí ôn hòa trong mắt cậu ta như chẳng hề vơi đi chút nào. Trước một cặp mắt như vậy, Tử Chiêu không khỏi nghĩ: Nếu cứ tiếp tục chế giễu cậu ta thì đừng nói là Cảnh Ninh, mà có khi đến chính mình cũng phải coi thường bản thân. Vậy nên cậu đáp: “Hôm nay thì không được rồi, hai cô bạn của Cảnh Ninh vẫn ngồi trong kia, tôi phải đưa hai cô ấy về nhà, không người ta lại bảo đám đàn ông con trai chúng ta bất lịch sự.”

Đức Anh cảm kích nói: “Ôi, tôi sơ suất quá. Vậy nhất định hôm nào chúng ta phải hẹn gặp nhau đấy nhé?”

Tử Chiêu gật đầu, Đức Anh tiến lại, đưa danh thiếp cho cậu bằng hai tay: “Khi nào rảnh anh cứ liên lạc với tôi.”

Đi qua hai con phố rồi, Tử Chiêu mới rút tấm danh thiếp ra khỏi túi áo, trên danh thiếp có in tên, chức vụ, số điện thoại và địa chỉ phòng làm việc của Từ Đức Anh.

Tử Chiêu chỉ liếc sơ rồi lại nhét danh thiếp vào túi ngay, nhưng dòng chữ “Quản lý tập sự Hiệu buôn Tây Thịnh Xương” lại như khắc sâu vào mắt cậu, có muốn hất đi cũng chẳng hất nổi. Bất giác cậu đã bước tới bên bờ sông, mặt sông lặng ngắt, trăm nghìn mái chèo như cũng đang lẳng lặng nghỉ ngơi. Đêm dần buông, những rặng mây đỏ thẫm nơi bầu trời phía Tây vẫn còn dư nắng tàn đang chầm chậm tan đi trong sắc đèn rực rỡ.

“Quản lý tập sự.”

Cậu thầm lẩm nhẩm bốn chữ này, dù chỉ là tập sự thôi nhưng Từ Đức Anh đã làm việc tại hiệu buôn Tây rồi, với nền tảng của cậu ta (đúng vậy, Tử Chiêu không thể không thừa nhận điều này), với gia cảnh của cậu ta, thì việc bước từng bước lên vị trí cao hơn là chuyện quá sức dễ dàng. Dù có thế nào đi chăng nữa, Từ Đức Anh cũng đang mỗi lúc một gần gia tộc mại bản nức tiếng là nhà họ Phan, và đồng thời cậu ta đang càng ngày càng gần với Phan Cảnh Ninh.

Còn Mạnh Tử Chiêu cậu thì sao?

Mấy con thuyền của Hãng tàu Đại Quân đang đậu bên bến, hệt như những tòa lâu đài nhỏ mọc sừng sững cạnh bờ sông, phủ bóng lên mặt sông tĩnh lặng. Tử Chiêu trông thấy cái bóng mà cậu rất ghét bỏ nhưng lại chẳng thể né tránh: Một cậu ấm trác táng, ngu ngốc, ngạo mạn, xấc láo, bên ngoài nạm vàng điểm ngọc, bên trong thối rữa nát nhừ, sớm muộn gì cũng ngồi không ăn lở núi vàng. Có lẽ, kẻ đó chính là cậu.

Tử Chiêu run cầm cập, cậu kêu “á” lên, khiến chú chim hải âu đang lim dim đậu trên mạn thuyền sợ hãi vỗ cánh bay đi, cậu trốn khỏi bến tàu, chạy vội ra đường cái, bắt một chiếc xe kéo, đến thẳng biệt thự nhà họ Mạnh.
 
Quyển 1 - Chương 33


Nhà họ Mạnh vừa dọn cơm lên xong, bố, mẹ và em trai Tử Chiêu đang ngồi trước bàn, thấy cậu đỏ mặt tía tai chạy vào, họ ngạc nhiên buông đũa. Bà Mạnh vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, bà reo lên: “Chiêu Chiêu, mau vào ăn cơm nào!”

Mạnh Tử Chiêm chưa tới mười tuổi lo cha mắng anh trai bèn đánh mắt ra hiệu với anh, ý bảo Tử Chiêu rót rượu tạ tội với cha.

Vẻ mặt Mạnh Đạo Quần hết sức lạnh lùng, nhưng ánh mắt lại thoáng nét chờ đợi, trên đường đi Tử Chiêu đã nghĩ ra rất nhiều những lời xin lỗi, nhưng giờ không hiểu sao lại chẳng thốt nổi. Cậu chỉ bước tới trước mặt cha, khom mình thật thấp, nói: “Cha ơi, con sai rồi.”

“Con sai thế nào?”

Tử Chiêu cắn môi nói: “Con không nên tới khách sạn ở, dù có bị cha đánh chết cũng không được chạy.”

“Thằng ngố này!” Mạnh Đạo Quần phết một cái vào mông Tử Chiêu, “Không được ăn cơm, về phòng mà ngẫm nghĩ xem mình sai gì đi.”

“Ô!” Tử Chiêu vừa cười vừa thơm cha một cái, rồi lại làm mặt xấu với mẹ, em trai và bác Trần, xong, cậu hí hửng chạy lên phòng mình.

Mạnh Đạo Quần lạnh mặt cầm đũa lên ăn cơm, bà Mạnh liếc ông, bảo bác Trần rằng: “Bác mang ít bánh khoai chiên lên cho Tử Chiêu đi.” Thấy Mạnh Đạo Quần không nói gì, bà lại bồi thêm, “Cả chân giò với cá nữa!”

Mạnh Đạo Quần quát: “Thế là đủ rồi!”

Bà Mạnh vội bảo: “Được được được, ông chủ bảo đủ thì là đủ. Bác mau mang ba món này lên cho nó đi.”

Bác Trần còn chẳng dám ngẩng đầu, chỉ biết nén cười đáp vâng.

Năm phút sau, Tử Chiêu đã phồng mang trợn má ăn cơm trong phòng ngủ. Bác Trần ngồi cạnh âu yếm nhìn Tử Chiêu, thỉnh thoảng lại vỗ vai cậu: “Cậu chủ ngoan, ăn chậm thôi, cẩn thận kẻo sặc kẻo nghẹn bây giờ.”

“Bác mà còn vỗ vai cháu nữa là cháu nghẹn thật đấy.” Tử Chiêu mất kiên nhẫn rụt vai lại.

“Khụ khụ!” Hai người nghe có tiếng ho khan mà sợ run mình.

Bác Trần vội chào: “Ông chủ.” Tử Chiêu cũng buông bát đũa đứng dậy, làm bộ ủ rũ chán chường.

Mạnh Đạo Quần bảo bác Trần rời phòng rồi ngồi xuống sô pha, chỉ lên bàn: “Ăn hết đi, để lại làm gì?”

Tử Chiêu chỉ đành cầm đũa lên, nhưng cha cứ nhìn cậu bằng ánh mắt nghiêm nghị mãi, làm sao cậu nuốt nổi? Ăn mà chỉ thấy như nghẹn trong họng.

“Ôi trời!” Mạnh Đạo Quần thở dài.

Tử Chiêu biết chắc chắn sau tiếng thở dài sẽ là một tràng giáo huấn liên miên, bèn thẳng thừng và nốt đống cơm thừa, ngậm một miệng thức ăn ngồn ngộn rồi đứng dậy lúng búng bảo cha: “Con nghe cha dạy dỗ đây ạ.”

Ánh đèn dịu dàng chiếu trên gương mặt cậu, Mạnh Đạo Quần thầm nghĩ, thằng bé đã lớn nhường này rồi mà sao ánh mắt lại vẫn ngây ngô tới vậy, cứ hệt như một thằng ngố. Ôi trời…

Thằng bé Tử Chiêu rất thông minh, Mạnh Đạo Quần chưa từng nghi ngờ chuyện này. Con trai ông thông minh sáng dạ, ham học hỏi, nhanh trí hoạt bát, như một chú ngựa con được nuôi nấng cẩn thận, cái gì cũng tốt, chỉ là sống quá yên bình, được người ta trao cho quá nhiều yêu thương che chở, hoàn toàn chưa từng kinh qua gió sương, cũng không biết sự đáng sợ tàn nhẫn của đời người là gì. Về sau thằng bé phải làm thế nào đây? Làm sao nó có thể cai quản sản nghiệp tàu thuyền khổng lồ của nhà họ Mạnh?

Mạnh Đạo Quần đã nghĩ tới vô số cách để nghiêm khắc dạy dỗ con mình thành tài, nhưng suốt bao năm nay dường như thằng nhóc ấy rất thích đấu trí đấu dũng với ông, bảo nó tiến lên nó lại cứ lùi xuống, bảo đi đằng Đông nó lại nhất quyết chạy sang đằng Tây, cuối cùng ông chỉ đành đày nó tới đất nước Đức nổi tiếng vì sự nghiêm khắc cứng nhắc để học cơ khí, thằng bé phản đối một hồi rồi cũng chấp nhận, trông bảng điểm mà Tử Chiêu gửi về thì thấy thằng bé học rất giỏi, lần đầu tiên Mạnh Đạo Quần tự hào vì thằng con bất hảo của mình, ông xúc động tới độ phải đích thân tới Berlin một chuyến để mang quần áo đồ đạc quý giá cùng món quà vặt quê nhà mà Tử Chiêu thích nhất cho đứa con trai vàng ngọc. Cứ ngỡ chắc chắn con mình đang chong đèn học hành khắc khổ, nào ngờ thấy phòng ở trống trơn không một bóng người. Chăn được trải kín giường, bên dưới như có ai đang nằm, lật ra xem thì thấy bên trong đút đầy quần áo và tất bẩn! Mạnh Đạo Quần chỉ thấy như lửa giận đang đốt nóng rẫy từ đầu tới chân mình, phải chạy ngay tới hội đồng hương tìm người quen, cuối cùng ông cũng bắt được thằng con ăn hại trong quán rượu. Lúc đó Mạnh Tử Chiêu đã say túy lúy không nhận ra cả cha mình, thấy trong đám châu Âu tóc vàng mắt xanh đột nhiên lại có một người đàn ông trung niên người Hoa, cậu còn tưởng mình hoa mắt, bèn khua tay gào tướng lên: “Úi chà, sao lại có ông bô ở đâu ra thế này?”

Mặt mày Mạnh Đạo Quần tối sầm, giáng cho ngay cho con mình một cái bạt tai: “Mày tỉnh chưa?”

Tử Chiêu rung đùi đắc ý hát bài ca dao mình tự sáng tác hồi xưa khi còn đang học tiếng Đức: “Guten Tag (Tiếng Đức: xin chào), vuốt cái nào. (Nói rồi cậu ta véo má cha mình) Thế là đã thành Ich liebe dich (Tiếng Đức: anh yêu em), uống một hàng! Ha ha, ha ha! Cha, cha đừng giận nhé, cha trợn mắt nhìn con làm gì?”

“Mày học đâu ra mấy trò này?” Mạnh Đạo Quần giận run cả người.

“Cậu đây học nhiều lắm nhé. Con nói cho cha biết, cha à,” cậu hùng hồn nói với Mạnh Đạo Quần, “cha có biết mọi người ở đây uống rượu thế nào không? Người ta uống từng mét một đấy! Bày ly rượu thành hàng dài một mét, ai uống được nhiều nhất là cừ nhất, con uống được tận hai mét đấy! Ở đây không ai bì được con đâu, đám người châu Đại Dương cũng không bằng!”

“Mạnh Tử Chiêu, mày muốn làm tao tức chết hả?!”

Mạnh Đạo Quần kéo cậu về, tạm bảo lưu kết quả học tập, Tử Chiêu vẫn còn chương trình học nửa năm chưa hoàn thành.

Mạnh Đạo Quần nghĩ nếu cả người Đức cũng không dạy được thằng nhãi này thì e nó đã là một miếng gỗ mục rồi, thôi thì cứ lôi thẳng nó về nước để mình xử lý, có gọt đẽo thế nào cũng mặc ông già này ra tay.

Nhưng dù có là miếng gỗ mục thì Tử Chiêu cũng là cốt nhục của Mạnh Đạo Quần, là thằng quỷ ám lấy ông, nhưng cũng là cục cưng của ông.

Tử Chiêu sợ sệt nhai cơm, thấy cha chợt nhìn chằm chằm miệng mình, cậu thầm nghĩ hay ông lại định cho cậu một cú tát, Tử Chiêu bèn vội vã nhai nhồm nhoàm, rồi lại cuống quýt nuốt cơm để lát nữa có bị tát thì cũng không sặc. Mạnh Đạo Quần nào biết giờ con trai mình đang nghĩ gì, thấy cặp mắt to trong veo của cậu hiện vẻ sợ hãi, ông còn tưởng cậu sợ sệt trước sự uy nghiêm của mình nên nhai cơm cũng chẳng xong, ông chỉ thấy thất bại vô cùng.

“Chiêu Chiêu à,” Mạnh Đạo Quần nói, “giờ con còn trẻ, con tưởng mình thông minh, không nghe lời cha dạy, con đừng chối, cha biết lúc nào cha nói con cũng vào tai nọ ra tai kia. Hôm nay cha nói cho con biết, kể từ ngày mai cha sẽ không mắng con, cũng chẳng đánh con nữa, con cũng không cần nghe lời cha dạy bảo. Cuộc đời con vẫn còn rất dài, cuộc sống sẽ cho con mọi bài học mà con cần. Việc gì cha phải nóng lòng? Ông trời có thể xử lý con, cuộc đời cũng sẽ rèn giũa con, hệt như những con tàu của Đại Quân nhà chúng ta vậy, dù đinh đóng tàu có cứng rắn đến đâu thì cũng sẽ bị thời gian mài mòn thành ra tròn trịa ngoan ngoãn. Hôm nay cha sẽ giao con cho ông trời, cha không lo cho con nữa!”

Nói đến câu cuối, giọng ông thoáng run rẩy, vương nét nghẹn ngào, ông vươn tay lau khóe mắt.

Càng nghe Tử Chiêu càng thấy xấu hổ, thấy dường như cha mình chuẩn bị khóc tới nơi, cậu vội vàng quỳ xuống trước mặt cha, đặt tay lên đầu gối cha, mới định cất tiếng đã chợt nghẹn lời. Không biết vì lẽ gì mà lòng cậu lại thấy đau khổ: “Cha ơi… cha tha thứ cho con đi. Con sai thật rồi.”

Mạnh Đạo Quần nhìn lên trần nhà, nước mắt rưng rưng.

“Con trai bất hiếu làm cha đau lòng, thất vọng. Hôm nay con thề nhất định sẽ trở thành một con người mới, con sẽ học hành chăm chỉ, nhất định con sẽ thành công.”

Mạnh Đạo Quần chỉ thời dài, hồi lâu sau ông mới khẽ vỗ lên tay Tử Chiêu: “Mấy lời thề thốt của con với cha từ bé tới giờ chắc cũng phải chất cao bằng tập tranh ‘Tây Du Ký’ trong tủ sách của cha, giờ cha biết tin con thế nào đây?”

“Cha muốn con làm gì con cũng làm.”

“Mấy ngày nay nếu rảnh rỗi thì con đi theo học thầy Lam của thuyền chở hàng Tinh Nguyệt đi, ông ấy là một thuyền trưởng có kỹ thuật rất tốt, chắc con sẽ có cái để nói với thầy Lam.”

“Cha cứ yên tâm ạ, con sẽ học hành chăm chỉ.”

“Ngày mai Đại Quân còn phải dùng cơm với vài hiệu buôn Tây, con đi thay cha đi. Lát nữa đi ngủ sớm vào.”

Mạnh Đạo Quần đổi giọng quá nhanh khiến Tử Chiêu không kịp hoàn hồn. Đến khi Mạnh Đạo Quần đã hài lòng rời khỏi phòng cậu rồi, Tử Chiêu mới lau nước mắt, lè lưỡi ngẫm nghĩ: “Không ngờ cha diễn còn giỏi hơn mình! Ta giăng bẫy đây, thằng con kia còn không mau ngoan ngoãn chui vào! Ôi trời, mình tính sai rồi!”

- -----oOo------
 
Quyển 1 - Chương 34


Có tán ngô đồng rậm rạp cùng hương long não vấn vít, dường như ánh mặt trời gắt gỏng cũng trở nên dịu dàng hơn đôi chút.

Hai tòa nhà kiểu Tây ba tầng mới tinh nằm trên đường Di Mã giữ được sự êm ả lạ kỳ giữa phố phường náo nhiệt, chúng tọa lạc tại vị trí tuyệt đẹp, những nhành mộc lan trồng trong vườn trổ bông trắng muốt, tỏa hương ngào ngạt. Rìa gỗ của căn nhà được điểm bởi những khung cửa sổ mặt đứng lớn cong cong, phản chiếu khung cảnh phố phường tĩnh mịch, trong sự lịch sự tao nhã lại được điểm thêm cả phần hiên ngang. Bảo vệ mở cánh cổng sắt, tài xế bèn dừng xe bên bồn hoa phía Tây, cây dành dành mọc dày thành từng chùm. Đã có mấy chiếc xe hơi đỗ trong vườn, Tử Chiêu vừa liếc đã thấy chiếc Rolls Royce trứ danh mà Hiệu buôn Tây Phổ Huệ tặng cho nhà họ Phan, thấy phần thân sau xe có vết đạn mờ mờ. Hai năm trước đại mại bản Phan Thịnh Đường đã đi chiếc xe này tới cổng tòa nhà Ngân hàng Chartered, nhưng xe còn chưa kịp dừng hẳn đã có hai tên cướp cầm súng đột nhiên leo lên, may mà tài xế nhanh trí dẫm chân ga lao thẳng về phía trước, gã cướp bị hất ra sau nổ súng nhưng cũng chỉ trúng nắp sau xe. Kinh qua màn hung hiểm này, dường như Phan Thịnh Đường không mấy khi xuất hiện tại chốn công cộng nữa, ông ta cấm cung trong nhà, giao chuyện của hiệu buôn Tây cho cậu con cả Phan Cảnh Sâm xử lý, chiếc Rolls Royce cũng trở thành phương tiện di chuyển của Phan Cảnh Sâm.

Dù Tử Chiêu biết trước thể nào mình cũng phải diện kiến ông anh trai tiếng tăm lẫy lừng của Phan Cảnh Ninh, nhưng cậu vẫn thoáng cảm thấy căng thẳng. Cậu và Phan Cảnh Sâm ít khi chạm mặt, lần để lại ấn tượng sâu nhất là cái lần cậu đánh nhau với Cảnh Ninh rồi bị Cảnh Sâm xách lên, ném sang một bên, anh dùng sức rất mạnh, bóp tay cậu tím bầm.

Tử Chiêu bất giác xoa tay phải mình.

“Anh Phan ghê gớm thật đấy,” Tử Chiêu bật cười, “chắc chắn anh ấy đã âm thầm xử lý gã Từ Cơm Sôi kia rồi. Nếu không tại sao Từ Cơm Sôi lại không dám nhắc đến chuyện kết hôn nữa?” Không biết vì lẽ gì mà cậu lại thoáng có cảm giác thân thiết với ông anh cả nhà họ Phan. Dù sao… dù sao anh cũng tỏ ý không chấp nhận Từ Đức Anh trước mặt Phan Cảnh Ninh, chỉ điều này thôi đã đủ khiến Tử Chiêu cảm thấy anh và cậu là cùng một kiểu người, có gu thưởng thức tương đồng. Nhưng cậu cũng không thể không thừa nhận, dường như với tình hình hiện tại thì mình rất khó so bì được với cậu cả nhà họ Phan. Trước khi về nước cậu có nghe tin anh cả của Phan Cảnh Ninh trở về Hán Khẩu sau khi tốt nghiệp Oxford, chưa tới ba năm anh đã trở thành phó tổng mại bản trẻ nhất của Hiệu buôn Phổ Huệ, đây là vinh dự mà đến cha anh là Phan Thịnh Đường cũng chưa được hưởng.

“Hiếm người được anh tôi coi trọng lắm.” Giọng nói lanh lảnh của Cảnh Ninh lại vang bên tai Tử Chiêu, cậu bất giác ưỡn thẳng lưng, “Dù có thế nào đi chăng nữa thì mình cũng không thể làm mất mặt người nhà họ Mạnh.” Cậu nghĩ.

Kết cấu và bề ngoài của hai tòa nhà gần như giống nhau y đúc, một người làm đi trước dẫn đường, đưa Tử Chiêu tới tòa nhà bên trái. Cửa vào nằm tại một góc khuất nẻo kín đáo, cánh cổng vòng sắt chạm hoa vô cùng tinh tế, họ bước lên thềm đá hoa cương năm bậc, tiến vào tòa nhà mát mẻ sâu hun hút, chắc là trong nhà đang mở máy lạnh. Cạnh cầu thang gỗ mé trái là phòng tiếp khách, cửa đang khép hờ, mùi cà phê và xì gà tỏa ra, nghe thấp thoáng có tiếng cười nói.

Tử Chiêu dừng chân.

Có tiếng cười của người đứng tuổi vang lên: “Đúng là quảng cáo thuốc lá của hiệu Hồng Thịnh không trụ lại Hán Khẩu được tới đêm, mới trưng lên nửa ngày, buổi tối ghé qua nhìn đã thấy tường dán đầy quảng cáo của hiệu thuốc lá Vĩnh Thái. A Sâm làm việc nhanh nhẹn thật đấy!”

Tiếng nói vô cùng trong trẻo của một thanh niên vọng lại: “Bác Ngũ quá khen rồi ạ.”

“Năm ngoái có phong trào bài xích hàng Anh, mấy nhãn hiệu Anh quốc lớn đều không bán được hàng, nhưng nhóc quỷ cháu lại đổi hết bao bì thành hộp thiếc đỏ, quảng cáo đây là đồ Mỹ, thế là mới một tuần đã bán sạch được một phần hàng. Cháu không sợ mấy ông chủ người Anh của cháu phật lòng hả.”

Chàng trai cười: “Bọn họ chỉ nhờ cháu giúp bán sạch hàng, sao lo được những chuyện khác. Kinh doanh ở Trung Quốc thì có lúc vẫn phải dùng cách của người Trung Quốc chúng ta.”

Người làm khẽ đẩy tấm cửa gỗ lim, Tử Chiêu chỉnh trang lại áo quần, tiến vào phòng tiếp khách. Căn phòng vô cùng rộng rãi, được trang trí lộng lẫy nguy nga, người làm đứng một bên sắp xếp bàn tiệc, chỗ gần cửa sổ lại có một chiếc bàn dài bằng gỗ sồi trải khăn vải đay, bày những lọ bơ bằng sứ xương trắng và bình đồng tinh xảo đựng cà phê đã pha sẵn, cà phê tỏa hương, bốc khói nghi ngút, những chiếc đĩa bạc xếp ngay ngắn thành hàng, trên bày đủ những món trà bánh kiểu Tây cùng hoa quả, ngoài ra còn có bốn bao thuốc lá vỏ bạc chạm hoa được mở sẵn.

Mấy người ngồi trên sô pha tạm ngưng trò chuyện, họ mỉm cười đứng dậy.

“Tử Chiêu tới rồi.”

Giọng điệu thân thiết cởi mở vô cùng, như thể hai người vẫn thường gặp nhau ngày ngày, là đôi bạn chí cốt không thể thân hơn được nữa. Tử Chiêu tức khắc đưa mắt nhìn người đối diện.

Phan Cảnh Sâm trong trí nhớ của cậu luôn ăn mặc rất đỗi giản dị, anh cao gầy, làn da nhợt nhạt, im lặng nhã nhặn, có cặp mắt phượng đẹp tuyệt hơi hếch lên. E là lật tung cả cái thành phố khổng lồ nhộn nhịp này cũng chẳng kiếm được mấy người có vẻ ngoài xuất sắc như anh. Dù Tử Chiêu còn trẻ nhưng cậu đã tiếp xúc với rất nhiều người, cũng từng gặp gỡ vô số những nam thanh nữ tú chốn phồn hoa, nhưng cậu thật sự không nhớ mình có từng thấy ai mang dung mạo bì được với chàng trai trước mặt này không.

Mà giờ cậu cả nhà họ Phan lại càng tuấn tú hơn xưa, nhưng anh không còn giản dị như trước nữa. Anh mặc một chiếc áo sơ mi dệt đay kẻ sọc mảnh rất thời thượng, thắt cà vạt màu cam bắt mắt, ống quần phẳng phiu thẳng tắp phủ trên đôi giày Oxford. Làn da anh rám sắc khỏe mạnh, kết hợp cùng đôi mắt sâu hun hút và đường nét sắc như tạc chỉ người Lĩnh Nam mới có, khiến anh trở nên tuấn tú vô cùng. Đôi mắt anh tỏa sáng lấp lánh, hiển hiện nét tinh nhanh và ôn hòa, như thể đang chuẩn bị biểu đạt suy nghĩ của mình về cuộc trò chuyện vui vẻ sắp bắt đầu bất cứ lúc nào. Tuy vậy anh vẫn cứ mang theo vẻ kiêu ngạo, soi mói khó diễn tả được bằng lời. Thật là mâu thuẫn, ánh mắt ấy ẩn chứa cả cay nghiệt và khéo léo, thân thiện cùng lạnh lùng, tựa một kỳ tích, như thể chủ nhân của nó vừa cố tình tạt ly cà phê nóng rẫy vào một nhành hoa mềm mại, rồi lại tỏ ý xin lỗi chân thành cùng niềm vui còn chân thành hơn với cành hoa đáng thương đang giãy giụa trong đau khổ.

Tử Chiêu chủ động vươn tay cười: “Anh Phan.”

Ngân Xuyên cười tươi, khoác vai cậu như một người anh lớn: “Nào, để anh giới thiệu với em. Đây là ngài Lưu Tuấn Tuyền của Ngân hàng Hoa – Nga.”

“Chào ngài Lưu.” Tử Chiêu chào hỏi cung kính.

“Đây là ngài Ngũ Tín Thần của Hiệu buôn Tây Di Hòa,” Ngân Xuyên mỉm cười quay sang, ánh mặt trời xuyên qua cửa sổ, ánh sáng trong trẻo tràn ngập phòng khách, chiếc đèn thả trần phản chiếu những tia ngũ sắc chói lọi đan xen, cũng chiếu rọi cả cặp mắt Ngân Xuyên, khiến nó hệt như hai viên thủy tinh trong suốt, “Thật ra thì anh cũng không cần phải giới thiệu nhiều.”

Di Hòa là ông trùm vận tải đường biển, Ngũ Tín Thần và cha Tử Chiêu đã qua lại làm ăn với nhau suốt nửa đời người, ông là bậc chú bác biết Tử Chiêu từ thuở tấm bé. Tử Chiêu mỉm cười chào hỏi Ngũ Tín Thần: “Cháu chào bác Ngũ!”

“Ba năm không gặp, Chiêu Chiêu đã thành người lớn rồi!” Ngũ Tín Thần quan sát Tử Chiêu với vẻ tán thưởng, Ngân Xuyên bèn giới thiệu mấy vị khách khác cho Tử Chiêu.

Trước khi Tử Chiêu tới, Mạnh Đạo Quần chỉ nói chủ bữa cơm này là Hiệu buôn Tây Phổ Huệ, khách tham gia toàn các mại bản có dính dáng đến vận tải đường thủy, đa phần là các tiền bối giữ chức vị quan trọng trong các hiệu buôn Tây. Tử Chiêu nghĩ dù Phan Cảnh Sâm còn trẻ nhưng đã lên đến chức phó tổng mại bản, cậu thì nhỏ tuổi nhất, ít kinh nghiệm nhất, chẳng có chút xíu quan hệ nào với hiệu buôn Tây, thậm chí còn không lên nổi chức quản lý tập sự tại Hãng thuyền Đại Quân.

Cha cho cậu tới đây là có dụng ý riêng, dù ông không tiết lộ với cậu dụng ý đó là gì, nhưng cậu cũng phải ngoan ngoãn xử lý bữa cơm này cho thật tốt. Mấy vị trước mặt tỏ vẻ chẳng hề để bụng, thậm chí còn “nhiệt tình” đối đãi với Mạnh Tử Chiêu cậu như người ngang vai vế, dù Tử Chiêu còn chưa kinh qua việc đời, nhưng dù sao cậu cũng thông minh sáng dạ, lòng đã thầm cảnh giác nhắc nhở bản thân phải cẩn thận với lời nói hành động của mình tới từng phút từng giây.

Ngân Xuyên nở nụ cười ôn hòa: “Ở đây toàn là người nhà cả, em đừng khách sáo, cứ ngồi nghỉ ngơi một lát đi, chốc nữa chúng ta sẽ dùng cơm.”

Tử Chiêu gật đầu, cậu đi rót cho mình một tách cà phê rồi ngồi xuống bên cạnh Ngân Xuyên, cất câu hỏi như đang tán gẫu: “Anh Phan ơi, mấy năm gần đây người ta mới sửa sang xong hai căn biệt thự này nhỉ, trước đây em chưa thấy nó bao giờ.”

Ngân Xuyên cười bảo: “Đến năm ngoái mới sửa chữa xong, đây là nhà của ngài Đồ Khôn Sơn của Ngân hàng châu Á, vì sợ để không nhà, mà cũng muốn căn biệt thự tươi vui hơn nên ngài ấy mới cho mấy người bạn thân trong giới kinh doanh mượn làm chốn tổ chức tiệc tùng và nghỉ ngơi.”

“Ra vậy.”

Ngũ Tín Thần cười: “Căn nhà này cũng có lai lịch riêng đấy, A Sâm kể cho mọi người nghe đi.”

Ngân Xuyên nhìn Tử Chiêu mỉm cười: “Em có biết ‘Ngụy Thanh Ký’ không?”

Tử Chiêu đáp: “Đây là một trong những xưởng xây dựng nổi tiếng nhất Hán Khẩu, Bảo tàng Giang Hán cũng là do họ xây. Chẳng lẽ hai tòa biệt thự này đã được Ngụy Thanh Ký cải tạo ư?”

Ngân Xuyên đáp: “Mấy năm trước Ngụy Thanh Ký có ký một hợp đồng với Công ty Dầu lửa châu Á, nhận trách nhiệm sửa chữa tòa cao ốc cho họ. Sau khi hoàn công, do chi phí quá cao nên Công ty Dầu lửa châu Á đã kỳ kèo không chịu thanh toán cho Ngụy Thanh Ký một khoản tiền lớn, suýt nữa khiến một xưởng xây dựng lâu đời như Ngụy Thanh Ký phải phá sản. Cuối cùng Ngụy Thanh Ký mới tới nhờ Phổ Huệ bọn anh tìm cách giúp đỡ, bọn anh bèn giới thiệu ngài Đồ – tổng quản lý của Ngân hàng châu Á và ngài Phó Thiệu Đình của Nam Xương cho họ, hai vị tiền bối này đã ra mặt thuyết phục, khiến người Anh phải trả hai trăm nghìn lượng bạc cho Ngụy Thanh Ký.

Để tỏ lòng biết ơn, Ngụy Thanh Ký đã xây cho hai ngài ấy hai tòa nhà giống hệt nhau tại đường Di Mã. Dù chỉ là biệt thự riêng thôi nhưng công sức Ngụy Thanh Ký bỏ ra không hề thua kém khi sửa chữa Bảo tàng Giang Hán đâu.”

Tử Chiêu vô cùng ngạc nhiên, lòng cậu thầm nghĩ ai cũng bảo mại bản là nô lệ của người nước ngoài, nhưng ở Trung Quốc này chỉ có mại bản mới có thể giao thiệp cùng người Tây, mới có thể bòn rút được tiền của đám vắt cổ chày ra nước ấy.

Lưu Lãng Hiên cười: “Mấy hôm trước bác tỏ ý muốn mượn căn biệt thự này mà nhà họ Đồ cứ lằng nhằng không cho, thế mà Phổ Huệ bọn cháu bảo dùng là dùng được luôn, cũng vì ban đầu Phổ Huệ đã làm mối bắc cầu cho Ngụy Thanh Ký nên người ta mới biết ơn các cháu.

Xem ra hôm nay chúng ta được ngồi đây cũng là nhờ phúc Cảnh Sâm rồi.”

“Đâu có, đâu có ạ.” Ngân Xuyên cười ha ha.

Tử Chiêu vội thốt: “Cảm ơn anh Phan!”

Ngân Xuyên nhiệt tình vỗ vai cậu, gương mặt anh rạng rỡ nét cười, nhưng lạ là Tử Chiêu thấy trong mắt anh chẳng có chút ấm áp thân mật nào.

Mọi người cùng ngồi vào bàn. Ngân Xuyên tranh ghế thấp nhất, Tử Chiêu giành với anh cả buổi, Ngân Xuyên mới ấn tay cậu, cười nói: “Hôm nay em nghe anh đi, lần sau em tổ chức tiệc thì đến lượt anh nghe em.” Tử Chiêu chỉ đành ngồi xuống, thầm nghĩ không biết phải đợi tới ngày nào em mới tổ chức được tiệc.

Người giúp việc bưng canh xương sườn hạt sen lên, Ngân Xuyên bèn đứng dậy múc từng bát cho các vị tiền bối. Tử Chiêu thấy thế chỉ đành đứng lên theo, lần lượt gắp thức ăn cho các vị khách lớn tuổi, được hai chàng thanh niên phục vụ ân cần như vậy, lớp tiền bối đều rất vui mừng. Ngân Xuyên múc cho Tử Chiêu một bát canh, anh cười: “Đáng lý canh này phải uống mùa đông nhưng anh biết em mới về nước, chắc chắn phải nhớ hương vị quê nhà lắm nên làm riêng cho em món này, em mau uống thử đi.”

Tử Chiêu nhận lấy bằng hai tay, chân thành thốt: “Cảm ơn anh cả ạ.”

Vốn cậu định thay đổi cách xưng hô để thể hiện sự gần gũi thân thiết, nào ngờ sắc mặt Ngân Xuyên lại thoáng thay đổi, nét âm u lướt qua trên gương mặt anh, như thể cách xưng hô này đã xúc phạm anh vậy. Tử Chiêu giật mình, Ngân Xuyên lại đưa mắt nhìn xửng bánh bao nhân súp trên bàn, anh cầm đũa, gắp hai cái đặt lên đĩa của mình, nghiêm mặt đưa cho một người giúp việc đứng sau lưng, nói: “Đưa xuống bếp cho bếp trưởng xem.”

Người giúp việc này xem chừng rất căng thẳng, như thể sợ anh nổi giận, bèn vội vàng cầm đĩa bỏ đi. Đám khách khứa thầm kinh ngạc, họ biết chắc chắn món bánh bao nhân súp này làm vụng nhưng lại ngại chẳng dám hỏi. Các vị khách lớn tuổi vẫn cười nói như thường, chẳng ai nhắc gì, chừng năm phút sau một người đàn ông mặc đồ đầu bếp mới khép nép kính cẩn tiến vào, khom lưng chào Ngân Xuyên, nói: “Cậu Phan, hôm nay ông Thất lười biếng quá, gói bánh bao không cẩn thận. Rất xin lỗi cậu ạ. Tôi xin được phép đổi lại xửng mới cho cậu.” Giọng nói người này mang khẩu âm miền Nam. Tín Thần đã ở phương Nam một thời gian, ông bèn hỏi: “Chú đây là người Dương Châu sao?”

Chú Thất cúi đầu đáp: “Dạ thưa ông chủ, kẻ hèn này là người Dương Châu, đã học nghề tại quán trà Phú Xuân từ ngày còn nhỏ ạ.”

“Không biết chú có quen đầu bếp Ninh Cửu của Phú Xuân không?”

“Đó là cậu em đồng môn của kẻ hèn ạ.”

Ngũ Tín Thần kinh ngạc, ông cúi đầu không nói gì thêm, ông biết vị đầu bếp được xưng “chú Thất” này chính là Dư Thất – đầu bếp nổi danh nức tiếng trong giới ẩm thực Hán Khẩu. Mấy năm trước Trường đua ngựa Dương Thương tổ chức lễ mừng đăng quang của Quốc vương Anh, Tô giới Anh đã bỏ một số tiền lớn để làm bữa tiệc cơm Dương Châu thiết đãi quý tộc cùng quan chức chính phủ Anh quốc, vị đầu bếp được mời chính là người này. Không ngờ ông ta lại xuất hiện tại một dinh thự bé nhỏ để làm bánh bao cho cậu ấm trẻ tuổi nhà họ Phan?

Giọng Ngân Xuyên cất lên vô cùng hòa nhã: “Chú Thất đừng chê cháu kén chọn, cháu chỉ thích ăn bánh bao nhân súp chú Thất tự tay nặn thôi.”

Gương mặt đã kinh qua đủ chuyện đời của Dư Thất ửng đỏ, ông chỉ bảo: “Cậu Phan tinh mắt quá, cậu coi trọng kẻ hèn này quá rồi.” Đoạn, ông cung kính tiến lên, bưng xửng bánh bao nhân súp trên bàn lên bằng hai tay rồi lại khép nép mang đi. Mười phút sau một xửng bánh mới được đưa lên, Ngân Xuyên thờ ơ liếc nhìn rồi ngẩng đầu cười với Dư Thất:

“Chú Thất vất vả quá.”

Dư Thất lau mồ hôi ứa trên trán: “Chỉ cần cậu hài lòng là được ạ.”

Dư Thất vừa đi, đám Lưu Lãng Hiên đã cười bảo: “Cháu Cảnh Sâm, mắt cháu cứ như có sàng ấy nhỉ? Người ta gói bánh bao đẹp đẽ tròn trịa là thế, bọn bác có thấy vấn đề gì đâu, sao cháu lại lựa được dằm vậy?”

Ngân Xuyên đáp: “Bánh bao Dương Châu coi trọng mùi vị nhưng cũng cần chú ý đến bề ngoài. Bánh phải có bụng mã thầy, chân lư hương, nếp kéo cắt. Bụng mã thầy có nghĩa bánh bao dày dặn, đầy đặn, tròn trịa như mã thầy, miệng bánh hơi hé như miệng cá diếc. Món bánh chúng ta ăn hôm nay bị bít kín miệng, nếu vậy thì phải có nếp kéo cắt. Bánh bao Dương Châu truyền thống quan trọng nhất là nếp gấp, tổng cộng phải có 36 nếp. Ban nãy có hai chiếc không đủ 36 nếp. Chắc chắn hôm nay chú Thất bận quá nên đã để học trò giúp gói mấy chiếc bánh, cháu bèn cho người giúp việc bưng xuống để chú Thất nhìn. Cháu ăn thì không sao, nhưng các chú các bác đây mà không được thưởng thức món bánh bao chuẩn chỉnh thì bữa tiệc hôm nay thất bại mất rồi, sao có thể như vậy được? Ha ha ha.” Nói rồi anh bật cười.

Đám khách khứa cũng cười theo, họ đưa mắt nhìn nhau, thầm líu lưỡi: “Ghê gớm thật.”

Tử Chiêu cũng gượng cười theo mấy vị tiền bối, cứ cười cười mãi, cậu cảm thấy dường như Ngân Xuyên đang nhìn mình. Lần đầu tiên Tử Chiêu có cảm giác lưng như kim chích.
 
Quyển 1 - Chương 35


Đã dùng xong cơm nhưng vẫn chẳng ai bàn tới chuyện làm ăn, đám người làm thì cặm cụi thu dọn. Ngân Xuyên đưa khách khứa đi tham quan từng tầng của căn biệt thự. Bên ngoài trông vào thì nghĩ đây là một dinh thự ba tầng, nào ngờ thực chất nó lại có đến bốn tầng, tầng hai và tầng ba xây cất rất vuông vức, rất thông thoáng và tràn ngập ánh sáng, được bố trí làm phòng ngủ. Thảm, ga trải giường và bàn ghế sạch sẽ không vương hạt bụi. Tầng ba có ban công, đối lập hẳn với vẻ nặng nề bên ngoài, lan can ban công rất tinh tế, được bao lấy bởi những bông hoa chạm đá, làm tôn lên bóng cây xanh rì và những đóa mộc lan đẹp không tỳ vết, nhìn từ cổng vòm trông nơi này hệt như một bức tranh màu nước. Nơi đây kín đáo, lành lạnh, bức tường ngoài dày dặn đã cản hết hơi nóng và tiếng ồn bên ngoài, ván ốp tường sẫm màu khiến phòng ốc càng thêm tĩnh mịch, tầng cành lá xanh ngát ló vào phòng ngó nghiêng, mọi người không nói chuyện nữa mà dần lặng đi.

Ngũ Tín Thần ngáp dài, ông chống cây gậy gỗ nho già ngồi xuống chiếc giường mềm mại trong phòng ngủ tầng ba, cất giọng mệt mỏi: “Cháu Cảnh Sâm, bác có tuổi rồi, bác mượn căn phòng này ngủ trưa một giấc nhé.”

Ngân Xuyên vội bảo: “Cháu sơ suất quá, chắc các chú các bác đều mệt rồi ạ? Phòng ốc trong này mới được thu xếp lúc sáng sớm hôm nay, ga và đệm đều mới tinh, được chuẩn bị sẵn cho các chú các bác nghỉ trưa đó ạ.” Nói rồi anh đưa mọi người tới mấy căn phòng khách.

Ngũ Tín Thần khoát tay cười bảo: “Thôi thôi, được ở đây một buổi trưa là mấy ông già quen mệt nhọc như bọn bác đã mãn nguyện lắm rồi. Nhân hôm nay có Tử Chiêu ở đây chúng ta hãy tranh thủ nói chuyện luôn đi, lát nữa mọi người cứ ai về nhà nấy, ai lo việc nấy.”

Ở đây Ngũ Tín Thần có tuổi nghề lớn nhất, ông vừa cất lời mọi người đã cùng tìm chỗ trong phòng để ngồi xuống, Tử Chiêu sực tỉnh, cậu biết khâu quan trọng nhất của bữa cơm lần này đã tới rồi.

Ngân Xuyên cười: “Theo lý mà nói có bác Mạnh Đạo Quần ở đây bàn chuyện là tốt nhất, nhưng bác Mạnh lại để Tử Chiêu đến thay, vậy nên có Tử Chiêu tham gia là ổn rồi.”

Tử Chiêu vội bảo: “Vốn em không biết hôm nay chúng ta lại bàn đến chuyện làm ăn, cha không dặn dò gì em hết, chỉ bảo các tiền bối muốn mời cơm, thành ý khó chối từ nên mới để em đi thay. Nếu biết hôm nay gặp mặt bàn chuyện kinh doanh thì có đánh chết em cũng chẳng dám đi. Hay anh Phan cứ đợi một lát, để em gọi điện cho cha, mời cha em tới bằng được. Thật sự là em chẳng biết gì về kinh doanh, e là nghe lại hiểu nhầm ý, chuyển sai lời cho cha, như vậy chỉ tổ hỏng mất chuyện lớn.”

Ngân Xuyên cười nói: “Giờ đang là giữa trưa, việc gì phải làm khổ bác Mạnh, bắt bác lặn lội tới đây.”

Ngũ Tín Thần bảo: “Tử Chiêu, cháu cứ nghe thôi là được.”

Ngũ Tín Thần đã nói vậy, Tử Chiêu cũng chẳng trốn tránh nổi, nhưng cậu biết có lẽ cha đã ngờ tới chuyện này nên mới để cậu ra mặt thay.

Ngân Xuyên nói: “Bến tàu khu vực nước sâu của Hán Khẩu nằm trong tay một số các hiệu buôn Tây như Di Hòa của bác Ngũ, Thái Cổ của bác Hứa. Đại Quân nhà họ Mạnh cũng như Công ty Luân thuyền Chiêu thương cục là hai con rồng lớn của bến tàu khu vực nước sâu; mà khu vực ven sông kéo dài từ đường Hoàng Hưng và Tô giới Nga là lãnh địa của Thuyền buôn Osaka Nhật Bản và Tàu Tân Hóa vốn Nga; bờ sông Cát Lâm và Lục Hợp cũng do người Nhật Bản cai quản, nhưng giờ đã có vài công ty tàu thủy Trung Quốc xuất hiện như hãng tàu buôn Ninh Thiệu, Tam Bắc và Công ty Dân Sinh mới phất lên. Khu vực cảng quốc tế là Hán Khẩu đã được thông thẳng tới Đức, Hà Lan, Pháp, Ý, Ai Cập từ thời Tiền Thanh, người dân toàn thế giới đều có thể chuyên chở kiếm lợi ở Hán Khẩu. Hiệu buôn Di Hòa lâu đời, Luân thuyền Chiêu thương cục và cả Đại Quân đều không thể một mình nuốt gọn bát cơm chuyên chở đường thủy này được.”

Mọi người gật đầu tán đồng.

Thấy Tử Chiêu im lặng, Ngân Xuyên đưa mắt nhìn cậu, ôn hòa cất lời: “Chuyện làm ăn càng lúc càng khó khăn, những thế lực lớn phải liên thủ với nhau mới đạt được mối lợi tối đa. Trong những công ty tàu thủy tư nhân lớn tại Hán Khẩu thì Đại Quân là mạnh nhất. Trước đó Hiệu buôn Phổ Huệ từng hợp tác rất thuận lợi với Đại Quân, trụ sở chính London từng gửi vô số bức điện khẩn dặn dòn bọn anh phải trân trọng đối tác làm ăn là Đại Quân, vậy nên Phổ Huệ muốn thông báo với Đại Quân chuyện các hiệu buôn vốn Anh định liên kết giảm giá hàng trước tiên, rất mong Đại Quân có thể làm tấm gương sáng với tư cách một vị tiền bối trong ngành chuyên chở đường biển Trung Quốc để hạ bớt chi phí vận chuyển.”

Tử Chiêu ngơ ngác nói: “Em không hiểu lắm.”

Ngân Xuyên biết cậu giả ngốc, bèn nghiêm túc nói: “Thật ra cũng không phải giảm giá tất cả các tuyến đường, Đại Quân có nguồn vốn hùng hậu, kiếm bớt đi chút đỉnh trong một khoảng thời gian ngắn cũng chẳng phải vấn đề gì to tát. Thứ chúng ta mưu cầu chính là sự phát triển lâu dài. Người anh em Tử Chiêu, thời gian trôi nhanh lắm, không trễ nải được đâu.”

Nói rồi anh mỉm cười, Tử Chiêu đâm phiền não vì nụ cười của anh, cậu thầm nghĩ: Ai là người anh em của anh.

Tài xế khởi động xe, hai chàng trai đưa mắt nhìn các vị khách rời đi trước.

Tử Chiêu đưa tấm thẻ rượu Cảnh Ninh bỏ lại cho Ngân Xuyên, cậu nói: “Hôm qua em vô tình gặp được em gái anh ở Chợ Mới Tân Ký, đây là đồ của cô ấy, phiền anh Phan trả lại cho cô ấy giúp em.”

Ngân Xuyên đút thẻ rượu vào túi áo, anh quay người dợm bước lên xe, Tử Chiêu cứ cảm thấy không thoải mái, cậu bèn buột miệng kêu: “Anh Phan.”

Ngân Xuyên quay đầu nhìn cậu, Tử Chiêu suy nghĩ rồi cười bảo: “Nghe Cảnh Ninh bảo bốn con vịt em tặng cô ấy vẫn khỏe lắm.”

Ngân Xuyên chợt mỉm cười, như thể vừa nghĩ ra chuyện gì đó rất hài hước, Tử Chiêu vốn là kẻ thích chế giễu người khác nhưng lần này cậu lại thấy được vẻ miệt thị tột cùng trên gương mặt con người này.

Chiếc xe hơi đen nghênh ngang rời đi, Tử Chiêu cười vẫy tay với Ngân Xuyên trong xe, cậu đã chắc chắn anh Phan tỏ ra kỳ quặc như vậy là vì yêu chiều bảo vệ cô em gái quý báu, nhưng có một số chuyện phải làm cho rõ ràng, càng sớm càng tốt. Tử Chiêu rất đắc ý vì trò khôn vặt của mình, rồi cậu lại nghĩ: “Con nhóc này cứ bảo là giết mất vịt của mình rồi, xem ra cô ấy không giết, không những không giết mà còn nuôi chúng nó béo tốt nữa.” Nghĩ tới đây, cậu lại thấy lòng mình ấm áp.

Sau khi về nhà, Tử Chiêu chuyển lời của Ngân Xuyên và mọi người cho Đạo Quần. Đạo Quần nghiêm túc nghe cho hết rồi im lặng hồi lâu.

“Cha biết chuyện giảm giá từ trước rồi nên mới để con đi chơi chiêu lập lờ sao?” Tử Chiêu dò hỏi.

Đạo Quần nói: “Sao có thể lập lờ với đám người này được, cha chỉ không muốn bị bọn họ nắm đằng chuôi thôi. Cha không xuất hiện coi như không trả lời họ.”

“Tại sao họ lại đột nhiên đòi giảm giá vậy ạ?”

“Có hơn năm mươi công ty kinh doanh chuyên chở quốc tế tại Hán Khẩu và Thượng Hải, môi trường cạnh tranh rất quyết liệt, Đại Quân là một công ty tương đối có thực lực trong các số các công ty Trung Quốc nên chưa bao giờ được lòng đám hiệu buôn Tây. Chúng ta không có chỗ dựa vững chắc là chính phủ như Chiêu thương cục, hiệu buôn Tây lại ỷ tài to thế lớn để chèn ép chúng ta, giả vờ ban ơn làm phúc đòi Đại Quân phải giảm giá cùng. Hừ, một khi giảm giá thì những công ty chuyên chở nhỏ khác sẽ bị giẫm chết theo.” Đạo Quần chắp tay, ánh mắt ông sắc lẹm, “Năm ấy ông nội con xây dựng cơ nghiệp nhưng không có tiền đút lót quan lại và lũ bảo kê. Những người dân thuyền nghèo khổ chuyên vận chuyển thạch cao và bông vải cùng các chủ hàng tay trắng dựng nghiệp đã dùng từng đồng họ tích cóp được để chắp vả món vốn cổ phần đầu tiên của Đại Quân. Nhà họ Mạnh từng thề đã lập nghiệp ở quê cha đất tổ thì nhất định sẽ dồn hết sức báo đáp người dân quê cũ, Đại Quân được bách tính Hán Khẩu nuôi nấng, sao có thể nghe lời đám người nước ngoài gây sóng gió nhiễu loạn trên bến tàu Hán Khẩu? Năm ngoái lũ lụt, người dân ba trấn ai cũng chịu tổn thất nặng nề, giờ nhiều công việc, sự nghiệp bị đình trệ còn cần được chấn hưng, vào thời khắc mấu chốt như vậy mà Mạnh Đạo Quần này lại nghe theo lời đám nước ngoài thì liệu sẽ có bao nhiêu người chỉ trích cha, mắng cha là kẻ bán nước đây, khi ấy cha còn mặt mũi nào mà ra bến tàu?”

Tử Chiêu im lặng hồi lâu, cậu lo lắng nói: “Nếu Đại Quân không giảm giá theo, chắc chắn các hiệu buôn Tây sẽ gây chuyện bất lợi với chúng ta. Hiệu buôn Tây Phổ Huệ đã hợp tác với Đại Quân lâu rồi mà, chẳng lẽ lần này họ cũng muốn trở thành đối thủ của cha sao?”

Đạo Quần hỏi cậu: “Con có biết SS Conte Verde không?”

Mắt Tử Chiêu sáng rực: “Đó là chiếc tàu chuyến hạng sang trọng tải 18.000 tấn ư? Nghe nói con tàu ấy vô cùng xa hoa lộng lẫy, thiết bị trên tàu toàn là những món tiên tiến nhất trên thế giới… Nhưng hình như đó là tàu thủy của Ý, đâu liên quan gì đến Phổ Huệ ạ?”

Mạnh Đạo Quần tỏ ý tán thưởng: “Xem ra con cũng không phải chỉ có nhậu nhẹt chơi bời?”

Tử Chiêu bĩu môi: “Dù sao con cũng là con trai cha, người ta hỏi con chuyện tàu thuyền mà con nói sai xấu mặt thì cũng làm cha xấu hổ thôi.”

Đạo Quần cười ha hả, nói: “Hiệu buôn Tây Phổ Huệ có cổ phần của xưởng đóng tàu William Beardmore and Company, SS Conte Verde là do xưởng họ chế tạo, cũng không phải không liên quan chút nào. Giờ tình thế của cả giới tàu thủy quốc tế đều rất đáng ngại, các công ty tàu thủy có cái phá sản, có cái thì sát nhập tái cơ cấu, Phổ Huệ cũng kinh doanh chuyên chở, định chia chác làm ăn với công ty Ý nọ, thương vụ đó bao gồm cả tuyến đường từ Đông Nam Á tới Thượng Hải. Đông Nam Á là mảnh đất quen thuộc với Đại Quân, còn về thị phần đường thủy ở Trung Quốc thì Phổ Huệ nào có tư cách chen vào? Hơn nữa chẳng biết công ty Ý nọ có xem trọng Phổ Huệ thật không, nếu cần người mở đường thì có thể Đại Quân cũng là một ứng cử viên.”

“Vậy tức là Phổ Huệ sợ chúng ta cản đường phát tài nên mới cố tình gây sự để Di Hòa và Thái Cổ phải ra mặt thay.” Tử Chiêu phiền muộn cất lời.

Đạo Quần nhìn cậu chằm chằm: “Trên thương trường không có bạn bè vĩnh viễn, cũng chẳng có đối thủ nào là mãi mãi. Tất cả mọi chuyện đều bị lợi ích lèo lái, lòng người thay đổi còn nhanh hơn thời tiết. Khi con về nước Hán Khẩu đâu có nóng nực như bây giờ? Nhưng tình thế thương trường lại có thể thay đổi rất nhiều lần chỉ trong một ngày.”

“Con có thể làm gì bây giờ ạ?”

“Đồ bị thịt như con thì diễn trò cho vui là được rồi, e là con chưa đủ sức để giúp cha làm việc lớn đâu.”

Tử Chiêu chân thành cất tiếng: “Thật ra con biết tấc đấc tấc vàng dưới chân và phồn vinh hoa lệ như gấm trên đầu đều ẩn chứa máu cùng nước mắt của vô số người. Từ khi Hán Khẩu mở cửa thông thương, người nước ngoài đã bắt đầu diễu võ dương oai, liên tục lũng đoạn địa sản và tài chính nơi đây, gần như chẳng để lại đường sống cho thương nhân người Hoa. Nhà họ Mạnh làm ăn chân chính, không bao giờ đầu cơ trục lợi, tiền kiếm cũng phải có nguyên tắc riêng, nếu giờ Đại Quân hạ giá thì bản thân sẽ không bị thiệt thòi, nhưng với các doanh nghiệp và thương lái nhỏ sống dựa vào chuyên chở, có thể đây chính là chuyện sống chết lớn lao. Cha à, cha không ngại trở mặt với kẻ thù lớn, sự dũng cảm và trách nhiệm của cha khiến con vô cùng tự hào. Năng lực của con có hạn, thật sự không giúp cha được bao nhiêu, con rất xấu hổ.”

Đạo Quần gật đầu mỉm cười: “Thuyền đi trên mặt nước thì phải cưỡi gió lướt sóng mới gọi là trải sự đời. Có lẽ chẳng bao lâu nữa Mạnh Quân sẽ phải đối mặt với cơn sóng gió lớn nhất kể từ khi thành lập tới nay, đây là tình cảnh mà đến cả cha cũng chưa từng trải qua. Cha rất mong con có thể tham gia, nhưng chỉ lo con lại sợ.”

Đôi mắt đen láy của Tử Chiêu tỏa sáng lấp lánh: “Con không sợ đâu!”
 
Quyển 1 - Chương 36


Ánh đèn rọi từ cửa sổ xếp chồng lên vạt trăng, đài phun nước âm vang tiếng róc rách. Ngân Xuyên ngẩng đầu nhìn, ánh trăng sáng vô cùng, đến cả đụn mây ngoài xa cũng được phủ màu sáng trắng.

Giữ cân bằng là một chuyện khó khăn. Nó không ổn định, mà cũng chẳng hoàn hảo. Điều anh phải làm nhiều nhất mỗi ngày chính là gắng sức mưu cầu sự cân bằng ngắn ngủi giữa vô vàn lợi ích, giữa người Trung Quốc và người nước ngoài, giữa bạn bè và kẻ địch. Sóng yên biển lặng là gì? Nó cũng hệt như bầu trời đêm lúc này đây, một áng mây biến mất, một cơn gió ngưng bặt, một tia sáng chập chờn, mỗi biến hoá bé nhỏ tinh vi cũng sẽ phá tan bản cam kết bình yên mà bầu trời đêm cùng ánh trăng đã lập nên.

Ngân Xuyên chậm rãi khép mắt, giá như trái tim mệt mỏi này có được sự bình yên, dù chỉ trong tích tắc thôi. Nhưng chỉ sau một tích tắc ngắn ngủi, anh đã lại mở mắt, anh bước về phía căn nhà mọc sừng sững giữa hoa lá xanh ngắt, căn nhà đã gắn với đời anh gần hai mươi năm.

Sức khỏe của Phan Thịnh Đường đã sa sút nhiều, ông ta nằm liệt giường tĩnh dưỡng suốt mấy ngày nay, phòng bếp đang sắc thuốc, mùi thuốc quen thuộc ngập ngụa cả đại sảnh tầng một, cứ vấn vít mãi không tan.

Cũng như mọi ngày, dù Ngân Xuyên có từ hiệu buôn Tây trở về nhà muộn tới chừng nào thì Vân Thăng vẫn đứng chờ ngoài tiền sảnh. Giờ Vân Thăng trở thành quản gia của nhà họ Phan, so với Hà Sĩ Văn đã qua đời, công việc anh ta phải xử lý ít hơn nhiều, chỉ vỏn vẹn những chuyện trong dinh thự và vài mối làm ăn của kho dầu, vừa khiêm tốn lại vừa chừng mực.

Ngân Xuyên vừa bước vào, Vân Thăng đã tiến lại xách cặp da, cởi áo khoác cho anh rồi hạ giọng báo cáo tình hình trong nhà.

“Ông chủ ngủ sớm lắm ạ, sức khỏe ông tốt hơn mấy hôm trước nhiều rồi.”

“Buổi sáng cha tôi làm những gì?”

“Ông ấy ở trong phòng suốt không ra ngoài, giám đốc Ngô đưa mọi người tới như thường lệ, nói chuyện một lát rồi đi ngay.”

“A Huyên đã về nhà chưa?”

“Dạ về rồi ạ. Giờ cơm tối cậu ấy có kể lại những gì mình học được ở kho hàng nhà họ Thiệu, ông chủ rất mừng.”

Ngân Xuyên mỉm cười: “Đúng là thằng bé có tiến bộ thật, cha tôi bảo sẽ để A Huyên quản lý hai hiệu tơ sống, anh muốn tôi sắp xếp cho anh qua phụ giúp A Huyên không? Nơi đó béo bở lắm đấy.”

Vân Thăng mỉm cười bảo: “Giờ tôi chỉ muốn xử lý cẩn thận chuyện trong nhà để về sau cậu cả không còn gì phải lo.”

Ngân Xuyên liếc nhìn anh ta: “Anh chờ tôi giao cho anh việc làm ăn của hiệu thuốc lá Vĩnh Thái phải không?”

Vẻ tham lam thoáng lướt qua mắt Vân Thăng, rồi chợt anh ta lại nghiêm trang cất lời: “Đợi đến khi nào cậu cả thật sự trở thành người đứng đầu nhà họ Phan, cậu chia cho tôi hút một điếu thuốc là tốt lắm rồi. Giờ vẫn chưa phải lúc sốt ruột.”

Ngân Xuyên thở dài như thể rất bất lực, rồi anh quay người chậm rãi bước lên tầng.

Ngân Xuyên từng chuyển sang ở căn phòng trên gác lửng mé Đông Nam, thường ngày anh hay tránh đi theo lối căn phòng này, hay nói đúng hơn, tất cả những người trú trong dinh thự này đều tránh né nó.

Vân Lang chết vào tháng thứ ba sau khi kết hôn. Sau khi cô qua đời, Ngân Xuyên chuyển về phòng cũ, như thể chưa có bất cứ chuyện gì xảy ra. Những người khác thấy anh đang trốn tránh nỗi đau khổ, mà đúng thực anh cũng mang lên mình chiếc mặt nạ bị bủa vây bởi đau đớn suốt một thời gian dài.

Rất nhiều chuyện có thể dùng người chết như một cái bia đỡ đạn tuyệt hảo cho mình, nhưng trái tim anh lại không thể thản nhiên như đã tưởng tượng, mỗi lần đứng ở góc cầu thang, anh đều không dằn lòng nổi mà nhìn về phía căn phòng đó, hé mở cả tấm rèm che giấu nỗi hổ thẹn trong tim mình.

“Cô ta tự chuốc lấy.” Anh rủ rỉ, khuyên nhủ bản thân đừng quá tự trách, “Mình đã cảnh cáo cô ta rồi, cũng đã nghĩ cách từ chối cô ta rồi, tất cả là do cô ta tự lựa chọn…”

“Phan Cảnh Sâm… Tôi chỉ thương hại anh thôi.” Giọng nói thê lương như vang lên bên tai anh.

Tim anh thắt lại, đang định rời đi thật nhanh thì cửa phòng Cảnh Ninh đã hé mở, ánh đèn dịu dàng tràn ra hành lang.

“Sao anh lại về muộn thế?”

Ngân Xuyên dừng bước, trên mặt cô bé xinh xắn đẹp đẽ nọ có phủ một tầng bóng nhạt dịu dàng, đôi mắt cô thoáng hiện vẻ phiền muộn.

“Sao em vẫn chưa ngủ?”

Cô không thay áo ngủ mà vẫn khoác bộ đồ ban sáng, có lẽ cô cố tình chờ anh về. Cô lớn rồi, dù vẫn thân thiết với anh như xưa nhưng cũng biết giữ ý.

“Anh có muốn ăn gì không?” Cô nhường đường cho anh.

Ngân Xuyên tiến vào phòng, chiếc bàn nhỏ để quà vặt có rất nhiều bánh ngọt và trà nóng, ngoài ra còn thấy cả một chiếc hộp gỗ tử đàn nho nhỏ, bên trong là mấy món đồ chơi của cô, chắc cô vừa chơi vừa chờ anh về. Lòng Ngân Xuyên gờn gợn sóng, anh rút chiếc thẻ rượu ngà voi ra đặt trên bàn, nói: “Mạnh Tử Chiêu bảo anh đưa em. Cái tật để đồ linh tinh rồi làm mất của em vẫn không sửa được.”

Cô liếc nhìn rồi chợt đỏ bừng mặt: “Sao anh với cậu ta lại gặp nhau vậy?”

“Chiều nay bọn anh vừa ăn cơm với nhau.” Ngân Xuyên ngồi xuống, tự rót trà cho mình.

“Hai người nói gì thế?” Cảnh Ninh rất tò mò, bèn ngồi xuống bên anh.

Anh nhìn đôi mắt lấp lánh của cô, cười bảo: “Có vài vị tiền bối ngành chuyên chở hàng hải mời cơm, anh và cậu ta chỉ theo cùng thôi.”

Cảnh Ninh bĩu môi, mở hộp ra, bên trong là một chồng thẻ rượu từa tựa nhau, chỉ có màu sắc và hoa văn là khác biệt, khắc nào Trạng nguyên, Tiến sĩ, Tú tài, Thám hoa. Cô định đặt cả chiếc thẻ “Cử nhân” vào hộp, nhưng Ngân Xuyên lại cản cô, anh cầm thẻ rượu lên xem.

Chẳng có gì đặc biệt cả, duy có một cây mai khắc trên mặt sau thẻ, cành lá lưa thưa, bên dưới có gã thư sinh ôm sách đang đứng.

Ngân Xuyên lại nhìn kỹ thêm lần nữa, nhưng Cảnh Ninh đã giật mất tấm thẻ, thảy luôn vào hộp. Cô lại đỏ mặt, đẩy đĩa bánh tới trước mặt anh, nói: “Anh ăn gì đi. Em biết thể nào anh cũng đói rồi.”

“Anh không đói, chỉ thèm ăn thôi.” Ngân Xuyên cười.

Cảnh Ninh bật cười.

“Mấy tấm thẻ rượu này là đồ chơi của bọn con trai, tiểu thư khuê các như em lấy đâu ra thứ này?”

“Từ Cơm… Ừm, Từ Đức Anh tặng em.”

Ngân Xuyên nhớ lại gương mặt thật thà chất phác của Đức Anh. Anh nghiêm mặt bảo: “Từ Đức Anh là người thật thà.”

Cô nhìn chằm chằm chiếc hộp nhỏ đựng thẻ rượu, lí nhí nói: “Thế thì sao?”

“Em quay cậu ta vòng vòng như một gã ngốc vậy, giờ cậu ta chết mê chết mệt rồi. Em là một cô bé tốt bụng, sao em lại thích trêu cợt một người thật thà như vậy? Em đâu có định kết hôn với cậu ta.”

“Sao anh biết?”

“Cậu ta không phải tuýp người em thích, dù gia cảnh hiển hách nhưng… trái tim em không hề có cậu ta, ai cũng thấy hết.”

“Anh cả, anh nghĩ anh có thể biết tất cả mọi chuyện ư, nhưng anh không hiểu đâu.”

“Như vậy không hay đâu, Bé Hạt Dẻ.”

“Nhưng nhỡ em…”

“Không có nhỡ gì cả, anh nói cho em biết…”

Cảnh Ninh chẳng chờ anh nói xong đã mất kiên nhẫn dốc hết đám thẻ rượu ra khỏi hộp, lựa nhặt từng tấm: “Thám hoa, Trạng nguyên, Tiến sĩ, Tú tài…” Cô chu môi khẽ lẩm nhẩm, gò má trắng nõn như được thoa phấn hồng, cô miết nhẹ con chữ khắc trên thẻ rượu, hệt như một đứa trẻ ngang bướng thất thường.

Anh dịu dàng nhìn cô chăm chú, quên luôn cả những lời định nói, nhưng cuối cùng cô lại ngẩng đầu, chớp cặp mắt đen láy: “Anh cả, anh nói đi.”

Ngân Xuyên hoàn hồn, nói: “Nếu em không hứng thú với cậu ta thì đừng có trêu chọc nữa. Tội gì phải để người ta khổ sở. Nếu không phải em lãng phí thời gian của Từ Đức Anh thì có khi người ta đã tìm được cô gái khác phù hợp hơn từ lâu rồi. Cậu ta là con người tử tế, giờ lại như phát cuồng tới nơi. Cậu ta còn đưa chiếc nhẫn mua ở Lão Phượng Tường cho anh xem, bảo: ‘Ninh Ninh thích nhẫn to, càng to càng tốt, em đặt cái to nhất đấy.’ Anh phải cố lắm mới nhịn được cười. Nhẫn mà to như cái đê khâu!”

Cảnh Ninh che mặt, anh biết cô đang lén cười nên lại tức giận lườm cô. Cô cười thở không ra hơi: “Không… không phải em nói thế đâu… Là đám Phương Kỳ Kỳ lừa cậu ta đấy. Thế mà cậu ta cũng tin.”

Ngân Xuyên kéo tay cô xuống, bắt cô phải nhìn thẳng vào mắt mình, gương mặt cô tràn ngập nét cười vui vẻ ngây thơ, khiến lòng anh chùng xuống, nỗi tức giận bốc lên ngùn ngụt, mà có khi đó chính là xót xa.

“Em không cảm thấy đùa giỡn với tình cảm của người khác là một chuyện rất sai trái sao?!”

Gương mặt xinh đẹp xám ngắt đi, cô tủi thân nói: “Em không muốn đùa giỡn cậu ta, tại cậu ta bám lấy em đấy chứ.”

Cậu ta bám lấy em. Cậu ta tự chuốc lấy.

Là cô ta tự chuốc lấy. Mấy chữ này lại lướt qua đầu Ngân Xuyên, anh nhớ tới Huệ Lan đã chết và người vợ hữu danh vô thực của mình.

“Em nói vậy chỉ vì em nghĩ tình cảm là một cán cân, còn em đứng ở phe chiến thắng, em có quyền coi rẻ kẻ khác. Nhưng Hạt Dẻ à, em đừng tưởng những người yêu em đều là kẻ yếu. Có những lúc sự phản kháng của kẻ yếu sẽ khiến con người ta phải gục ngã.”

“Anh cả…”

“Để anh cho em một ví dụ. Chị dâu em… chị ấy cưới anh, anh không muốn nhưng vì ý của cha mẹ nên anh đành phải chấp nhận. Tuy vậy, cuộc hôn nhân này vô cùng miễn cưỡng. Cuộc sống của bọn anh cũng chẳng tốt đẹp gì, anh đối xử rất… lạnh nhạt với cô ấy. Vậy nên cô ấy mới mắc bệnh, cuối cùng thì…”

“Em biết anh vẫn rất nhớ thương chị dâu.”

Anh lắc đầu, lẳng lặng thốt: “Cô ấy đã dùng cách của mình để trừng phạt anh. Ít nhất suốt đời này anh cũng không thể quên được cô ấy. Bé Hạt Dẻ, em hãy nhìn tấm gương là anh, đừng lỡ dở Đức Anh. Ngày mai em hãy nói rõ với cậu ta đi, bảo cậu ta đừng tìm em nữa, em cũng phải…”

“Không!” Cô chợt kêu lên, như một đứa trẻ bị cướp mất đồ chơi, “Không đâu!”

“Tại sao?” Ngân Xuyên nheo mắt, Cảnh Ninh thấy anh nghiêm khắc tới độ hơi đáng sợ, cô ngả ra sau, ngập ngừng nói, “Em thích… được người ta thích. Em không làm lỡ dở cậu ta đâu, nếu sau này Đức Anh tìm được cô gái nào khác thì em cũng sẽ mừng cho cậu ta. Nhưng anh cả, em thích được bọn họ mến.”

“Bọn họ?”

“Chẳng lẽ em không thể được đám con trai thích sao? Không có Đức Anh chẳng lẽ lại không có người khác?” Cô nghiêng đầu, khó hiểu cất lời: “Em không có ác ý đâu. Nếu em khiến bọn họ không vui thì họ có thể tránh xa em mà, em cũng đâu thấy buồn.”

Ngân Xuyên im lặng.

Đây là sự thực, với anh mà nói có lẽ nó khá tàn nhẫn, nhưng anh chẳng thể làm gì khác. Bông hồng kiều diễm ắt sẽ thu hút vô số ong bướm, một cô gái xinh đẹp trẻ trung mà không được ai theo đuổi thì quả là kỳ quặc. Anh nhìn cô chằm chằm, khiến cô phải cúi đầu, tưởng anh đang khiển trách mình, khiển trách sự ngu ngốc phù phiếm của cô, nhưng cô sai rồi. Cô không biết thật ra người anh cả kính yêu của cô đang muốn giết cô, ý nghĩ này đã xuất hiện trong đầu anh không chỉ một lần, cô không hiểu thật ra cô chính là nguồn cơn của những suy nghĩ ác độc trong lòng anh, là lửa dẫn cho nỗi đau khổ của anh.

Anh hận em, Ngân Xuyên nghĩ, nhất định anh phải hận em, như vậy anh mới có thể sống tiếp. Nhưng tại sao anh phải hận em? Giữ nguyên mọi thứ như hiện tại thì có gì là xấu? Nhưng hiện tại là gì đây?

Ngân Xuyên day trán.

“Anh cả…” Cô sợ anh giận, cứ nghĩ nói tiếp sẽ khiến anh thấy dễ chịu hơn, “Chuyện này sẽ không kéo dài đâu. Ý em là, em, sẽ không tiếp tục thế này lâu đâu… Chỉ là dạo này tâm trạng em hơi thất thường. Mọi thứ sẽ ổn thỏa trở lại sớm thôi, thật đấy, không lâu nữa đâu.”

Cô khẽ thở dài, xếp thẻ rượu thành chồng trong lòng bàn tay rồi lại hất ào nó xuống bàn.

Cô có tâm sự.

Ngân Xuyên biết cô đang nghĩ tới ai. Hoa văn sau tấm thẻ rượu chợt in thẳng vào đầu anh như ánh chớp. Anh chợt hiểu rõ tất cả.

Thư sinh đứng dưới gốc mai, nét mặt phấn chấn, phóng khoáng bất kham, giống y như đúc kẻ nọ.

Anh nhìn gương mặt xinh đẹp của cô, lòng anh hận thù tới cùng cực, nhưng cũng lại tuyệt vọng tới tột độ.
 
Quyển 1 - Chương 37


Trở lại phòng mình, ánh trăng cũng lọt vào theo qua khe cửa. Vân Lang, hồn ma của người phụ nữ đáng thương ấy như đang đứng bên bệ cửa sổ mà hả hê nhìn anh.

“Tôi chỉ thương hại anh.” Hồn ma nói.

Hôm ấy cô cũng nói y như vậy.

Sau khi bọn họ kết hôn, anh chưa từng nhìn thẳng vào mắt cô. Khi có người khác, anh diễn màn kịch tình cảm ngọt ngào, lúc chỉ còn hai người, thứ tình cảm ấy biến thành lời giễu cợt lạnh lẽo.

Một ngày trôi qua, rồi một tháng trôi qua, cuối cùng đến tháng thứ ba, cô ấy cũng không chịu nổi nữa.

Vào một đêm, cuối cùng Vân Lang cũng sụp đổ. Áo quần cô xộc xệch, đầu tóc rối bù, cô đập vỡ hết đồ đạc trong phòng, rồi chửi rủa anh như một kẻ điên. Cả nhà đều nghe thấy, còn anh chỉ đứng bên chiếc giường ngủ mà anh chưa từng đặt lưng, nhìn kẻ đang phát điên là cô với vẻ dịu dàng, hệt như một người bị hại vô tội.

Cô ấy nói: “Phan Cảnh Sâm, anh là một con rắn độc, anh không phải con người.”

Phan Thịnh Đường, bà Vân, và cả Cảnh Huyên Cảnh Ninh đều chạy tới, sự thật mong manh nực cười của cuộc hôn nhân này sắp được phơi bày rõ mồn một trước mặt họ.

Cô gào khóc, anh tiến lại ôm cô vào lòng, cô biết giờ anh hận cô tới độ chỉ muốn bóp cổ cô đến chết, nhưng cô cứ vẫn chìm đắm trong sự ấm áp giả dối này.

“Nếu A Sâm làm gì có lỗi với con thì con cứ nói ra đi, mọi người sẽ dạy dỗ nó thay con.” Bà Vân động viên cô, cặp mắt như mắt ưng của Phan Thịnh Đường cũng lướt tới.

Ngân Xuyên lau nước mắt cho Vân Lang, cô chưa từng thấy anh dịu dàng tới nhường này. Cô thoáng ngơ ngác: “Anh ấy… anh ấy…”

“Em Vân, nếu em thấy sống bên anh không hạnh phúc thì em có thể chọn tự do. Anh sẽ không để em phải thiệt thòi.” Anh dịu giọng.

Vân Lang run rẩy. Cuộc hôn nhân mà cô ra sức bám víu lấy, cuộc hôn nhân mà cô hằng mong đợi đã biến thành trò cười trong mắt bao kẻ. Trách ai được đây? Anh đã nói từ trước rằng mình không yêu cô. Là tự cô bướng bỉnh lấy hạnh phúc cả đời ra làm tiền cược, cược lấy trái tim người đàn ông này. Cô thua rồi.

Anh có gì sai?

“Anh ấy…” Cô hận anh khôn thấu, ngẩng đầu nhìn gương mặt tuấn tú trước mắt, cô nghiến răng nói, “Anh ấy không ngủ với con, anh ấy không chạm vào con.”

Vốn Cảnh Ninh đang định khuyên nhủ Vân Lang, nghe câu này xong mặt đã đỏ bừng.

Vân Lang phát hiện ánh mắt chồng mình lại trở về với vẻ lạnh lẽo quen thuộc, nhưng cô vẫn có thể tóm được một thoáng hoảng hốt nơi anh, bèn không nén nổi tiếng cười đắc ý: “Anh ta thà tự…”

“Im mồm.” Anh siết chặt lấy cô, khiến cô đau tới ứa lệ, anh nói, “Em đang không tỉnh táo, em điên rồi.”

Anh nói: “Vân Lang bị bệnh, bọn con vẫn giấu mọi người chuyện này. Cô ấy đang uống thuốc.”

“Bị bệnh ư?!” Giọng nói chói tai của Vân Lang lạc hẳn đi, dường như lại càng khiến lời Ngân Xuyên thêm đáng tin, “Bị bệnh ư? Anh tưởng chúng ta đang diễn kịch hả? Tôi nói thật mà anh lại lừa họ, bảo tôi bị bệnh, chắc tiếp theo anh định tống tôi vào viện tâm thần chứ gì? Để tôi nói cho các người biết, cậu cả của các người là một tên mặt người dạ thú…”

“Đúng, em nói rất đúng.” Ngân Xuyên buông cô ra, anh mệt mỏi lùi lại, bất lực nhìn mọi người, “Con không yêu cô ấy. Con không muốn có cuộc hôn nhân này, con đã nói với Vân Lang từ đầu rằng con không yêu cô ấy. Hôm nay cứ thành thật một thể luôn đi.”

Anh mở ngăn kéo chiếc tủ bên cạnh, lấy hàng chồng thuốc ra: “Trước đó mọi người không cho con biết cô ấy bị bệnh, cô ấy giấu con uống thuốc, cứ đến đêm là lại nói mê, nằng nặc đòi tự tử. Cha, mẹ, con sẽ chịu trách nhiệm với cuộc hôn nhân này, nhưng thật sự con chưa bao giờ yêu cô ấy.”

Vân Lang siết lấy ngực mình như bị dao nhọn khoét tim. Phan Thịnh Đường tiến lại, cầm một lọ thuốc lên quan sát thật kỹ rồi chợt ngẩng đầu nhìn Vân Lang: “Vân Lang, con nói cho cha biết, con tự mua đống thuốc này ư?”

Những lọ thuốc này là thuốc an thần và thuốc ngủ, một phần là tự cô mua, một phần là Ngân Xuyên mua cho cô. Có một hôm anh về nhà rất muộn, anh vào phòng rồi ném mấy lọ thuốc này lên giường cô.

Cô bật đèn ngủ, kinh ngạc nhìn anh.

Anh vừa nới cổ áo sơ mi vừa lấy chăn gối ra khỏi tủ, định lên gác xép ngủ như mọi ngày. Cô chỉ lọ thuốc trên giường, hỏi: “Anh có ý gì?”

“Có vẻ em rất thích uống thuốc, anh mua thêm cho em đấy. Cuộc đời này vẫn còn dài lắm, cứ uống từ từ, không đủ anh sẽ mua tiếp. Anh là chồng em, chỉ có thể làm cho em những chuyện này thôi.”

Cô không tài nào tưởng tượng nổi người đàn ông này lại có một trái tim tàn nhẫn tới vậy. Cô nở nụ cười đau đớn: “Có phải nếu em chết anh sẽ vui mừng, anh sẽ nhìn em không?”

Anh lơ đãng “ừ” một tiếng rồi bước lên tầng.

“Con không yêu cô ấy.”

Anh lặp lại câu nói này, anh giẫm đạp lên tình cảm và lòng tự trọng của cô trước mặt tất cả mọi người.

Gương mặt Vân Lang tái mét, cô chợt bật cười, nói: “Là con mua, tất cả là do con mua hết. Con không ngủ được. Vì anh ta không chịu ngủ cùng con. Anh ta thà ngủ với người đàn bà khác, thà ngủ một mình cũng không chịu ngủ với con.”

Phan Thịnh Đường cau mày.

Chuyện riêng tư rất đỗi khó xử của cặp vợ chồng này khiến tất cả mọi người cảm thấy lúng túng. Mặt Cảnh Ninh nóng phừng phừng, không dám nghe tiếp nữa, cô và Cảnh Huyên đưa mắt nhìn nhau rồi quay người bỏ đi.

Ngân Xuyên lạnh lùng nhìn Vân Lang chằm chặp, cuối cùng, vừa giận dữ vừa cay nghiệt, anh thốt: “Không biết xấu hổ.”

Trò hề này chẳng giải quyết được vấn đề gì, dường như Vân Lang đã hoàn toàn bỏ cuộc rồi. Mấy ngày hôm sau, cô không ầm ĩ gây chuyện nữa mà tỏ ra rất bình tĩnh. Ngây Xuyên thì tránh về nhà, mượn cớ công việc ở hiệu buôn Tây bận bịu, cứ thế cho đến cái ngày anh nhận được điện thoại của Vân Lang.

“Tôi đồng ý ly hôn với anh, giải thoát cho anh. Anh về nhà đi.”

Anh lạnh lùng nói: “Anh mong chuyện ly hôn sẽ không ảnh hưởng tới việc làm ăn của anh và cha em. Mong em sẽ không đưa chuyện thị phi với ông ấy.”

Rõ ràng cô đã biết trước phản ứng của anh. Im lặng hồi lâu, cô cười: “Về nhà đã rồi nói.”

Anh trở về nhà.

Cô không có trong phòng ngủ. Anh bước lên gác xép, thấy cô đang ngồi trên bệ cửa sổ chật hẹp, nhìn xuống sàn nhà như giễu cợt, rồi lại ngước mắt nhìn anh: “Chẳng lẽ nếu không ly hôn thì anh định ngủ sàn cả đời sao? Sàn cứng lắm đấy.”

Anh mở bao thuốc, lấy một điếu ra châm rồi chậm rãi cất lời: “Cùng lắm thì chuyển ra ngoài ở, có nhiều chỗ để ngủ lắm. Đơn xin ly hôn đâu?”

“Phan Cảnh Sâm, anh thật đáng thương.”

Cô quăng một thứ gì đó lại. Đó là cuốn album của anh, bên trong là tất cả những bức ảnh anh chụp từ nhỏ tới lớn: ảnh đứa bé đi giày đầu hổ, đội mũ thỏ con; tấm ảnh lần đầu anh mặc đồ Tây; hai bức ảnh gia đình khác một trời một vực; ảnh mặc đồ thủy thủ của anh và Cảnh Ninh, Cảnh Huyên.

Một lá thư ngả vàng rơi ra từ album.

Ngân Xuyên ngậm điếu thuốc, khuỵu chân nhặt album lên, kẹp lại lá thư vào rồi chầm chậm ngẩng đầu. Đây là lần đầu tiên anh nhìn gương mặt Vân Lang một cách nghiêm túc, nhưng cô đứng khuất sáng nên anh chẳng thể nhìn rõ.

Tuy vậy, anh vẫn thấy được dáng người mảnh khảnh gầy gò của cô gái ấy, cô cũng từng xinh đẹp như một đóa hoa, chính tay anh đã khiến cô ra nông nỗi này. Lòng anh thoáng dao động.

Thấy anh cau mày, cô ngỡ đây chỉ là nỗi ghét bỏ đã quá quen thuộc của anh, cô bèn mỉm cười: “Rồi có một ngày anh sẽ giống em, bị tình yêu lăng trì. Anh yêu một người tới độ phát điên, nhưng anh sẽ không bao giờ có được cô ta, Phan Cảnh Sâm, anh không thể ngăn bản thân đuổi theo những thứ anh không bao giờ có được, vậy nên… Em thấy thương cho anh, anh chỉ là một kẻ thảm hại đáng thương mà thôi.”

Anh nhìn cô bằng ánh mắt quái gở, cô cong môi: “Đừng có nhìn em như vậy. Hôm nay anh có nhìn em thế nào em cũng chẳng để tâm đâu. Em cũng muốn được giải thoát.”

“Đơn xin ly hôn đâu?” Anh quay người lại, cất cuốn album đi.

Vân Lang nắm lấy sợi tua rủ dưới rèm cửa: “Em muốn hỏi anh một câu cuối cùng.”

“Hỏi đi.”

“Anh thật sự hận em tới thế ư?”

“Anh không hận em, anh chưa bao giờ bảo em không tốt. Ngược lại, em là một cô gái rất tốt, em xinh đẹp, tốt bụng, nếu muốn thì em có thể trở thành một người mẹ hiền vợ đảm tuyệt vời. Nhưng tiếc là em lại lấy anh, mỗi ngày nhìn em anh chỉ thấy buồn nôn.”

Cô vẫn rất bình tĩnh, chẳng mảy may dao động.

Anh lại hỏi: “Đơn xin ly hôn đâu?”

“Trên bàn uống trà dưới phòng khách.”

Ngân Xuyên bỏ đi, chẳng buồn ngoảnh đầu, có lẽ dứt khoát một chút sẽ khiến cô sớm thoát khỏi sự giày vò của anh.

Nhưng vừa bước xuống phòng khách anh đã nghe một tiếng “rầm” vang lên, đó là tiếng vật nặng rơi từ trên tầng xuống, buông mình nặng trĩu xuống đất. Tiểu Quân ôm một bó hoa hồng từ vườn hoa trở vào nhà, vừa khéo trông thấy cảnh tượng này, tiếng thét kinh hoàng của cô vang vọng khắp tòa biệt thự.

Ngân Xuyên lao như bay ra ngoài, rồi lại vấp ngã sõng soài trên sàn đá bóng loáng, thứ khiến anh trượt ngã là máu, là đóa hoa đỏ thẫm nở trên sàn đá hoa cương trắng muốt.

Vân Lang hấp hối, máu tươi ộc ra khỏi miệng, cánh tay mảnh khảnh quờ quạng trong không trung, rồi cuối cùng cũng kiệt sức buông xuống. Ngân Xuyên quỳ dưới đất, nắm chặt lấy cánh tay ấy.

“Vân Lang!” Anh gọi tên cô, nước mắt ứa ra.

Nhưng đã quá muộn rồi.

“Anh Cảnh Sâm…” Cô cười, “Anh ngốc lắm, anh chỉ thấy được hiện tại… Chứ không nhìn thấy tương lai.”

“Đừng chết.” Anh run rẩy, “Đừng chết mà…”

Cô thở dốc, càng lúc giọng cô càng nhỏ: “Anh đang giữ em lại ư?”

Anh gật đầu, nỗi đau ứa khỏi mắt anh: “Ở lại đi, chúng ta sẽ sống hạnh phúc với nhau.”

Cô buồn bã nói: “Chúng ta đều không ở lại được…”

Tấm rèm cửa bị thổi tung, ánh trăng bị che khuất bởi tầng sương mờ, hồn ma cũng đã biến mất.

Thuốc lá trong bao là loại hàng tốt nhất do công ty thuốc lá Anh – Mỹ kinh doanh sau khi được anh giúp đổi nhãn hiệu. Anh châm một điếu, rít một hơi thật sâu, dần bình tĩnh lại trong hơi thuốc lá, trong hương hoa hồng và hương tùng ngoài vườn. 

Anh cầm cuốn album đã mang bên mình từ khi ở nhà cũ lên, dán lại tấm ảnh đã gần bong, khiến nó dính chặt trên mặt giấy. Trong hơi khói mịt mờ, anh rút lá thư kẹp giữa hai trang cuối ra.

“Cảnh Ninh thân mến, cậu có khỏe không? Bốn con vịt của tớ đã lớn chưa? Cái cô nhóc thối này, sao cậu lại không viết thư cho tớ nữa thế? Cầm cái bút lên khó tới vậy  sao? Hay là cậu không có tiền để mua tem đấy?…

Trời ơi, cậu không biết đâu, hôm nay Berlin có trận tuyết đầu mùa, chủ nhà thay hết chăn đệm dày cho các phòng, có một con bồ câu cứ đậu trên cửa sổ không chịu đi, lông nó màu trắng xám… Tớ lại chợt nhớ tới cậu, rồi lại nhớ tới mùa xuân.”

Ngân Xuyên đã đốt hết những bức thư Mạnh Tử Chiêu gửi cho Cảnh Ninh, chỉ trừ có lá này. Trong tiềm thức của mình, anh vẫn hy vọng Cảnh Ninh sẽ nhìn thấy nó, dù sao đây cũng là điều mà cô hằng mong mỏi, dù sao anh cũng muốn cô được vui vẻ. Anh luôn dốc hết tâm sức nghĩ cách thỏa mãn mọi mong ước của cô. Cũng như với bốn chú vịt con này vậy, có một con bị ốm chết, anh bèn giấu cô tìm một con giống y như đúc mang về. Về sau cả bốn con vịt đều lần lượt bệnh chết, Cảnh Ninh lại cứ ngỡ chúng vẫn sống rất khỏe mạnh. Người chưa từng nuôi vịt sao biết hóa ra những chú vịt lại dễ chết như vậy. Nuôi vịt rất khó, tìm ra hai con vịt giống hệt nhau cũng chẳng hề dễ dàng.

Đúng. Anh bằng lòng cho cô tất cả mọi thứ, bằng lòng làm tất cả vì cô, nhưng anh lại khắc ghi từng món nợ trong lòng.

Ngân Xuyên xé tan lá thư.

- -----oOo------
 
Quyển 1 - Chương 38


Cuối cùng Cảnh Ninh vẫn nghe lời Ngân Xuyên, Đức Anh hẹn gặp cô nhiều lần nhưng đều bị từ chối. Vì đang trong kỳ nghỉ Hè nên Cảnh Ninh chỉ ở nhà ngủ nướng, luyện đàn hoặc đi dạo phố uống trà cùng mấy cô bạn gái, họa hoằn lắm thì ghé mấy sạp nhỏ ven đường, tìm mua những món đồ chơi thú vị.

Trưa, Cảnh Ninh đang ngủ thì bị ai khẽ lay dậy. Mở mắt, cô thấy Tiểu Quân đang tủm tỉm cười nhìn mình, tay cô hầu phe phẩy lá thư.

Cảnh Ninh há miệng ngáp, sốt ruột bảo: “Lại là Từ Đức Anh hả.”

Tiểu Quân cười: “Đang đợi ngoài biệt thự đấy cô.”

Cảnh Ninh lại rúc đầu vào gối, làu bàu: “Chị bảo cậu ấy là tôi ngại nóng, không muốn đi chơi. Cậu ấy nhì nhằng thì cứ bảo cha và anh trai tôi đều đang ở nhà, họ không cho tôi ra ngoài.”

Tiểu Quân nói: “Không được đâu. Cậu Đức Anh bảo thấy ông chủ và cậu cả rời nhà, cậu ấy còn chào hỏi họ nữa.”

“Cha tôi ra ngoài rồi sao?”

“Vâng, nghe bảo ông và cậu cả đi Hán Dương, hôm nay họ không về nhà đâu.”

Cảnh Ninh ngồi dậy, ngơ ngác một lúc rồi mới hỏi: “Đức Anh đến từ lúc nào vậy?”

“Cậu ấy chờ bên ngoài lâu lắm rồi, cậu hai mời vào thì cứ bảo không cần đâu, ngố chết đi được.”

Cô thở dài, mở thư ra xem rồi chợt sững sờ, lá thư viết: “Ninh Ninh, hôm nay rảnh rỗi nên tớ định ra Đông Hồ tránh nóng cùng Tử Chiêu, Kỳ Kỳ và mọi người. Cậu đi cùng bọn tớ nhé. Tử Chiêu nói thuyền nhà họ Mạnh sẽ đưa chúng ta qua hồ.”

Tiểu Quân thấy cô không nói năng gì bèn dò hỏi: “Cô có muốn Tiểu Quân từ chối cậu Đức Anh thật không?”

Cảnh Ninh nghiêm giọng: “Chị chọn cho tôi một cái khăn lụa đi, ừm, cái màu xanh nhạt ấy, rồi tìm cho tôi cái ô che nắng be bé mà anh cả mua.”

Tiểu Quân cười ha ha.

Lúc đi ngang qua vườn hoa, Cảnh Ninh hái một đóa dành dành cài lên thắt lưng, men theo con đường nhỏ để bước tới cổng biệt thự. Đức Anh đang đứng trước xe lau mồ hôi, trông thấy cô, cậu ta ngẩn ra rồi mừng rỡ nói: “Tớ biết thể nào cậu cũng tới mà.”

Bọn họ đi đón Lưu Trình Viễn và Phương Kỳ Kỳ rồi chạy thẳng tới bến tàu, ba cô gái đều tưởng tượng ra một chuyến du thuyền lãng mạn: Bọn họ ngồi trên boong tàu xa hoa, bên chiếc bàn vuông có ô che nắng, nhã nhặn cầm kẹp đường, gắp những viên đường trong suốt vào ly cà phê, trên bàn còn có những đĩa bánh ngọt, viền ly đĩa vàng kim phản chiếu ánh mặt trời. Uống cà phê xong, họ lại vào khoang thuyền ngắm nhìn những món đồ cổ cùng tranh vẽ, đến lúc tàu cập cảng là vừa.

“Này! Đi đâu đấy?” Một giọng nói sang sảng cắt đứt những mơ mộng của cô.

Tử Chiêu đứng trên bậc thang phía dưới, cậu đội chiếc mũ lưỡi trai đậm màu, mặc áo sơ mi xám nhạt cùng quần yếm màu sẫm, nút áo trên cậu để mở, làm lộ phần cổ lấm tấm mồ hôi, cậu vẫy rối rít chiếc khăn tay vải bông bẩn thỉu. Mắt Tử Chiêu lúc này sáng ngời, như thể đang nghĩ tới một trò đùa quái đản nào đó.

“Thuyền ở đâu thế?”

Cậu cười, chỉ phía tay trái.

Mọi người đưa mắt nhìn, kinh ngạc há hốc miệng, không ngờ Tử Chiêu lại lấy con tàu chở hàng bé tí để đưa họ qua sông!

Bốn người co cụm lại trong không gian bé xíu được vây lấy bởi những thùng hàng đen sẫm, mùi tương đậu lên men bốc lên nồng nặc.

Lưu Trình Viễn nhắm mắt không dám nổi giận, cũng chẳng đủ can đảm để nhúc nhích, chỉ sợ thở thôi là đã ngửi thấy mùi gay mũi, động đậy là chóng mặt ngay. Phương Kỳ Kỳ cứ thò tay lần sờ chiếc làn nhỏ, mứt hoa quả và hộp đường bên trong va phải nhau kêu leng keng, Cảnh Ninh sốt sắng hỏi: “Cậu tìm gì thế?”

“Tớ tìm dầu cù là, tớ… tớ hơi buồn nôn.”

Cảnh Ninh giật mình thò đầu lại: “Để tớ tìm giúp cậu!”

Rồi lại chợt nghe có tiếng rên rỉ vang lên, Đức Anh nôn khan, đứng phắt dậy rồi lại lảo đảo chực ngã, Cảnh Ninh ngẩng đầu nhìn cậu ta: “Cậu không sao chứ?”

Đức Anh bịt miệng lắc đầu, dạ dày cậu ta quặn thắt, hai mắt trợn tròn. Tử Chiêu bước từ khoang thuyền phía dưới lên, bảo Đức Anh rằng: “Cậu ra mũi thuyền mà tựa lan can, trông ra xa, thở sâu vào, đừng nhìn sóng nữa.”

Đức Anh lảo đảo bỏ đi, đám con gái nghe tiếng cậu ta nôn thốc nôn tháo mà nhíu chặt mày.

Phương Kỳ Kỳ bôi dầu vào thái dương, hậm hực nói: “Cậu có lòng quá, còn lấy con thuyền rách này ra chiêu đãi chúng tôi.”

Tử Chiêu cười khì khì, không đáp lời. Thấy Cảnh Ninh liếc mình nửa cười nửa không, cậu nhướng mày hỏi: “Cô chủ Phan thấy thế nào?”

“Cậu xuống dưới đấy làm gì?” Cảnh Ninh quan sát cậu, dè bỉu nói, “Người dơ chết đi được.”

Tử Chiêu lau bàn tay lấm bẩn lên boong thuyền rồi ngồi xuống mặt mấy cô gái, vắt chân bảo:

“Thì sửa thuyền. Hôm nay có mấy chỗ lại dở chứng nên tớ phải ngồi sửa đến tận giờ.”

Phương Kỳ Kỳ thất thanh: “Thuyền hỏng mà cậu còn để chúng tôi lên hả!”

Lưu Trình Viễn nãy giờ nhắm tịt lúc này cũng đã mở bừng mắt, nhìn Tử Chiêu như chất vấn, rồi lại sợ sệt trông Cảnh Ninh cùng Phương Kỳ Kỳ. Ánh mắt Lưu Trình Viễn thay đổi liên tục khiến Cảnh Ninh không kìm lòng nổi, cứ thế bật cười ha hả. Cảnh Ninh không sợ chút nào.

Tử Chiêu nói: “Mấy cậu mà gặp phải chuyện gì trên thuyền của cậu cả nhà họ Mạnh tôi thì Mạnh gia chẳng còn mặt mũi đứng trên đất Hán Khẩu nữa. Cứ yên tâm đi, chiếc thuyền này không có vấn đề gì đâu!”

Cảnh Ninh nghiêm túc hỏi: “Cậu biết sửa thuyền thật à?”

Cậu gật đầu: “Chẳng lẽ tôi lại uổng công du học suốt mấy năm nay?”

Cô không nói gì nữa.

Con thuyền chậm rãi lướt trên mặt sông, đung đưa theo sóng nước. Cảnh Ninh ngồi một lát thấy hơi chóng mặt bèn đứng dậy. Tử Chiêu đưa mắt nhìn theo cô. Cô híp mắt, thấy tim mình đập rộn lên. Phương Kỳ Kỳ và Lưu Trình Viễn rúc vào nhau, như hai con chim non đang sợ sệt, nhắm tịt cả mắt. Cảnh Ninh bước vòng qua mấy chiếc thùng đựng dầu và tương đậu, tiến lại mép boong thuyền, vịn lấy lan can, mắt cô đưa ra mặt sông ngoài xa, hít một hơi thật sâu.

Đức Anh vẫn còn đang nôn, Cảnh Ninh phủ khăn lên đầu, mong che được ánh mặt trời gay gắt cùng tiếng nôn mửa nghe mà rầu lòng. Mặt sông được chiếc khăn lụa nhuộm thành sắc xanh nhạt. Cảnh Ninh biết Tử Chiêu vẫn luôn nhìn mình. Không biết vì lẽ gì mà lúc này cô rất mong cậu có thể đứng dậy, bước lại trò chuyện cùng cô. Nhưng có lẽ chẳng được mấy câu họ sẽ lại đấu võ mồm. Cô muốn hỏi cậu tại sao. Tại sao bọn họ cứ luôn cãi vã. Vậy là cô lấy dũng khí, lẳng lặng quay đầu lại, vừa khéo cô thấy cậu đang đứng dậy, quay mình trở vào khoang thuyền.

Xuống thuyền rồi, chiếc xe Đức Anh đặt trước đã chờ sẵn ngoài bến. Sắc mặt Phương Kỳ Kỳ khá tệ, cô uể oải nói: “Tớ ngồi ghế trước, mọi người ngồi sau đi, tớ… tớ hơi buồn nôn…”

Vậy là Đức Anh lái xe, Phương Kỳ Kỳ ngồi ghế phụ lái, Cảnh Ninh, Tử Chiêu và Trình Viễn chen chúc dưới ghế sau. Cảnh Ninh ngồi giữa Trình Viễn và Tử Chiêu, hai tay cô vịn lấy hàng ghế phía trước, Đức Anh liếc gương chiếu hậu, thấy gương mặt đỏ bừng của cô thoáng nét cười, xinh đẹp vô ngần. Cậu ta bèn dịu dàng mỉm cười với cô. Cảnh Ninh hỏi: “Đức Anh, ban nãy cậu nôn thốc nôn tháo, giờ đã đỡ hơn chưa?”

Đức Anh mỉm cười đáp: “Tớ không sao!”

“Phan Cảnh Ninh, cậu ngồi yên đi có được không? Cứ nhúc nha nhúc nhích suốt.” Tử Chiêu nói.

“Còn lâu!” Cảnh Ninh dứt khoát quay ngoắt đi. Bông dành dành rơi xuống chân cậu. Tử Chiêu nhặt đóa hoa lên, phe phẩy trước mặt cô, bảo: “Nào, cưng à, ngồi lên đùi anh này.”

“Xì! Đồ lưu manh!”

Trình Viễn dựa vào kính xe cười khanh khách, chiếc xe lại chợt nghiêng ngả, cô bụm miệng cằn nhằn: “Từ Đức Anh, cậu có thể tìm con đường nào êm hơn không? Đi tàu thì chòng chành, lên xe cũng lắc lư, ruột cứ quặn hết cả lên.”

“Kỳ Kỳ, lát chúng ta còn phải quay lại thuyền nữa đấy, cậu cứ chuẩn bị tâm lý đi.”

Phương Kỳ Kỳ đau khổ than trời.

Đức Anh trông thì chu đáo cẩn thận, nhưng lái xe vừa nhanh vừa ẩu, đến cả Tử Chiêu cũng phải nói: “Này cậu Từ, chúng tôi không muốn cưỡi mây đạp gió với cậu đâu.”

Còn chưa dứt lời, Kỳ Kỳ đã run bắn lên, cô nhoài ra cửa sổ, nôn thốc nôn tháo. Trình Viễn và Cảnh Ninh ré lên né tránh. Cửa xe đều đang mở, xe chạy băng băng, những thứ Kỳ Kỳ nôn ra cũng bị gió thổi bay ra sau. Trình Viễn nhào lên người Cảnh Ninh, Cảnh Ninh ngã về phía Tử Chiêu, bỗng nhiên Tử Chiêu lại được ôm người đẹp trong tay, bèn bật cười ha hả, cười được mấy tiếng rồi dần ngưng lại. Mùi hương thoang thoảng của cô thiếu nữ xinh đẹp phóng khoáng cùng hương thơm dành dành vấn vít bên mũi, bờ hông mềm mại cùng bộ ngực đầy đặn nằm trọn trong tay cậu. Tử Chiêu chợt cảm thấy luồng điện chạy dọc trong cơ thể mình, đầu cậu bắt đầu ong lên.

Khoảng cách giữa họ chỉ độ mười phân, đôi mắt to trong veo của Cảnh Ninh trừng trừng nhìn cậu, thoáng nét thẹn thùng, nhưng tò mò lại chiếm phần hơn. Cậu nhìn cô chăm chú, ánh mắt dần trở nên dịu dàng. Đức Anh lái chậm lại, ba người vội ngồi thẳng dậy. Cảnh Ninh hơi mơ màng, Trình Viễn lại chợt kêu lên: “Phương Kỳ Kỳ! Cậu xem kiệt tác của mình này, làm bẩn hết vai tớ rồi! Đền váy cho tớ đây!”

Kỳ Kỳ tủi thân cầm khăn tay lau miệng: “Váy của cậu thì đáng là gì. Ban, ban nãy tớ cuống quá quên cả tháo kính râm, vừa thò đầu ra kính đã bị gió thổi bay mất rồi.” Nói rồi cô lại nghẹn ngào, “Tớ mua nó ở Paris đấy.”

Đức Anh vội bảo: “Chúng ta quay lại tìm xem.” Nói rồi cậu ta định quay đầu xe.

Tử Chiêu nói: “Không cần đâu.” Cậu chầm chậm vươn tay trái lên, “Thưa cô Phương, có phải thứ này không?”

Tay cậu nắm gọng kính trắng, vẻ mặt như cười như không.

Hóa ra ban nãy hai cô gái co mình né tránh, vì muốn giữ thăng bằng mà Tử Chiêu đã vươn tay túm lấy lưng ghế, vừa khéo kính của Phương Kỳ Kỳ lại bị thổi ra sau, cậu bèn nhanh tay chụp lấy nó luôn.

Kỳ Kỳ thò người xuống nhìn, hoan hỉ reo lên: “Đúng rồi, đúng rồi, là nó đấy! Ôi trời ơi, gió cái kiểu gì mà thổi lệch cả gọng kính thế này? Nhưng cũng may chỉ bị lệch gọng thôi, nếu bay cả kính thì coi như tớ mất luôn.”

Cảnh Ninh tựa cằm vào vai Trình Viễn, cười không thở nổi.
 
Quyển 1 - Chương 39


Bọn họ đổi thuyền ở Sa Hồ, rồi tiến thẳng về phía vườn hoa nhà họ Triệu nổi tiếng vùng ngoại ô Vũ Xương, đây cũng là tòa biệt thự do mại bản Quảng Đông Triệu Tông Đào xây dựng. Mặt nước mênh mông dậy sóng, bên bờ sen thơm ngào ngạt, hải âu và diệc bay vút lên cao. Dõi mắt qua tầng cây lá, đã thấy tường trắng ngói đen he hé trên mảnh đất giữa hồ, hiên nhà xòe ra, tạo nên một đường cong tinh tế hài hòa, những tấm thủy tinh gắn giữa song cửa tỏa sắc lung linh.

Lên bờ, mấy tôi tớ đi trước dẫn đường, nhóm người men theo con đường đá quanh co. Họ bước qua cổng chào hình vòm bằng đá, tiến vào giữa sân nhà. Trong có trồng ngọc lan, kim tê cùng bạch quả. Dành dành và hoa hồng đua nhau tỏa hương, tòa nhà chính của dinh thự mang phong cách kết hợp Á – Âu, ngói đen gạch xanh, chia làm hai tầng trên dưới, ban công và cửa sổ đều rất rộng rãi thoáng mát. Cạnh tòa nhà là hành lang dài quanh co, nối với đình nghỉ chân kiến trúc tinh tế, cuối hành lang là hai tòa nhà nhỏ cất hai tầng.

Người làm đi trước, thỉnh thoảng lại nhắc mọi người cẩn thận đạp phải rêu trơn. Đức Anh khẽ cất lời: “Thật ra gia đình họ Triệu đã có nhà trong thành phố Vũ Xương rồi. Đây là chốn thế ngoại đào nguyên mà ngài Triệu phấn đấu cả đời gây dựng để có nơi điền viên lui về ở ẩn. Trước khi cho xây dinh thự, nhà họ Triệu có mời thầy phong thủy đến xem, thấy nơi này bắc cao nam thấp, sau lưng có gò đất, hai bên bằng phẳng, dáng hình con cua, là mảnh đất có địa thế phong thủy cực đắc địa.”

Trình Viễn hỏi: “Dáng con cua là thế nào?”

“Phải ra giữa hồ xem mới thấy rõ, đứng trên đảo không nhìn được đâu. Chỗ chúng ta đang đứng là khoảng đất nhỏ hơi nhô lên, hai bên còn có hai phần đất vươn dài ra ngoài như chân cua. Gạch cua tượng trưng cho vàng, hai càng cua vùi dưới nước tụ tài lộc, lại như thế hai rồng giỡn châu. Ngài Triệu rất coi trọng ý nghĩa may mắn của mảnh đất này.”

Cảnh Ninh vẫn cứ im lặng. Đức Anh bèn nhắc cô: “Ninh Ninh, cậu đi cẩn thận nhé, đường trơn dễ ngã lắm.”

Trình Viễn và Kỳ Kỳ cười: “Thiên vị thế, sao cậu không nhắc những người khác?”

Đức Anh ngại ngùng gãi đầu, thấy Tử Chiêu đang ném mấy quả tùng la hán không biết nhặt ở đâu đi, cứ nhìn Đức Anh như cười như không.

Chủ tòa biệt thự Triệu Tông Đào cũng từng là thương nhân số một số hai tại Hán Khẩu. Năm đó ông đã làm mại bản cho bảy quốc gia, xuất chúng không ai sánh bằng, nhưng sau khi các tô giới lần lượt bị thu hồi, rất nhiều hiệu buôn Tây đã phải đóng cửa, công việc mại bản của nhà họ Triệu cũng sa sút hơn. Triệu Tông Đào dần già đi, không còn lòng dạ chấn hưng sự nghiệp, ông gần như đã lui về ở ẩn, chỉ trông coi núi vàng núi bạc mình đã tích cóp hơn nửa đời người, tận hưởng cuộc sống nhàn nhã thanh thản cùng các bà vợ bé. 

Vườn hoa nhà họ Triệu là nơi Triệu Tông Đào dùng để chiêu đãi các nhân vật nổi tiếng của giới chính trị và kinh doanh. Hai tòa nhà nhỏ bên cạnh khu lầu chính được dùng làm phòng cho khách nghỉ lại. Gia đình họ Triệu có qua lại thân thiết với cha Từ Đức Anh, mấy hôm nay Triệu Tông Đào và bà vợ lẽ ông thương nhất lại đang ở Hán Khẩu, Đức Anh bèn ngỏ ý mượn tòa biệt thự qua chơi tránh nóng, họ Triệu cũng vui vẻ đồng ý.

Chú Bành – quản gia của khuôn viên – đưa mọi người đi tham quan tòa nhà chính, Tử Chiêu đi phía cuối, lơ đãng quan sát nội thất phòng khách. Đức Anh tìm cơ hội bước lại bên cậu, Tử Chiêu uể oải vươn tay: “Cậu Từ, hồi trước thái độ của tôi với cậu thế nào thì hiện giờ về cơ bản cũng không thay đổi gì. Chúng ta không có chuyện để nói với nhau đâu.”

Đức Anh nói: “Anh Tử Chiêu giữ mặt mũi cho tôi là tôi đã mừng lắm rồi. Nếu là hồi còn nhỏ, chẳng những tôi không mời được anh đi chơi một chuyến, mà đánh bạo ngỏ lời sẽ còn bị anh chế giễu đôi phen.”

Tử Chiêu quay đầu nhìn cậu ta, mỉm cười nói: “Hồi trước đúng là tôi hơi có phần quá đáng, mong cậu bỏ quá cho.”

Đức Anh mừng rỡ: “Cảm ơn anh, Tử Chiêu.”

“Cảm ơn chuyện…” Còn chưa dứt lời Tử Chiêu đã lại nở nụ cười nhạt, “Đừng cảm ơn tôi. Tốt nhất về sau cậu đừng hận tôi.”

Đức Anh biến sắc.

Đám con gái đang nghỉ trưa, Tử Chiêu và Đức Anh ngồi uống trà, chơi bài trong phòng nghỉ dưới tầng. Tòa nhà phụ của dinh thự khá ít phòng, nhưng may là vừa đủ cho mấy người bọn họ. Hoa quả, trái cây và bài đã được chuẩn bị sẵn từ trước. Chú Bành cho hai người hầu tới, Tử Chiêu nói: “Bọn cháu tự lo được mà, mọi người cứ nghỉ đi ạ.”

Đức Anh biết cậu ngại có người xung quanh, muốn được tự do, bèn bảo người làm không phải phục vụ nữa, một đầy tớ cười: “Tối nay các cô các cậu muốn ăn ở đây hay ra nhà ăn kế bên dùng bữa?”

Đức Anh suy nghĩ rồi bảo: “Nếu không phiền thì chúng tôi sẽ dùng bữa ở đây, không các cô gái ra ngoài lại bị muỗi cắn.”

Người làm nọ đáp vâng rồi rời đi.

Tử Chiêu lật tấm bài tú trên tay, đưa mắt nhìn cậu ta.

“Sao vậy anh Tử Chiêu?”

“Không có gì, chỉ là tôi thấy cậu rất chu đáo thôi.”

Đức Anh ngại ngùng cười, Tử Chiêu thấy nụ cười của cậu ta rất giống một con chuột đồng, đôi mắt nhỏ sợ sệt thoáng ẩn chứa vẻ cảnh giác.

Lát sau, Trình Viễn ngáp ngắn ngáp dài bước ra ngoài, đặt hai chai rượu trắng nhỏ lên chiếc dương cầm cũ ở góc phòng. Đức Anh trố mắt: “Mấy cái chai này là sao?”

Trình Viễn cười hi hi: “Để đó lát nữa chúng ta còn pha rượu. Rượu này là do anh tớ phát minh đấy, tên là ‘Gà gáy vang’.”

Đức Anh bật cười: “Cái tên buồn cười quá!”

Trình Viễn hùng hồn: “Thường thì sau khi uống ‘Gà gáy vang’ sẽ có hai tình huống thế này xảy ra: Hoặc là say khướt, kêu la om sòm; hoặc là gục ngay xuống đất. Các cậu đừng xem thường nó.”

Tử Chiêu cười: “Cô Lưu ơi, năm ngoái anh trai cô uống say ở Berlin, lột sạch cả quần áo, tôi còn nhặt hộ anh ấy cái áo may ô đấy.”

Trình Viễn cười ha hả: “Ừ, tửu lượng của cậu tốt, khiến anh tôi uống say mèm, hôm nay tôi phải báo thù cho anh ấy.”

“Được, hóa ra là cậu đã lập mưu sẵn rồi. Tôi nói cho cậu biết, dù cậu có bỏ thuốc mê vào rượu thì thiếu gia đây cũng chẳng sợ đâu.” Tử Chiêu vươn vai, nói, “Hai người cứ chơi đi, tôi ra ngoài đi dạo một lát.”

Mặt trời đã dịu bớt, quanh dinh thự trồng nhiều những gốc cây cao lớn, cành lá tươi tốt sum suê, hoa đậu chổi mọc kín những tán lá xanh, xem chừng mùi hương cũng nồng hơn dành dành và hoa hồng. Tiếng nước hồ vỗ bờ khi mạnh khi nhẹ, như đang ca một khúc nhạc êm dịu. Chỉ chừng một tiếng nữa thôi, mặt nước sẽ được phủ một màn sương màu xanh khói đẹp tuyệt.

Tử Chiêu men theo bờ dốc, đi từ nơi cao xuống ven hồ, hai bên đường là hàng cỏ dại um tùm, có bụi còn cao hơn một mét, nghênh ngang rướn mình về phía nước hồ, như đang đung đưa đáp lời những bông sen màu hồng nhạt. Cậu vòng qua một gốc long não cao lớn, lùm cỏ trước mặt có vài chú chim nước nhỏ đang rộn rã cất tiếng kêu, xòe cánh bay lên vòm trời xanh thẳm, rồi lại lao mình xuống, lướt qua gợn sóng hồ.

Cậu khựng bước. Đằng trước có một bóng lưng yểu điệu mảnh dẻ, vạt váy khẽ tung bay theo gió, hệt như một đóa hoa.

Cô tới hồ từ bao giờ vậy?

“Đẹp quá.”

Tử Chiêu lặng lẽ lại gần, nghe được tiếng cảm thán khoan khoái của Cảnh Ninh, cậu lại càng bước nhẹ hơn, chậm rãi tiến ra sau lưng cô. Cậu phát hiện tay phải cô đang cầm một chiếc bánh ngàn lớp bọc đường, bánh đã bị cô ăn mất một chút, khuyết mất một phần hình trăng lưỡi liềm.

Làn gió ẩm ướt mà ấm áp phất qua cần cổ cô, phần tua rua của chiếc khăn quàng cổ quét qua làm cô hơi ngứa. Được một lúc, nó lại bay lên miệng cô, cô bèn thổi nó đi, đột nhiên lại thấy một cánh tay vươn ra gạt tua khăn.

Cảnh Ninh giật mình quay đầu lại.

Nét cười tinh quái lấp lánh trong mắt Tử Chiêu: “Sợ đen da thì đừng ra ngoài, tớ còn tưởng cậu đang ngủ trong phòng cơ.”

Mặt cô dần đỏ bừng.

Cậu ý thức được hình như từ khi xuống xe tới giờ cô cứ im lặng suốt. Cậu chợt xao động: Chẳng lẽ cô nhóc này đang xấu hổ sao?

Gió rít ào ào, bên bờ có hàng cây long não rất cao, tán lá xanh biếc bị gió thổi nghiêng sang một bên, ánh sáng bàng bạc bừng lên, phát ra tiếng xào xạc. Tử Chiêu tiến lại, cúi đầu nhìn Cảnh Ninh, như muốn quan sát thật kỹ gương mặt cô: Mái tóc dày mềm mại, cặp mắt trong veo như thủy tinh, khóe môi hơi cong xuống, trông vừa ngây thơ lại vừa đáng yêu.

Cô ngơ ngác, quên cả né tránh.

Gương mặt cậu càng lúc càng ghé sát gần, càng lúc càng gần, bốn bề như lặng đi, chẳng nghe được cả tiếng nước hay giọng ca của chim chóc, thậm chí còn không thấy tiếng gió. Cô ngửi được mùi hương con trai trên người cậu, nóng bỏng như gió Hè.

“Quỷ đáng ghét…” Cảnh Ninh khẽ thốt, rồi lại chợt giật bắn mình, vì giọng cô nũng nịu tới mức như đang tán tỉnh cậu. Cô vô cùng hoảng loạn, chiếc bánh nghìn lớp như sắp tan chảy, dính nhớp trên tay cô.

Tử Chiêu chợt bật cười ha hả, như vừa đạt được thắng lợi trong một trò chơi cậu đã sắp đặt cẩn thận. Cậu vươn tay phủi đường dính trên lông mày cô: “Mèo tham ăn, đường dính cả lên lông mày kìa! Không sợ ruồi bay tới hả.”

“Cậu mới là ruồi! Đồ đáng ghét! Quỷ đáng ghét! Tôi ghét cậu chết đi được!” Cảnh Ninh thở hổn hển, vứt thẳng bánh vào người cậu rồi quay mình chạy về biệt thự.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom